Tóm lại, nhờ có chính sách đổi mới mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, trong 18 năm qua ngành Dầu khí đã thu hút được nhiều công ty dầu Quốc tế đầu tư vào thăm dò khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển Ngành Dầu khí trong khi nguồn vốn trong nước không đủ để đầu tư. Nguồn vốn ODA của chính phủ các nước cũng đã giúp cho việc hoạch định chính sách, xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học, nghiên cứu qui hoạch phát triển khí tổng thể và một số dự án lớn khác của ngành. Những thành tựu to lớn trong thăm dò và khai thác dầu khí vừa tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo của Ngành vừa vạch ra định hướng phát triển cho một số ngành khác.
Thời gian gần đây, nhịp độ đầu tư nước ngoài vào ngành Dầu khí Việt Nam có dấu hiệu tăng trưởng trở lại do giá dầu thô tương đối. Tuy nhiên mức độ đầu tư còn chưa đạt đỉnh của những năm 1990 – 1993 và còn chứa nhiều yếu tố bất ổn, nhất là trong lĩnh vực Tìm kiếm - thăm dò - khai thác, số lượng hợp đồng ký kết hàng năm còn ít và không đều. Điều này có thể dẫn tới sự thiếu hụt vốn đặc biệt cho khâu tìm kiếm, thăm dò dầu khí và sẽ ảnh hưởng đến việc gia tăng trữ lượng dầu khí, đảm bảo duy trì và gia tăng sản lượng khai thác dầu khí của Ngành Dầu khí, nhất là giai đoạn sau năm 2010. Do đó ta phải nhìn nhận một cách khách quan những vấn đề tồn tại đó là thủ tục hành chính còn quan liêu, phức tạp, hệ thống luật pháp chưa được đồng bộ hoàn thiện, các nguồn chính sách kinh tế chưa thông thoáng là những rào cản đối với việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài phát triển ngành Dầu khí thời gian qua.
Để đạt được những mục tiêu đặt ra trong thời gian tới cần có những giải pháp hữu hiệu khắc phục triệt để những tồn tại đó để tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài phát triển ngành Dầu khí ngày càng vững mạnh. Trong đó yếu tố quan trọng nhất vẫn là các điều kiện kinh tế của hợp đồng sao cho mềm dẻo, đơn giản, tránh tình trạng phức tạp, không ổn định hoặc khác thường với thông lệ quốc tế. Mặt khác PetroVietnam cũng cần đầu tư trước cho nghiên cứu sâu và cơ bản về mặt địa chất nhằm chủ động có nhiều số liệu, nhiều thông tin chính xác, đủ tin cậy và hấp dẫn của lô (diện tích) để đưa ra đấu thầu cũng như lựa chọn đầu tư. Nguồn vốn cho nghiên cứu được trích theo tỉ lệ % từ tổng đầu tư cho hoạt động TKTD, có thể từ 2 – 3 %. Bên cạnh đó cũng phải tăng cường hơn nữa việc đánh giá tiềm năng trữ lượng cũng như kết quả công tác TK – TD – KT theo một phân cấp thống nhất và một hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ, thuận lợi cho việc cập nhật tài liệu hàng năm, từ đó xây dựng quy hoạch phát triển, đầu tư TK – TD – KT cho từng thời kì cụ thể kể cả về quy mô, mức độ, tiến độ và giải pháp công nghệ.
Đứng trước chặng đường 30 năm hình thành và phát triển của ngành Dầu khí nói chung, 18 năm thu hút Đầu tư nước ngoài nói riêng, chúng ta không khỏi xúc động và tự hào, bởi tất cả những gì đạt được thực sự là rất lớn. Từ ngày ban đầu còn chập chững từng bước đi một, nay ngành Dầu khí đã là một ngành kinh tế mũi nhọn hàng đầu, đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Chúng ta hi vọng và tin tưởng trong tương lai sẽ ngày càng có được những kết quả to lớn hơn nữa trong lĩnh vực Tìm kiếm - thăm dò - khai thác Dầu khí nói riêng, trong sự phát triển của ngành Dầu khí cũng như sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung, đưa Việt Nam vững bước tiến vào hội nhập kinh tế thế giới.
106 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư nước ngoài vào Tìm kiếm - Thăm dò - khai thác Dầu khí tại Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đoạn 1988 – 2004
(Đơn vị: Triệu USD)
NĂM
Ngân Sách
được MC duyệt
Chi tiêu
Thực tế
Chi phí
Chấp nhận
Chi phí loại
1988
4.5
4.67
4.04
0.63
1989
42.53
34.96
34.77
0.19
1990
125.36
99.67
99.44
0.23
1991
162.27
122.08
121.82
0.26
1992
106.87
165.64
163.41
2.23
1993
443.70
349.31
346.91
2.40
1994
598.93
507.53
503.34
4.19
1995
518.37
429.19
424.49
4.70
1996
533.05
457.98
452.92
5.06
1997
434.09
320.47
316.07
4.40
1998
458.89
339.69
334.01
5.68
1999
333.75
325.63
320.68
4.95
2000
541.05
531.75
516.89
3.94
2001
545.54
425.15
460.28
5.49
2002
625.24
604.85
628.34
5.61
2003
643.25
612.45
615.38
4.92
2004
712.08
762.65
751.94
6.19
Tổng
6,829.47
6,075.67
6094.73
70.5
(Nguồn: PetroVietnam)
Việc quản lý vật tư tài sản thuộc Hợp đồng được các Nhà thầu thực hiện tốt và báo cáo rõ ràng trong từng đợt kiểm kê, có sự chứng kiến của phía PetroVietnam. Việc chuyển giao tài sản khi kết thúc Hợp đồng thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ.
Thực hiện quy định đấu thầu.
Nhìn chung, Hợp đồng Dầu khí của PetroVietnam quy định thể thức đấu thầu khá đơn giản. Đây là yếu tố thuận lợi để Nhà thầu chủ động trong điều hành, song cũng là một khó khăn đối với nước chủ nhà trong việc giám sát, đặc biệt là khó vận dụng để thúc đẩy phát triển dịch vụ địa phương.
Các bước gọi thầu và kiến nghị trao thầu được các Nhà thầu tuyệt đối tôn trọng. Trong đa số các trường hợp việc xem xét và kiến nghị trao thầu là hợp lý, bởi vì trong giai đoạn tìm kiếm thăm dò mục đích tiết kiệm chi phí là chung cho cả Nhà thầu và nước chủ nhà.
Trong quá trình thực hiện hoạt động của Nhà thầu, chưa có dấu hiệu gian lận thương mại hoặc bất tuân thủ thể thức quy định tại Hợp đồng.
Tuy nhiên, do quy định quá sơ sài tại Hợp đồng, việc vận dụng để ưu tiên dịch vụ địa phương là rất khó… Vì vậy, trong một vài trường hợp ta ép Nhà thầu sử dụng dịch vụ địa phương đã tạo nên phản ứng không thỏa mãn của phía Nhà thầu.
Dịch vụ địa phương hiện đã đạt được mức gần 20% so với tổng số chi phí dầu khí và cũng cần ghi nhận ý thức hợp tác tốt của một số Nhà thầu trong việc giúp đỡ doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam phát triển và mở rộng ra nước ngoài.
e). Vấn đề lao động.
Do đặc thù là các Hợp đồng Chia Sản phẩm không tạo nên tư cách pháp nhân Việt Nam, trong những năm đầu, hệ thống luật pháp điều chỉnh lĩnh vực lao động chưa có, thị trường lao động Việt Nam chưa hình thành ổn định, việc tuyển dụng và quản lý lao động Việt Nam làm thuê tại các Nhà thầu dầu khí được giao cho các công ty thành viên của Petrovietnam (PVSC, PVEP). Số lượng lao động này có năm (cao điểm) đã lên tới hàng mấy trăm người (chưa kể số lao động do các đơn vị ngoài ngành Dầu khí quản lý), bao gồm: nhân viên kỹ thuật, hành chính quản lý, kinh tế, tài chính kế toán… (xem Bảng dưới đây).
Bảng 21: Lực lượng lao động làm việc tại các Nhà thầu Dầu khí
(Nguồn: PetroVietnam)
Năm
Tổng số
Lao
động
Số LĐ
Nữ
Trình độ
Nhóm chức danh đảm nhận
Đại học trở lên
Dưới đại học
Nhóm nghiệp vụ
Nhóm kỹ thuật
Nhóm quản lý
Số
%
Số
%
Số
%
Số
%
Số
%
1989
24
6
10
42
14
58
24
100
1990
82
27
20
24
62
76
81
98
1
2
1991
121
36
41
34
80
66
119
98
2
2
1992
182
47
51
28
131
72
177
97
5
3
1993
320
127
209
65
111
35
271
85
47
15
2
1994
328
128
214
65
114
35
308
96
20
4
2
1995
416
182
286
69
130
31
362
87
51
12
3
1
1996
538
222
355
66
183
34
453
84
82
15
3
1
1997
330
142
243
87
87
26
225
68
102
31
3
1
1998
300
140
240
80
60
20
194
65
133
44
3
1
1999
240
112
203
84
37
17
170
71
67
28
3
1
2000
250
115
188
75
62
25
166
66
80
32
4
2
2001
350
125
226
65
124
35
268
77
76
22
6
1
2002
426
254
333
78
93
22
356
84
65
15
5
1
2003
551
268
359
65
192
35
412
75
132
24
7
1
2004
594
276
475
80
119
20
459
77
129
22
6
1
Ghi chú:
Nhóm nghiệp vụ : Gồm các chức danh hành chính, thư ký, kế toán, cung ứng …
Nhóm kỹ thuật : Gồm các chức danh địa chất, địa vật lý, khoan, công nghệ mỏ …
Nhóm quản lý: Gồm các chức danh từ Phó phòng (Deputy Manager) trở lên.
Các Nhà thầu hầu như đều áp dụng chế độ đào tạo đối với lao động địa phương song chưa thực tích cực và đào tạo chuyên sâu vì họ cho rằng các nhân viên đó chưa thực là nhân viên của họ.
Gần đây, với việc luật pháp Việt Nam cho phép các Nhà thầu trực tiếp tuyển dụng lao động địa phương, việc đào tạo nhân viên địa phương đã được đẩy lên ở mức cao hơn. Mức lương của lao động địa phương cũng được tăng dần theo xu thế phát triển của nền kinh tế và sự ổn định của thị trường lao động tại Việt Nam.
Bảng 22: Mức lương của lao động địa phương trong ngành Dầu khí
(Nguồn: PetroVietnam)
Năm
Mức lương cơ bản trung bình (USD)
Mức lương cơ bản cao nhất (USD)
Mức lương cơ bản thấp nhất (USD)
1994
400
850
80
1995
415
867
110
1996
468
1160
90
1997
433
1080
70
1998
434
1080
150
1999
467
1080
200
2000
534
1080
200
2001
564
1103
206
2002
615
1103
212
2003
679
1120
218
2004
704
1120
223
Nhà thầu nhìn chung chấp hành nghiêm chỉnh Luật Lao động của Việt Nam, thậm chí còn áp dụng các khoản phúc lợi cao hơn so với quy định của Luật Lao động địa phương. Quan điểm sử dụng lao động địa phương để giảm chi phí đầu tư dầu khí là rõ ràng và được vận dụng rộng khắp trong các hoạt động TK - TD - KT Dầu khí tại Việt Nam.
f). Tuân thủ các quy định khác của Luật pháp Việt Nam.
Trong vòng 18 năm qua, hệ thống Luật pháp Việt Nam nói chung và Luật Đầu tư nước ngoài nói riêng được bổ sung và hoàn thiện rất nhiều. Đặc biệt là, PetroVietnam cũng đã ban hành một loạt các quy định, tiêu chuẩn nhằm hệ thống hoá quá trình quản lí thực hiện Hợp đồng Dầu khí của mình.
Các Nhà thầu đã không còn phải bỡ ngỡ với các quy định của nước chủ nhà. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, mặc dù không tránh khỏi có những khó khăn, bức xúc về việc áp dụng Luật, đặc bịêt là Luật Thuế, Luật Xuất nhập khẩu, Luật Đầu tư, Luật Dầu khí..., song đã không có sự cố trầm trọng nào xảy ra do Nhà thầu bất tuân thủ hoặc vi phạm Luật pháp nước chủ nhà, ngoại trừ một vài trường hợp nộp thuế chậm đã bị xử lí phạt.
1.3. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA ĐTNN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TK – TD – KT DẦU KHÍ.
1.3.1. Thành tựu, hạn chế.
1.3.1.1. Đầu tư nước ngoài giữ vị trí có thể nói là chủ lực trong sự phát triển của Ngành Dầu khí.
Như đã tổng kết ở trên, công tác tự đầu tư Tìm kiếm - thăm dò - khai thác Dầu khí là rất ít, không đáng kể. Tổng số dự án mà PetroVietnam tự đầu tư chỉ có 7, mà tất cả cũng chỉ là các dự án khoan với tổng số giếng khoan là 10. Mấy năm gần đây mới bắt đầu khai thác ở các mỏ Tiền Hải C và Đại Hùng. Việc tự đầu tư điều hành ở mức khiêm tốn như vậy có nhiều lí do, đó là do chúng ta vẫn còn nằm trong tình trạng thiếu vốn, còn kém năng lực điều hành...
Nếu không có Đầu tư nước ngoài, chúng ta đã không có sản lượng khai thác 200 triệu tấn dầu quy đổi như hiện nay. Nhờ có Đầu tư nước ngoài, các kỹ thuật công nghệ hiện đại cũng như kinh nghiệm làm việc đã được thâm nhập vào ngành Dầu khí Việt Nam, nâng bước cho ngành phát triển cho đến ngày nay.
1.3.1.2. Đã đạt được những kết quả to lớn nhưng vẫn chưa hoàn toàn như mong muốn.
Hoạt động đầu tư nước ngoài vào TK-TD dầu khí chủ yếu được các công ty dầu khí quốc tế tiến hành ở những vùng có triển vọng cao, ít rủi ro trong khi đầu tư vào khu vực nước sâu xa bờ, vùng chống lấn, tranh chấp… còn ít. Tổng diện tích các lô đã ký hợp đồng mới chiếm khoảng 1/3 diện tích thềm lục địa, 2/3 diện tích còn lại nằm ở vùng nước sâu, xa bờ, độ rủi ro cao, do đó đầu tư nước ngoài vào khu vực này còn gặp nhiều trở ngại.
Bên cạnh đó, đánh giá kết quả thăm dò các bể Sông Hồng, Phú Khánh, Tư Chính – Vũng Mây cho thấy tiềm năng khí là chủ yếu. Trong khi ở Việt Nam hiện nay, công nghiệp khí chưa phát triển nên chưa tạo được sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào thăm dò, khai thác ở khu vực này. Một số Nhà thầu xin kéo dài thời hạn trong giai đoạn TK – TD để nghiên cứu hoặc chờ đợi thị trường tiêu thụ khí. Còn một số nhà thầu khác đang đàm phán để phát triển mỏ khí nhưng chưa có tiến triển đáng kể.
1.3.1.3. Ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành.
a) Chuyển giao công nghệ.
Đây là một trong những kết quả lớn nhất mà ngành Dầu khí Việt Nam thu được sau gần 20 năm thu hút Đầu tư nước ngoài. Xuất phát điểm gần như là con số không, đến nay Việt Nam đã tiếp cận và dần làm chủ rất nhiều công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực Tìm kiếm - thăm dò - khai thác Dầu khí, đúng như mục tiêu ban đầu khi chúng ta thu hút Đầu tư nước ngoài vào. Hiện tại ngành Dầu khí đã là một ngành kinh tế trọng điểm, hiện đại, một trong những ngành đứng đầu trong nền kinh tế nước ta, có một vị thế nhất định trong toàn ngành Dầu khí thế giới.
b) Kinh nghiệm quản lí điều hành dự án.
Công tác quản lý điều hành nhìn chung theo trình tự và thông lệ quốc tế. Mỗi dự án đều xây dựng được một bộ máy quản lý điều hành gồm cả phía nước ngoài và phía Việt Nam. Về cơ bản các dự án được vận hành bởi một bộ máy quản lý điều hành tốt. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của một số dự án đặc biệt là tính phức tạp của hình thức liên doanh nên công tác quản lý, điều hành dự án nhiều khi chưa được suôn sẻ và đúng như mong muốn.
Người nước ngoài trong bộ máy quản lý điều hành đều là các chuyên gia giỏi và có nhiều kinh nghiệm, tuy nhiên, các chuyên gia này phần lớn chưa có kinh nghiệm và hiểu biết về tâm lý người Việt Nam, luôn có tinh thần bảo vệ tối đa quyền lợi của phía nước ngoài trong dự án. Vì có tỷ lệ góp vốn lớn nên trong công tác quản lý điều hành, phía nước ngoài thường có xu thế áp đặt, cứng nhắc điều đó làm cho dự án nhiều khi gặp trở ngại trong giải quyết công việc.
Phần lớn các chuyên gia phía Việt Nam còn ít kinh nghiệm, trong quan hệ nhiều khi còn cứng nhắc chưa đáp ứng được yêu cầu. Một số dự án được Tổng công ty giao cho các đơn vị triển khai, chưa làm đúng trách nhiệm và nghĩa vụ với Tổng công ty. Thực tế như vậy dẫn tới quyền lợi của phía Việt Nam trong dự án chưa được bảo vệ tối đa.
1.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế.
Môi trường đầu tư vào lĩnh vực thượng nguồn ở Việt Nam còn kém hấp dẫn và thiếu tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực:
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á là khu vực có tính năng động cao trong phát triển kinh tế. Các nước trong khu vực hầu hết là các nước đang phát triển đều có những chính sách ưu tiên, ưu đãi rất linh hoạt, mềm dẻo và kịp thời nhằm tạo điều kiện tối đa thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc này dẫn đến cạnh tranh ráo riết giữa các nước nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mà trong đó đầu tư vào Ngành Dầu khí luôn được ưu tiên hàng đầu.
Ngoài các điều kiện tự nhiên như vị trí địa lý, tiềm năng nguồn tài nguyên dầu khí thì các yếu tố về cơ sở hạ tầng, sự thuận lợi của hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách, sự ổn định về chính trị, mức độ rủi ro, chi phí đầu tư, giá nhân công nguyên vật liệu địa phương luôn có ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư quốc tế.
Trong những năm đổi mới mặc dù Nhà nước ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật trong đó có các chính sách đầu tư cho lĩnh vực dầu khí, tuy nhiên dưới con mắt của các nhà đầu tư, các chính sách của ta chưa ổn định, chồng chéo, phức tạp. Việc nhà đầu tư bị điều tiết cùng một lúc bởi nhiều Luật nhưng khi có vấn đề chồng chéo thì xử lý không nhất quán đã gây một tâm lý không thoải mái và cảm nhận thiếu công bằng cho các nhà đầu tư.
Chính sách thuế và lệ phí còn cao và không ổn định: Trong quá trình soạn thảo Luật Dầu khí sửa đổi Tổng công ty Dầu khí đã nhiều lần kiến nghị tập trung toàn bộ các sắc thuế liên quan đến dầu khí trong Luật, song điều này đã không được chấp thuận. Việc tồn tại điều 35: “Ngoài các loại thuế đã quy định tại các điều 32, 33, 34 của Luật này (gồm thuế tài nguyên, thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu), tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động dầu khí phải nộp các khoản thuế khác, tiền thuê sử dụng mặt đất, lệ phí theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam… thì Nhà nước có biện pháp giải quyết thoả đáng đối với quyền lợi của các tổ chức, cá nhân đó theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” khiến cho luôn tiềm ẩn yếu tố bất ổn định về thuế trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thậm chí trong quá trình làm nghiên cứu khả thi của đề án thì thuế đã thay đổi ba lần trong một năm như: ngoài 3 loại thuế chính là thuế tài nguyên, thuế lợi tức và thuế chuyển lợi nhuận, nay lại thêm thuế xuất khẩu và thuế VAT là điều kiện quá nặng ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư.
Các sắc thuế (tài nguyên từ 6% - 25% đối với dầu, thu nhập doanh nghiệp trước 2003 là 32% hoặc 50%, sau Nghị định 164/2003/NĐ-CP là 28% hoặc 50%…) còn cao so với các ngành kinh doanh khác tại Việt Nam, và so với cùng lĩnh vực dầu khí tại khu vực và quốc tế. Chưa giải quyết thoả đáng quan hệ thuế xuất khẩu (4%) và thuế VAT (10%) đánh trên sản phẩm dầu thô nếu bán cho thị trường nội địa. Như vậy không khuyến khích Nhà thầu bán dầu thô phục vụ nhu cầu tiêu thụ ở Việt Nam. Bên cạnh thuế, các chi phí khác như hoa hồng, lệ phí tham khảo tài liệu, chi phí dịch vụ sinh hoạt và điều hành đối với người nước ngoài còn cao. Chính sách đặc biệt và ưu đãi về thuế để khuyến khích đầu tư vào các vùng mỏ nhỏ, rất xa bờ và tranh chấp chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Việc nhận thức về nội dung thuế của các Bộ, Ngành, cơ quan và địa phương cũng khác nhau. Điều đó gây nên tình trạnh đánh thuế chồng chéo, ví dụ như đối với phía Nga trong liên doanh Vietsovpetro phải nộp: thuế xuất khẩu phần dầu của Nga, thuế chuyển lợi nhuận về nước. Do vậy thuế xuất khẩu dầu thô đánh chồng lên thuế tài nguyên và hiện nay vẫn còn tình trạng thuế VAT đánh chồng lên thuế nhập khẩu.
Các thủ tục hành chính của ta còn quá rườm rà, qua nhiều cửa, còn nhiều ách tắc, còn nhiều hiện tượng cửa quyền, tham nhũng làm cho các nhà đầu tư nản lòng. Đây là vấn đề nổi cộm ngay từ những ngày đầu triển khai các dự án đầu tư nước ngoài của ngành Dầu khí. Mặc dù Nhà nước cố gắng thực hiện chính sách một cửa nhưng trên thực tế việc làm các thủ tục ngày càng phức tạp hơn. Có hiện tượng là cả trung ương lẫn địa phương, mỗi cơ quan quản lý đều bám chặt vào chức năng của mình, cửa quyền, đối xử với xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như đối với các xí nghiệp trong nước gây không ít khó khăn, tốn kém thời gian, kinh phí của các nhà đầu tư, ví dụ việc thanh tra, kiểm tra các dự án đầu tư nước ngoài được tiến hành quá lâu và cũng có cung cách như đối với các dự án trong nước.
Do chưa có quy chế đấu thầu riêng cho ngành Dầu khí nên tất cả phần lớn các gói thầu trong lĩnh vực hoạt động dầu khí liên quan đến các hợp đồng dịch vụ với giá trị mỗi hợp đồng, kể cả những dịch vụ khẩn cấp, từ vài triệu đến hàng chục triệu USD, mà theo quy định hiện hành thì bất cứ hoạt động nào của một dự án dầu khí đều phải thông qua những thủ tục đấu thầu phức tạp tốn kém thời gian tiền bạc, như đã ghi tại các quy định trên và đó cũng là yếu tố làm giảm hiệu quả của các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí. Thủ tục xin giấy phép và thực hiện xuất nhập khẩu quá phức tạp, nhiều khi cản trở, gây thiệt hại cho sản xuất, nhất là trong những trường hợp khẩn cấp. Mặc dù đã có quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Dầu khí nhưng khi triển khai thì dự án nào cũng bị ách tắc, nhất là đối với những máy móc, thiết bị, vật tư nhập khẩu miễn thuế hay tạm nhập tái xuất.
Do đó các chính sách, cơ chế của ta cần phải mềm dẻo, có sức hấp dẫn cao, đồng thời có những điều chỉnh thích hợp kịp thời để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO TK - TD - KT DẦU KHÍ.
2.1. MỤC TIÊU PHƯƠNG HƯỚNG CHO CÔNG TÁC TK - TD - KT TIẾP THEO.
Dầu khí là một nguồn tài nguyên không tái tạo nên tất yếu sau một thời gian khai thác dài sẽ phải đến ngày cạn kiệt. Theo nghiên cứu của PetroVietnam, “nguồn trữ lượng thu hồi tại các mỏ và phát hiện chỉ đảm bảo duy trì khai thác dầu thô ở mức 17 – 19 triệu tấn/năm cho đến 2012”. Nhận định này cảnh báo cho một nguy cơ không còn dầu để khai thác nếu công tác Tìm kiếm – thăm dò không còn được tiếp tục. Do vậy yêu cầu đặt ra cho Ngành Dầu khí nói riêng và Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam nói chung là phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của mình, đặc biệt là công tác Tìm kiếm - thăm dò - khai thác dầu khí, đảm bảo sự phát triển ổn định bền vững và lâu dài của PetroVietnam và xa hơn là đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
2.1.1. Mục tiêu TKTD chung:
Gia tăng trữ lượng hàng năm trung bình (ở cả trong và ngoài nước) khoảng 35 – 40 triệu m3 (tương đương 30- 35 triệu tấn) quy dầu. Để đạt sản lượng khai thác ở mức khoảng 27 – 30 triệu tấn quy dầu vào năm 2010 và duy trì lâu dài sản lượng này nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và lâu dài của PetroVietnam, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Tiếp tục và đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản đối với các bể trầm tích còn ít được nghiên cứu ở thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế ở Việt Nam; tạo cơ sở tài liệu để Nhà nước hoạch định chính sách kinh tế biển.
Để đạt mục tiêu này cần triển khai theo cả hai hướng: Đẩy mạnh công tác TKTD ở trong nước bằng tăng cường kêu gọi, thu hút đầu tư nước ngoài và tự đầu tư; đồng thời tăng cường đầu tư TKTD và mua tài sản của nước ngoài để bù đắp trữ lượng thiếu hụt đã bù đắp được trong nước, trong đó kêu gọi đầu tư nước ngoài vào các lô còn mở tại Việt Nam và mua tài sản ở nước ngoài cần được ưu tiên hàng đầu.
2.1.2. Mục tiêu giai đoạn 2005-2010:
Ở trong nước, đẩy mạnh đầu tư hơn nữa cho TKTD dầu khí nhằm xác định tiềm năng và gia tăng trữ lượng dầu khí làm cơ sở cho việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế nói chung và Ngành Dầu khí nói riêng. Công tác TKTD tập trung chủ yếu tại thềm lục địa có độ sâu nước biển đến 200m, ở một số vùng đến độ sâu 400m nước. Để duy trì sản lượng khai thác ổn định và liên tục trong giai đoạn 2010 tổng trữ lượng gia tăng ở trong nước giai đoạn 2005 – 2010 cần phấn đấu đạt khoảng 180 – 210 triệu m3 (150 – 180 triệu tấn) quy dầu.
Để đảm bảo duy trì sản lượng dầu của PetroVietnam ổn định lâu dài cần đẩy mạnh công tác đầu tư TKTD và khai thác ra nước ngoài, trong đó ưu tiên các dự án mua tài sản để bổ sung trữ lượng thu hồi tại nước ngoài khoảng 40 – 50 triệu m3 (35 – 40 triệu tấn) dầu quy đổi cho giai đoạn 2005 – 2010 và có sản lượng khai thác dầu từ nước ngoài vào cuối 2006, đầu 2007 và đạt 1,5 triệu tấn (1,75 triệu m3) vào năm 2010.
2.1.3. Mục tiêu giai đoạn 2010 đến 2015:
Ở trong nước, ngoài các khu vực nước nông về cơ bản đã được TKTD, trong giai đoạn này, công tác TKTD sẽ chủ yếu tập trung vào các thềm lục địa có độ sâu nước biển dưới 500 m và một số vùng có độ sâu tới 1000m. Do vậy, giai đoạn này đòi hỏi đầu tư rất lớn cho TKTD mới có thể đạt được mục tiêu gia tăng trữ lượng, đến 2015, ở trong nước phấn đấu gia tăng trữ lượng khoảng 140 – 180 triệu m3 (120 – 150 triệu tấn) quy dầu.
- Ở nước ngoài tích cực đẩy mạnh đầu tư TKTD và mua tài sản nhằm gia tăng trữ lượng khoảng 47 – 50 triệu m3 (40 – 45 triệu tấn) quy dầu để có thể gia tăng trữ lượng khai thác dầu từ nước ngoài sau năm 2010.
2.1.4. Phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2005 – 2010:
Để thực hiện được các mục tiêu nói trên, phương hướng nhiệm vụ TKTD trong giai đoạn 2005 – 2010 là:
Chủ động đẩy mạnh công tác nghiên cứu khảo sát địa chấn với mục tiêu điều tra cơ bản, coi đây là cơ sở đảm bảo cho công tác TKTD gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác một cách bền vững. Trong giai đoạn 2005 – 2010 cần tập trung vào các bể trầm tích nước sâu như: Tư Chính – Vũng Mây, Đông Phú Khánh, Tây Hoàng Sa, Trường Sa… và những vùng, đối tượng còn ít được nghiên cứu như bể Sông Hồng, các vùng nước nông ven bờ, Vĩnh Châu – Thạnh Phú… các bể trầm tích trước Kainozoi, nhằm đánh giá được tiềm năng dầu khí của các khu vực này làm có cơ sở hoạch định phương hướng TKTD, xác định và mở rộng đối tượng thăm dò mới cho giai đoạn sau năm 2010.
Công tác TKTD dầu khí cần tập trung vào các khu vực/ lô sau đây:
+ Khôi phục và đẩy mạnh TKTD ở bể Sông Hồng, miền võng Hà Nội nhằm phát hiện 40 – 50 tỷ m3 khí làm cơ sở cho việc xây dựng khu công nghiệp sử dụng khí ở phía Bắc sau năm 2010; Bể Phú Khánh nhằm làm rõ tiềm năng dầu khí, phát hiện khoảng 30 – 4 triệu m3 quy dầu;
+ Tập trung TKTD ở các lô/ khu vực mới như 25-31 (Bể Cửu Long); 19, 20, 21, 05-2, 06/94 (Bể Nam Côn Sơn); 135, 136 (bể Tư Chính – Vũng Mây); 36-40 (Bể Malay – Thổ Chu); 41 – 44 (Bể Phú Quốc);
+ Đẩy mạnh TKTD và thẩm lượng ở các lô đã có hợp đồng dầu khí, tại mỏ đang khai thác và áp dụng các biện pháp công nghệ nâng cao hệ số thu hồi dầu nhằm tăng trữ lượng khai thác.
Tiếp tục tăng cường quảng bá, thu hút đầu tư nước ngoài vào TKTD dầu khí dưới các hình thức hợp tác linh hoạt, tiếp tục hoàn thiện các chính sách, điều kiện khuyến khích đầu tư nước ngoài, phấn đấu ký 6 – 12 hợp đồng dầu khí mới trong giai đoạn 2005 – 2010, đặc biệt ưu tiên các lô còn mở tại các bể Sông Hồng, Phú Khánh, Tư Chính – Vũng Mây, Nam Côn Sơn, các vùng nước sâu xa bờ nhằm sớm xác định được trữ lượng dầu khí tại các khu vực này.
Chủ động đẩy mạnh công tác tự đầu tư và điều hành công tác TKTD ở trong nước tại các vùng còn mở có triển vọng và tại các khu vực đã có phát hiện dầu khí song chưa được khẳng định tính thương mại để tạo bước đột phá, nâng cao tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài cũng như nhằm gia tăng trữ lượng dầu khí.
Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư TKTD ra nước ngoài, đồng thời theo cả 2 hướng: triển khai có hiệu quả các dự án hiện có và tiếp tục tìm kiếm cơ hội ký thêm 5 – 6 hợp đồng mới tại các khu vực trọng điểm có tính hấp dẫn cao về dầu khí (Trung Đông, Bắc Phi, Nga, SNG, Đông Nam Á…), trong đó ưu tiên mua 1 – 2 tài sản để giảm thiểu rủi ro và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực và chất lượng công tác nghiên cứu khoa học – công nghệ đảm bảo khoa học đi trước một bước và định hướng cho công tác TKTD. Ưu tiên đánh giá lại tiềm năng dầu khí của từng bể trầm tích để có các quan điểm TKTD mới; triển khai ứng dụng các giải pháp, công nghệ mới nhằm nâng cao hệ số thu hồi dầu, phát triển và khai thác các mỏ tới hạn, các mỏ khí có hàm lượng CO2 cao (hiện tại không thương mại). Triển khai chương trình nghiên cứu tổng thể về móng để nhanh chóng làm chủ công nghệ TKTD và KT dầu trong móng granit nứt nẻ.
2.2. CƠ HỘI, THUẬN LỢI
Có nguồn tài nguyên đáng kể, với trữ lượng tiềm năng dầu khí dự báo của Việt Nam là đáng kể: 3,0 - 4,5 tỷ m3 quy dầu, trong đó chủ yếu là khí (trên 50%). Trữ lượng đã phát hiện gần 1 tỷ m3 quy dầu, chiếm 30 – 35% trữ lượng và tiềm năng dự báo (số liệu tại hội nghị khoa học 25 năm thành lập ngành Dầu khí). Đó là cơ sở vững chắc cho các hoạt động Thượng nguồn.
So với các ngành công nghiệp khác, ngành Dầu khí có thu hút được nhiều nguồn tài chính khá dồi dào thông qua các hoạt động của các nhà thầu nước ngoài trong tìm kiếm – thăm dò (hoa hồng, phí đào tạo, cam kết tài trợ…). Lĩnh vực Thượng nguồn có tăng trưởng và doanh thu khá.
Năng lực nguồn nhân lực: Tổng công ty đã xây dựng được đội ngũ với hơn 22.000 cán bộ, công nhân kỹ thuật, bao gồm đủ các ngành nghề, có trình độ chính trị, quản lý, chuyên môn và ngoại ngữ có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh của Ngành.
Uy tín của Tổng công ty ngày càng được nâng cao, mặt khác lại được đảm bảo về các điều kiện pháp lý của Nhà nước, do vậy sẽ rất thuận lợi trong việc kêu gọi đầu tư, huy động vốn vay để triển khai thực hiện các dự án lớn, là tiền để vững chắc tiến tới mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
Các đối tác nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh đều là những tập đoàn kinh tế mạnh, có nhiều kinh nghiệm điều hành, có tiềm lực tài chính và làm chủ được khoa học công nghệ tiên tiến nên sẽ rất thuận lợi cho các dự án Thượng nguồn.
2.3. KHÓ KHĂN THÁCH THỨC.
Bên cạnh các thành tựu và cơ hội nói trên, trong thời gian tới hoạt động TKTD dầu khí của PetroVietnam còn phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức.
Trên bình diện chung, khó khăn của tất cả các nước hiện nay là nhu cầu năng lượng tăng rất cao; nguồn tài nguyên dầu khí ngày càng cạn kiệt; khả năng gia tăng trữ lượng và phát hiện các mỏ dầu khí lớn ngày một khó khăn; Điều kiện TKTD (nước sâu, xa bờ…) ngày một phức tạp, khắc nghiệt, đòi hỏi công nghệ và chi phí rất cao; các nước thông qua các công ty dầu khí quốc gia đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài và tự đầu tư cho TKTD. Đồng thời, các nước đều có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài để bù đắp thiếu hụt năng lượng ở trong nước; sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực dầu khí ngày càng quyết liệt do sự sát nhập các công ty dầu đa quốc gia và sự tăng trưởng kinh tế rất nhanh của một số nước như Trung Quốc và Ấn Độ dẫn đến các quốc gia này có những thay đổi về chính sách và có những đầu tư khổng lồ cho các dự án năng lượng, gây rất nhiều khó khăn cho các công ty có tiềm năng kỹ thuật và tài chính hạn chế.
Ở trong nước, tiềm năng dầu khí của ta là có hạn, không phải là lớn so với các nước trong khu vực và không thể tái tạo. Các bể trầm tích có tiềm năng dầu khí cao đã được thăm dò, khả năng tìm ra các mỏ dầu khí mới với trữ lượng đáng kể là thấp, do vậy, các khu vực này chủ yếu sẽ phát hiện các mỏ dầu khí có trữ lượng nhỏ và phân tán, điều kiện khai thác khó khăn hơn.
Tiềm năng dầu khí chưa phát hiện còn lại được đánh giá đủ lớn chủ yếu tập trung ở vùng nước sâu, xa bờ (Bể Phủ Khánh và Tư Chính – Vũng Mây, nhóm bể Hoàng Sa và Trường Sa) hoặc các bể trước Kainozoi…, song chưa được đầu tư nghiên cứu điều tra cơ bản thoả đáng để khẳng định tiềm năng dầu khí.
Nguồn trữ lượng thu hồi tại các mỏ và phát hiện chỉ đảm bảo duy trì khai thác dầu thô ổn định ở mức 17 – 19 triệu tấn/năm cho tới năm 2012, sau đó nếu không có bổ sung nguồn trữ lượng mới sản lượng khai thác dầu thô sẽ sụt giảm nhanh chóng ảnh hưởng tới sự bền vững của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Trong khi đó, trữ lượng khí đã phát hiện đủ lớn cho phép gia tăng đáng kể sản lượng khai thác song việc gia tăng sản lượng khí còn phụ thuộc vào khả năng phát triển thị trường do thị trường khí ở nước ta còn nhỏ, phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm năng khí thiên nhiên của Việt Nam.
Khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có nhiều khó khăn do tiềm năng dầu khí của ta có hạn, nhiều nước mở các diện tích cho thăm dò khai thác, kèm theo các điều kiện ưu đãi hấp dẫn cho đầu tư nước ngoài cạnh tranh hết sức gay gắt với ta.
Giá thành TKTD để phát hiện một đơn vị trữ lượng dầu khí sẽ tăng đáng kể do điều kiện địa chất – địa lý sẽ phức tạp và khó khăn, đòi hỏi chi phí lớn.
Việc đầu tư ra nước ngoài nhằm bổ sung trữ lượng để duy trì sản lượng dầu khí và sự phát triển bền vững của PetroVietnam sau năm 2012 là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, cạnh tranh quốc tế rất quyết liệt và rất khó khăn đối với những công ty dầu có tiềm năng kỹ thuật và tài chính hạn chế, kinh nghiệm hoạt động quốc tế ít, các cơ chế hành lang pháp lý cho các hoạt động dầu khí ở nước ngoài thiếu, chưa hoàn chỉnh như chúng ta.
Mặc dù có nhiều khó khăn và thách thức như vậy, song, các cơ hội vẫn là cơ bản. Với đội ngũ cán bộ, kinh nghiệm và các thành tựu đã đạt được của 30 năm hoạt động, chúng ta vững tin vào sự phát triển bền vững của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam để có những đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.
2.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP.
2.4.1. Tăng cường công tác nghiên cứu, khảo sát đảm bảo cung cấp những tài liệu tham khảo đầy đủ, đáng tin cậy về các lô cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các Nhà thầu nước ngoài vào tìm hiểu và xúc tiến đầu tư, PetroVietnam cần có những thông tin cần thiết và chính xác về các lô hợp đồng.
Cho đến 12/2005, PetroVietnam đã kí được 50 hợp đồng tìm kiếm, thăm dò và khai thác Dầu khí của tổng số 171 lô. Các lô chưa đầu tư hầu hết có thông tin quá ít hoặc độ rủi ro cao. Do đó để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, PetroVietnam cần xúc tiến các hoạt động nghiên cứu tổng hợp tài liệu đã có, đông thời khảo sất thêm lô mới một cách có chọn lọc trên toàn thềm lục địa cũng như đất liền. Thực tế, PetroVietnam chưa có đủ điều kiện để thực hiện tốt công tác này, vì vậy cần thúc đẩy thu hút đầu tư từ các công ty nước ngoài bằng cách ký kết các hợp đồng nghiên cứu chung địa chất, địa vật lý hoặc hợp đồng khảo sát địa chấn một cách không độc quyền; sớm xây dựng cơ sở dữ liệu về địa chất cho từng bồn trũng và toàn thềm lục địa.
2.4.2. Đưa ra các điều kiện kinh tế mềm dẻo, thích hợp và hấp dẫn cạnh tranh trong khu vực đối với các mỏ nhỏ, nước sâu, xa bờ, điều kiện địa chất khó khăn.
PetroVietnam đã ký hợp đồng và triển khai hoạt động ở phần lớn các lô được đánh giá có triển vọng. Những lô còn lại ít triển vọng hơn, khả năng chỉ có mỏ nhở hoặc ở vùng nước sâu có nhiều yếu tố rủi ro. Hiện nay, số dự án đầu tư nước ngoài vào Tìm kiếm – Thăm dò – Khai thác ở khu vực này còn rất ít. Tình trạng này có nguyên nhân xuất phát từ các chính sách thiếu sự mềm dẻo, linh hoạt, các mức thuế còn cao so với các nước khác. Vì vậy chúng ta cần có những chủ trương chính sách mà đưa ra cấc điều kiện kinh tế mềm dẻo hơn nữa để thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào những lô này.
Để khuyến khích đầu tư nước ngoài hơn nữa, Nhà nước có thể giảm mức thuế tài nguyên xuống dưới 4% đối với cả dầu và khí, thuế thu nhập doanh nghịêp cũng có thể giảm xuống 25% thay vì mức 28% như hiện nay, cũng như quy định miễn giảm thuế áp dụng như đối với các lĩnh vực đầu tư nước ngoài khác. Tại các khu vực có độ rủi ro cao, ít triển vọng, Nhà nước có thể cho phép PetroVietnam nới lỏng về cam kết công việc và tài chính, cũng như mở rộng khung tỉ lệ thu hồi chi phí và chia dầu lãi. Cũng có thể áp dụng thí điểm dầu lãi và thu hồi chi phí dựa trên tổng sản lượng khai thác hoặc yếu tố IRR, thay vì sản lượng hằng ngày, như một số nước khác.
2.4.3. Đào tạo và tái đào tạo nhằm củng cố, nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức cho cán bộ công nhân viên trong Ngành theo kịp với nhịp độ quốc tế.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài cũng có nghĩa chúng ta phải đàm phán để kí kết được các hợp đồng hợp tác đầu tư nước ngoài với các điều khoản có lợi nhất cho phía Việt Nam mà đối tác có thể chấp nhận được. Muốn vậy, cán bộ trong ngành Dầu khí cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là các cán bộ tham gia đàm phán hợp đồng cũng như các người làm việc trong các ban quản lí dự án. Điều này là vô cùng cần thiết vì các công ty Dầu khí quốc tế đều muốn làm việc với các đối tác có hiểu biết, có trình độ chuyên môn vững chắc để quá trình hợp tác diễn ra được thuận lợi.
Cùng với việc tìm kiếm thêm được nhiều mỏ, đưa thêm mỏ vào khai thác thì việc thiếu hụt cán bộ cũng trở nên hệ trọng và cấp thiết. Do vậy việc tìm kiếm và đào tạo ngày càng nhiều những cán bộ chuyên gia cho ngành Dầu khí luôn là một công tác mang tính chiến lược của Tổng công ty Dầu khí nói riêng và các trường Đại học kỹ thuật nói chung.
Bên cạnh công tác đào tạo chúng ta cũng cần phải nỗ lực tiếp cận công nghệ hiện đại bằng nhiều cách như cử cán bộ đi đào tạo hoặc sang làm việc cùng các công ty Dầu khí quốc tế, cũng như phải có chế độ tuyển dụng – đãi ngộ phù hợp.
2.4.4. Đa dạng hoá các hình thức hợp tác.
Trong các hình thức Đầu tư nước ngoài vào Dầu khí, căn cứ vào lợi ích thực tế của từng hình thức, có thể thấy rằng Liên doanh điều hành chung JOC là hình thức tiên tiến nhất, đem lại nhiều lợi ích nhất cho ngành Dầu khí, tuy vậy các nhà đầu tư nước ngoài lại không mấy mặn mà. Do vậy cần phải có những chủ trương cũng như tổ chức thực hiện sao cho có thể ngày càng phát triển cả về số lượng các JOC cũng như chất lượng hoạt động của chúng, đặc biệt là chất lượng hoạt động của phía Việt Nam trong các JOC đó.
Ngoài việc hợp tác đầu tư theo các hình thức quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài, việc hợp tác đầu tư trong lĩnh vực KHCN và Đào tạo, chuẩn bị nhân lực rất quan trọng. Do đó, cần đa dạng hoá việc hợp tác đầu tư với nước ngoài, có thể với các hình thức như sau:
- Tranh thủ nguồn vốn từ nước ngoài (đối tác liên doanh).
- Mua và chuyển giao công nghệ trực tiếp.
- Hợp tác trong lĩnh vự bảo vệ môi trường, xử lí rác thải…
- Họp tác trong lĩnh vực đào tạo, tái đào tạo cán bộ kỹ thuật, chuẩn bị nhân lực …
- Hợp tác trong trợ giúp kỹ thuật, quản lí và vận hành các dự án lớn.
- Hợp tác trong vấn đề tư vấn và kỹ thuật.
2.4.5. Phát triển cơ sở hạ tầng cho ngành Dầu khí, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Xuất phát từ đặc thù hoạt động tại những vùng có điều kiện địa chất, địa lí khó khăn mà cơ sở hạ tầng ngành Dầu khí có những nét riêng biệt.
Thứ nhất: Hầu hết các mỏ chứa dầu khí lại ở ngoài khơi xa bờ, đội ngũ cán bộ công nhân viên làm việc ngoài đó luôn cần một lực lượng tiếp viện đầy đủ và đều đặn, mà con đường vận tải duy nhất là bằng đường hàng không và đường thủy, trong đó thuận tiện nhất vẫn là hàng không. Trước năm 2000, các dịch vụ này còn kém, các công ty dịch vụ Dầu khí còn chưa phát triển, còn thiếu các phương tiện kỹ thuật để có thể phục vụ một cách kịp thời và hiệu quả. Hiện nay
Việc mở rộng chức năng của các công ty dịch vụ Dầu khí cần phải được PetroVietnam luôn chú trọng. Cần ngày càng mở rộng hơn nữa khu căn cứ dịch vụ cảng, hoàn chỉnh cơ sở hậu cần gồm có kho bãi, các phương tiện chuyên chở vật tư kỹ thuật phục vụ cho hoạt động dầu khí ở ngoài khơi xa.
Thứ hai: Vấn đề dịch vụ chăm sóc đời sống hàng ngày cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Vì các dự án đầu tư có thời hạn khá dài, nên chúng ta cần tạo điều kiện cho cuộc sống gia đình của họ được thuận lợi. Hiện nay, tại Vũng Tàu mới chỉ có một trường học dành cho liên doanh Vietsovpetro cho trẻ em Nga, vì thế rất cần thiết xây dựng những trường học mới cho con cháu các chủ đầu tư nước ngoài khác.
Thứ ba: là vấn đề liên quan đến tình trạng chăm sóc sức khỏe cán bộ công nhân viên người nước ngoài. Họ sống và làm việc tại Việt Nam nên cần được đảm bảo về mặt y tế trước hết là phòng chữa được các bệnh thông thường. Trong những trường hợp đặc biệt như sự cố, tai nạn lao động, họ cũng cần được đảm bảo chăm sóc chu đáo, có thể chuyển ra nước ngoài nếu cần. Do đó chúng ta phải lập được một lưới dịch vụ y tế đồng bộ cả trong nước và nước ngoài sẵn sàng tiếp nhận những trường hợp khẩn cấp.
Tóm lại, quan trọng nhất vẫn là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty dịch vụ Việt Nam vì tỷ trọng dịch vụ trong chi phí đầu tư rất lớn, mà các công ty Việt Nam chưa đáp ứng được các dịch vụ đòi hỏi công nghệ cao và thuờng là chỉ đứng ra làm môi giới hoặc liên doanh. Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ thích đáng.
2.4.6. Hoàn thiện hơn nữa các thủ tục hành chính, giảm thiểu thời gian xét duyệt dự án đầu tư.
Đây là công tác cần sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan Nhà nước chức năng, bao gồm Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp
Đây là vấn đề tồn tại từ những ngày đầu tiên triển khai các dự án đầu tư nước ngoài và ngày càng làm cho các nhà đầu tư mệt mỏi, chán nản mỗi khi vấp phải các thủ tục hành chính từ cấp Trung ương đến địa phương. Như trước đây đã làm và đã làm tốt Nhà nước nên cho phép PetroVietnam tiến hành lựa chọn đối tác hợp tác thông qua hình thức đàm phán một cách mềm dẻo mà không nhất thiết lúc nào cũng phải đưa ra đấu thầu.
Một số thủ tục phê chuẩn của Chính phủ nên được uỷ quyền cho PetroVietnam, ví dụ như việc phê chuẩn diện tích phát triển mỏ, chấp nhận gia hạn cho Nhà thầu để hoàn tất cam kết công việc… Bên cạnh đó, Nhà nước cần giảm thiểu thủ tục phiền hà trong việc cấp hạn ngạch nhập khẩu hàng hóa, máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động Dầu khí. Các thủ tục hoàn thuế VAT cho Nhà thầu cần được cải tiến, tránh tình trạng chiếm dụng vốn quá lâu hoặc gây phiền hà trong việc trình nộp, giải thích các vụ việc.
Trong quá trình triển khai hợp đồng, các chi tiêu của Dự án liên quan đến các hợp đồng dịch vụ với giá trị mỗi hợp đồng kể cả các dịch vụ khẩn cấp đều từ vài triệu đến vài chục triệu USD. Như vậy theo quy định tiến hành về thủ tục đấu thầu của các Nghị định 42, 43, 92 và 93/CP được áp dụng cho các dự án đầu tư nước ngoài thì đa số các hoạt động của một dự án Dầu khí đều thông qua những thủ tục đấu thầu phức tạp tốn kém thời gian và tiền bạc, đặc biệt là không đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Do đó, để duy trì hoạt động bình thường của các dự án thăm dò và khai thác dầu khí, Nhà nước cần có một số thay đổi về thủ tục đấu thầu áp dụng riêng cho ngành Dầu khí để tránh rườm rà, tiết kiệm thời gian và hiệu quả cao. Nhà nước cũng cần có những quy định phân cấp cụ thể về phê duyệt dự án đầu tư. Việc đấu thầu lô, hợp đồng cũng cần được tiến hành minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế hơn.
2.4.7. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khai thác mỏ khí.
Theo kết quả TK – TD, Việt Nam có tiềm năng về khí lớn hơn dầu. Nhưng cho đến nay, các dự án về khí triển khai rất chậm và gặp nhiều trở ngại mà nguyên nhân chủ yếu là do Việt Nam chưa có chính sách xây dựng một thị trường tiêu thụ khí ổn định cũng như chưa có những điều khoản hợp lí trong các hợp đồng đối với mỏ khí.
Vì vậy, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án khí hiện có cũng như thu hút thêm nhiều vốn đầu tư của nước ngoài vào các mỏ khí, Nhà nước cần có chính sách về thuế, và giá khí linh hoạt để PetroVietnam có thể nhanh chóng đi tới sự thoả thuận trong đàm phán với các đối tác nước ngoài.
Đối với dầu mỏ ta chỉ cần khai thác được là có thể bán ngay ra nước ngoài. Khác với dầu, khí khai thác được chưa thể bán ngay ra nước ngoài vì hiện giờ chúng ta chưa có hệ thống đường ống vận chuyển khí quốc tế mà chỉ bán trong nước với khối lượng khiêm tốn. Do đó để phát triển các hoạt động khai thác khí thì trước hết Việt Nam cần tạo ra một thị trường tiêu thụ khí ổn định. Muốn vậy, PetroVietnam cần chủ động trong việc xây dựng hệ thống đường ống dẫn khí tới những khu vực thị trường tiêu thụ khí có tiềm năng phát triển, đồng thời tham gia đầu tư một phần và nghiên cứu kế hoạch xây dựng tổ hợp các nhà máy điện, nhà máy sản xuất Methanol, PVC, PS, PP, phân Ure…
2.4.8. Sớm xem xét và phê duyệt các qui chế, qui định đầu tư TDKT dầu khí ở nước ngoài.
PetroVietnam cần tích cực xây dựng cơ chế chính sách đầu tư ra nước ngoài và chính sách nhân viên để Chính phủ và TCT xem xét và ban hành thực hiện. Đó chính là những cơ sở pháp lý để có thể triển khai nhiệm vụ đầu tư TDKT dầu khí ra nước ngoài.
2.5. KIẾN NGHỊ.
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình hợp tác đầu tư trong khu vực, ở Việt Nam và của Tổng Công ty; căn cứ các kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và triển khai dự án cũng như các đặc thù, các điểm thuận lợi, khó khăn của Tổng Công ty trong bối cảnh hiện nay; căn cứ nhiệm vụ chiến lược Tổng Công ty trong giai đoạn tới năm 2010 và 2020 cũng như sự cần thiết của hợp tác đầu tư đối với ngành Dầu khí nói chung và lĩnh vực Thượng nguồn nói riêng; Xin đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực Thượng nguồn của Tổng Công ty như sau:
2.5.1. Đối với Nhà nước:
Cần tích cực đàm phán giải quyết tranh chấp ở các khu vực chồng lấn, giáp ranh để thúc đẩy hoạt động đầu tư vào khu vực này. Thềm lục địa Việt Nam giáp ranh với nhiều nước như Malayxia, Indonexia, Trung Quốc, Campuchia, Thai Lan tạo nên nhiều vùng chồng lấn. Một số vùng này được các chuyên gia nước ngoài đánh giá là có tiềm năng dầu khí. Hiện nay do chưa có thoả thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước nên chưa hoạt động đầu tư nào được tiến hành ngoại trừ khu vực chồng lấn với Malayxia (PM3) đã đi vào khai thác.
Hoàn thiện cơ chế tạo lập và phát triển vốn hợp lí, đảm bảo cho ngành Dầu khí có khả năng tích luỹ vốn nhanh. Để có thể thực hiện có hiệu quả các giải pháp nêu trên, đặc biệt là tăng cường hoạt động nghiên cứu khảo sát, tham gia vào các liên doanh với cổ phần cao… PetroVietnam cần có lượng vốn tích luỹ lớn nhờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước.
Cần hỗ trợ vốn cho PetroVietnam bằng cách cho giữ lại toàn bộ lợi nhuận sau thuế của PetroVietnam trong xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro, lợi nhuận sau thuế thu được từ hoạt động Dầu khí. Điều đó sẽ tạo điều kiện cho PetroVietnam tăng khả năng về vốn cho đầu tư phát triển và làm chỗ dựa về tài chính để thu xếp vốn trên thị trường tài chính tín dụng trong và ngoài nước.
Cần có Quỹ Thăm dò Dầu khí (rủi ro) vào khoảng 50 – 75 triệu USD/ năm.
Cần đảm bảo sự công bằng và bình đẳng giữa các loại hình đầu tư hợp tác, chấp nhận tỷ lệ lợi nhuận hợp lý của PetroVietnam trong các hình thức này. Hơn nữa, chính sách thuế cũng phải hợp lý và ưu đãi hơn. Chỉ đạo các ngành áp dụng nhất quán và đồng bộ các điều khoản thuế đối với hoạt động dầu khí. Đồng thời cần cải thiện hơn nữa quan hệ chính trị, kinh tế đối ngoại với các quốc gia trên thế giới, phát triển quan hệ với các tổ chức tài chính và kinh tế quốc tế để tạo không khí thuận lợi cho đầu tư nước ngoài.
Cần đảm bảo sự ổn định và nhất quán trong quá trình thực thi Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Dầu khí và các luật liên quan khác. Mặt khác cũng cần phân định đối tượng áp dụng của luật chung với luật đặc thù để tránh tình trạng áp dụng chồng chéo theo hướng lắp ráp hỗn tạp các điều khoản cho là có lợi nhất đối với nước chủ nhà để làm tổn hại quyền lợi của nhà đầu tư một cách méo mó so với tư tưởng chỉ đạo khi xây dựng luật. Cơ chế và thủ tục của các cơ quan chức năng cần tiến theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế.
2.5.2. Đối với PetroVietnam:
Cần xây dựng ngay cơ sở dữ liệu toàn ngành, cập nhật thường xuyên thông tin trong ngành và quốc tế.
Mềm dẻo hơn trong việc đàm phán, mà vẫn đảm bảo quyền lợi quốc gia.
Cơ chế tài chính cấp vốn cho công tác tự đầu tư và hợp tác đầu tư phù hợp.
Cơ cấu tổ chức phù hợp, ổn định và có định hướng lâu dài.
Xây dựng các đơn vị thăm dò khai thác và dịch vụ dầu khí phù hợp với việc đổi mới doanh nghịêp Nhà nước và tiếp thu kinh nghiệm của các công ty Dầu khí quốc tế và quốc gia.
Có chính sách tuyển dụng, đào tạo phát huy được nội lực của từng cá nhân và đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành.
Đầu tư thỏa đáng cho việc thuê các chuyên gia dầu khí nước ngoài để tranh thủ khả năng kinh nghiệm và học hỏi từ họ, từ đó nhanh chóng nắm bắt công nghệ và phương thức quản lý tiên tiến.
Tăng cường hợp tác với các đối tác, nâng cao vị thế của PetroVietnam trên trường quốc tế.
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chuyên sâu, đặc biệt là lĩnh vực phát triển và khai thác mỏ để đáp ứng nhiệm vụ trong những năm tới.
Xây dựng chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với người có năng lực để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tránh tình trạng “chảy máu chất xám”.
Sớm xem xét và phê duyệt các qui chế, qui định đầu tư TDKT dầu khí ở nước ngoài.
Tiếp tục hỗ trợ các công ty thành viên nâng cấp trụ sở làm việc và bổ sung cơ sở vật chất để phục vu tốt các nhiệm vụ TCT giao.
Cho phép các công ty thành viên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu nhằm chuẩn bị nhân lực cho các dự án TD-KT dầu khí ở nước ngoài.
Trang bị cho các công ty thành viên hoạt động trong lĩnh vực Tìm kiếm - thăm dò - khai thác những phần mềm kỹ thuật chuyên dụng về thăm dò, khai thác mỏ, thiết bị để phục vụ cho công tác đánh giá, tìm kiếm các cơ hội và triển khai các dự án đầu tư trong và ngoài nước.
KẾT LUẬN
Tóm lại, nhờ có chính sách đổi mới mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, trong 18 năm qua ngành Dầu khí đã thu hút được nhiều công ty dầu Quốc tế đầu tư vào thăm dò khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển Ngành Dầu khí trong khi nguồn vốn trong nước không đủ để đầu tư. Nguồn vốn ODA của chính phủ các nước cũng đã giúp cho việc hoạch định chính sách, xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học, nghiên cứu qui hoạch phát triển khí tổng thể và một số dự án lớn khác của ngành. Những thành tựu to lớn trong thăm dò và khai thác dầu khí vừa tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo của Ngành vừa vạch ra định hướng phát triển cho một số ngành khác.
Thời gian gần đây, nhịp độ đầu tư nước ngoài vào ngành Dầu khí Việt Nam có dấu hiệu tăng trưởng trở lại do giá dầu thô tương đối. Tuy nhiên mức độ đầu tư còn chưa đạt đỉnh của những năm 1990 – 1993 và còn chứa nhiều yếu tố bất ổn, nhất là trong lĩnh vực Tìm kiếm - thăm dò - khai thác, số lượng hợp đồng ký kết hàng năm còn ít và không đều. Điều này có thể dẫn tới sự thiếu hụt vốn đặc biệt cho khâu tìm kiếm, thăm dò dầu khí và sẽ ảnh hưởng đến việc gia tăng trữ lượng dầu khí, đảm bảo duy trì và gia tăng sản lượng khai thác dầu khí của Ngành Dầu khí, nhất là giai đoạn sau năm 2010. Do đó ta phải nhìn nhận một cách khách quan những vấn đề tồn tại đó là thủ tục hành chính còn quan liêu, phức tạp, hệ thống luật pháp chưa được đồng bộ hoàn thiện, các nguồn chính sách kinh tế chưa thông thoáng là những rào cản đối với việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài phát triển ngành Dầu khí thời gian qua.
Để đạt được những mục tiêu đặt ra trong thời gian tới cần có những giải pháp hữu hiệu khắc phục triệt để những tồn tại đó để tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài phát triển ngành Dầu khí ngày càng vững mạnh. Trong đó yếu tố quan trọng nhất vẫn là các điều kiện kinh tế của hợp đồng sao cho mềm dẻo, đơn giản, tránh tình trạng phức tạp, không ổn định hoặc khác thường với thông lệ quốc tế. Mặt khác PetroVietnam cũng cần đầu tư trước cho nghiên cứu sâu và cơ bản về mặt địa chất nhằm chủ động có nhiều số liệu, nhiều thông tin chính xác, đủ tin cậy và hấp dẫn của lô (diện tích) để đưa ra đấu thầu cũng như lựa chọn đầu tư. Nguồn vốn cho nghiên cứu được trích theo tỉ lệ % từ tổng đầu tư cho hoạt động TKTD, có thể từ 2 – 3 %. Bên cạnh đó cũng phải tăng cường hơn nữa việc đánh giá tiềm năng trữ lượng cũng như kết quả công tác TK – TD – KT theo một phân cấp thống nhất và một hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ, thuận lợi cho việc cập nhật tài liệu hàng năm, từ đó xây dựng quy hoạch phát triển, đầu tư TK – TD – KT cho từng thời kì cụ thể kể cả về quy mô, mức độ, tiến độ và giải pháp công nghệ.
Đứng trước chặng đường 30 năm hình thành và phát triển của ngành Dầu khí nói chung, 18 năm thu hút Đầu tư nước ngoài nói riêng, chúng ta không khỏi xúc động và tự hào, bởi tất cả những gì đạt được thực sự là rất lớn. Từ ngày ban đầu còn chập chững từng bước đi một, nay ngành Dầu khí đã là một ngành kinh tế mũi nhọn hàng đầu, đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Chúng ta hi vọng và tin tưởng trong tương lai sẽ ngày càng có được những kết quả to lớn hơn nữa trong lĩnh vực Tìm kiếm - thăm dò - khai thác Dầu khí nói riêng, trong sự phát triển của ngành Dầu khí cũng như sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung, đưa Việt Nam vững bước tiến vào hội nhập kinh tế thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PetroVietnam - 25 năm phát triển
2. Trang web của Tổng công ty dầu khí Việt Nam: PetroVietnam.com
3. Vietsovpetro - 25 năm phát triển
4. Trang web google.com
5. Giáo trình Kinh tế dầu khí - NXB - Giao thông vận tải
6. 10 năm tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí
7. Tạp chí dầu khí
8. Tạp chí thông tin dầu khí thế giới
PHỤ LỤC: Vị trí các lô trong các bể trầm tích Việt Nam.
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ
Trang
Biểu đồ 1: Tỉ trọng thu nhập bình quân từ các khâu của các Tập đoàn dầu khí lớn (giai đoạn 1985 – 2003).
8
Biểu đồ 2: Sản lượng dầu các nước Asean
26
Biểu đồ 3 : Kết quả thu nổ địa chấn giai đoạn 1988 – 2004
28
Biểu đồ 4: Số giếng khoan thăm dò, phát triển theo năm.
28
Biểu đồ 5: Số giếng khoan TD – TL theo bể trầm tích
29
Biểu đồ 6: Phân loại sự cố giếng khoan.
30
Biểu đồ 7: Chi phí đầu tư TK - TD - KT theo hạng mục
44
Biểu đồ 8: Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của Vietsovpetro so với cả nước
55
Biểu đồ 9: Thành phần các Nhà thầu theo khu vực địa lí.
64
Biểu đồ 10 : Doanh thu dịch vụ địa phương
66
Biểu đồ 11: Thành phần các nhà điều hành theo năng lực
67
Biểu đồ 12: Số km thu nổ địa chấn 2D
67
Biểu đồ 13: Số km2 thu nổ địa chấn 3D.
68
Sơ đồ
Sơ đồ 1: SƠ ĐỒ TỔ CHỨC TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM
16
Sơ đồ 2: Các bể trầm tích Đệ Tam Việt Nam
24
Bảng
Bảng 1: Tổng hợp KQSXKD giai đoạn 2001 – 2005
18
Bảng 2: Sản lượng khai thác dầu thô của các nước Asean
25
Bảng 3: Các đề án tự đầu tư TKTD Dầu khí
27
Bảng 4 : Các đề án đầu tư TDKT dầu khí ở nước ngoài
32
Bảng 5: Các định chế tài chính trong lĩnh vực ĐTNN vào TK - TD - KT DK.
34
Bảng 6: Thuế tài nguyên
35
Bảng 7: VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Trong lĩnh vực TKTD và KT Dầu khí từ năm 1988 đến 12/2005
40
Bảng 8 Tình hình thực hiện đầu tư của giai đoạn Tìm kiếm Thăm dò và Khai thác dầu khí trong giai đoạn 1988 - 2004 (đơn vị USD)
42
Bảng 9: Tổng hợp chi phí đầu tư của các Nhà thầu phân theo hạng mục trong giai đoạn 1988 - 2004:
43
Bảng 11: Hiện trạng các Hợp đồng Hợp tác Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực TK - TD - KT Dầu khí Việt Nam
46
Bảng 12: Sản lượng khai thác dầu thô Vietsovpetro 1991 – 2005
52
Bảng 13: Sản lượng khí của Vietsovpetro
53
Bảng 14: Doanh thu từ dịch vụ cho bên ngoài
53
Bảng 15: Một số chỉ tiêu chủ yếu trong giai đoạn 1991 - 2004
54
Bảng 16: Tỷ trọng giá trị xuất khẩu dầu mỏ của Vietsovpetro so với cả nước
55
Bảng 17: Đánh giá chung các lô Nhà thầu hoàn trả.
57
Bảng 18: Tổng kết các hình thức đầu tư
63
Bảng 19: Doanh thu dịch vụ địa phương và tỷ lệ so với vốn đầu tư
65
Bảng 20: Chi phí dầu khí và kiểm toán giai đoạn 1988 – 2004
70
Bảng 21: Lực lượng lao động làm việc tại các Nhà thầu Dầu khí
73
Bảng 22: Mức lương của lao động địa phương trong ngành Dầu khí
74
BẢN CAM KẾT
Tên tôi là: Lê Vũ Sao Mai
Sinh viên lớp: Kinh tế đầu tư 44C
Trong thời gian thực tập vừa qua tại Phòng Kinh tế Dầu khí - Viện Dầu khí - Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam tôi đã chọn cho mình đề tài: “Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực Tìm kiếm - thăm dò - khai thác Dầu khí của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp cho mình.
Tôi xin cam đoan bản chuyên đề này là công trình của tôi không sao chép luận văn, chuyên đề của người khác. Các số liệu sử dụng trong chuyên đề là có thực, lấy từ nhiều nguồn khác nhau. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Ngày 29 tháng 4 năm 2006.
Sinh viên
Lê Vũ Sao Mai.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36401.doc