Các công ty chứng khoán là các pháp nhân có năng lực tài chính tiến hành kinh doanh một cách độc lập. Họ có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh của họ độc lập. Họ chịu sự điều chỉnh của cơ chế thị trường và quy luật giá trị. Vì thế không cần có sự can thiệp sâu, quá cụ thể vào hoạt động của công ty từ phía chính phủ.
Trong khoảng đầu năm nay chính phủ đã ban hành quy định buộc các công ty chứng khoán hạn chế bán chứng khoán trong danh mục mà họ nắm giữ ra ngoài thị trường, để đảm bảo thị trường không thể giảm sâu hơn nữa. Chính vì thế làm cho rất nhiều công ty cảm thấy bất ổn. Những chính sách can thiệp của chính phủ đang làm thị trường có những diễn biến phức tạp và khó đoán hơn.
Việc có bàn tay can thiệp của nhà nước vào thị trường chỉ làm cho thị trường biến động lớn hơn. Mà việc đưa ra những dự kiến về việc sẽ có biện pháp gì để giải quyết vấn đề hiện nay trong thời gian tới. Nhưng lại không thấy được một hành động cụ thể nào cả chỉ làm cho nhà đầu tư, những công ty chứng khoán mất lòng tin vào nhà nước.
Nhà nước nên hành động chứ không phải là dùng lời nói không, có hành động tích cực mà có hiệu quả thì đó mới là biện pháp hữu hiệu.
95 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1746 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thông tin về lệnh, thông tin tài khoản, thông tin thị trường qua mạng Internet hoặc Mobile.
* Tính năng ưu việt trong ứng dụng của phần mềm SmartBroker:
- Phần mềm SmartBroker được sử dụng thống nhất trong toàn bộ các Phòng giao dịch, các Đại lý nhận lệnh và Hội sở, Chi nhánh Công ty. Nhờ vậy, Khách hàng của TSC có thể tới bất kỳ phòng giao dịch nào của TSC để truy vấn thông tin, thực hiện các giao dịch về tiền, chứng khoán và các dịch vụ khác do TSC cung cấp
- Khách hàng của TSC có thể thực hiện đồng thời các giao dịch đặt lệnh, xem số dư tài khoản, tra cứu thông tin khớp lệnh, tra cứu thông tin thị trường trên tất cả các hình thức đặt lệnh của TSC: trực tiếp tại sàn giao dịch, qua Internet và qua điện thoại.
- Hệ thống SmartBroker được tích hợp sẵn Gateway hoàn toàn tương thích với hệ thống của Sở giao dịch Hồ Chí Minh (HOSE) cho phép kết nối thực hiện các giao dịch trực tuyến khi triển khai giao dịch trực tuyến (chuyển thẳng lệnh giao dịch của nhà đầu tư vào sàn giao dịch của HOSE không qua các đại diện sàn), cũng như cho phép kết nối với các ngân hàng thương mại và các trung tâm thanh toán khi nhà đầu tư chuyển tiền gửi giao dịch từ Công ty chứng khoán sang ngân hàng.
* Tính năng ưu việt về bảo mật của phần mềm SmartBroker:
- Hệ thống SmartBroker được phát triển trên nền tảng Hệ điều hành AIX và RedHad (Unix) đảm bảo cho tính ổn định và bảo mật cho hệ thống.
- Hệ thống SmartBroker được cài đặt với hệ thống dự phòng nóng (Hot Swap) cho phép hệ thống vẫn hoạt động khi hệ thống chính gặp sự cố.
- Hệ thống SmartBroker sử dụng Tivoli Storage Manager của IBM làm hệ thống Backup định kỳ.
- Truy cập các ứng dụng trên Internet và Mobile của hệ thống SmartBroker sử dụng cơ chế One-Time-Password qua thẻ sử dụng giải pháp bảo mật của hãng Entrust.
2.3.1.4. Đội ngũ nhân sự.
Cùng với việc mở rộng quy mô hoạt động thì đội ngũ nhân sự của TSC cũng không ngừng gia tăng cả về chất lượng lẫn số lượng. Đội ngũ nhân sự của TSC có độ tuổi từ 25 – 35 tuổi. Số lượng thì ngày càng tăng. Từ khởi đầu với 10 nhân viên vào năm 2000, đến năm 2006 công ty đã có 80 người, tăng gấp 8 lần. Sang năm 2007, công ty tăng vốn điều lệ lên 300 tỷ đồng và mở thêm một số phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh nên số lượng nhân viên của TSC cũng tăng lên thành 220 người, tăng hơn 2 lần so với năm 2006 và 22 lần so với khi mới thành lập. Và năm 2008, tổng số nhân viên của TSC là 228 người. Trong số đó, phần lớn nhân viên có trình độ đại học, cụ thể:
Bảng 2.10: Cơ cấu trình độ nguồn nhân lực của TSC giai đoạn 2006 - 2008
Đơn vị tính: %
Năm
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Tiến sỹ
2.5
2.8
3.94
Thạc sỹ
8.75
9.1
10.96
Đại học
71.25
76.36
80.14
Trình độ khác
17.5
11.74
4.96
Tổng
100
100
100
Nguồn: công ty chứng khoán Thăng Long
Với những chính sách đãi ngộ hấp dẫn, TSC đã thu hút được đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp được đào tạo cả trong nước và ngoài nước. Qua bảng trên ta thấy, số lượng nhân viên có trình độ từ đại học trở lên tăng dần qua các năm. Năm 2008 là trên 80%, đây là một con số mà không có nhiều công ty có được. Trong khi đó, đội ngũ nhân sự có trình độ dưới đại học giảm đáng kể từ 17.5% vào năm 2006 xuống còn 4.96% vào năm 2008. Ngoài trình độ chuyên môn thì đội ngũ nhân viên của TSC còn giàu kinh nghiêm, nhiệt tình, thân thiện với khách hàng. Các cán bộ quản lý và kinh doanh của TSC đều được trải qua các khóa đào tạo về chứng khoán cả trong và ngoài nước. Các chuyến đi khảo sát thực tế TTCK các nước Châu Âu, Châu Á được thực hiện hàng năm nhằm giúp cán bộ của Công ty có thêm nhiều kinh nghiệm thực tế. Cho đến nay, phần lớn đội ngũ nhân sự của Công ty đều có Giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp. Các cán bộ quản lý và kinh doanh đều có bằng cử nhân chuyên ngành tài chính ngân hàng, chứng khoán, đầu tư trở lên. Hàng năm, công ty sa thải khoảng 10% nhân viên làm việc kém hiệu quả và tuyển dụng thêm 10% nhân viên mới. Do đó, chất lượng đội ngũ nhân sự của TSC không ngừng được cải thiện, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty.
2.3.1.5. Mạng lưới
Hiện nay, trên thị trường có khoảng hơn 100 công ty chứng khoán. Mỗi công ty lại có tiềm lực tài chính cũng như chiến lược kinh doanh khác nhau. Do đó, mạng lưới hoạt động cũng khác nhau.
Bảng 2.21:Tổng hợp mạng lưới hoạt động của một số CTCK năm 2008.
CTCK
Trụ sở chính
Chi nhánh
Phòng giao dịch
Đại lý nhận lệnh
TSC
1
1
3
5
BVSC
1
1
2
4
SSI
1
6
4
2
BSC
1
1
2
10
AGRISECO
1
1
2
29
VIETINBANKSC
1
1
3
25
Nguồn: tự tập hợp
Nhìn vào bảng trên ta thấy, TSC có số lượng phòng giao dịch và đại lý nhận lệnh tương đối lớn, không kém mấy so với các CTCK lớn như SSI hay Agriseco. Nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng ở khắp mọi miền trong cả nước, TSC đã không ngừng mở rộng thêm các chi nhánh và phòng giao dịch trên cả nước. Đến nay, có thể nói công ty đã có mạng lưới rộng khắp. Cụ thể:
Tại Thủ đô Hà Nội
Hội sở :
Tầng 6, tòa nhà Hà Nội Toserco, 273 Kim Mã, Quận Ba Đình, Hà Nội
Tel: (844) 7262600 - Fax: (844) 7262601
Phòng giao dịch Lý Nam Đế:
14C Lý Nam Đế, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
Tel: (844) 7337671 - Fax: (844) 7337890
Phòng Giao dịch Hoàng Quốc Việt:
126 Hoàng Quốc Việt, Quận Cầu Giấy, Hà Nội
Tel: (844) 7557668 - Fax: (844) 7557589
Đại lý nhận lệnh HAFIC:
105 Láng Hạ, Quận Đống Đa, Hà Nội
Đại lý nhận lệnh F.I.T:
17 Thể Giao, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Tel: (844) 9747666 - Fax: (848) 9747191
Tại thành phố Hồ Chí Minh
Trụ sở chi nhánh Hồ Chí Minh:
Tầng 2, tòa nhà Petro Việt Nam, 1-5 Lê Duẩn, Quận 1, HCM
Tel: (848) 9106411 - Fax: (848) 9106412
Phòng giao dịch Tôn Đức Thắng:
02 Tôn Đức Thắng, Quận 1, HCM
Tel: (848) 9102215 - Fax: (848) 9102216
Đại lý nhận lệnh Bắc Sài Gòn
03 Nguyễn Oanh, Phường 10, Quận Gò Vấp, HCM
Tel: (848) 3989.4425 - Fax: (848) 3989.4428
Tại thành phố Đà Nẵng
Đại lý nhận lệnh MB:
54 Điện Biên Phủ, Quận Thanh Khê, Đà Nẵng
Tel: (84511) 3647778 - Fax: (84511) 3647997
Tại thành phố Quy nhơn- Bình Định
Đại lý nhận lệnh MB:
287 Trần Hưng Đạo, T.P Quy Nhơn, Bình Định
Tel: (8456). 250999 - Fax: (8456). 814455
2.4.2. Mô hình Swot.
Phân tích SWOT là một trong 5 bước hình thành chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp bao gồm: xác lập tôn chỉ của doanh nghiệp, phân tích SWOT, xác định mục tiêu chiến lược, hình thành các mục tiêu và kế hoạch chiến lược, xác định cơ chế kiểm soát
chiến lược. Nó không chỉ có ý nghĩa đối với doanh nghiệp trong việc hình thành chiến lược kinh doanh nội địa mà còn có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành chiến lược kinh doanh quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Một khi doanh nghiệp muốn phát triển, từng bước tạo lập uy tín, thương hiệu cho mình một cách chắc chắn và bền vững thì phân tích SWOT là một khâu không thể thiếu trong quá trình hoạch định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy, phân tích SWOT là phân tích các yếu tố môi trường bên ngoài mà doanh nghiệp phải đối mặt (các cơ hội (Opportunities) và nguy cơ (Threats)) cũng như các yếu tố thuộc môi trường nội bộ doanh nghiệp (các mặt mạnh (Strengths) và mặt yếu (Weaknesses)). Đây là một việc làm khó đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, chi phí, khả năng thu nhập, phân tích và xử lý thông tin sao cho hiệu quả nhất.
Doanh nghiệp xác định các cơ hội và nguy cơ thông qua phân tích dữ liệu về thay đổi trong các môi trường: kinh tế, tài chính, chính trị, pháp lý, xã hội và cạnh tranh ở các thị trường nơi doanh nghiệp đang hoạt động hoặc dự định thâm nhập. Các cơ hội có thể bao gồm tiềm năng phát triển thị trường, khoảng trống thị trường, gần nguồn nguyên liệu hay nguồn nhân công rẻ và có tay nghề phù hợp. Các nguy cơ đối với doanh nghiệp có thể là thị trường bị thu hẹp, cạnh tranh ngày càng khốc liệt, những thay đổi về chính sách có thể xảy ra, bất ổn vê chính trị ở các thị trường chủ chốt hay sự phát triển công nghệ mới làm cho các phương tiện và dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp có nguy cơ trở nên lạc hậu.
Với việc phân tích môi trường nội bộ của doanh nghiệp, các mặt mạnh về tổ chức doanh nghiệp có thể là các kỹ năng, nguồn lực và những lợi thế mà doanh nghiệp có được trước các đối thủ cạnh tranh như có nhiều nhà quản trị tài năng, có công nghệ vượt trội, thương hiệu nổi tiếng, có sẵn tiền mặt, doanh nghiệp có hình ảnh tốt trong mắt công chúng hay chiếm thị phần lớn trong các thị thường chủ chốt. Những mặt yếu của doanh nghiệp thể hiện ở những thiểu sót hoặc nhược điểm và kỹ năng, nguồn lực hay các yếu tố hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Đó có thể là mạng lưới phân phối kém hiệu quả, quan hệ lao động không tốt, thiếu các nhà quản trị có kinh nghiệm quốc tế hay sản phẩm lạc hậu so với các đối thủ cạnh tranh...
Kết quả của quá trình phân tích SWOT phải đảm bảo được tính cụ thể, chính xác, thực tế và khả thi vì doanh nghiệp sẽ sử dụng kết quả đó để thực hiện những bước tiếp theo như: hình thành chiến lược, mục tiêu chiến lược chiến thuật và cơ chế kiểm soát chiến lược cụ thể. Chiến lược hiệu quả là những chiến lược tận dụng được các co hội bên ngoài và sức mạnh bên trong cũng như vô hiệu hóa được những nguy cơ bên ngoài và hạn chế hoặc vượt qua được những yếu kém của bản thân doanh nghiệp. Mục tiêu chiến lược (là những mục tiêu chính mà doanh nghiệp muốn theo đuổi thông qua việc thực hiện một loạt các hành động cụ thể) phải đo lường được, mang tính khả thi và có thời hạn thực hiện. Các chiến thuật thường được thiết lập theo hướng tập trung cụ thể hóa chi tiết việc thực hiện các kế hoạch chi tiết như thế nào. Cơ chế kiểm soát chiến lược là cơ chế quản lý và tổ chức chiến lược mà doanh nghiệp sử dụng để kiểm soát bất cứ bước nào trong 5 bước hình thành chiến lược nhằm đảm bảo quá trình thực hiện đi theo đúng định hướng mục tiêu chiến lược.
2.4.3. Những kết quả đạt được.
Là một trong số ít các công ty chứng khoán có lợi nhuận sau thuế dương vào năm 2008.
Tất cả những hoạt động đầu tư nói trên của TSC đã được đền đáp xứng đáng. Doanh thu của công ty liên tục tăng lên qua các năm, trung bình khoảng 200% - 300% / năm. Đặc biệt tăng mạnh vào năm 2006 và 2007, tăng hơn 4 lần. Tỷ lệ lợi nhuận / vốn chủ sở hữu luôn duy trì ở mức trên 25%. Mặc dù năm 2008 TTCK sụt giảm mạnh, có đến 70% số lượng CTCK làm ăn thua lỗ, song TSC vẫn thu được một khoản lãi hơn 2 tỷ đồng.
Bảng 2.22: doanh thu và lợi nhuận sau thuế của một số CTCK
giai đoạn 2007 - 2008
Đơn vị tính: tỷ đồng
CTCK
Doanh thu
Lợi nhuận sau thuế
2007
2008
2007
2008
SSI
1243.83
1135.99
864.176
250.517
TP. Hồ Chí Minh (HSC)
224.706
231.374
132.145
23.543
Habubank
425.965
107.696
104.261
10.54
Nhấp và gọi
0.523
26.469
-1.32
7.107
TSC
208.750
84.391
134.16
2.673
BSC
306.146
478.923
114.32
-554.088
BVSC
374.929
162.841
214.591
-452.401
Kim Long (KLS)
193.898
302.017
126.249
-347.443
An Bình (ABS)
137.111
103.838
59.985
-94.417
VNDirect
323.383
204.781
95.877
-86.167
Euro Capital
0
17.373
0
-58.219
Gia Quyền (EPS)
10.846
13.227
0.111
-35.489
Đông Dương (DDS)
0.102
1.810
-3.383
-13.397
Nguồn: Tổng hợp từ HASTC, cập nhật hết ngày 3/4/2009
Biểu đồ 2.23: Lợi nhuận sau thuế của một số CTCK năm 2008
Qua biểu đồ có thể thấy, phần nhiều các công ty làm ăn thua lỗ, mức thua lỗ cũng khá lớn. Còn các công ty làm ăn có lãi thì quá ít và mức lãi cũng quá nhỏ. Xứng đáng là một trong số những CTCK dẫn đầu thị trường, năm 2008, TSC đã thu được khoản lãi hơn 2 tỷ đồng, vượt qua cả các CTCK lớn như BSC hay BVSC và được hội sở hữu trí tuệ Việt Nam và mạng thương hiệu Việt trao tặng danh hiệu “thương hiệu cạnh tranh” . Điều này đã cho thấy đường lối, chiến lược phát triển đúng đắn và khoa học của TSC. Thị phần của công ty ngày càng được mở rộng. Sau hơn 8 năm hoạt động. TSC đã thực sự khẳng định được thương hiệu, vị thế, chỗ đứng của mình trên thị trường.
Số lượng tài khoản và giá trị giao dịch liên tục tăng lên qua các năm.
TSC luôn nằm trong tốp những CTCK dẫn đầu thị trường về thị phần môi giới. Đặc biệt, năm 2008 thị trường ảm đạm nhưng TSC đã vinh dự được nhận bằng khen là một trong năm công ty chứng khoán tiêu biểu có thị phần môi giới lớn nhất của trung tâm.
Qua 8 năm hoạt động, số lượng tài khoản của khách hàng mở tại TSC không ngừng tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Công ty không chỉ giữ chân được khách hàng mà còn ngày càng thu hút thêm được khách hàng mới, tạo niềm tin đối với nhà đầu tư và nâng cao uy tín, vị thế của công ty trên thị trường.
Bảng 2.24: Tốc độ tăng số lượng tài khoản và giá trị giao dịch tại TSC
giai đoạn 2003 - 2008
Năm
Tài khoản
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Số lượng
360
960
1930
3593
12238
14200
Giá trị giao dịch (triệu đồng)
10129
13574
17358
19786
23682
24937
Nguồn: công ty chứng khoán Thăng Long.
Qua bảng trên ta thấy, trung bình mỗi năm số lượng tài khoản của TSC tăng khoảng hơn 120%. Đặc biệt là vào năm 2007, số lượng tài khoản của TSC tăng 240.61% so với năm 2006 và tăng gấp gần 34 lần so với năm 2003. Sang năm 2008, thị trường giảm sút, số lượng nhà đầu tư tham gia giao dịch trên thị trường cũng sụt giảm đáng kể và được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng chậm của tổng số tài khoản trên thị trường. Tính đến đầu tháng 12/2008 trên thị trường có khoảng 510000 tài khoản được mở tại các CTCK, tăng 150000 tài khoản so với năm 2007. Cơ cấu tài khoản vẫn không có thay đổi nhiều so với các năm trước với tỷ trọng nhà đầu tư cá nhân trong nước chiếm đa số 97%, trong khi nhà đầu tư cá nhân và tổ chức nước ngoài chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn trên 2%. Nhưng số lượng tài khoản của công ty vẫn tăng mặc dù tăng chậm. Công ty có khoảng 14200 tài khoản trong đó có 1200 tài khoản cá nhân và 200 tài khoản tổ chức, tăng 16.03% so với năm 2007. Cùng với sự gia tăng của số lượng tài khoản là sự tăng lên của giá trị giao dịch. Con số này vào năm 2008 là 24937 triệu đồng, tăng gấp 2.5 lần so với năm 2003. Điều này cho thấy TSC đã có chiến lược đúng đắn và hiệu quả trong việc thu hút khách hàng.
Các loại hình sản phẩm – dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú và chất lượng cải thiện đáng kể.
Đây chính là một trong số các vũ khí cạnh tranh của TSC trên thị trường. Với hệ thống máy móc, thiết bị hiện đại và đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp như đã nói ở trên đã góp phần làm tăng chất lượng dịch vụ của công ty. Thêm vào đó, TSC còn cung cấp thêm các loại hình dịch vụ tiện ích, đa dạng, phong phú, phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, dịch vụ chăm sóc khách hàng nhiệt tình, cẩn thận ... Hiện nay, TSC đang nghiên cứu để đưa thêm dịch vụ quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng. Đây thực sự là một bước đi đúng đắn trong tình hình thị trường bất ổn như hiện nay. Bởi nó sẽ giúp các nhà đầu tư yên tâm hơn khi tham gia vào thị trường. Tất cả điều này đã giúp TSC thu hút được một lượng khách hàng lớn, trong đó có cả nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức.
Cơ sở vật chất, nền tảng công nghệ hiện đại.
TSC không ngừng mở rộng mạng lưới hoạt động và nâng cấp nền tảng công nghệ của mình. Các cơ sở đều được trang bị đầy đủ máy tính, bảng điện tử và các thiết bị phụ trợ khác. Điều này đã giúp cho việc cập nhật thông tin một cách nhanh nhất và chính xác nhất, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí. TSC đã tự mình phát triển được một phần mềm mới -TSC FrontOffice, phần mềm này đã sử dụng triệt để các message trả về từ hệ thống giao dịch của Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM ngoài việc sử dụng cho việc tra cứu kết quả khớp lệnh, TSC còn sử dụng các message này để phát hiện ra ngay lập tức các lỗi giao dịch xẩy ra trong giờ giao dịch và đưa ra cách sửa lỗi nhanh nhất. Từ đó, hỗ trợ tích cực cho các nhà đầu tư tham gia vào thị trường. Ngày 22/10/2007 TSC đã trở thành đơn vị thứ 8 đủ tiêu chuẩn tham gia vào đợt thử nghiệm nhập lệnh từ xa đầu tiên của sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Điều này đã nâng vị thế của TSC trên TTCK
2.4.4. Một số tồn tại và nguyên nhân
2.4.4.1. Một số tồn tại.
Cơ cấu vốn đầu tư chưa hợp lý.
Nguồn vốn đầu tư chủ yếu của TSC là huy động từ nguồn vốn góp ban đầu và một phần lợi nhuận giữ lại. Lượng vốn này thường không dồi dào nên kìm hãm hiệu quả của hoạt động đầu tư. Thêm vào đó, cơ cấu vốn đầu tư của TSC chưa thực sự hợp lý. Công ty lại quá chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ ( thường chiếm từ 50 – 70% tổng vốn đầu tư) mà thiếu sự chú ý tới nguồn nhân lực (chỉ chiếm khoảng 15% tổng vốn đầu tư) hay hoạt động marketing (chiếm khoảng dưới 10% tổng vốn đầu tư. Trên thực tế thì đây cũng là những yếu tố rất quan trọng, không nên coi nhẹ. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến doanh thu cũng như việc mở rộng thị phần của công ty.
Đầu tư cho nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cả về chất và lượng.
Nguồn nhân lực thực sự là một nguồn lực rất quan trọng nhưng lại chưa được sự quan tâm đúng mức của công ty. Như đã trình bày ở trên, tỷ lệ vốn đầu tư vào nguồn nhân lưc của TSC chỉ chiếm khoảng từ 10 – 20% tổng vốn đầu tư. Đây là một con số khá khiêm tốn. Hơn nữa, chất lượng đào tạo còn chưa cao do các hình thức đào tạo còn hạn chế, chưa đào tạo chuyên sâu cả về kiến thức lẫn kỹ năng thực tế. Thêm vào đó, công tác tuyển dụng và sa thải vẫn có một số bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của công ty trong từng thời kỳ.
Mặc dù lượng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ lớn nhưng lại chưa có sự đồng bộ.
TSC đã cho ứng dụng phần mềm mới vào nhập lệnh nhưng ta biết rằng, nếu có bất kỳ sự thay đổi nào dù là rất nhỏ về kỹ thuật hay phương thức trong giao dịch cũng sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý giao dịch tại công ty cũng như uy tín của công ty. Có thể lấy ví dụ ngày 31/07/2007 bảng dữ liệu trực tuyến tại Công ty Chứng khoán Thăng Long bị “trắng trơn” trong 30 giây là do các cán bộ kỹ thuật của công ty cập nhật lại màn hình bảng giá sau khi phát hiện ra có sai sót trong việc hiển thị giá trị VN-Index từ kết quả khớp lệnh đợt 1. Sự cố này đã khiến cho nhiều nhà đầu tư rất bức xúc. Do đó, nếu đầu tư công nghệ thiếu đồng bộ sẽ phát sinh rất nhiều vấn đề về khả năng tích hợp giữa công ty chứng khoán với trung tâm giao dịch chứng khoán. Phần mềm công ty ứng dụng chưa thực sự được đưa vào sử dụng rộng rãi vì nó có xác suất rủi ro cao, khi áp dụng hay gặp trục trặc sẽ làm cho hoạt động bị gián đoạn.
Đầu tư cho hoạt động R&D, PR, marketing còn chưa tương xứng cả về chất lượng lẫn số lượng.
Hoạt động PR, marketing đóng vai trò quan trọng trong việc gây dựng hình ảnh của công ty. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn chưa được công ty quan tâm triệt để. Chi phí cho hoạt động này còn ít, chỉ chiếm trung bình khoảng 1% so với tổng doanh thu của công ty. Đây là một con số quá khiêm tốn so với các công ty lớn như Coca Cola là 20% và Sony là l0%. Thêm vào đó, chất lượng quảng cáo còn yếu do thiếu chuyên gia trong lĩnh vực này. Hình thức quảng cáo vẫn chủ yếu là xuất bản các tập catalogue, brochure với nội dung đơn điệu, không mang dấu ấn của quảng cáo cho thị trường hoạt động kinh doanh của công ty hay tổ chức những buổi trao đổi trực tiếp với các nhà đầu tư. Công ty cũng đã thiết lập trang web riêng của công ty nhưng nội dung của trang web con ít, sơ sài, chưa cung cấp được cụ thể và đầy đủ thông tin về công ty cũng như các sản phẩm dịch vụ của công ty như: biểu phí giao dịch, thị phần các nghiệp vụ … Mà đây lại là một trong những thông tin mà khách hàng quan tâm. Một hình thức PR, marketing nữa mà công ty rất ít sử dụng đó là tham gia các hoạt động từ thiện, ủng hộ, trao học bổng … Đây là một hình thức gây dựng hình ảnh khá hiệu quả. Tóm lại, đây thực sự là một hoạt động mà TSC cần quan tâm nhiều hơn trong thời gian tới.
2.4.4.2. Nguyên nhân.
do sự biến động của thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán đã hoạt động được gần 10 năm nhưng nó vẫn chưa thực sự đi vào quỹ đạo. Từ năm 2005 trở về trước, thị trường luôn thiếu vắng cả hàng hóa lẫn khách hàng, các giao dịch chỉ ở mức cầm chừng. Năm 2007, các công ty chứng khoán lớn trên thị trường Việt Nam đều đạt được lợi nhuận lớn như: Lợi nhuận sau thuế của SSI cán đích 864 tỷ, ACBS là 332 tỷ, BVSC 214 tỷ, CTCK Kim Long 126 tỷ… Bước sang năm 2008, sự sút giảm của thị trường đã khiến những khó khăn của công ty chứng khoán bộc lộ. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2008 của các công ty chứng khoán cho thấy, trong số những công ty đạt lãi lớn vừa kể trên thì chỉ có SSI hoàn thành 49,36% kế hoạch năm với lợi nhuận sau thuế đạt hơn 230 tỷ đồng, còn CTCK Kim Long chỉ đạt hơn 3,6 tỷ đồng, BVSC lỗ khoảng hơn 400 tỷ đồng và CTCK Hải Phòng lỗ 85 tỷ đồng. Một báo cáo của Hiệp hội chứng khoán Việt Nam mới đây đưa ra cũng cho thấy, có đến 70 – 80% trong tổng số hơn 100 CTCK hiện nay đang phải hoạt động cầm cự.
Sự biến động thất thường của TTCK thời gian qua đã khiến cho ngay cả các chuyên gia phân tích, tư vấn của các CTCK cũng khó có thể nhận định thị trường một cách chắc chắn được. Chính vì thế mà các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư cá nhân không dám mạo hiểm nên đã rút khỏi TTCK mà chuyển sang kênh đầu tư khác an toàn hơn. Lượng khách hàng sụt giảm chắc chắn sẽ kéo theo doanh thu giảm.
đội ngũ nhân sự trong một số bộ phận nghiệp vụ vẫn còn thiếu.
Trong một số bộ phận nghiệp vụ của TSC vẫn còn qua ít nhân viên, đặc biệt là các nhân viên giỏi chuyên môn nghiệp vụ như bộ phận tư vấn, marketing … Do đo, dẫn tới tình trạng một nhân viên phải kiêm nhiệm nhiều công việc cùng một lúc, gây ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của công việc chính. Dĩ nhiên, là sẽ ảnh hưởng phần nào đến hiệu quả chung của công ty.
Chưa có chiến lược, kế hoạch chuyển giao công nghệ
Kinh doanh chứng khoán thường đòi hỏi các công nghệ hiện đại, đặc biệt là các phần mềm công nghệ hỗ trợ giao dịch, tìm kiếm thông tin. Các công nghệ này đòi hỏi đội ngũ nhân sự vận hành phải có một trình độ nhất định. Nếu không được đào tạo trước thì sẽ rất dễ mắc sai sót. Mà trong kinh doanh chứng khoán chỉ cần một sai sót nhỏ cũng có thể gây ra thiệt hại to lơn. TSC cũng đã chú ý đầu tư cho công nghệ nhưng kế hoạch lựa chọn công nghệ còn chưa hoàn thiện làm cho công nghệ thiếu đồng bộ và việc vận hành còn phức tạp so với nhân viên của công ty.
Các quy trình thực hiện trong từng nghiệp vụ còn chưa hoàn thiện
Các quy trình thực hiện sẽ giúp cho công ty tránh được những thiếu sót, rủi ro có thể gặp phải trong quá trình phân tích, giao dịch, tư vấn hay tự doanh. Mặc dù trong một số nghiệp vụ như môi giới, bảo lãnh phát hành hay tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp của TSC đã có quy trình thực hiện nhưng nó vẫn chưa thực sự hoàn thiện. Bởi nó thiếu sự hỗ trợ tích cực giữa những nhân viên trong các bộ phận nghiệp vụ cũng như giữa các nhân viên trong từng bộ phận. Trong khi đó, nghiệp vụ tư vấn đầu tư còn chưa xây dựng được quy trình cụ thể. Mà đây là một dịch vụ cả các nhà đầu tư cá nhân lẫn các nhà đầu tư tổ chức đều quan tâm.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN THĂNG LONG.
3.1. Triển vọng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới.
- Tập trung đẩy mạnh phát triển thị trường cả về quy mô và chất lượng hoạt động để TTCK thật sự đóng vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu niêm yết đạt khoảng 40-50% GDP vào cuối năm 2010.
- Gắn việc phát triển TTCK với thúc đẩy chuyển đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần.
- Mở rộng phạm vi hoạt động của TTCK có tổ chức, từng bước thu hẹp TTCK tự do nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư.
- Phát triển các định chế tài chính trung gian cho TTCK Việt Nam. Tăng quy mô và phạm vi hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, dịch vụ của các CTCK; khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ điều kiện thành lập CTCK, khuyến khích các CTCK thành lập thêm các chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh ở các tỉnh, thành phố trong khắp cả nước;
- Tăng cung hàng hoá cho thị trường bằng việc nghiên cứu ban hành các chính sách cho phép chuyển công ty liên doanh thành công ty cổ phần; khuyến khích công ty cổ phần, công ty tư nhân, công ty liên doanh phát hành ra công chúng bằng việc ưu đãi thuế, ưu đãi cho vay thương mại, cho phép đăng ký phát hành khung, khuyến khích các công ty đầu tư mạo hiểm… Khuyến khích đưa thêm các loại cổ phiếu ưu đãi, quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp chuyển đổi, chứng chỉ quỹ đầu tư,… vào niêm yết. Nghiên cứu các chính sách ưu đãi đối với các quỹ đầu tư như ưu đãi thuế thu nhập tương tự như các nhà đầu tư cá nhân.
- Đẩy mạnh cầu chứng khoán trong và ngoài nước thông qua việc thu hút các nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường. Phát triển các nhà đầu tư có tổ chức tham gia thị trường và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Nghiên cứu ban hành các chính sách kích cầu như: phát triển chương trình bán cổ phiếu cho người lao động trong doanh nghiệp; nới lỏng các quy định hạn chế và có chính sách ưu đãi thuế cho các tổ chức tín dụng tham gia thị trường; thúc đẩy thành lập các quỹ đầu tư và công ty tư vấn đầu tư, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho các nhà đầu tư nhỏ; nới lỏng hạn chế đầu tư của nước ngoài; thành lập quỹ bình ổn thị trường,…
- Phát triển các công ty chứng khoán theo hướng nâng cấp quy mô vốn và mở rộng hoạt động nghiệp vụ của các công ty chứng khoán. Dự kiến đến năm 2010, sẽ nâng quy mô vốn tối thiểu của các công ty chứng khoán lên 20 tỷ đồng. Hình thành 4 đến 5 công ty chứng khoán có quy mô lớn, chuyên môn hoá hoạt động bảo lãnh phát hành. Các công ty còn lại chủ yếu chỉ hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư tài chính. Ban hành chính sách tiếp tục ưu đãi thuế cho ngành chứng khoán.
- Ngoài ra, sẽ có chính sách phát triển số lượng CTCK nhằm tạo sự cạnh tranh khuyến khích các CTCK liên doanh với nước ngoài, cho phép sáp nhập các CTCK, tiến tới thực hiện việc niêm yết cổ phiếu của CTCK.
3.2. Định hướng phát triển của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long.
Trong thời điểm hiện tại, các công ty chứng khoán đang hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam phải tìm kiếm cho mình cơ hội để phát triển và tăng trưởng trong dài hạn. Với một chiến lược kinh doanh ngắn hạn thì mức độ rủi ro là vô cùng lớn. Thị trường đang biến động khó lường, theo như đánh giá thì đây là quá trình thị trường đào thải những công ty làm ăn không hiệu quả, chất lượng hoạt động kém.
Xứng đáng là đàn anh trên thị trường, TSC vẫn giữ vững được vị thế của minh. Sở dĩ như vậy là do định hướng chiến lược phát triển của công ty trong từng thời kỳ kết hợp với đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp và hệ thống công nghệ hiện đại. Theo đó, mục tiêu chiến lược của TSC trong thời gian tới:
- Trở thành trung gian tài chính tin cậy trên thị trường chứng khoán đối với nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân, gia tăng thị phần hoạt động của các hoạt động. Trong bối cảnh như hiện nay thì năng lực cạnh tranh là một yếu tố sống còn. Do đó, mục tiêu của công ty là phải nâng cao năng lục cạnh tranh trên thị trường thông qua hoạt động đầu tư vào nguồn nhân lực, vào công nghệ …
- Liên kết, hợp tác với các tập đoàn tài chính lớn để đa dạng hóa nguồn vốn của công ty, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư.
- Phát triển bộ phận phân tích và tự doanh
- Tạo ra thương hiệu hàng đầu và lợi nhuận cao. Thương hiệu mạnh chính là nền tảng cho lợi nhuận cao. Chính xuất phát từ quan điểm này mà công ty sẽ không ngừng đầu tư để khẳng định thương hiệu của minh.
- Mở rộng mạng lưới ở các tỉnh miền trung, một vùng có nhiều tiềm năng phát triển và mức độ cạnh tranh còn thấp. thêm vào đó, việc mở thêm các phòng giao dịch hay đại lý nhận lệnh ở các trung tâm lơn như Hà Nội và Hồ Chí Minh cũng là một trong những chiến lược của công ty.
- Trở thành một trong những tổ chức tài chính hàng đầu tại Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng đầu tư và môi giới chứng khoán. Phấn đấu đến năm 2010 tăng vốn điều lệ của công ty lên 1000 tỷ đồng.
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long.
3.3.1. Đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư và điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý.
Tạo dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết bị .. tất cả đều phải cần có vốn. Do đó, vốn là một yếu tố tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Là một trong những công ty chứng khoán chiếm thị phân lớn nhưng nguồn vốn đầu tư chủ yếu của TSC vẫn được trích từ nguồn vốn tự có và lợi nhuận ròng. Do đó mà hoạt động đầu tư kém hiệu quả bởi nguồn vốn này thường hạn chế. Vì thế, TSC cần đa dạng hóa nguồn vốn. giải pháp này có thể được thực hiện thông qua việc đa dạng hóa phương thức huy động vốn. Hiện nay có khá nhiều hình thức huy động vốn mà TSC có thể áp dụng như:
- Đẩy mạnh việc sử dụng vốn tự có cho hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty, góp phần làm giảm chi phí sử dụng vốn.
- Có thể huy động một phần vốn từ cán bộ nhân viên của công ty thông qua việc phát hành thêm cổ phần mới. Điều này không chỉ làm tăng nguồn vốn của công ty mà còn gắn chặt lợi ích của nhân viên với lợi ích của công ty.
- Không chỉ huy động từ nội bộ công ty mà còn có thể huy động từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra bên ngoài, tăng vốn điều lệ của công ty …
Việc huy động vốn là rất khó khăn, do đó công ty cần có kế hoạch, biện pháp phân bổ, sử dụng các nguồn vốn này một cách hợp lý. Một cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ đem lại lợi nhuân cao. Theo đó, công ty không nên đầu tư quá nhiều vào cơ sở vật chất, khoa học công nghệ như hiện nay, mà nên dàn đều cho các hoạt động.
3.3.2. Đầu tư nâng cao chất lượng các sản phẩm - dịch vụ
Việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ là một biện pháp hữu hiệu để thu hút thêm khách hàng, mở rộng thị phần, tăng năng lực cạnh tranh. Theo đó, Các công ty cần chọn những sản phẩm có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ theo nhu cầu ngày càng đa dạng và nâng cao của xã hội.
Công ty cần quan tâm đến chiến lược thích ứng hóa sản phẩm dịch vụ nhằm thoả mãn đến mức cao nhất nhu cầu thị trường. Trong chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp còn phải tính đến việc phát triển các sản phẩm dịch vụ mới, phải xem xét thái độ đối với sản phẩm dịch vụ của khách hàng để kịp thời đưa ra các giải pháp cần thiết. TSC cũng cần quán triệt sâu sắc việc coi trọng chiến lược sản phẩm dịch vụ gắn với việc đổi mới sản phẩm dịch vụ, gắn với chiến lược xây dựng thương hiệu và các chiến lược dịch vụ chăm sóc khách hàng. Các sản phẩm dịch vụ phải đảm bảo thích nghi và đáp ứng nhu cầu thị trường cả về chất lượng lẫn giá cả. Có như vậy, nó mới có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
3.3.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua hoạt động đào tạo.
Để có được đội ngũ nhân viên đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường mở cửa, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
- Tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên hiện có trong công ty. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực sở trường. Bổ sung những cán bộ, nhân viên đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển, đồng thời thay thế những cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn, vi phạm pháp luật và đạo đức. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ hiện có mà chưa cần đến việc đào tạo, bồi dưỡng.
- Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của đội ngũ nhân viên với công ty bằng các chính sách như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho nhân viên kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích nhân viên có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của công ty. Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của đội ngũ nhân viên khi cần có sự điều chỉnh nhân sự trong nội bộ công ty. Biện pháp này sẽ giúp các công ty có thể dễ dàng điều chỉnh nhân sự khi có những biến động, giảm được chi phí để tuyển dụng hay thuyên chuyển nhân viên.
- Tiêu chuẩn hóa cán bộ, nhân viên trong công ty. Ở mỗi ngành nghề, vị trí công tác, cung bậc công việc đòi hỏi kiến thức, kỹ năng về chuyên môn khác nhau. Do đó tiêu chuẩn hóa cán bộ phải cụ thể hóa đối với từng ngành nghề, từng loại công việc và phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Khi xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, cần phải tham khảo các CTCK khác nhưng vẫn giữ được nét văn hóa kinh doanh riêng của TSC. Áp dụng cơ chế bổ sung và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lao động để có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo vi tính, am hiểu thị trường thế giới và thông lệ quốc tế.
- Xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ phù hợp với kế hoạch chung của công ty. Theo đó, nên phân cấp nhân viên theo trình độ nghiệp vụ để đào tạo. Lựa chọn hình thức đào tạo phù hợp. Có thể đào tạo trực tiếp tại nơi làm việc hoặc đào tạo chính quy ở trong nước hay nước ngoài. Tùy từng đối tượng và tùy từng điều kiện mà công ty nên quyết định lựa chọn hình thức nào cho phù hợp.
- Nâng cao chất lượng tuyển dụng từ cách thức tổ chức cho đến nội dung tuyển dụng. Có làm tốt công tác này từ đầu thì mới đảm bảo đội ngũ nhân sự chất lượng, đáp ứng tốt yêu cầu công việc sau này. Theo đó, công tác tổ chức tuyển dụng cần được tiến hành cẩn thận, tỉ mỉ, phải có sự giám sát chặt chẽ để tránh tình trạng lợi dụng mối quan hệ hay đi cửa sau. Điều này sẽ gây thiệt hại cho công ty sau nay.
3.3.4. Đầu tư cho cơ sở vật chất một cách đồng bộ, hiện đại hóa công nghệ thông tin và phát triển các phần mềm ứng dụng tiên tiến.
Tăng cường đầu tư ở đây không phải là tăng lượng VĐT mà là đầu tư có trọng điểm, có kế hoạch, tránh đầu tư tràn lan. Theo đó, công ty nên tập trung đầu tư vào những thiết bị, những bộ phận thật sự cần thiết, thực hiện tiết kiệm trong đầu tư.
- Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu lựa chọn công nghệ phù hợp với quy mô, trình độ của nhân viên. Nếu đầu tư cho công nghệ quá hiện đại mà không đầu tư cho đội ngũ nhân sự vận hành thì sẽ không phát huy được hiệu quả của công nghệ. Kéo theo sự thất thoát, lãng phí nguồn lực.
- Không ngừng nâng cấp và cải thiện các phần mềm công nghệ của công ty để đảm bảo độ an toàn, bảo mật thông tin cho khách hàng. Hơn nưa, đầu tư chứng khoán đòi hỏi phải theo dõi sự biến động của thị trường một cách thường xuyên và đưa ra các dự báo một cách chính xác. Nếu công nghệ cũ, lạc hậu thì sẽ không thể cập nhật thông tin chính xác được và do đó cung không thể dự báo một cách chính xác. Vì thế, việc nâng cấp công nghệ thường xuyên là thực sự cần thiết.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin và website của công ty. Để khách hàng biết đến tên tuổi của công ty, tham gia sử dụng các sản phẩm dịch vụ một cách linh hoạt.
3.3.5. Xây dựng hệ thống quy trình thực hiện đối với từng nghiệp vụ.
Với mỗi một nghiệp vụ sẽ có đặc điểm riêng. Do đó, cần xây dựng và chuẩn hóa quy trình tác nghiệp của từng nghiệp vụ bao gồm: quy trình môi giới, quy trình tư vấn, quy trình tự doanh hay quy trình kiểm soát rủi ro … Một quy trình hoàn thiện sẽ giúp cho công ty cũng như khách hàng có thể kiểm soát và hạn chế được những rủi ro khi tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán. Theo đó, cần chú ý một số điểm sau khi xây dựng các quy trình nghiệp vụ:
- Phải dựa trên một quy trình chuẩn đối với từng nghiệp vụ; từ đó có thể bổ sung thêm các bước nhỏ hơn để quy trình được rõ ràng hoặc lược bỏ bớt một số bước không cần thiết để tiết kiệm chi phí.
- Phải tạo ra được sự liên kết, hỗ trợ giữa các nghiệp vụ với nhau.
- Các quy trình trên giấy tờ chỉ là lý thuyết. Để nó trở thành hiện thực thì đòi hỏi phải có người vận hành. Đó chính là đội ngũ nhân sự tham gia vào các quy trình đó. Do đó, song song với việc xây dựng các quy trình là việc đào tạo đội ngũ nhân sự có trình độ và chuyên nghiệp để vân hành các quy trình này.
- Thị trường luôn luôn biến động nên không có một quy trình hoàn hảo với mọi thời kỳ. Chính vì thế, Phải thường xuyên cập nhật và điều chỉnh các quy trình này cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường.
3.3.6. Phát triển, mở rộng mạng lưới kinh doanh.
Một mạng lưới kinh doanh rộng sẽ góp phần tăng thị phần, từ đó gia tăng lợi nhuận của công ty và cũng tạo ra năng lực cạnh tranh cho công ty. Do đó, mở rộng các mạng lưới kinh doanh là cần thiết. Tuy nhiên không phải phát triển, mở rộng một cách bừa bãi mà phải dựa vào điều kiện thực tế của công ty, cũng như phải nghiên cứu tình hình thị trường trong từng giai đoạn và đặc biệt là phải có chiến lược cụ thể phù hợp với mục tiêu và định hướng dài hạn của công ty. Theo đó cần chú ý một số vấn đề:
- Việc mở thêm các chi nhánh, phòng giao dịch hay đại lý nhận lệnh phải được đầu tư về vật chất tiền bạc và nhân lực tương xứng với mục tiêu mà công ty đặt ra. Các chi nhánh phải liên kết với nhau thành một hệ thống thống nhất, chặt chẽ, bền vững để không bị phá vỡ bởi bất kỳ xung lực nào từ môi trường bên ngoài.
- Việc mở rộng mạng lưới kinh doanh là nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Do đó, trước khi mở thêm một chi nhánh, phòng giao dịch hay đại lý nhận lệnh ở một nơi nào đó thì cần phải tìm hiểu, phân tích toàn diện các yếu tố nội tại của công ty, các yếu tố thuộc về thị trường, khách hàng và các yếu tố khác thuộc môi trường vĩ mô của kinh doanh.
- Phải thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động của các chi nhánh để có sự quản lý và điều chỉnh hệ thống một cách có căn cứ và kịp thời. Tránh để tình trạng một chi nhánh nào đó hoạt động kém hiệu quả gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của công ty, làm giảm năng lực cạnh tranh của công ty.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo cho các chi nhánh mới mở để thu hút được sự chú ý của khách hàng và cũng để nâng cao vị thế của công ty trên thị trường.
3.3.7. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên đối vời bất cứ doanh nghiệp nào trong quá trình kinh doanh. Một doanh nghiệp không thể khai thác hết tiềm năng của mình cũng như không thoả mãn tất được nhu cầu của khách hàng nếu không có được đầy đủ các thông tin chính xác về thị trường.
Thông qua việc nghiên cứu thị trường, TSC sẽ nắm được những thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu hàng hóa và dịch vụ mà công ty đang kính doanh hoặc sẽ kinh doanh để đề ra những phương án chiến lược và biện pháp cụ thể được thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, phân tích so sánh số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó đề ra các biện pháp thích hợp đối với công ty. Để công tác nghiên cứu thị trường đạt hiệu quả cao, TSC nên kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường.
Công ty nên tiến hành nghiên cứu thị trường theo trình tự sau: xác định mục tiêu nghiên cứu thị trường, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu thị trường, xác định và lựa chọn phương pháp nghiên cứu, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, thực hiện, điều chỉnh kế hoạch và viết báo cáo.
3.3.8. Xây dựng chiến lược xúc tiến hỗn hợp trong hoạt động Marketing.
Hoạt động xúc tiến hỗn hợp trong marketing là sự kết hợp tổng hợp các hoạt động sau: quảng cáo, khuyến mại, chào hàng hay bán hàng cá nhân và tuyên truyền. Toàn bộ các hoạt động xúc tiến trên phải được phối hợp để đạt tác dụng truyền thông tối đa tới người tiêu dùng. Theo đó, TSC cần:
- Trước hết, cần xác định được đâu là khách hàng mục tiêu: có thể là những khách hàng tiềm năng của sản phẩm của Công ty, những người đang sử dụng sản phẩm dịch vụ của công ty, những người quyết định mua hoặc có ảnh hưởng đến quyết định mua sản phẩm dịch vụ. Khách hàng mục tiêu có ảnh hưởng quan trọng đến các quyết định truyền thống của Công ty như: Nói cái gì? Nói như thế nào? Nói khi nào? Nói ở đâu và Nói với ai?
- thứ hai, quyết định mục tiêu, ngân sách, hình thức, nội dung và phương tiện quảng cáo:
Mục tiêu quảng cáo phải xuất phát từ các mục tiêu trong kinh doanh của Công ty và các mục tiêu marketing. Ví dụ: mục tiêu doanh số, lợi nhuận, thị phần, các mục tiêu này nâng cao uy tín của Công ty, của sản phẩm…
Ngân sách quảng cáo: phải dựa vào mục tiêu, khả năng của công ty và mức chi của các công ty cạnh tranh cùng cỡ trên thị trường.
Về hình thức phải sinh động, lôi cuốn người xem nhưng vẫn đảm bảo rõ ràng. Nội dung thì phải đáng tin cậy và tạo nên sự tin tưởng hoàn toàn nơi khách hàng. Còn phương tiện quảng cáo thì tùy theo khách hàng và loại sản phẩm kinh doanh của công ty mà có thể chọn phương tiện quảng cáo cho phù hợp như: báo, đài, Tivi, phim ảnh quảng cáo, Quảng cáo bằng thư gửi qua bưu điện, quảng cáo bằng Pano, áp phich vv...
- thứ ba, tổ chức thực hiện các chương trình khuyến mại nhằm kích thích thị trường đáp ứng nhanh và mạnh hơn đối với sản phẩm và dịch vụ của Công ty. Chẳng hạn: tặng quà hay giảm giá sản phẩm dịch vụ …
- thứ tư, thực hiện công tác tuyên truyền hay chính là PR: đôi khi có tác dụng mạnh, đạt hiệu quả cao nhất lại tón kém ít hơn quảng cáo. Để tuyên truyền cho Công ty có thể mời các nhà chính trị lỗi lạc, các nhà nghệ thuật nổi tiếng đến thăm Công ty mình. Cũng có thể tổ chức những bữa tiệc lớn, mời phóng viên báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình và các quan chức đến dự nhân ngành thành lập Công ty, ngày đón nhận huân chương lao động v.v… hoặc tham gia các chương trình tài trợ cho các phong trào văn nghệ, thể thao, cấp học bổng cho sinh viên các trường Đại học, xây nhà tình nghĩa, nhận nuôi dưỡng các bà mẹ anh hùng suốt đời.v..v.
3.4. Một số đề xuất kiến nghị.
3.4.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể, song thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang trong quá trình hình thành và phát triển, nhiều yếu tố mới được phát sinh. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật chứng khoán là cần thiết và xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, trong thời gian qua, quá trình thực hiện Luật đã gặp phải một số vướng mắc do quy định chưa đầy đủ và phù hợp. Do đó, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo hiệu lực của công tác quản lý và đảm bảo thị trường hoạt động một cách có tổ chức, an toàn, hiệu quả. Đồng thời, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Thứ hai, sau khi Việt Nam ra nhập WTO, nhiều vấn đề phấp lý nảy sinh cần phải điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu hội nhập nhưng vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân tham gia thị trường.
Xuất phát từ một số lý do nêu trên, việc hoàn thiện các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán là rất cần thiết. Theo đó, việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nên chú ý một số nội dung như:
Một là, mở rộng phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng. Bổ sung hoạt động phát hành chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng; việc chào bán và niêm yết chứng khoán của các pháp nhân nước ngoài trên TTCK Việt Nam; việc chào bán các chứng khoán phái sinh và thị trường giao dịch cho các loại chứng khoán này cùng các sản phẩm quỹ đầu tư mới.
Hai là, thống nhất sử dụng khái niệm “sở giao dịch chứng khoán” đối với TTCK tập trung cho phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện trong việc mở rộng hợp tác quốc tế về TTCK, đồng thời phù hợp với tình hình thực tiễn của thị trường hiện nay, khi trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều đã được chuyển đổi thành mô hình sở giao dịch chứng khoán..
Ba là, bổ sung thêm một số quy định để tạo cơ chế trong quản lý giám sát các công ty đại chúng, đặc biệt trong giám sát việc đảm bảo tư cách của công ty đại chúng, giám sát việc thực hiện và tuân thủ nghĩa vụ công ty đại chúng.
Bốn là, bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thanh toán giao dịch chứng khoán; quy định việc quản lý đăng ký, lưu ký, thực hiện quyền đối với chứng khoán của các doanh nghiệp Việt Nam phát hành và niêm yết tại các thị trường nước ngoài.
Năm là, bổ sung thêm các quy định về tổ chức, hoạt động của các CTCK, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức lưu ký, người hành nghề chứng khoán.
Sáu là, sửa đổi một số quy định về mức xử phạt và các hành vi vi phạm để đảm bảo tính khả thi của pháp luật và phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan về xử lý vi phạm mới được sửa đổi, bổ sung.
3.4.2. Từng bước phát triển các công cụ phái sinh, phát triển thị trường trái phiếu chuyên biệt.
Càng có nhiều loại chứng khoán thì khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư càng dễ dàng, sự lựa chọn không hạn chế nếu công ty, nhà đầu tư nào có đủ khả năng về mặt tài chính.
Như đã nêu ở trên thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh có những đặc tính cực kỳ hấp dẫn. Nhưng thị trường Việt Nam chưa thấy xuất hiện. Để chuẩn bị cho sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh chính phủ cần nghiên cứu, điều chỉnh để thị trường chứng khoán Việt Nam chấp nhận được loại chứng khoán này.
Đồng thời cũng nên tạo ra một thị trường trái phiếu chuyên biệt đảm bảo cho việc đầu tư dễ dàng hơn. Nhà đầu tư cũng như chuyên viên chứng khoán nhìn thấy được sự giao dịch dễ dàng, mở rộng danh mục đầu tư ra các công cụ chứng khoán khác, giảm thiểu rủi ro hệ thống.
Ngoài ra, phải quản lý thị trường OTC để tránh sự hoạt động không kiểm soát như hiện nay gây ra những tác động xấu đến thị trường.
Tóm lại những kiến nghị đưa ra là đều nhằm mục tiêu ổn định thị trường chứng khoán trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn thông qua việc tác động vào nhà đầu tư, vào trực tiếp thị trường, các công ty chứng khoán.
3.4.3. Chính phủ, bộ tài chính không nên can thiệp quá sâu vào thị trường chứng khoán và hoạt động của công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán là các pháp nhân có năng lực tài chính tiến hành kinh doanh một cách độc lập. Họ có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh của họ độc lập. Họ chịu sự điều chỉnh của cơ chế thị trường và quy luật giá trị. Vì thế không cần có sự can thiệp sâu, quá cụ thể vào hoạt động của công ty từ phía chính phủ.
Trong khoảng đầu năm nay chính phủ đã ban hành quy định buộc các công ty chứng khoán hạn chế bán chứng khoán trong danh mục mà họ nắm giữ ra ngoài thị trường, để đảm bảo thị trường không thể giảm sâu hơn nữa. Chính vì thế làm cho rất nhiều công ty cảm thấy bất ổn. Những chính sách can thiệp của chính phủ đang làm thị trường có những diễn biến phức tạp và khó đoán hơn.
Việc có bàn tay can thiệp của nhà nước vào thị trường chỉ làm cho thị trường biến động lớn hơn. Mà việc đưa ra những dự kiến về việc sẽ có biện pháp gì để giải quyết vấn đề hiện nay trong thời gian tới. Nhưng lại không thấy được một hành động cụ thể nào cả chỉ làm cho nhà đầu tư, những công ty chứng khoán mất lòng tin vào nhà nước.
Nhà nước nên hành động chứ không phải là dùng lời nói không, có hành động tích cực mà có hiệu quả thì đó mới là biện pháp hữu hiệu.
3.4.4. Cho phép tiếp tục triển khai cho vay kinh doanh chứng khoán đối với các ngân hàng thương mại.
Mới đây siết chặt chỉ thị 03/2007/CT-NHNN về kiểm soát, quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư và kinh doanh chứng khoán đối với ngân hàng thương mại, làm cho ngân hàng định trệ hoạt động. Nhà đầu tư thiếu tiền để đầu tư. Nó lại tác động gián tiếp đến hoạt động tự doanh thông qua việc thị trường giảm số lượng giao dịch, giá trị giao dịch giảm, chỉ số VN-index giảm.
Chỉ thị này cũng làm cho hoạt động Repo có cơ hội nhưng tác động của nó đối với mảng đầu tư lại lớn hơn nhiều vì thu lợi từ đầu tư nhiều hơn rất nhiều so với việc thu phí từ hoạt động Repo. Tại sao? Có một điều có thể trả lời cho lập luận này đó là do số lượng nhà đầu tư có nhu cầu Repo trên thị trường ít, bị cạnh tranh gay gắt. Kiếm được khách hàng với số lượng lớn là rất khó khăn, trong khi nếu thị trường ổn định thì ngoài khoản thu từ đầu tư còn thêm khoản thu từ hoạt động Repo.
Việc nới nỏng chỉ thị này có tác động ngay trong ngắn hạn nhằm cứu thị trường còn có tác động trong lâu dài.
KẾT LUẬN
Qua ba chương, bài viết đã làm rõ được một số lý luận về năng lực cạnh tranh và hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán, cũng như thực trạng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty.
TSC thực sự đã chứng tỏ được bản lĩnh của mình trên thị trường. Mặc dù thị trường chứng khoán hiện nay có nhiều biến động nhưng công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long vẫn giữ vững được vị thế, thương hiệu của mình. Điều này cho thấy chiến lược đầu tư đúng đắn cũng như năng lực cạnh tranh của công ty.
Qua bài viết này và thời gian thực tập tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long, em đã học hỏi và tích lũy thêm được một số kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng như các hoạt động tại công ty chứng khoán.
Được sự giúp đỡ tận tình của Ths. Phan Thu Hiền và các anh chị làm việc tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long, em đã cố gắng hoàn thành bài viết này. Mặc dù vẫn còn vài chỗ thiếu sót nhưng em rất mong nhận được sự ủng hộ của quý thầy cô và các ban.
Em xin chân thành cảm ơn !
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ủy ban chứng khoán Nhà nước, trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán, TS. Đào Lê Minh (2002), giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trường đại học Kinh tế Quốc dân, khoa đầu tư, TS. Phạm Văn Hùng (2008), giáo trình thị trường vốn, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
Học viện tài chính, PGS.TS Nguyễn Thị Mùi (2006), kinh doanh chứng khoán, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Ủy ban chứng khoán Nhà nước, báo cáo tổng kết thị trường chứng khoán Việt Nam 6 tháng đầu năm 2008.
Luật chứng khoán năm 2006
Ban pháp chế - ủy ban chứng khoán nhà nước, “Sửa đổi, bổ sung luật chứng khoán. Những vấn đề đặt ra và thời gian thực hiện”, tạp chí chứng khoán Việt Nam, số 1 + 2, tháng 1 + 2 năm 2009, trang 28 – 30.
Báo cáo tài chính của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long.
Website:
www.thanglongsc.com.vn
www.ssc.gov.vn
www.sanotc.com
www.hastc.org.vn
www.thongtindubao.gov.vn
www.vir.com.vn
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21711.doc