Chuyên đề Đánh giá thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu biển tại công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX

Hồ sơ đã giải quyết bồi thường đều phải vào sổ, phân loại theo dạng tổn thất, rủi ro được bảo hiểm và theo đơn vị chủ tàu để có số liệu tính phí và hướng đề phòng hạn chế tổn thất. Các hồ sơ giải quyết bồi thường xong phải sắp xếp theo thứ tự thời gian, đơn vị chủ tàu để lưu trữ (thời gian lưu trữ hồ sơ tối thiểu 5 năm). Đối với những vụ tổn thất lớn (trên mức phân cấp) và phức tạp cần phải ghi chép lại và lưu trữ riêng để sử dụng khi cần thiết. Ghi lại những nhận xét đối với các hồ sơ lưu trữ để sau này có tài liệu học tập nghiên cứu. Số liệu thống kê (phí bảo hiểm, bồi thường) tính theo năm nghiệp vụ Lưu ý: Khi xem xét hồ sơ phải ghi chép lại những sai sót thuộc phía người bảo hiểm như: cấp đơn sai, giám định không đúng v.v. để kịp thời nhắc nhở, khắc phục. Nếu lỗi do người bảo hiểm hoặc đại lý của bảo hiểm thì tổn thất xảy ra vẫn thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Ghi chép những điểm nổi bật trong các hồ sơ để góp ý kiến cho các bên có liên quan khi cần thiết. Sau khi giải quyết bồi thường nếu lỗi của người thứ ba gây ra thì yêu cầu chủ tàu làm giấy thế quyền để khiếu nại đòi người thứ ba bồi hoàn các chi phí mà PJICO đã bồi thường cho chủ tàu.

doc58 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu biển tại công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h Giám định tổn thất được thực hiện bởi các chuyên viên giám định. Tuỳ theo từng nước, từng loại hình doanh nghiệp bảo hiểm và từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau mà quy chế về chuyên viên giám định bảo hiểm cũng khác nhau. ở những nước phát triển, chuyên viên giám định do doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp chỉ định và lựa chọn. Nhưng phần lớn các nước chuyên viên giám định là chính nhân viên của bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm. Chuyên viên giám định bảo hiểm phải công minh, cẩn thận và hiểu biết một cách thấu đáo về từng nghiệp vụ bảo hiểm mà mình phụ trách. Phải thi hành công vụ một cách mẫn cán, chấp hành nghiêm chỉnh những chỉ thị, ý kiến của doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu chuyên viên giám định do doanh nghiệp bảo hiểm chỉ định, lựa chọn sẽ được uỷ nhiệm một số quyền hạn nhất định, song không được nhượng lại sự uỷ quyền này cho người khác, lợi ích của họ phải độc lập với lợi ích của người tham gia bảo hiểm. 2.1. Yêu cầu Ghi nhận thiệt hại phải đảm bảo chính xác, kịp thời, khách quan và trung thực. Ghi nhận thiệt hại tức là ghi lại thực trạng và xác định lại thiệt hại, mức độ trầm trọng và nguyên nhân gây thiệt hại. Công việc giám định chỉ được tiến hành khi bên tham gia bảo hiểm hay doanh nghiệp bảo hiểm yêu cầu. Để đảm bảo tính khách quan, một số nghiệp vụ bảo hiểm trong quá trình giám định phải có sự chứng kiến của các bên liên quan. Ví dụ: Giám định tổn thất đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất, nhập khẩu cần mời cơ quan vận chuyển, công ty bốc dỡ hàng và phía nhận hàng chứng kiến. Những thiệt hại được ghi nhận phải thể hiện trong “Biên bản giám định tổn thất”. Đề xuất các biện pháp bảo quản và phòng ngừa thiệt hại, phải kịp thời và đúng quyền hạn. Khi rủi ro tổn thất xảy ra, chuyên viên giám định có nghĩa vụ can thiệp để giảm thiểu độ trầm trọng của tổn thất và tình trạng gia tăng thiệt hại. Sự can thiệp của chuyên viên giám định là đưa ra các biện pháp cứu hộ và an toàn đối với tài sản được bảo hiểm và tài sản, tính mạng của người thứ ba, thu gom, đóng gói gia công lại bao bì chứa hàng, bảo vệ tài sản để tránh mất cắp. Tuy nhiên, chuyên viên giám định không được vượt quyền và làm thay người được bảo hiểm. Nếu phát hiện tổn thất có tính hệ thống, chuyên viên giám định phải tìm hiểu nguyên nhân, cách giải quyết và thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm đã uỷ nhiệm lựa chọn mình làm người giám định. Những thông tin mà chuyên viên giám định cung cấp cho doanh nghiệp bảo hiểm dù là tự nguyện, nhưng nội dung của nó là tất cẩ những chi tiết về những sự kiện đã xảy ra tổn thất, tình trạng mất cắp, các quyết định của cơ quan công an và chính quyền địa phương. Những thông tin này sẽ không có giá trị nếu được cung cấp quá muộn, bởi vì nó không được đưa ra thảo luận và làm bằng chứng khi lập biên bản giám định tổn thất. 2.2. Quy trình giám định tổn thất Giám định bảo hiểm chỉ chấp nhận yêu cầu giám định trong những trường hợp xảy ra tai nạn, có tổn thất, thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Vì vậy, đối với những trường hợp phát hiện không thuộc phạm vi bảo hiểm cần có ý kiến ngay để bên tham gia bảo hiểm có hướng giải quyết. Tuỳ từng nghiệp vụ bảo hiểm mà tổ chức giám định tổn thất cho phù hợp. Có thể khái quát quy trình giám định theo các bước sau đây: - Chuẩn bị giám định: Trước khi tiến hành giám định phải chuẩn bị đầy đủ các loại giấy tờ cần thiết liên quan đến đối tượng bảo hiểm như: Đơn bảo hiểm hoặc giấy yêu cầu bảo hiểm, bảng kê chi tiết các loại tài sản được bảo hiểm, giấy ra viện, các chứng từ, hoá đơn sửa chữa, thay thế v.v. Ngoài ra, nếu cần thiết còn phải chuẩn bị hiện trường giám định. Thống nhất thời gian và địa điểm giám định, tổ chức mời các bên có liên quan trong khi giám định (công an, chính quyền địa phương, y bác sỹ, các nhà chuyên môn v.v.). - Tiến hành giám định: Công việc giám định phải được tiến hành khẩn trương, ý kiến của chuyên viên giám định đưa ra phải chuẩn xác, hợp lý và nhất quán. Với những nghiệp vụ bảo hiểm phải giám định dài ngày, chuyên viên giám định phải bám sát hiện trường để theo dõi, thu thập thông tin và đưa ra các phương án giải quyết phù hợp. Trong quá trình giám định phải tập trung vào các công việc sau đây: + Kiểm tra lại đối tượng giám định; + Phân loại tổn thất; + Xác định mức độ tổn thất; + Tổn thất của người thứ ba (nếu có) v.v. Những ý kiến nêu ra trong quá trình giám định phải có cơ sở khoa học và thực tiễn, không được chủ quan, tuỳ tiện và vội vã khi đưa ra những kết luận. - Lập biên bản giám định: Đây là tài liệu chủ yếu để xét duyệt bồi thường hoặc chi trả bảo hiểm và khiếu nại người thứ ba. Vì vậy, nội dung văn bản này phải đảm bảo tính trung thực, chính xác, rõ ràng, cụ thể. Các số liệu phải phù hợp với thực trạng và không được mâu thuẫn khi đối chiếu với các giấy tờ có liên quan. Với những vụ tổn thất lớn, nghiêm trọng và phức tạp cần phải lấy ý kiến tập thể của những người liên quan và lãnh đạo doanh nghiệp bảo hiểm trước khi hoàn tất biên bản giám định. Thông thường biên bản giám định được lập ở hiện trường và sau khi đã thống nhất phải lấy chữ ký của các bên có liên quan. Biên bản giám định chỉ cấp cho người có yêu cầu giám định. Không được tiết lộ nội dung giám định cho người khác khi chưa có yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm. 3. Công tác bồi thường Bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm là vấn đề trọng tâm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bởi vì khi mua bảo hiểm, có nghĩa là khách hàng đã trả tiền cho các sản phẩm bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm một cách nhanh chóng và đầy đủ nếu không may họ xảy ra tổn thất. Chính vào thời điểm tổn thất xảy ra, phía khách hàng thường bị những “cú sốc” lớn về tinh thần, đặc biệt là những trường hợp người được bảo hiểm tử vong hay thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Vào lúc này thì năng lực, sự trung thực, tính hiệu quả, sự tế nhị và tính nhân đạo của doanh nghiệp bảo hiểm được thừa nhận qua cách xử sự của mình với các nạn nhân của sự kiện được bảo hiểm. Nếu giải quyết tốt thì đó là cách quảng cáo tốt nhất đối với một doanh nghiệp bảo hiểm. Nhận thức được vai trò của công tác bồi thường và chi trả bảo hiểm nên nhiều công ty bảo hiểm trên thế giới đã nêu thành những triết lý kinh doanh. “ Hãy đối xử với khách hàng theo cách mà bạn muốn được đối xử trong trường hợp bạn gặp tổn thất” (Công ty bảo hiểm tài sản Clubb Corporation) “Bồi thường là cơ hội để chúng tôi thực hiện cam kết của mình” (Tập đoàn bảo hiểm quốc tế Mỹ – AIA) Các công ty bảo hiểm quốc tế đã tổng kết, khái quát hoá vai trò của công tác bảo hiểm và chi trả tiền bảo hiểm như sau: “Nếu giải quyết bồi thường hoặc chi trả nhanh chóng và chính xác, khách hàng cũng sẽ nhanh chóng khắc phục được những tổn thất về mặt tài chính để từ đó ổn định cuộc sống, ổn định sản xuất kinh doanh và nâng cao niềm tin với doanh nghiệp bảo hiểm. Từ đó, giúp doanh nghiệp bảo hiểm giữ được khách hàng truyền thống và mở ra triển vọng khai thác được những khách hàng niềm năng trong tương lai” (Jêrôme Yeafman – Trường quốc gia bảo hiểm Paris) Trình tự giải quyết bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm được tiến hành như sau: Bước1: Mở hồ sơ khách hàng Khi nhận được biên bản giám định tổn thất và các giấy tờ có liên quan, bộ phận giải quyết bồi thường phải mở hồ sơ khách hàng và ghi lại theo thứ tự hồ sơ (số hợp đồng) và thời gian. Sau đó kiểm tra, đối chiếu với bản hợp đồng gốc về các thông tin liên quan đến bản kê khai tổn thất. Tiếp theo phải thông báo cho khách hàng là đã nhận được đầy đủ giấy các giấy tờ có liên quan, nếu thiếu loại giấy tờ nào cũng phải thông báo để nhanh chóng bổ sung hoàn thiện hồ sơ bồi thường. Bước2: Xác định số tiền bảo hiểm Sau khi hoàn tát hồ sơ bồi thường của khách hàng bị tổn thất hoặc cần chi trả, bộ phận giải quyết bồi thường phải tính toán số tiền bồi thường trên cơ sở kiếu nại của người được bảo hiểm. Số tiền bồi thường được xác định căn cứ vào: + Biên bản giám định tổn thất và bản kê khai tổn thất; + Điều khoản, điều kiện của hợp đồng bảo hiểm; + Số tiền vay trên hợp đồng (nếu có); + Thực tế chi trả của người thứ ba (nếu có ) v.v. Bước3: Thông bồi thường Sau khi số tiền bồi thường được xác định, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thông báo chấp nhận bồi thường và đề xuất các hình thức bồi thường cho khách hàng. Thường có ba hình thức bồi thường: Thanh toán bằng tiền mặt, sửa chữa tài sản, thay thế mới tài sản. Nếu số tiền bồi thường hoặc chi trả quá lớn, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thoả thuận với khách hàng về ký hạn thanh toán, thời gian, lãi suất trả chậm v.v. Phần lớn các vụ tổn thất được giải quyết bồi thường hoặc chi trả rất nhanh chóng, ngay sau khi khách hàng tập hợp được các giấy tờ chứng minh cần thiết cùng với đơn khiếu nại hoặc ngay sau khi chuyên viên giám định xác định được số tiền thiệt hại do tổn thất gây ra và lập biên bản giám định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc thanh toán bồi thường, chi trả đòi hỏi thời hạn dài, khiến khách hàng phật ý, thậm chí công phẫn. Ví dụ: - Số tiền thiệt hại phải bồi thường không thể xác định được ngay (như người bị thương cần có thời gian bình phục, số tiền bồi thường “thiệt hại kinh doanh” chỉ có thể biết được sau khi doanh nghiệp hoạt động trở lại v.v.). - Trách nhiệm, nguyên nhân gây thiệt hại không thể xác định được ngay nên các bên phải thảo luận và gây tranh chấp, buộc toà án phải can thiệp. - Có nhiều bên thụ hưởng bồi thường, đòi hỏi phải tính toán, phân bổ kéo dài (như phân bổ tổn thất chung trong bảo hiểm hàng hải). - Người thứ ba cố tình gây khó dễ khi xác định mức độ thiệt hại liên quan đến bên họ, nhất là những thiệt hại về kinh doanh. Những trường hợp trên, đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải giải quyết và xử lý theo nguyên tắc mềm dẻo, hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp của toà án. Có như vậy mới giữ được uy tín cho doanh nghiệp bảo hiểm, hạn chế chi phí bồi thường, bởi vì một sự dàn xếp đạt được nhanh chóng sẽ có lợi hơn là quyết định xét xử sau nhiều năm tố tụng. Bước 4: Truy đòi người thứ ba Cuối cùng, bộ phận thanh toán bồi thường phải áp dụng các biện pháp để tiến hành truy đòi người thứ ba nếu họ liên đới trách nhiệm trong trường hợp tổn thất xảy ra hoặc với các nhà bảo hiểm khác trên thị trường tái bảo hiểm. Thực hiện truy đòi cũng phải nhanh chóng, kịp thời để quản lý tốt các nghiệp vụ bảo hiểm mà kết quả của chúng có liên quan nhiều đến kết quả truy đòi mà đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm tàu biển. Quá trình giải quyết khiếu nại là quá trình đòi hỏi sự giao tiếp thường xuyên với khách hàng. Khi gặp rủi ro gây tổn thất nhiều khách hàng luôn ở trong tâm trạng mất phương hướng, bối rối nên bộ phận giải quyết khiếu nại phải có phong cách phục vụ văn minh, có tinh thần hợp tác với sự nhiệt tình trung thực, thái độ tôn trọng và biết thông cảm với những mất mát của khách hàng. Quá trình xét bồi thường luôn phải dựa trên những tình huống cụ thể của tai nạn rủi ro. Nếu những trường hợp đơn giản, cụ thể cần tiến hành bồi thường hoặc chi trả ngay để đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Chính vì vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm thường định ra tiêu chuẩn và các chỉ tiêu phấn đấu thực hiện cho bộ phận giải quyết khiếu nại. Ví dụ, tiêu chuẩn nhanh chóng, kịp thời sẽ được kiểm tra bằng các chỉ tiêu như tỷ lệ hồ sơ đã giải quyết bồi thường và tỷ lệ hồ sơ còn tồn đọng. Hay tiêu chuẩn chính xác và hợp pháp sẽ được đánh giá bằng chỉ tiêu tỷ lệ hồ sơ bồi thường sai, không hợp lệ v.v. Tuy nhiên, tuỳ theo quy mô, chiến lược và loại hình doanh nghiệp bảo hiểm mà quy trình giải quyết khiếu nại cũng được xây dựng khác nhau và qua đó bộ phận giải quyết khiếu nại cũng được tổ chức khác nhau. Những doanh nghiệp bảo hiểm vừa và lớn có thể tổ chức “Phòng giải quyết bồi thường”; những doanh nghiệp bảo hiểm nhỏ mới thành lập có thể tổ chức một bộ phận giải quyết bồi thường nằm ở các phòng nghiệp vụ. Vấn đề khiếu nại của khách hàng chủ yếu tập trung ở khâu giám định tổn thất, bồi thường hoặc chi trả bảo hiểm. Song không phải chỉ có vậy, trong quá trình thực hiện hợp đồng, khách hàng còn khiếu nại thắc mắc nhiều vấn đề khác liên quan đến đại lý, môi giới, khai thác viên bảo hiểm, liên quan đến việc huỷ bỏ hợp đồng, treo hợp đồng. Tất cả những khiếu nại và thắc mắc đó đều phải được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, có tình có lý trên tinh thần hợp tác đúng pháp luật. 4. Công tác tuyên truyền quảng cáo Công tác tuyên truyền quảng cáo là một trong số công cụ xúc tiến bán hàng của các doanh nghiệp. Quảng cáo là công cụ truyền thông phi cá nhân phải trả tiền. Truyền thông đó có thể là về doanh nghiệp hay về sản phẩm và do một nhà tài trợ xác định tạo ra và được truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng. Các phương tiện thông tin đại chúng truyền thống được sử dụng để quảng cáo bao gồm: Vô tuyến truyền hình, đài phát thanh, thử gửi trực tiếp, tạp chí hay các phương tiện ngoài trời như bảng hiệu, áp phích. Mạng internet cũng đang trở thành một dạng phương tiện thông tin đại chúng được chấp nhận bởi vì các doanh nghiệp bảo hiểm đã và đang xây dựng những website cho phép người sử dụng máy tính có thể tìm hiểu các thông tin về sản phẩm và về doanh nghiệp bảo hiểm. Quảng cáo là một công cụ truyền thông mang tính kinh tế hơn so với bán hàng cá nhân vì nó có thể tiếp cận số lượng lớn khách hàng tiềm năng. Tuy nhiên, người làm marketing cần phải xem xét kỹ những quy định của pháp luật liên quan đến quảng cáo cũng như các phương tiện thông tin đại chúng sử dụng để tiếp cận thị trường mục tiêu. Lý do là vì chi phí gắn với từng loại phương tiện thông tin sử dụng sẽ rất khác nhau. Quảng cáo bao gồm nhiều loại hình: 4.1. Theo nội dung - Quảng cáo về sản phẩm: Là hình thức quảng cáo nhằm truyền thông về một sản phẩm cụ thể. Quảng cáo về sản phẩm lại bao gồm các dạng như: + Quảng cáo phản hồi trực tiếp: Hình thức quảng cáo này nhằm thuyết phục khách hàng mua sản phẩm bằng cách phản hồi ngay. Các ví dụ của quảng cáo phản hồi trực tiếp bao gồm: Quảng cáo qua gửi thư trực tiếp, quảng cáo trên báo, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, trong đó doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng số điện thoại để gọi lại phản hồi hoặc cung cấp các cuống địa chỉ phản hồi. + Quảng cáo nhằm nhận biết về sản phẩm: Đây là loại hình quảng cáo nhằm thúc đẩy cầu về sản phẩm trong khoảng thời gian dài hơn. Loại quảng cáo này được sử dụng nhằm thu hút sự chú ý đến các đặc tính của sản phẩm bảo hiểm, khơi dậy sự quan tâm đến sản phẩm của khách hàng cũng như của các nhà phân phối hoặc tăng việc tiêu dùng sản phẩm. Loại hình quảng cáo này lại được chia nhỏ hơn thành quảng cáo về sản phẩm mang tính thông tin (cung cấp cho khách hàng các thông tin về sản phẩm); quảng cáo về sản phẩm mang tính thuyết phục (nhằm xây dựng sự ưa thích đối với sản phẩm); quảng cáo về sản phẩm mang tính nhắc nhở (nhằm củng cố thái độ hay thói quen mua hiện thời của khách hàng đới với sản phẩm của doanh nghiệp). - Quảng cáo về doanh nghiệp (quảng cáo về tổ chức): Loại hình quảng cáo này tập trung truyền thông về ý tưởng, về triết lý, về tổ chức hay về ngành bảo hiểm chứ không tập trung và một sản phẩm cụ thể. Quảng cáo về tổ chức bao gồm các loại hình: + Quảng cáo mang tính xây dựng hình ảnh: Loại hình này được sử dụng rất rộng rãi trong ngành bảo hiểm nhằm xây dựng lòng tin của khách hàng đối với ngành bảo hiểm nói chung hoặc đối với một doanh nghiệp bảo hiểm cụ thể. + Quảng cáo mang tính biện hộ tích cực: Loại này được sử dụng nhằm thể hiện quan điểm của một ngành, một doanh nghiệp trước các vấn đề gây tranh cãi. Ví dụ, vào giữa những năm 90, ở Mỹ có phong trào cải cách việc chăm sóc y tế. Hiệp hội bảo hiểm sức khỏe Mỹ – một tổ chức củ các nhà bảo hiểm sức khỏe đã sử dụng hình thức quảng cáo mang tính biện hộ này trên các ấn phẩm và trên các phương tiện phát thanh, truyền hình nhằm truyền thông quan điểm của hiệp hội này trong tiến trình cải cách. + Quảng cáo về tổ chức mang tính thông tin: Loại hình quảng cáo này được sử dụng nhằm đưa ra thông báo đặc biệt về tổ chức như thông báo về việc sáp nhập, chuyển địa điểm văn phòng, thông báo về việc tham gia liên doanh. + Quảng cáo về tổ chức cạnh tranh: Loại hình này nhằm truyền thông về lớp sản phẩm vượt trội hẳn lớp sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. 4.2. Theo phạm vi - Quảng cáo trong phạm vi địa phương hay khu vực: Trong ngành bảo hiểm, loại quảng cáo này thường được sử dụng nhằm truyền thông về các đại lý của địa phương, mà ít được sử dụng để truyền thông về sản phẩm hay về doanh nghiệp bảo hiểm. Cụ thể, thông điệp truyền đạt trong loại quảng cáo này thường là muốn mua sản phẩm, khách hàng sẽ liên hệ với “ai”. Các phương tiện thông tin sử dụng trong loại hình quảng cáo này là báo chí, đài phát thanh, truyền hình, biển hiệu, các ấn phẩm khác của địa phương. - Quảng cáo sử dụng trong phạm vi quốc gia: Loại hình quảng cáo này được sử dụng phổ biến nhằm mục đích: Truyền thông về hình ảnh hay quan điểm của tổ chức đối với một vấn đề. Truyền thông về sản phẩm mới hay về sản phẩm hiện thời của doanh nghiệp. Nâng cao hình ảnh chung về sản phẩm cũng như về lực lượng đại diện cho doanh nghiệp. Các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm lưu hành trên phạm vi quốc gia là những phương tiện được sử dụng cho loại hình quảng cáo này. - Quảng cáo trên phạm vi thế giới: Loại hình quảng cáo này mặc dù giúp doanh nghiệp khẳng định hình ảnh trên phạm vi toàn cầu và làm giảm chi phí quảng cáo nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nhà quảng cáo, bởi vì khi thực hiện quảng cáo các doanh nghiệp phải lưu ý đến những khác biệt về văn hóa, phong tục, tập quán, cách dịch các từ chỉ tên sản phẩm sang tiếng địa phương. Ngoài ra, các loại hình quảng cáo còn được phân chia theo nhà tài trợ thành: Quảng cáo một nhà tài trợ đơn thuần do một doanh nghiệp tài trợ hoặc quảng cáo phối hợp- do các doanh nghiệp phối hợp thực hiện; hoặc phân chia theo đối tượng nhận tin là người tiêu dùng hay người phân phối, quảng cáo được chia thành quảng cáo tiêu dùng (hướng vào khách hàng) hay quảng cáo thương mại (hướng vào bán sản phẩm). Ngoài quảng cáo ra, các công ty bảo hiểm còn sử dụng một số các công cụ xúc tiến bán hàng khác cũng khá hiệu quả như: Quan hệ công chúng, xúc tiến thương mại ( ở đây hoạt động xúc tiến nhằm vào các thành viên của kênh phân phối), v.v. V. Các chỉ tiêu kết quả và hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu 1. Chỉ tiêu kết quả Kết quả kinh doanh nói chung và kết quả kinh doanh bảo hiểm nói riêng được thể hiện chủ yếu ở hai chỉ tiêu là doanh thu và lợi nhuận. Phân tích thống kê cơ cấu và biến động của hai chỉ tiêu này có thể được tiến hành theo các hướng sau: Thống kê tính các chỉ tiêu sau: và IL = Trong đó: ID: chỉ số doanh thu IL: chỉ số lợi nhuận DTH: doanh thu thực hiện DKH: doanh thu kế hoạch LTH: lợi nhuận thực hiện LKH: lợi nhuận kế hoạch Kết quả tính ID và IL phải lớn hơn 1(hoặc 100%) công ty bảo hiểm hoàn thành vượt mức kế hoạch doanh thu và lợi nhuận. Các chỉ tiêu trên có thể tính chung và riêng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm. Phân tích cơ cấu doanh thu và lợi nhuận là hướng phân tích cơ bản nhất để đánh giá xem trong số các nghiệp vụ bảo hiểm mà công ty bảo hiểm triển khai nghiệp vụ nào là nghiệp vụ mũi nhọn và có vị trí quan trọng của công ty. Ngoài ra việc phân tích cơ cấu doanh thu và lợi nhuận theo đại lý, vùng, công ty thành viên và từng loại doanh thu (như cơ cấu doanh thu bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm) cũng có những tác dụng quan trọng trong quản lý kinh doanh bảo hiểm. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động về doanh thu và lợi nhuận. Đối với các công ty bảo hiểm, doanh thu chủ yếu thu được từ phí bảo hiểm gốc. Ngoài ra còn có phần thu từ tái bảo hiểm, từ kinh doanh phụ và các hoạt động đầu tư mang lại. Sự biến động doanh thu từ phí bảo hiểm gốc chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó có các nhân tố khách quan và chủ quan, có nhân tố thuộc vấn đề quản lý và chi trả bồi thuờng. Tuy nhiên khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của doanh thu chú ý đến ba yếu tố: mức phí bảo hiểm (F), số đối tượng tham gia bảo hiểm (Đ) và cơ cấu các loại đối tượng tham gia bảo hiểm (dĐ). Để phân tích ảnh hưởng của các nhân tố trong đó dùng hệ thống chỉ số sau: Trong đó: 1 và 0 : Mức phí bảo hiểm bình quân kỳ báo cáo và kỳ gốc F1 và F0: Mức phí bảo hiểm kỳ báo cáo và kỳ gốc của từng đối tượng tham gia. D1 và D0 : Số đối tượng tham gia bảo hiểm kỳ báo cáo và kỳ gốc (1) : Phản ánh ảnh hưởng của mức phí bảo hiểm của từng đối tượng tham gia ảnh hưởng đến doanh thu bảo hiểm. (2) Phản ánh ảnh hưởng của kết cấu các đối tượng ảnh hưởng đến sự biến động của doanh thu. (3) Phản ánh ảnh hưởng của quy mô đối tượng tham gia bảo hiểm đến sự biến động của doanh thu. Tuy nhiên, hệ thống chỉ số trên mới phản ánh sự biến động về số tương đối. Để xác định mức độ ảnh hưởng cụ thể của từng nhân tố phải tính các chỉ số tuyệt đối sau: Hệ thống chỉ số trên được vận dụng ở các công ty bảo hiểm khai thác nghiệp vụ bảo hiểm có nhiều đối tượng tham gia với mức phí bảo hiểm khác nhau hoặc một nghiệp vụ bảo hiểm nhưng triển khai ở nhiều đại lý, nhiều công ty thành viên khác nhau. 2. Phân tích hiệu quả kinh doanh bảo hiểm Thống kê phải tính các chỉ tiêu sau: a) Hiệu quả sử dụng một đồng chi phí trong kì. Được xác định theo công thức: = H D C L H L = C D Hoặc Trong đó: D : doanh thu trong kì L : lợi nhuận trong kì C : chi phí trong kì (bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra trong kì như chi bồi thường thiệt hại, chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý) Chỉ tiêu HD : phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kì sẽ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu cho công ty bảo hiểm. Chỉ tiêu HL: phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kì sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho công ty bảo hiểm. D L D W ´ = b) Năng suất bình quân Trong đó: D : doanh thu trong kì Chỉ tiêu trên được tính chung và riêng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm, tính chung và riêng cho số lao động làm nhiệm vụ trực tiếp khai thác bảo hiểm. Nếu xét trên góc độ ảnh hưởng xã hội để phân tích thì tử số của công thức tính trên có thể là tổng đối tượng tham gia bảo hiểm trong kì. Căn cứ vào kết quả tính chỉ tiêu trên, có thể phân tích kết quả kinh doanh bảo hiểm theo các hướng sau: - Phân tích hiệu quả kinh doanh theo thời gian bằng cách so sánh và đánh giá xem hiệu quả đạt được giữa hai thời kì nghiên cứu biến động như thế nào. Nếu kết quả so sánh lớn hơn 1 (hoặc 100%) có nghĩa là hiệu quả kinh doanh bảo hiểm tăng lên. - Phân tích hiệu quả theo không gian, bằng cách so sánh và đánh giá xem hiệu quả đạt được ở các đại lý và các công ty thành viên khác nhau. Qua phân tích sẽ thấy được trong kì nghiên cứu đại lý nào, công ty thành viên nào hoạt động kinh doanh có hiệu quả v.v. Việc phân tích hiệu quả kinh doanh có thể được tiến hành theo từng nghiệp vụ bảo hiểm. Đồng thời, có thể so sánh tốc độ tăng doanh thu với tốc độ tăng lợi nhuận để đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty bảo hiểm tốt hay xấu. Thông thường, tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng doanh thu thì hiệu quả kinh doanh sẽ tốt hơn. Chương ii thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu biển tại pjico i. một vài nét về PJICO Theo Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của Chính Phủ về kinh doanh bảo hiểm. Ngày 15/6/1995 Công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX, tên giao dịch quốc tế là PJICO được thành lập với tổng số vốn đầu tư ban đầu là 55 tỷ đồng Việt Nam, trong đó vốn điều lệ là 53 tỷ đồng và tiền ký quỹ là 2 tỷ đồng. Công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX với tên gọi tiếng anh là PETROLIMEX Joint Stock Insurance Company, viết tắt là PJICO đã ra đời và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/6/1995. Công ty là sự hội tụ của tám cổ đông lớn trong đó có bảy thành viên sáng lập và một thành viên tham gia. Các thành viên này đã và đang có những đóng góp rất tích cực vào hoạt động kinh doanh của PJICO. Dưới đây là các cổ đông sáng lập của Công ty: - Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam (PETROLIMEX), vốn góp 28,050 triệu đồng chiếm 51%. - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VIETCOMBANK), vốn góp 5,500 triệu đồng chiếm 10%. - Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE), vốn góp 4,400 triệu đồng chiếm 8%. - Tổng Công ty Thép Việt Nam (VSC), vốn góp 3,300 triệu đồng chiếm 6%. - Công ty Vật tư và Thiết bị toàn bộ (MATEXIM), vốn góp 1,650 triệu đồng chiếm 3%. - Công ty Điện tử Hà nội (HANEL), vốn góp 1,100 triệu đồng chiếm 2%. - Công ty Thiết bị an toàn (AT), vốn góp 275 triệu đồng chiếm 0.5%. Vì là một công ty cổ phần đầu tiên hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, PJICO đã phải trải qua không ít những khó khăn của những ngày đầu hoạt động, đặc biệt là khi các điều kiện về cơ chế pháp luật còn chưa đầy đủ, khách hàng còn ít lòng tin. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo của Hội đồng quản trị, của các ban ngành liên quan, đồng thời cùng với sự ủng hộ hợp tác giúp đỡ nhiệt tình của các cổ đông sáng lập, các khách hàng và đặc biệt là sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên. Công ty đã từng bước phát triển và tạo dựng được chỗ đứng trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam. II. thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu biển ở PJICO 1. Công tác khai thác Việc định phí bảo hiểm ở công ty bảo hiểm cổ phần PETROLIMEX được tiến hành như sau: Phí bảo hiểm thân tàu thủy bao gồm: - Phí bồi thường cho tổn thất toàn bộ - Phí bồi thường tổn thất bộ phận bao gồm các chi phí sửa chữa tạm thời, chính thức và chưa sửa chữa - Phụ phí gồm chi phí quản lý, chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất, chi phí tuyên truyền quảng cáo… Vậy: phí bảo phí bồi phí bồi phụ hiểm thân = thường tổn + thường tổn + phí tàu thủy thất toàn bộ thất bộ phận khác Phí bảo hiểm không được quá số phí bảo hiểm thực sự cho tất cả các quyền lợi được bảo hiểm trong thời gian không quá 12 tháng, được giảm dần mỗi tháng theo tỷ lệ (loại trừ những chi phí bảo hiểm đã được bảo hiểm theo các đoạn trên, song nếu yêu cầu thì được bao gồm cả phí bảo hiểm hoặc đóng góp ước tính về bảo hiểm với Hội chủ tàu hay rủi ro chiến tranh). Phí bảo hiểm hoàn lại: Số tiền bảo hiểm không được quá số thật sự được hoàn lại, được thừa nhận theo mọi bảo hiểm song không được hoàn lại trong trường hợp tổn thất toàn bộ của tàu do hiểm họa được bảo hiểm hay thế nào khác. Việc hoàn lại phí như sau: Theo tỉ lệ tháng phí bảo hiểm thuần cho mỗi tháng chưa được bảo hiểm nếu bãi bỏ bảo hiểm này theo thỏa thuận. Cho mỗi thời hạn 30 ngày liên tục khi tàu đậu trong cảng hay nơi đậu khác miễn là cảng hay nơi đậu đó đã được bảo hiểm chấp thuận (với những chiếu cố đặc biệt dưới đây). - Phần trăm phí thuần nếu không sửa chữa. - Phần trăm phí thuần nếu đang sửa chữa Tàu sẽ không được xem xét là đang sửa chữa nếu việc sửa chữa nhằm mục đích sửa chữa sự hao mòn và cũ kỹ thông thường của tàu và/hoặc theo khuyến cáo trong biên bản giám định của cơ quan phân cấp tàu, nhưng bất kỳ sự sửa chữa nào nhằm mục đích sửa chữa tổn thất hay tổn hại của tàu hoặc liên quan đến việc thay đổi cấu trúc tàu, dù có được bảo hiểm theo bảo hiểm này hay không sẽ được xem xét là đang sửa chữa. Nếu tàu sửa chữa trong một phần thời gian được tính để đòi lại phí bảo hiểm thì phí bảo hiểm hoàn lại sẽ được tính theo tỷ lệ số ngỳ nói ở (a) và (b). Quy định: - Phải là không có tổn thất toàn bộ của tàu dù do những hiểm họa được bảo hiểm hay không đã xảy ra trong thời hạn hiệu lực của bảo hiểm này hay trong thời gian gia hạn bảo hiểm. - Nhất thiết không hoàn lại phí bảo hiểm nếu tàu đậu ở những nơi trống trải hay không đảm bảo an toàn hoặc tại cảng hay nơi đậu không được người bảo hiểm công nhận. - Vẫn được hoàn lại phí bảo hiểm khi có công tác bốc dỡ hay dỡ hàng hoặc khi còn hàng hóa trên tàu nhưng không được hoàn lại phí bảo hiểm cho bất cứ thời gian nào đã sử dụng tàu để chứa hàng hoặc để vận chuyển hàng như một sà lan. - Trường hợp có sửa đổi giá phí bảo hiểm năm các ngạch giá trên đây phải được điều chỉnh theo đó. - Trường hợp hoàn lại phí trên cơ sở 30 ngày liên tục mà lại lấn sang bảo hiểm kế tiếp lập cho cùng người được bảo hiểm ấy thì bảo hiểm này chỉ chịu trách nhiệm về số tiền được tính theo tỷ lệ ngạch giá hạn ký ở(a) và/hoặc (b) trên cho số ngày thuộc thời hạn của bảo hiểm này và là thời hạn thực sự được tính hoàn lại phí bảo hiểm. Tùy theo chọn lựa của người được bảo hiểm, thời gian lấn sang đó có thể tính từ ngày bắt đầu đậu hoặc tính từ ngày đậu củ kỳ hạn 30 ngày liên tục như đã quy định ở (a) hay (b) hay phần “quy định” trên.  Bảng 2: Sơ đồ quy trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm tàu thủy Trách nhiệm Tiến trình Mô tả công việc, tài liệu Tìm kiếm thông tin Thông báo tái bảo hiểm Cấp đơn bảo hiểm. Thu phí bảo hiểm Phân tích, tìm hiểu, đánh giá rủi ro Tiến hành chào, đàm phán, chào phí Chấp nhận bảo hiểm Theo dõi thu phí . tiếp nhận giải quyết mới Lưu hồ sơ Xem xét đề nghị bảo hiểm Tái bảo hiểm - Khai thác viên - Khai thác viên - Khai thác viên - Lãnh đạo phòng nghiệp vụ - Lãnh đạo - Khai thác viên - Lãnh đạo phòng nghiệp vụ - Lãnh đạo - Lãnh đạo - Khai thác viên - Khai thác viên - Kế toán viên Ghi sổ theo dõi cá nhân Xem B1 Bản điều tra đánh giá rủi ro XemB2 Phân cấp khai thác Hồ sơ, số liệu của khách hàng Xem B3 và 1.3 (I) Điều khoản, biểu phí bảo hiểm theo từng loại nghiệp vụ được áp dụng cho từng loại hình bảo hiểm. Xem B4 Khách hàng phải có Giấy yêu cầu bảo hiểm bằng văn bản. Xem B4 Quy chế quản lý ấn chỉ Xem B5 Vào sổ khai thác/ thống kê Theo dõi thu phí và tái tục Xem B6 Bảng 3: Sơ đồ hướng dẫn xử lý khai thác viên phân cấp Trách nhiệm Tiến trình Mô tả công việc, tài liệu I Nhận thông tin từ cơ sở II ý kiến các bộ phận liên quan Xem xét đề xuất của đơn vị Thông báo các đơn vị Xem xét chào phí Chấp nhận bảo hiểm - Khai thác viên - Khai thác viên - Lãnh đạo công ty - Khai thác viên - Lãnh đạo phòng nghiệp vụ - Các bộ phận liên quan - Lãnh đạo công ty - Lãnh đạo phòng - Lãnh đạo phòng nghiệp vụ - Khai thác viên - Lãnh đạo đơn vị Ghi sổ theo dõi cá nhân Tình hình thị trường, thống kê tổn thất của đối tượng bảo hiểm. Phân cấp khai thác Hồ sơ, số liệu của khách hàng. Các bước trong quy trình khai thác B1- Nhận thông tin từ khách hàng: - Tiếp xúc một số cơ quan liên quan như: các cơ quan quản lý, Ngân hàng, Quỹ hỗ trợ đầu tư, các nhà máy đóng tàu v.v. để tìm hiểu thông tin về việc mua, đóng mới tàu hoặc các tàu chưa tham gia bảo hiểm. - Tiếp xúc khách hàng để tìm hiểu thông tin về bảo hiểm, tuyên truyền vận động khách hàng tham gia bảo hiểm, hoặc nhận thông tin về nhu cầu bảo hiểm từ đại lý. - Khách hàng thông báo các thông tin liên quan đến đối tượng cần được bảo hiểm (tài sản, con người, trách nhiệm v.v. ). - Xử lý ban đầu của Khai thác viên khi nhận được thông tin từ khách hàng. B2- Phân tích, tìm hiểu và đánh giá rủi ro: - Thông qua các số liệu thống kê về khách hàng để tư vấn cho Lãnh đạo về chính sách khách hàng, về công tác quản lý rủi ro. - Căn cứ vào các thông tin được cung cấp, Khai thác viên tự đánh giá rủi ro để có thể đưa ra một mức chào phí cho đối tượng được bảo hiểm. - Khai thác viên hoặc Giám định viên đánh giá rủi ro trên cơ sở tiếp xúc trực tiếp với đối tượng bảo hiểm (đánh giá trực tiếp đối với tài sản, con người, trách nhiệm). - Những trường hợp đặc biệt cần có Giám định viên đánh giá rủi ro của các cơ quan chuyên môn khác hoặc của Tổ chức nước ngoài. B3- Xem xét đề nghị bảo hiểm: - Trên cơ sở các thông tin khách hàng cung cấp kết hợp với báo cáo đánh giá rủi ro và các số liệu thống kê. Chính sách khách hàng. Khai thác viên cung cấp phí, điều kiện bảo hiểm cho khách hàng. - Trường hợp phải tham khảo phí bảo hiểm của thị trường tái bảo hiểm, thì chỉ chào phí bảo hiểm cho khách hàng khi đã nhận được thông báo phí của thị trường tái bảo hiểm. - Đối với các tàu trước đây đã tham gia bảo hiểm ở Công ty bảo hiểm khác thì cần tìm hiểu kỹ các thông tin về tình hình tổn thất, thanh toán phí bảo hiểm, tình hình tài chính của chủ tầu. - Đối với các tàu trước đây đã tham gia bảo hiểm tại một Chi nhánh trực thuộc PJICO thì sử dụng điều kiện và tỷ lệ phí bảo hiểm như đã áp dụng trước đây. Nếu tàu còn nợ phí bảo hiểm thì không nhận bảo hiểm. + Trường hợp các yêu cầu trên không được thỏa mãn, Khai thác viên có thể thông báo bằng những văn bản từ chối nhận bảo hiểm. + Trường hợp những dịch vụ đặc biệt có gí trị lớn, khách hàng lớn, tính kỹ thuật phức tạp, Khai thác viên đề xuất với Lãnh đạo Phòng, Lãnh đạo Chi nhánh hoặc Lãnh đạo Công ty phương án đàm phán. + Nếu trên mức phân cấp khai thác, Chi nhánh trực thuộc PJICO tiến hành các bước theo như như mục các bước trong quy trình khai thác và được cụ thể hóa dưới đây. Hướng dẫn xử lý khai thác trên phân cấp Trường hợp dịch vụ khai thác lớn, vượt quá mức trách nhiệm được phân cấp theo loại hình nghiệp vụ đối với Chi nhánh, thì Chi nhánh phải có công văn thông báo về Văn phòng Công ty xin ý kiến chỉ đạo. Nội dung công văn do Lãnh đạo Chi nhánh ký, gồm những điểm chính như sau: số liệu về khách hàng, về đối tượng bảo hiểm, ý kiến phân tích, đề xuất hướng giải quyết nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng. Khai thác viên nghiên cứu, đề xuất phương án giải quyết. Lãnh đạo Phòng Hàng hải xem xét, nếu thuộc phân cấp của Lãnh đạo Phòng thì thông báo cho Chi nhánh ngay. Trường hợp giá trị tham gia bảo hiểm lớn, mức trách nhiệm cao, vượt mức được phân cấp của Lãnh đạo Phòng, Phòng Hàng hải làm tờ trình phương án giải quyết gửi các Phòng liên quan (Tái bảo hiểm) và báo cáo Lãnh đạo Công ty xin ý kiến dhỉ đạo. nếu cần có thể tiến hành đàm phán với Lãnh đạo đơn vị khách hàng. Sau khi Lãnh đạo Công ty đồng ý phê duyệt, Phòng nghiệp vụ thông báo cho Chi nhánh để tiến hành cấp Đơn bảo hiểm. B4- Tiến hành đàm phán và chấp nhận bảo hiểm: - Phí bảo hiểm đã chào cho khách hàng nhưng chưa được chấp nhận thì tùy từng trường hợp, Lãnh đạo Phòng, Lãnh đạo Chi nhánh hoặc Lãnh đạo Công ty sẽ có cuộc gặp với khách hàng hợc tính toán lại phương án chào phí cho phù hợp. - Việc đàm phán có thể tiếhn hành trong nhiều ngày và liên quan đến nhiều Phòng cho đến khi khách hàng đồng ý tham gia bảo hiểm tại PJICO hợc khách hàng không chấp nhận những điều kiện mà PJICO đưa ra. - Trong quá trình đàm phán, các yếu tố liên quan như Quy tắc bảo hiểm, biểu phí, hồ sơ số liệu về khách hàng, chính sách khách hàng, phí của nhà tái bảo hiểm hàng đầu sẽ được Lãnh đạo xem xét để đưa ra được mức phí phù hợp, đáp ứng được nhu cầu bảo hiểm của khách hàng. - Lãnh đạo chấp nhận bảo hiểm trên cơ sở khách hàng chấp nhận phí bảo hiểm mà PJICO đưa ra. B5- Cấp Đơn bảo hiểm: - Khi khách hàng chấp nhận bản chào phí bảo hiểm, đề nghị gửu Giấy yêu cầu bảo hiểm hoàn chỉnh chính thức bằng văn bản cho PJICO (yêu cầu có ký tên và đóng dấu). - Giấy yêu cầu bảo hiểm là một bằng chứng và là cơ sở pháp lý thể hiện ý trí của khách hàng về việc đồng ý tham gia bảo hiểm và là một bộ phận cấu thành của Hợp đồng bảo hiểm. B5.a Nguyên tắc chung: Việc cấp Đơn, Giấy yêu cầu bảo hiểm phải theo đúng những quy định trong: Phân cấp quản lý nghiệp vụ bảo hiểm tàu thủy. Hợp đồng bảo hiểm đã ký giữa PJICO và chủ tàu. Hướng dẫn bảo hiểm tàu thủy hàng năm của Công ty. B5.b Cấp Đơn bảo hiểm: Kiểm tra giấy tờ, kiểm tra tàu Nhận và kiểm tra Giấy yêu cầu bảo hiểm: Khi nhận được Giấy yêu cầu bảo hiểm của chủ tàu, cán bộ khai thác phải kiểm tra Giấy yêu cầu bảo hiểm có hợp lệ không. Giấy yêu cầu bảo hiểm được coi là hợp lệ khi ghi đầy đủ các mục sau: Tên người được bảo hiểm. Tên tàu và các đặc điểm riêng của tàu như: quốc tịch, cảng đăng ký, năm nơi đóng tàu, loại tàu, GT, DWT v.v. Giá trị tàu, giá trị tham gia bảo hiểm (đối với trường hợp có tham gia bảo hiểm thân tàu). Phạm vi hoạt động. Thời hạn tham gia bảo hiểm. Điều kiện tham gia bảo hiểm. Kiểm tra tàu: Đối với những tàu tham gia bảo hiểm lần đầu tại PJICO và/ hoặc tham gia bảo hiểm không liên tục thì Chi nhánh bắt buộc phải kiểm tra tàu trứơc khi nhận bảo hiểm. Khi kiểm tra tàu phải điền đầy đủ các nội dung theo mẫu Biên bản kiểm tra đính kèm hướng dẫn này. Riêng đối với các tàu đóng mới và mua nhận ở nước ngoài thì có thể căn cứ hồ sơ Đăng Kiểm tàu mà không cần kiểm tra trước. Cấp Đơn, Giấy yêu cầu bảo hiểm Sau khi kiểm tra Giấy yêu cầu bảo hiểm, hồ sơ Đăng kiểm của tàu và tình trạng kỹ thuật của tàu, nếu tàu đủ khả năng hoạt động an toàn theo quy định thì căn cứ vào Giấy yêu cầu bảo hiểm t iến hành cấp Đơn, Giấy chứng nhận bảo hiểm trong vòng 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu bảo hiểm hợp lệ. Trường hợp từ chối cấp Đơn bảo hiểm hoặc cấp Đơn chậm hơn 05 ngày thì phải thông báo rõ lý do từ chối hoặc chậm trễ cho chủ tàu. Trường hợp trên mức phân cấp, Chi nhánh phải thông báo cho Công ty các nội dung sau: Tên người được bảo hiểm. Tên tàu và các đặc điểm riêng của tàu như: quốc tịch, cảng đăng ký, năm nơi đóng tàu, loại tàu, GT, DWT… Giá trị tàu, giá trị tham gia bảo hiểm (đối với trường hợp có tham gia bảo hiểm thân tàu). Phạm vi hoạt động. Thời hạn tham gia bảo hiểm. Điều kiện tham gia bảo hiểm. Các kiến nghị của Chi nhánh đối với việc bảo hiểm tàu. Chỉ sau khi có ý kiến xác nhận đồng ý bảo hiểm của Công ty thì Chi nhánh mới tiến hành cấp Đơn hoặc Giấy chứng nhận bảo hiểm cho tàu. Những trường hợp cần lưu ý khi cấp Đơn, Giấy chứng nhận bảo hiểm: Trường hợp cho tàu hoạt động tuyến nước ngoài thì phí bảo hiểm phải thanh toán bằng ngoại tệ (USD). Nếu chủ tàu thanh toán phí bảo hiểm bằng đồng Việt Nam thì khi bồi thường PJICO sẽ chỉ thanh toán bằng tiền Việt Nam theo tỷ giá chuyển đổi lúc chủ tàu thanh toán phí bảo hiểm. Trường hợp chủ tàu tham gia dưới giá trị yêu cầu phải ghi rõ giá trị thực tế và số tiền tham gia bảo hiểm trên Đơn bảo hiểm. Khi tàu bị tổn thất bộ phận PJICO chỉ bồi thường theo tỷ lệ giữ số tiền tham gia bảo hiểm và giá trị thực tế của tàu đó. Trường hợp những tàu qua kiểm tra có khiếm khuyết mà chủ tàu không khắc phục theo đúng yêu cầu kỹ thuật thì khi nhận bảo hiểm phải loại trừ các khiếm khuyết đó và ghi rõ loại trừ trên Đơn, Giấy chứng nhận bảo hiểm. Nếu tình trạng kỹ thuật quá yếu kém không đảm bảo khả năng đi biển thì không nhận bảo hiểm. Đối với các tàu trước đó đã tham gia bảo hiểm ở Công ty bảo hiểm khác thì cần xem xét kỹ các yếu tố như: tỷ lệ tổn thất, tình hình thanh toán phí bảo hiểm v.v. để xem xét có nhận bảo hiểm hay không? Đối với các tàu trước đó đã tham gia bảo hiểm tại một Chi nhánh bảo hiểm khác thuộc PJICO thì cần tìm hiểu rõ lý do vì sao tàu lại thay đổi Chi nhánh bảo hiểm? Nếu tàu còn nợ phí thì không nhận bảo hiểm. Cấp Đơn, Giấy chứng nhận, vào sổ thống kê: Đơn bảo hiểm thân tàu, Giấy chứng nhận bảo hiểm P&I in 7 bản, giao cho chủ tàu 3 bản (2 bản chính, 1 bản phụ), 1 bản chính chuyển KT- TV theo dõi hạch toán, lưu 1 bản chính, 1 bản phụ và gửu 1 bản chính về Công ty để theo dõi (thời gian gửi không chậm quá 03 ngày kể từ ngày cấp). Khi cấp Đơn, Giấy chứng nhận bảo hiểm phải vào sổ thống kê (lấy số Đơn, Giấy chứng nhận theo số thứ tự trong sổ). Khai thác viên phải cập nhật vào phần mềm máy tính các thông tin theo yêu cầu của nghiệp vụ. Lưu ý: Sổ cấp Đơn, Giấy chứng nhận bảo hiểm phải phân ra từng loại như: Tàu biển chạy tuyến nước ngoài, tàu pha sông biển. Cấp giấy Sửa đổi bổ sung (nếu có): Nếu sau khi cấp Đơn, Giấy chứng nhận bảo hiểm chủ tàu có yêu cầu thay đổi: giá trị bảo hiểm, phạm vi hoạt động, điều kiện tham gia bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm… thì Chi nhánh cấp Giấy sửa đổi bổ sung theo quy định sau: Đối với tàu tham gia bảo hiểm bằng ngoại tệ, bằng đồng Việt Nam (có giá trị bảo hiểm trên mức phân cấp của Chi nhánh) chỉ cấp Giấy sửa đổi bổ sung khi được Công ty chấp nhận. Đối với tàu tham gia bảo hiểm bằng đồng Việt Nam (có giá trị bảo hiểm dưới mức phân cấp của Chi nhánh) Chi nhánh chủ động cấp giấy sửa đổi bổ sung theo yêu cầu của chủ tàu và gửi 1 bản về Công ty. Nếu xét thấy sự thay đổi đó làm tăng thêm trách nhiệm của PJICO thì phải thu thêm phí bảo hiểm. Thông báo thu phí bảo hiểm, hoàn phí bảo hiểm, thanh toán hoa hồng: Thông báo thu phí bảo hiểm: - Phí bảo hiểm được thu theo định ký như đã quy định tại Hợp đồng bảo hiểm đã kỹ giữa PJICO và chủ tàu. - Thông báo thu phí, hoàn phí phải thể hiện rõ các nội dung sau: Tên tàu bảo hiểm, số Đơn bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm. Cách tính số phí phải nộp. Số tài khoản của đơn vị. ấn định thời gian nộp phí. - Tỷ lệ phí, mức phí bảo hiểm áp dụng căn cứ vào văn bản hướng dẫn triển khai nghiệp vụ hàng năm hoặc theo hướng dẫn riêng của Công ty. - Đối với các tàu phải thu xếp tái bảo hiểm thì Công ty thông báo cho tái bảo hiểm. Theo dõi thu phí bảo hiểm: - Sau khi phát thông báo thu phí, cán bộ nghiệp vụ phối hợp cùng Phòng Kế toán theo dõi, đôn đốc việc nộp phí của chủ tàu. - Phí bảo hiểm bằng ngoại tệ tiền gì thì phải thu bằng loại tiền đó trừ trường hợp đã được Lãnh đạo có thẩm quyền đồng ý bằng văn bản cho thanh toán bằng loại tiền khác hoặc theo quy định bắt buộc của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. - Khi thu phí bảo hiểm phải cấp hóa đơn V.A.T để thuận lợi cho việc kiểm tra, nộp thuế. - Tiến hành thanh toán hoa hồng theo chế độ đại lý. Hoàn phí bảo hiểm: - Trường hợp chủ tàu thông báo bằng văn bản hủy Hợp đồng bảo hiểm hoặc tàu ngừng hoạt động v.v. phải vào sổ theo dõi và báo cáo ngay về Công ty. - Hoàn phí bảo hiểm phải được thực hiện theo đúng quy định trong Hợp đồng bảo hiểm đã ký giữa PJICO và chủ tàu (đối với tàu biển) hoặc Quy tắc bảo hiểm (đối với tàu hoạt động trong vùng biển Việt Nam). - Sau khi tiến hành hoàn phí cho chủ tàu phải thông báo về Công ty để thống kê theo dõi. B6- Theo dõi, tiếp nhận giải quyết mới: - Theo dõi đối tượng được bảo hiểm, đôn đốc thu phí bảo hiểm. - Sửa đổi bổ sung các điều kiện bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm… theo yêu cầu của người được bảo hiểm, các nhà nhận Tái bảo hiểm hoặc thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. - Làm các công tác tuyên truyền, đề phòng hạn chế tổn thất… Theo dõi tình hình bảo hiểm: Dựa vào kế hoạc đặt ra, hàng tháng, hàng quý tiến hành đối chiếu phí phát sinh, phí thu, số tàu tham gia với kế hoạch đề ra. Thường xuyên đôn đốc khách hàng nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng kỳ hạn. Thường xuyên liên hệ với chủ tàu để khai thác bảo hiểm những tàu mới. Chú trọng tập trung khai thác những đội tàu lớn mà phí thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số phí thu. Nghiên cứu đầy đủ các văn bản hướng dẫn bảo hiểm tàu thủy hàng năm của Công ty. Nắm vững Quy tắc, Điều khoản, biểu phí áp dụng nếu có gì vướng mắc cần báo cáo về Công ty để có hướng giải quyết. Kết hợp với bộ phận bồi thường để tính kết quả bảo hiểm của từng chủ tàu để có biện pháp vận động bảo hiểm thích hợp. Tập hợp các kiến nghị của chủ tàu để kịp thời đề xuất ý kiến với Công ty điều chỉnh tỷ lệ phí, Quy tắc, Điều khoản, Hợp đồng bảo hiểm cho thích hợp nhằm đáp ứng với nhu cầu của khách hàng. Cuối năm cần chuẩn bị đầy đủ số liệu để họp với khách hàng, tổng kết công tác bảo hiểm trong năm, hướng triển khai năm tới. Nắm vắt những khó khăn cũng như yêu cầu của chủ tàu để có hướng khắc phục ngày càng tốt hơn. Lưu ý: Đối với tàu tham gia bảo hiểm chuyến phải theo dõi ngày tàu khởi hành, ngày tàu kết thúc chuyến hành trình và phải thông báo ngay cho Công ty để thu xếp Tái bảo hiểm nếu cần thiết. Trường hợp cấp Đơn bảo hiểm qua đại lý thì Công ty phải tổ chức hướng dẫn đại lý cấp Đơn bảo hiểm theo đúng hướng dẫn trên và quy định chung của Nhà nước. Phải thường xuyên kiểm tra để kịp thời uốn nắn các sai sót. Kết quả khai thác ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh bảo hiểm thân tàu. Kết quả khai thác bảo hiểm thân tàu của PJICO trong những năm gần đây được thể hiện qua bảng sau. Bảng 4: Kết quả khai thác bảo hiểm tàu của PJICO giai đoạn 2000- 2004 Năm Các chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng Số tàu khai thác (chiếc) 78 82 112 196 237 705 Tổng trọng tải (MT) 241,800 257,650 362,145 615,000 815,124 2,291,719.00 Tổng giá trị bảo hiểm ($) 226,188,225.94 242,021,401.75 341,250,176.47 580,125,300.00 725,321,400.00 2,130,362,705.16 Phí bảo hiểm gốc ($) 1,809,505.81 1,887,766.93 2,388,751.24 4,292,927.22 5,077,249.80 15,456,201.00 Nguồn: Phòng bảo hiểm Hàng hải- PJICO Qua bảng 4, trong năm 2000 số tàu khai thác là 78 chiếc với tổng trọng tải là 241,800 MT có tổng giá trị bảo hiểm là 226,188,225.94 $ và thu được 1,809,505.81$ phí bảo hiểm. Thì đến năm 2001 khai thác được 82 tàu có tổng trọng tải là 257,650 MT với tổng giá trị bảo hiểm là 242,021,401.75$ và thu được 1,887,766.93$ phí bảo hiểm. Sang năm 2002 bắt đầu có sự tăng nhanh các chỉ tiêu khai thác, số tàu khai thác là 112 chiếc tăng 30 chiếc có tổng trọng tải là 36,145 MT tăng 104,495MT với tổng giá trị bảo hiểm là 341,250,176.47 $ tăng 99,228,774.72$ và thu được 2,388,751.24$ phí bảo hiểm tăng 500,984.31$ Năm 2003 là năm có nhịp độ phát triển khai thác lớn nhất, số tàu khai thác tăng 84 chiếc tổng trọng tải tăng 252,855 MT với tổng giá trị bảo hiểm tăng 238,875,123.53$ tương ứng với số phí bảo hiểm tăng 1,904,175.98$. Đây là một con số rất đáng mừng đối với Công ty trong việc triển khai nghiệp vụ này thể hiện sự nỗ lực của Lãnh đạo, nhân viên của Công ty trước sự cạnh tranh gay gắt của thị trường. Năm 2004 tiếp tục gia tăng các chỉ tiêu, số tàu là 237 chiếc tăng 41 chiếc, tổng trọng tải là 815,124 MT tăng 200,124 MT tổng giá trị bảo hiểm của năm là 725,321,400.00$ tăng 145,196,100.00$ và phí bảo hiểm là 5,077,249.80$ tăng 784,322.58$. Để thấy rõ hơn tình hình khai thác của PJICO có thể nhìn vào bảng 5. Bảng 5: Tốc độ tăng phí bảo hiểm của PJICO qua các năm 2000-2004 chỉ tiêu Năm Tốc độ tăng phí bảo hiểm gốc % 2000-2001 4.32 2001-2002 26.54 2002-2003 79.71 2003-2004 18.27 Nguồn: Phòng bảo hiểm Hàng hải- PJICO Qua bảng 5 tốc độ tăng phí bảo hiểm gia đoạn 2002-2003 là cao nhất tăng 79.71%, sau đó là giai đoạn 2001-2002 tốc độ tăng là 26.54% , giai đoạn 2003-2004 tốc độ tăng là 18.27% thấp nhất là giai đoạn 2000-2001 tăng chỉ 4.32%. 2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Đề phòng và hạn chế tổn thất là công việc Công ty thực hiện thông qua nhiều biện pháp, thông qua việc lưu trữ hồ sơ khách hàng và việc tính toán các chi phí cho công tác này. Các chi phí hợp lý khác thuộc trách nhiệm bảo hiểm - Chi phí đề phòng hạn chế tổn thất: bao gồm những chi phí cần thiết và hợp lý đã chi ra để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất (như chi phí cứu hộ, cứu nạn, cứu cháy v.v. ), về nguyên tắc các chi phí này phải thông báo trước bằng văn bản và được PJICO chấp thuận bằng văn bản, tuy nhiên trong trường hợp cần thiết phải hành động ngay thì chủ tàu có thể vừa tiến hành cứu tàu vừa thông báo cho PJICO. - Các chi phí khác: chi phí giám định, phục vụ giám định, chi phí đăng kiểm giám sát sửa chữa v.v. các chi phí nói trên đều phải cần thiết, hợp lý. Tổng các chi phí nêu trên cộng với chi phí sửa chữa không được vượt quá giá trị bảo hiểm tàu. Lưu trữ hồ sơ Hồ sơ đã giải quyết bồi thường đều phải vào sổ, phân loại theo dạng tổn thất, rủi ro được bảo hiểm và theo đơn vị chủ tàu để có số liệu tính phí và hướng đề phòng hạn chế tổn thất. Các hồ sơ giải quyết bồi thường xong phải sắp xếp theo thứ tự thời gian, đơn vị chủ tàu để lưu trữ (thời gian lưu trữ hồ sơ tối thiểu 5 năm). Đối với những vụ tổn thất lớn (trên mức phân cấp) và phức tạp cần phải ghi chép lại và lưu trữ riêng để sử dụng khi cần thiết. Ghi lại những nhận xét đối với các hồ sơ lưu trữ để sau này có tài liệu học tập nghiên cứu. Số liệu thống kê (phí bảo hiểm, bồi thường) tính theo năm nghiệp vụ Lưu ý: Khi xem xét hồ sơ phải ghi chép lại những sai sót thuộc phía người bảo hiểm như: cấp đơn sai, giám định không đúng v.v. để kịp thời nhắc nhở, khắc phục. Nếu lỗi do người bảo hiểm hoặc đại lý của bảo hiểm thì tổn thất xảy ra vẫn thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Ghi chép những điểm nổi bật trong các hồ sơ để góp ý kiến cho các bên có liên quan khi cần thiết. Sau khi giải quyết bồi thường nếu lỗi của người thứ ba gây ra thì yêu cầu chủ tàu làm giấy thế quyền để khiếu nại đòi người thứ ba bồi hoàn các chi phí mà PJICO đã bồi thường cho chủ tàu. Kết quả công tác đề phòng và hạn chế tổn thất có thể thấy rõ hơn về kết quả kinh doanh. Công tác này có thể được thể hiện qua số liệu về chi đề phòng và hạn chế tổn thất và tỷ lệ chi đề phòng và hạn chế tổn thất/ tổng chi. Bảng 6: Kết quả công tác đề phòng và hạn chế tổn thất bảo hiểm thân tàu của PJICO giai đoạn 2000-2004 năm chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng Doanh thu ($) 1,809,505.81 1,887,766.93 2,388,751.24 4,292,927.22 5,077,249.80 13,067,449.76 Tổng chi ($) 841,420.20 915,566.96 1,266,038.16 2,704,544.15 3,350,984.87 9,078,554.34 Chi đề phòng và hạn chế tổn thât ($) 36,190.12 37,755.34 47,775.02 85,858.54 101,545.00 309,124.02 Tỷ lệ chi đề phòng và hạn chế tổn thất/tổng chi (%) 4.30 4.12 3.77 3.17 3.03 3.40 Nguồn: Phòng bảo hiểm Hàng hải- PJICO Qua bảng 6 thấy rằng chi đề phòng và hạn chế tổn thất tăng qua các năm cùng với sự tăng lên của doanh thu phí bảo hiểm. Song tỷ lệ chi đề phòng và hạn chế tổn thất/tổng chi lại giảm qua các năm. Năm 2000 mức chi này là 36,190.12$ với tỷ lệ là 4.30% so với tổng chi. Đến năm 2001 con số này tăng lên không đáng kể là 37,755.34 tương ứng với tỷ lệ là 4.12% so với tổng chi. Năm 2002 chi đề phòng và hạn chế tổn thất tăng 10,019.68$ lên 47,775.02$ với tỷ lệ tăng là 3.77% trên tổng chi. Năm 2003 tỷ lệ này trên tổng chi giảm mạnh xuống còn 3.17% song mức chi lại lớn tăng 38,083.52 $ so với năm trước với mức chi của năm là 85,858.54$. Năm 2004 tỷ lệ này lại tiếp tục giảm xuống còn 3.03% trên tổng chi và cùng với đó là mức chi tăng 15,686.46$ lên 101,545.00$. Có sự biến động ngược chiều như vậy là do trong giai đoạn này mức chi bồi thường của Công ty tăng qua các năm và tỷ lệ chi bồi thường trên tổng chi cũng tăng, do đó làm cho các khoản chi khác hẹp lại trên tổng chi. Vì vậy mà tỷ lệ chi đề phòng và hạn chế tổn thất/tổng chi của PJICO giảm từ năm 2000 4.30% xuống còn 3.03% năm 2004. 3. Công tác giám định Mục đích, phạm vi áp dụng Việc giám định nhằm mục đích đưa ra quy định thống nhất cách thức tiến hành giám định tổn thất xảy ra đối với tàu trong toàn bộ hệ thống PJICO nhằm phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Được áp dụng cho việc giám định các vụ tổn thất, các tàu mới sẽ và đang tham gia bảo hiểm tại PJICO, do PJICO là người bảo hiểm chính và hoặc khi có yêu cầu cụ thể.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36782.doc
Tài liệu liên quan