Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Để đưa con tàu Việt Nam ra với biển lớn thì việc đẩy mạnh xuất khẩu đã và đang là một chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta. Với thế mạnh là một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển nên thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản là vấn đề rất quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
Qua hơn 23 năm đi vào hoạt động chính thức, tuy có thăng trầm biến động nhưng Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I đã từng bước vượt qua khó khăn, thử thách và khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường, đứng vững trong cơ chế mới. Với bề dày kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh mặt hàng nông sản, với một bộ máy quản lý hoạt động hiệu quả cộng thêm những định hướng đúng đắn, Công ty đã và đang vững bước trên chặng đường phát triển của mình.
Đề tài: “Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản đóng hộp sang thị trường Nga của Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu rau quả I” chính là tâm huyết của bản thân em qua quá trình nghiên cứu chuyên ngành và thực tập tại công ty. Với mong muốn hơn cả một sản phẩm của quá trình học tập và thực hành trong thực tiễn, em hy vọng những giải pháp đề xuất trong chuyên đề thực tập tốt nghiệp này sẽ được quý công ty quan tâm nghiên cứu sâu hơn để đưa ra những giải pháp mang tính thực tế và hiệu quả, góp phần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đồ hộp nói riêng và mặt hàng nông sản nói chung cho công ty.
123 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1818 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản đóng hộp sang thị trường Nga của công ty cổ phần xuất nhập khẩu rau quả I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh của hàng Việt Nam so với hàng do Nga sản xuất và hàng được nhập từ các nước được miễn thuế như Lào, Campuchia... Việc vận chuyển hàng hóa phải qua các cảng châu Âu rồi mới vòng lại Nga cũng khiến chi phí vận chuyển lớn hơn nhiều so với hàng vận chuyển từ Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ...
3.1.2.3. Tình hình kinh tế biến động không có lợi cho xuất khẩu hàng nông sản
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã và đang tác động trực tiếp đến thị trường tài chính trong nước, gây khó khăn cho việc huy động vốn mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản trong nước nói chung và Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu rau quả I nói riêng. Chính sách tỷ giá neo tiền đồng Việt Nam theo USD đã tạo nhiều lợi thế cho xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn đầu của khủng hoảng do đồng USD mất giá nhiều so với các đồng tiền khác trên thế giới. Tuy nhiên, khi đồng USD tăng giá, chính sách này cũng đã khiến cho hàng xuất khẩu Việt Nam tăng giá và giảm sức cạnh tranh ở các thị trường nước ngoài.
Thách thức lớn nhất cho xuất khẩu nông sản Việt Nam là tính biến động cao của giá cả. Những biến động trong năm 2008 đã là những minh chứng cụ thể cho đặc điểm này. Bắt đầu là mặt hàng gạo, giá thế giới có khi tăng vọt lên đến 300%, sau đó lại suy giảm. Tiếp theo là giá thịt tăng rồi giảm, và gần đây các mặt hàng cây công nghiệp đã giảm giá đột ngột cũng như các mặt hàng thủy sản chủ lực của Việt Nam như cá tra và tôm sú. Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, giá cả nông sản ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào các yếu tố kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ, sự cân bằng ngân sách quốc gia, tỉ giá, các chính sách thương mại quốc tế và cả đầu tư nước ngoài. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ khiến cho tất cả các quốc gia xem xét, điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô và điều này sẽ lại làm cho giá cả xuất nhập khẩu trở nên khó lường.
Một thách thức khác của thị trường xuất khẩu nông sản là độ nhạy cảm thấp của nhu cầu nông sản đối với giá của nó. Nếu doanh nghiệp xuất khẩu chủ động giảm giá của một mặt hàng nông sản để kích thích thì nhu cầu của người tiêu dùng đối với mặt hàng nông sản cũng không tăng lên nhiều như mức độ giảm giá.
3.1.2.4. Cạnh tranh gay gắt đối với mặt hàng nông sản đóng hộp trên thị trường Nga
Thị trường Nga được coi là thị trường xuất khẩu mặt hàng nông sản đầy tiềm năng của nhiều nứơc như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Hungari…Việt Nam tuy có nhiều lợi thế như nguồn nhân lực lao động dồi dào với giá nhân công rẻ, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc sản xuất hàng nông sản đóng hộp. Tuy nhiên do sản xuất quy mô nhỏ nên tiến hành thu mua hàng có khối lượng lớn thì rất là khó khăn cả về số lượng và chất lượng không đồng đều. Hơn nữa do các doanh nghiệp xuất khẩu còn thiếu cơ sở vật chất để bảo quản hàng, làm cho chất lượng hàng nông sản đóng hộp giảm sút khó có thể đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường Nga đặc biệt là yêu cầu tiêu chuẩn vệ sinh. Trong khi đó các nước như Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia,…cũng có điều kiện tự nhiên thuận lợi sản xuất nông sản đóng hộp như chúng ta. Thêm vào đó họ lại có khoa học cộng nghệ phát triển hơn. Nông sản xuất khẩu của các nước này có lượng thô không nhiều, chất lượng cao hơn. Do đó hàng nông sản đóng hộp của họ đáp ứng thị trường xuất khẩu cao hơn, giá xuất khẩu cao hơn và thu được nhiều lợi nhuận.
3.2. ĐỊNH HƯỚNG ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG NÔNG SẢN ĐÓNG HỘP SANG THỊ TRƯỜNG NGA CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU RAU QUẢ I
3.2.1. Mục tiêu và quan điểm phát triển xuất khẩu rau quả chế biến của Việt Nam giai đoạn đến 2010
Việt Nam có nhiều lợi thế trong lĩnh vực xuất khẩu rau quả nhưng những lợi thế này trong thời gian qua vẫn chưa được khai thác hiệu quả và kim ngạch xuất khẩu vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, để hoạt động xuất khẩu rau quả chế biến có hiệu quả đòi hỏi phải có định hướng cơ bản dựa trên các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định về sự phát triển của đất nước như sau:
- "Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại... Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đai hoá. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ, đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lức sản xuất hiện có.
Nghị Quyết hội nghị lần thứ 4 - BCHTW Đảng khoá VIII tiếp tục khẳng định: " Ưu tiên phát triển các giống cây trồng vật nuôi có quy mô xuất khẩu tương đối lớn và thị trường ổn định, đặc biệt coi trọng các sản phẩm quý hiếm mà ta có lợi thế. Hết sức chú trọng phát triển công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến".
+ Quan điểm thứ 1: Hoạt động sản xuất kinh doanh rau quả cần phải xuất phát từ thị trường, lấy thị trường làm căn cứ để xây dựng kế hoạch và phát triển chiến lược kinh doanh.
Quán triệt quan điểm này yêu cầu các hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu rau qủa phải làm tốt công tác nghiên cứu nhu cầu để từ đó xác định được thị trường trọng điểm, ổn định, xác định được mặt hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả kinh tế lớn. Từ đó mới quay lại định hướng quy hoạch sản xuất, xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung chuyên canh rau quả xuất khẩu, gắn với các đề án xây dựng các nhà máy chế biến rau quả xuất khẩu gắn với công nghệ sau thu hoạch thực sự khả thi.
+ Quan điểm thứ 2: Xuất khẩu rau quả phải gắn với việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao giá trị hàng hoá sản phẩm rau quả xuất khẩu.
Quan điểm này đòi hỏi quá trình sản xuất, chế biến, tổ chức xuất khẩu rau quả cần chú ý đến công tác ứng dụng những kết quả nghiên cứu khoa học (giống mới, giống tốt, công nghệ sinh học... ), đồng thời đổi mới công nghệ và thiết bị công nghiệp chế biến rau quả, bảo quản và vận chuyển rau qủa theo công nghệ tiến bộ, ưu việt để tăng khả năng cạnh tranh của các loại rau quả xuất khẩu của nước ta trên thị trường.
+ Quan điểm thứ 3: Xuất khẩu rau quả trên cơ sở khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất, chế biến và xuất khẩu rau quả.
Quan điểm này nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam để phát triển hoạt động xuất khẩu rau quả.
+ Quan điểm thứ 4: Xuất khẩu rau quả phải được sự hỗ trợ của Nhà nước.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kì lĩnh vực nào trong điều kiện chúng ta vừa bước sang nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi phải có sự quan tâm, sự tác động từ phía chính phủ. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu rau quả cung không nằm ngoài đòi hỏi đó, sự tác động tích cực từ nhiều phía các cơ quan quản lý vĩ mô thông qua hệ thống cơ chế chính sách cụ thể đối với lĩnh vực xuất khẩu rau quả nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của sản phẩm rau quả của nước ta trên thị trường thế giới.
- Phương hướng phát triển rau quả đến năm 2010 cũng được nêu trong Nghị quyết 09/2000/NQ-CP của Chính phủ ngày 15/06/2000 về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông sản cụ thể cho từng lĩnh vực là:
+ Rau: Phát triển các loại rau, hướng chủ yếu là rau có chất lượng tốt, ngoài các loại rau truyền thống phát triển các loại rau cao cấp mới như các loại đậu, măng, nấm ăn và nấm dược liệu là những loại rau có giá trị dinh dưỡng cao, có triển vọng lớn về thị trường tiêu thụ, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, xoá đối giảm nghèo ở nhiều vùng nông thôn ở nước ta.
+ Cây ăn quả: Phát triển các loại cây ăn quả nhiệt đới, ôn đới... khai thác có hiệu quả mọi lợi thế của từng vùng sinh thái nước ta, đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân, cần phát triển một số cây ăn quả có khả năng cạnh tranh để xuất khẩu như vải, nhãn, dứa, dưa chuột...
Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 182/1999/QĐ-TTG ngày 03/09/1999 phê duyệt đề án phát triển đến năm 2010, theo đó kim ngạch xuất khẩu rau, hoa và quả sẽ được dự tính đạt ở mức 1,2tỷ USD với thị trường là Nhật Bản, Nga, Trung Quốc và EU.
3.2.2. Định hướng phát triển xuất khẩu rau quả của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu rau quả I
Theo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến năm 2010, cả nước sẽ có khoảng 1,6 triệu ha đất có khả năng trồng các loại cây rau quả. Đến nay, cả nước đã hình thành các vùng chuyên sản xuất các cây ăn quả như cam, quýt, xoài, nhãn, chuối, dừa, chôm chôm, thanh long, nho, bưởi, vải, na, mận, hồng xiêm... với khối lượng đáng kể. Bên cạnh đó, nhiều vùng quả đặc sản nổi tiếng đã mang lại chất lượng cao cho sản phẩm như nhãn, vải (ở Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Giang); mơ, mận (Tây Bắc); na (Lạng Sơn); hồng xiêm (Xuân Đỉnh); bưởi (Đoan Hùng, Phúc Trạch)... Theo thống kê mới đây của Viện nghiên cứu Nông nghiệp, trong cả nước hiện nay có khoảng 27 loại cây ăn quả được trồng trên diện tích lớn. Trong đó chuối, cam, dứa là những cây trồng chiếm tỷ trọng lớn trong tổn diện tích cây ăn quả với chất lượng cũng như khối lượng không những đủ cho tiêu thụ ở thị trường trong nước mà còn đáp ứng được nhu cầu về các sản phẩm chất lượng cao này đối với thị trường các quốc gia trên thế giới.
Với mong muốn góp phần đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu mặt hàng nông sản đóng hộp này, căn cứ vào quy hoạch và định hướng phát triển chung của cơ quan chủ quản là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I, đã chủ động nghiên cứu để từ đó xây dựng cho mình mục tiêu phát triển cụ thể đến năm 2010. Theo đó Công ty đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2010, Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty đạt mức 7.000.0000 USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu là 5.500.000 USD và nhập khẩu là 1.500.000 triệu USD, xuất khẩu rau quả chế biến là 3.000.000 USD. Công ty cũng xác định rõ trong chiến lược phát triển của mình thì mặt hàng rau quả chế biến sẽ đóng vai trò quan trọng góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu trong những năm tới.
Bảng 3.1 Định hướng sản phẩm và thị trường cho mặt hàng rau quả của Công ty đến năm 2010
Sản phẩm chủ lực
Sản phẩm đa dạng khác
Các thị trường chính
1. Rau quả tươi:
- Bắp cải, khoai tây, cà rốt, dứa, dưa hấu.
- Chuối tiêu, vải
- Su hào, súp lơ, đậu Hà Lan, cà chua, dưa chuột...
- Thanh long, nhãn, cam, quýt, bưởi, chanh, xoài, dứa, chôm chôm, đu đủ, sầu riêng, măng cụt...
- LB Nga và một số nước khác như Nhật Bản.
- Đông Bắc Á, Liên bang Nga, Trung Quốc, Trung cận đông, một số nước khác.
2. Đồ hộp, nước quả, rau quả đông lạnh:
- Dứa, dưa chuột, vải, chôm chôm, xoài, thanh long, đu đủ, mơ.
- Nước giải khát hoa quả tự nhiên
- Đông lạnh: Dứa
- Các sản phẩm cô đặc và pure: dứa, xoài, cà chua.
- Chuối, ổi, na, ngô rau, đậu cô ve, măng tre, nấm, rau, gia vị khác.
- Rau quả đông lạnh khác.
- Pure quả khác
Liên Bang Nga, Tây Bắc Âu, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và một số quốc gia châu Á khác.
3. Rau quả sấy, muối:
- Chuối sấy
- Dưa chuột muối.
Các loại rau quả sấy muối khác
Liên Bang Nga, Nhật Bản, Mỹ
4. Giống rau:
- Hạt rau muống, cải các loại.
Các loại hạt giống rau, đậu nhiệt đới khác.
Châu Phi, Châu Mỹ latinh và một số nước Châu Á khác.
Nguồn: Dự án phát triển đến năm 2010 của Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I
Liên Bang Nga vốn là thị trường rất quen thuộc đối với các sản phẩm của Công ty và đã từ lâu Nga trở thành bạn hàng gắn bó mật thiết, là đối tác quan trọng trong quan hệ kinh doanh với Công ty. Trong thời gian qua, mặc dù kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nga của Công ty đã có sự gia tăng đáng kể song so với thời kỳ trước năm 1990 thì không bằng 1/5. Với việc nhận thấy rõ Nga luôn là thị trường đầy tiềm năng, Công ty đã đề ra chiến lược xuất khẩu mặt hàng nông sản đóng hộp trong đó lấy Liên Bang Nga là một trong những thị trường trọng điểm.
Trong chiến lược cụ thể về xuất khẩu mặt hàng nông sản đóng hộp của mình, Công ty đã đề ra một số mục tiêu chính cần đạt được đó là:
- Giữ vững, tiếp tục mở rộng và tiến tới chiếm lĩnh thị trường nông sản đóng hộp Liên Bang Nga với mục tiêu nâng mức kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm của Công ty.
- Dần dần cố gắng đưa kim ngạch xuất khẩu nói chung trong đó có các sản phẩm nông sản đóng hộp của Công ty sang thị trường Nga đạt bằng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này trước những năm 1990.
- Hướng tới mục tiêu trong thời gian tới các sản phẩm nông sản đóng hộp của Công ty sẽ trở thành mặt hàng được ưa chuộng và có thị phần lớn trong tổng lượng tiêu thụ không chỉ ở Liên Bang Nga mà còn ở cả các nước Đông Âu, Châu Âu... và nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Để thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược này, đòi hỏi Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Rau quả I trong thời gian tới cần tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, mở rộng diện tích các vùng chuyên canh cây nguyên liệu. Đồng thời để đạt được mức kim ngạch xuất khẩu như trong kế hoạch, ban lãnh đạo Công ty cũng cần nghiên cứu đề ra những giải pháp cụ thể và thích hợp nhằm từng bước dần hoàn thiện công tác đẩy mạnh xuất khẩu rau quả chế biến của Công ty sang thị trường các quốc gia nói bởi làm tốt được điều này sẽ giải quyết được những khó khăn cùng với các vấn đề còn tồn đọng từ đó góp phần nâng cao giá trị và hiệu quả đối với các hợp đồng xuất khẩu của Công ty.
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU MẶT HÀNG NÔNG SẢN ĐÓNG HỘP SANG THỊ TRƯỜNG NGA CỦA CÔNG TY
3.3.1. Giải pháp từ phía công ty
3.3.1.1. Giải pháp quy hoạch vùng nguyên liệu đầu vào
Qua quá trình nghiên cứu hoạt động chuẩn bị hàng xuất khẩu của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Rau quả I có thể thấy hiện nay nguồn sản phẩm cung cấp cho các lô hàng rau quả đóng hộp xuất khẩu của Công ty chủ yếu vẫn là do các cơ sở chế biến là các đơn vị thành viên cung cấp. Thực tế trong những năm qua, mặc dù đã cố gắng đẩu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực sản xuất song việc cung ứng hàng phục vụ xuất khẩu từ các đơn vị thành viên cho Công ty vẫn chưa thực sự đạt được những kết qủa như mong đợi. Nhìn chung vẫn còn xảy ra tình trạng chất lượng sản phẩm không cao, không ổn định, không đồng đều, khối lượng còn nhỏ lẻ, mẫu mã chưa phù hợp với thị hiếu của khách hàng... Điều này ít nhiều ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu mặt hàng rau quả của Công ty sang thị trường thế giới. Bởi vậy, về phía mình Công ty cần có những giải pháp khắc phục thực trạng này bao gồm:
- Tăng cường đầu tư về giống rau quả: Trong thời gian tới Công ty cần ưu tiên đầu tư cung cấp các trang thiết bị hiện đại để có thể tạo được một bước chuyển căn bản trong các giống rau quả, sớm theo kịp các nước trong khu vực trước hết là về giống. Nguồn giống tốt này sẽ là nòng cốt kết hợp với các cơ sở giống của địa phương từng bước giải quyết giống tốt đại trà. Thêm vào đó, Công ty cũng cần tập trung nghiên cứu cải tiến nâng nước Nga yêu thích như dứa, dưa chuột, cà chua... để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng các nước này
- Tạo vùng nguyên liệu cho các nhà máy: Tổng khối lượng rau quả nguyên liệu cần cung cấp cho các nhà máy chế biến rau quả là gần 550.000 tấn để cho các sản phẩm như rau quả chế biến đóng hộp, nước giải khát. Ngoài những loại nguyên liệu thu mua được như: khoai tây, cà rốt, chôm chôm, táo mèo, dừa, dứa, dưa chuột, nhãn, mơ ta... còn một số loại rau quả dưới đây cần được đầu tư hơn nữa để trở thành các vùng chuyên canh để chủ động cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy: cam, quýt, vải, mơ, thanh long, đu đủ, na. Vùng sản xuất các loại rau này bố trí tại các nơi nhà máy đóng và các tỉnh lân cận như vùng rau và cây ăn quả ở Phủ Quỳ - Gia Lâm, vùng rau quả ôn đới ở Sapa, vùng rau và kho giốn dự trữ quốc gia ở Thường Tín - Hà Tây. Mặt khác, để có thể phục vụ nhu cầu nhập khẩu với số lượng lớn của các thị trường nước Nga cũng như các thị trường nước ngoài đòi hỏi các Công ty, nhà máy cần phối hợp xây dựng vùng nguyên liệu có quy mô lớn và chuyên môn hóa sản xuất để thu được sản lượng cao, qua đó có thể chủ động cung cấp đầy đủ nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất.
- Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực chế biến: Trong những năm gần đây, tỷ trọng của các sản phẩm rau quả đóng hộp có xu hướng gia tăng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩn rau quả chế biến của Công ty sang thị trường các quốc gia khác. Để tiếp tục khai thác được thế mạnh từ nhóm mặt hàng này, Công ty cần phát huy bằng cách tiếp tục đầu tư vào các dây chuyền công nghệ tại các nhà máy chế biến thay thế cho một số đã lạc hậu do được xây dựng từ những năm 1970. Đồng thời Công ty cũng cần đầu tư công nghệ sản xuất một số mặt hàng mới như đồ hộp cocktail quả hỗn hợp, măng đóng túi chất dẻo...
Tuy nhiên việc đầu tư như vậy không đồng nghĩa với việc Công ty chỉ thực hiện thu mua nguồn hàng chuẩn bị xuất khẩu từ phía các đơn vị thành viên của mình. Bởi điều này có thể dẫn tới việc Công ty mất đi lợi thế cạnh tranh về giá cũng như về chất lượng. Thêm vào đó, việc lệ thuộc nhiều vào nguồn rau quả từ các đơn vị trực thuộc nhiều khi còn tạo thêm khó khăn cho việc chuẩn bị hàng xuất khẩu nếu như thiếu nguyên liệu đầu vào. Do đó, trong thời gian trước mắt song song với việc đầu tư giống cây trồng, mở rộng các vùng chuyên canh và đổi mới công nghệ chế biến, Công ty có thể nghiên cứu để khai thác thêm các đơn vị cung ứng hàng xuất khẩu bên ngoài nếu như việc khai thác đó đem lại hiệu quả kinh tế cho các hợp đồng xuất khẩu. Làm được như vậy không những giúp cho Công ty chủ động được nguồn hàng nông sản đóng hộp xuất khẩu mà còn có tác dụng kích thích các đơn vị thành viên không ngừng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm nhờ tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các đơn vị thành viên và các đơn vị không phải là thành viên.
3.3.1.2. Đa dạng hoá mặt hàng, cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm để giữ vững các thị trường truyền thống
Đa dạng hóa sản phẩm:
Để có thể đáp ứng được những nhu cầu ngày càng cao của thị trường Nga đối với mặt hàng nông sản đóng hộp, bên cạnh việc đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm Công ty phải chú ý tới vấn đề cải tiến, đổi mới mẫu mã, cho ra những sản phẩm mới, khi tiến hành đa dạng hoá sản phẩm Công ty có thể tiến hành theo các hướng:
- Đa dạng giá cả sản phẩm.
- Đa dạng theo chất lượng.
- Đa dạng về màu sắc sản phẩm.
- Đa dạng hoá theo mẫu mã bao bì.
- Đa dạng theo chủng loại.
Các biện pháp đối với việc kiểm tra và đảm bảo chất lượng sản phẩm
Do đặc trưng của mặt hàng nông sản đóng hộp là chất lượng sản phẩm phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và môi trường nên Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I rất chú trọng đến công tác kiểm tra chất lượng các lô hàng sản phẩm trước khi xuất khẩu. Cụ thể là thực hiện việc kiểm tra, quan sát, phân tích thực trạng hàng hoá để đối chiếu nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp với các điều khoản đã ghi trong hợp đồng. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm, Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I cần chỉ đạo các đơn vị thành viên thực hiện chặt chẽ hơn nữa việc quản lý công tác kiểm tra chất lượng ở cấp cơ sở. Các nhà máy chế biến phải tiến hành kiểm tra ngay từ khâu nhập nguyên liệu rau quả trước khi chế biến, loại bỏ những quả thối dập, chất lượng hay kích thước không đạt yêu cầu. Trong quá trình chế biến, nhà máy phải đảm bảo chế biến theo đúng quy trình kỹ thuật, đảm bảo an toàn vệ sinh theo các tiêu chuẩn đã quy định trong vệ sinh thực phẩm. Thời gian tới, Công ty và đội ngũ cán bộ kỹ thuật và kiểm tra chất lượng sản phẩm cần tiếp tục nghiên cứu để xây dựng nên bộ tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và các yêu cầu hướng dẫn chi tiết cụ thể đi kèm chẳng hạn như các yếu tố về nồng độ dung dịch, nguyên vật liệu, trọng lượng, quy trình tiệt trùng, màu sắc, hương vị... phù hợp với quy định trong các hợp đồng ngoại thương. Việc chuẩn hoá các chỉ tiêu cụ thể sẽ là cơ sở để các đơn vị chế biến căn cứ theo đó sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng đồng đều và đảm bảo.
Bên cạnh đó, trong những năm qua, Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I đã dành một phần kinh phí trong các khoản mục đầu tư cho việc trang bị các dụng cụ và một số loại máy cần thiết cho công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm đồ hộp. Tuy nhiên, số trang thiết bị này mới chỉ đáp ứng được một phần yêu cầu công việc. Do đó, để phát triển lâu dài, Công ty cần xem xét đề phân bổ nguồn vốn dành cho đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm hiện đại giúp cho việc kiểm tra hàng hoá trong đó có cả các sản phẩm rau quả đóng hộp được thuận tiện, hiệu quả và chính xác hơn. Điều này góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu sang Nga, tránh tình trạng nảy sinh tranh chấp hoặc phát sinh thêm các chi phí do chất lượng hàng hoá không đảm bảo gây ra.
3.3.1.3. Tăng cường hoạt động thâm nhập sâu hơn thị trường Nga thông qua việc tham gia các chương trình khảo sát thị trường và hoạt động xúc tiến thương mại
Công ty cần phải có phòng điều tra nghiên cứu thị trường, tổng hợp tin tức và xử lý thông tin để đưa ra định hướng sản xuất cững như quyết định kinh doanh kịp thời, chính xác và đạt hiệu quả cao. Muốn tổ chức hoạt động điều tra nghiên cứu thị trường có hiệu quả, phòng nghiên cứ thị trường phải làm rõ 3 vấn đề:
Nghiên cứu chính sách ngoại thương của Nga:
+ Chính sách thị trường
+ Chính sách mặt hàng
+ Chính sách hỗ trợ
Chính sách ngoại thương của Nga có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu mặt hàng nông sản sang thị trường này. Những thông tin mà Công ty cần nắm vững được là: Chính sách ngoại thương nó có ổn định hay không? Chính phủ Nga có tham gia can thiệp vào ngoại thương ở mức nào? Sự can thiệp của chính phủ đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhâp khẩu ra sao?
Xác định và dự báo biến động nhu cầu về mặt hàng nông sản đóng hộp cũng như các mặt hàng nông sản khác trên thị trường Nga và thế giới.
Xác định tiềm năng của thị trường về mặt hàng mình cần bán thông qua số liêu thống kê bán hàng, thử thăm dò ý kiến của khách hàng. Nghiên cứu tiềm năng bán hàng của các quốc gia khác, kênh bán hàng, giá cả, mẫu mã, quảng cáo, phân tích điểm mạnh điểm yếu của họ, từ đó đưa ra những kết luận có ích trong việc tổ chức xâm nhập thị trường sau này.
Ngoài việc tìm hiểu nhu cầu về hàng nông sản đóng hộp của Công ty cũng cần nghiên cứu biến động của mặt hàng rau quả chế biến khác để từ đó có kế hoạch xuất khẩu phù hợp đáp ứng yêu cầu khách hàng.
Để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm nông sản đóng hộp, Công ty cần tăng cường công tác quảng cáo, triển lãm...để làm tốt công tác xúc tiến cần quan tâm đến môi trường kinh tế, văn hoá, luật pháp chính trị, khoa học kỹ thuật. Hiệu quả của hoạt động quảng cáo phụ thuộc phần lớn vào sự xác định đúng đắn mục tiêu, ý tưởng chủ đạo và chủ đề quảng cáo. Quảng cáo có mục tiêu kích thích bán hàng thông qua việc phát triển lợi ích và cũng cố giá trị.
Bên cạnh biên pháp quảng cáo Công ty có thể xúc tiến bán hàng bằng hình thức: Gửi Catalogue cho các bạn hàng ở Nga để giúp rút ngắn khoảng cách giữa người bán hàng và người mua thông qua Cataloge khách hàng có được thông tin về chủng loại hàng hoá, kích cỡ, màu sắc,... nên yêu cầu Catalogue phải được in ấn đẹp đẽ, dễ đọc, chú ý đến màu sắc, bố trí sản phẩm hàng hoá hấp dẫn kích thích nhu cầu tiêu dùng của người xem. Ngoài ra Công ty còn có thể sử dụng hình thức gửi hàng mẫu qua bưu điện cho các đối tượng khách hàng quan tâm cung cấp cho họ sự nhận biết về hình dạng, chất lượng mẫu mã của sản phẩm.
Công ty cần xây dựng kế hoạch hàng năm về việc tham dự hội chợ triển lãm thương mại cũng như các Hội thảo cả trong nước và nước ngoài, đặc biệt là các Hội chợ chuyên ngành, Hội thảo xúc tiến thương mại Việt – Nga và Hội thảo xúc tiến xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Thông qua hình thức này Công ty có cơ hội tiếp xúc giao dich trực tiếp với khách hàng từ đó nắm bắt đầy đủ về nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Để tăng hiệu quả ngoài việc trưng bày hàng hoá Công ty còn có thể sử dụng các biên pháp xúc tiến như gửi trực tiếp tặng phẩm, quà biếu giới thiệu về sản phẩm của Công ty đây chính là cơ hội để khách hàng hiểu hơn về tổng Công ty, về sản phẩm của Công ty , từ đó gọi mở nhu cầu biến nhu cầu thành sức mua thực tế.
Ngoài ra Công ty cần mở rộng các cửa hàng đại lý giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước. Thông qua các cửa hàng này khả năng thâm nhập thị trường và uy tín của Công ty, hàng hoá xuất khẩu được tăng lên, khách hàng nước Nga có thể trực tiếp tìm hiểu sản phẩm hàng hoá của Công ty tại các cửa hàng trưng bày giới thiệu sản phẩm khi thành lập các cửa hàng trưng bày giới thiệu sản phẩm phải chú ý đến mật độ yêu cầu: các địa điểm phù hợp cho yêu cầu quảng cáo, thường là trong các thành phố, các nút giao thông..
3.3.1.4. Phát triển hình ảnh thương hiệu doanh nghiệp và sản phẩm
Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I nên có kế hoạch và mạnh dạn đầu tư vào xây dựng thương hiệu. Với sản phẩm rau quả đóng hộp, thương hiệu cần phải thể hiện được thật rõ về nguồn gốc xuất xứ của rau quả, quy trình chế biến và những tính năng vượt trội của mỗi sản phẩm do từng cơ sở sản xuất khác nhau. Do đó, khi xây dựng thương hiệu cho nông sản đóng hộp, Công ty cần quan tâm đặc biệt đến yếu tố chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ của các loại rau quả.
Để đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh gay gắt và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, cũng như phát triển hình ảnh thương hiệu doanh nghiệp và sản phẩm, Công ty cần phải tiến hành nghiên cứu để tiến tới thay đổi bao bì đóng gói và cải tiến chất lượng sản phẩm như nâng cao mức độ vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các mặt hàng nông sản đóng hộp... Làm được như vậy mới có thể kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và luôn thay đổi của thị trường.
- Dứa miếng và dứa khoanh: Để thâm nhập thị trường với khối lượng lớn, cần cải tiến bao bì và nhãn hiệu.
+ Bao bì nên làm bằng lọ thuỷ tinh hoặc nhựa cứng và trong để làm sao cho người tiêu dùng thấy được sản phẩm bên trong, điều này tạo cảm quan tốt cho sản phẩm cũng như tạo được độ tin cậy cho người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm .
+ Chuyển phương thức hàn hộp sắt tây bằng thiếc sang công nghệ ghép mí bằng điện.
+ In toàn bộ các nhãn hiệu bằng giấy bóng, chất lượng cao và trong thời gian tới Công ty nên đầu tư dây chuyền công nghệ để in tự động nhãn hiệu thẳng vào hộp sản phẩm (thay vì dán giấy hiện nay dễ bong tróc trong quá trình vận chuyển và bảo quản).
- Với mặt hàng nước dứa ép và các loại nước quả: Công ty nên chuyển sang đựng trong các hộp giấy tráng kẽm vừa rẻ, lại tiện và dễ sử dụng thay vì chứa trong các hộp sắt tây như hiện nay.
- Cà chua nước sốt: đây là mặt hàng đặc trưng của Việt Nam đối với người dân các nước liên bang Nga. Cần cải tiến bao bì sản phẩm, chuyển từ chứa trong các chai thuỷ tinh sang các chai nhựa như của Mỹ và châu Âu để người tiêu dùng dễ mang theo và sử dụng (hoặc chuyển sang dạng tuýp hay đóng trong các chai thấp, miệng rộng).
Ngoài ra, Công ty cũng cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm các đối tác cung ứng nguyên liệu phục vụ sản xuất các loại bao bì cho sản phẩm của mình như thuỷ tinh, sắt tây... thay vì phải nhập khẩu từ Trung Quốc, qua đó có thể làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty trên các thị trường.
Bên cạnh việc chú trọng đầu tư để dần thay đổi nhãn bao bì sản phẩm xuất khẩu nhằm nâng cao hơn nữa vị trí sản phẩm của mình trên các thị trường, Công ty cũng có thể đưa ra các quyết định bổ trợ khác nhằm hoàn thiện hơn nữa giá trị sản phẩm. Trên nhãn hiệu các mặt hàng nông sản đóng hộp xuất khẩu sang thị trường Nga nên ghi rõ chỉ dẫn sử dụng bằng tiếng Nga. Công ty cần cử cán bộ nghiên cứu kỹ về phong tục tập quán, những quan điểm về màu sắc biểu tượng của người tiêu dùng ở từng vùng miền của thị trường Nga, về nền văn hoá và những sở thích trong tiêu dùng rau quả đồ hộp. Thiết kế được bao bì đáp ứng được các tiêu chuẩn như trên chắc chắn sẽ giúp cho các sản phẩm rau quả chế biến đóng hộp của Công ty nâng cao giá trị qua đó dễ dàng hơn trong việc tiêu thụ trên các thị trường.
Công ty cũng cần đầu tư hơn cho trang Website của Công ty để có thể đẩy mạnh việc quảng bá qua Internet. Hiện nay, trang Website của Công ty còn rất đơn giản, không có nhiều sản phẩm được quảng bá, Công ty cũng cần cử ra cán bộ thường xuyên theo dõi, và quảng bá các sản phẩm trên các trang Website của địa phương, của các thị trường tiềm năng
3.3.1.5. Tăng cường các liên kết trong sản xuất và xuất khẩu
Thị trường nguồn hàng xuất khẩu là nơi cung cấp hàng hoá để Công ty tiến hành xuất khẩu. Muốn xuất khẩu được khối lượng lớn, thuận lợi thì nguồn hàng phải dồi dào. Với Công ty cổ phần xuất nhập khẩu rau quả I để có nguồn hàng dồi dào cần có các biện pháp sau:
- Ngiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
- Tạo vùng chuyên canh rau quả
- Hoàn thiện công tác bảo quản
Tổ chức kết hợp sản xuất - chế biến - xuất khẩu thông qua việc hình thành các nhà máy cơ sở chế biến ngay tại các vùng nguyên liệu tập trung. Sự kết hợp này giúp Công ty nâng cao hiệu quả kinh tế do giảm nhiều yếu tố chi phí: Vận chuyển, giao dịch, hư hỏng...Thông qua đó Công ty có thể thụ lợi từ cả hai nguồn sản xuất và xuất khẩu. Mặt khác nó còn cho phép tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu vì:
Thông qua hoạt động xuất khẩu Công ty có thể nắm bắt được nhu cầu khách hàng, về thị hiếu và thói quen tiêu dùng của họ, từ đó có cơ sở để sản xuất.
Thông qua hoạt động xuất khẩu Công ty có thể mua được nguồn hàng chất lượng ổn định, mẫu mã phù hợp với nhu cầu thị trường.
Thông qua hoạt động xuất khẩu trực tiếp nên Công ty có thể chủ động về chất lượng, gía cả, có khả năng cải tiến sản phẩm cho phù hợp với hàng thị trường riêng biệt.
Tổ chức thu mua hàng: Công ty là đơn vị sản xuất kinh doanh xuất khẩu nên thu mua không phải là vấn đề quan trọng bởi vì các nguồn hàng lớn lại là những đơn vị thành viên Công ty. Vấn đề ở đây chỉ là năng suất, hiệu quả hoạt động sản xuất tại các đơn vị này .
3.3.1.6 Một số đề xuất khác
Khuyến khích và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên
Nguồn lực con người luôn đóng vai trò quan trọng nhất trong tất cả các hoạt động của Công ty. Có thể nói một công việc dù có hoàn thiện đến thế nào nhưng nếu những người có trách nhiệm không đáp ứng đủ trình độ để thực hiện thì rất khó để đảm bảo tính hiệu quả của các hợp đồng. Như vậy nhiệm vụ hàng đầu đối với Công ty hiện nay là phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện độ ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, nắm vững nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong ký kết và thực hiện các hợp đồng ngoại thương. Muốn làm được như vậy trong thời gian tới Công ty cần thực hiện:
- Tăng cường các hoạt động đào tạo bổ sung và đào tạo mới đội ngũ cán bộ chuyên ngành rau quả phục vụ cho nghiên cứu và sản xuất từ các khâu: nghiên cứu giống cây, trồng trọt, chế biến, quản lý sản xuất và kinh doanh để có thể đủ khả năng tiếp cận và làm việc với các thiết bị mới, công nghệ hiện đại và các phương thức kinh doanh hiệu quả.
- Bổ sung đội ngũ nhân viên mới bằng việc tuyển chọn sinh viên khá và giỏi mới tốt nghiệp từ các trường Đại học. Tuy chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng đổi lại những sinh viên này được trang bị những kiến thức cơ bản trong nhà trường. Từ đó Công ty có thể tạo ra môi trường làm việc năng động, có tính cạnh tranh, kích thích được sự sáng tạo của các bạn trẻ, dần dần hình thành nên một đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn, thành thạo ngoại ngữ, năng động trong công việc, dám nghĩ dám làm.
Tạo thêm nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Tạo nguồn vốn bổ sung cho hoạt động sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất, chế biến và xuất khẩu hàng nông sản nói chung và hàng rau quả nói riêng. Nhằm giải quyết tốt vấn đề này đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả xuất khẩu mặt hàng rau qủa của Công ty sang các thị trường, trong thời gian tới Công ty và các đơn vị thành viên cần chủ động hơn nữa trong việc huy động vốn từ các nguồn trong và ngoài nước chẳng hạn như:
- Huy động vốn vay từ các tổ chức tín dụng. Mặc dù trong thực tế để tiếp cận và sử dụng được nguồn vốn này không đơn giản với thủ tục và điều kiện tương đối phức tạp xong Công ty cần xác định đây là nguồn vốn quan trọng cần cố gắng khai thác. Hiện nay với sự ra đời của hàng loạt ngân hàng mới nên để cạnh tranh lãi suất cho vay tài trợ cho hoạt động xuất khẩu đang có xu hướng giảm, do vậy Công ty cần nghiên cứu kỹ để có phương án vay vốn trực tiếp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh.
- Huy động vốn từ nội bộ mà cụ thể là từ đội ngũ cán bộ công nhân viên của Công ty. Việc tận dụng được nguồn vốn này sẽ đem lại rất nhiều lợi ích. Một khi người lao động tham gia cho Công ty vay vốn họ sẽ nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm với hoạt động kinh doanh của Công ty. Thêm vào đó việc Công ty trả lãi suất cho những khoản vay vô hình chung đã tạo thêm nguồn thu nhập qua đó cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên. Để thực hiện điều này, thời gian tới Nhà nước cần xem xét có những chính sách tạo điều kiện cho Công ty tiến tới thực hiện cổ phần hoá hoàn toàn. Khi đó, Công ty có thể phát hành và bán cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên để mở rộng thêm nguồn vốn của mình.
- Vay từ các nhà nhập khẩu là các khách hàng quen thuộc thông qua thanh toán trả chậm hoặc xin ứng vốn trước khi xuất hàng. Đây là hình thức huy động vốn hiệu quả do không mất khoản tiền lãi vốn vay. Với phương thức này, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Rau quả I có được lợi thế nhất định do uy tín và mối quan hệ truyền thống lâu năm của Công ty với các bạn hàng đem lại.
- Tăng cường hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài bao gồm cả các bạn hàng để tận dụng công nghệ và nguồn vốn của họ. Trong tình trạng vừa thiếu vốn vừa thiếu máy móc thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất thì đây là một giải pháp khả thi để Công ty có thể mở rộng trung tâm chế biến rau quả xuất khẩu.
Đẩy mạnh xuất khẩu bằng cách giữ vững và nâng cao uy tín của Công ty
Trong hoạt động xuất khẩu, Công ty thường mắc phải một nhược điểm đó là ít chú ý đến những gì xảy ra sau khi đã xuất hàng đi cho khách nước ngoài kể cả các bạn hàng Nga, điều này phần nào làm giảm giá trị tài sản vô hình cần tích luỹ của Công ty. Bởi vậy việc giữ vững và nâng cao uy tín, sự tín nhiệm và tin tưởng của khách hàng sau khi họ đã mua hàng của Công ty là hết sức cần thiết. Có được niềm tin từ phía đối tác Công ty sẽ có thêm được những lợi thế trong việc đạt được các hợp đồng mới.
Để giữ vững và nâng cao uy tín của mình, thời gian tới Công ty có thể thực hiện bằng cách nâng cao hơn nữa chất lượng các lô hàng xuất khẩu, thực hiện giao hàng đúng quy cách, đúng thời hạn, nâng cao chất lượng các dịch vụ kèm theo nếu có. Làm được điều này sẽ giúp cho khách hàng sau khi mua hàng luôn cảm thấy hài lòng, khách hàng sẽ quay lại với Công ty bằng những hợp đồng mới.
3.3.2. Một số kiến nghị đối với Nhà nước và với Hiệp hội
3.3.2.1. Một số kiến nghị đối với nhà nước
Quy hoạch và có chiến lược đầu tư hợp lý cho ngành rau quả
Theo mục tiêu mà “Chương trình phát triển rau quả và hoa cây cảnh thời kỳ 1999 – 2010” thì đến năm 2010 cả nước phấn đấu đạt được ngưỡng 1tỷ USD xuất khẩu rau quả, tuy nhiên đến năm 2008 chúng ta mới xuất khẩu được hơn 350 triệu USD. Kết quả như vậy một phần là do nhận thức về vị trí, vai trò và lợi ích của việc sản xuất và xuất khẩu rau quả ở nhiều cấp chính quyền còn hạn chế, chỉ tập trung nhiều vào quy hoạch đất cho phát triển các khu công nghiệp và đô thị mới hoặc quy hoạch đất cho cây công nghiệp và cây lương thực mà chưa thực sự có những quy hoạch cụ thể cho phát triển sản xuất các loại rau quả nhất là những khu nông nghiệp công nghệ cao để tạo bước đột phá cho các sản phẩm này.
Do vậy, trong thời gian tới Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các địa phương điều chỉnh lại kế hoạch phát triển các vùng chuyên cacnh trồng cây rau, quả một cách phù hợp, hỗ trợ xây dựng các nhà máy chế biến tại các vùng nguyên liệu để giảm chi phí vận tải. Thêm vào đó, Nhà nước cần nghiên cứu và triển khai những phương án nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả trong đó có Công ty cổ phần xuất nhập khẩu rau quả I xây dựng được các thương hiệu nông sản có chất lượng, có đầu ra ổn định. Kêu gọi các doanh nghiệp tham gia vào việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm rau rau quả với cơ chế riêng. Đồng thời Việt Nam cũng cần tăng cường xúc tiến thương mại, đặc biệt là sang các thị trường truyền thống như Liên Bang Nga, Đông Âu mở rộng thương hiệu, khuyến khích và hỗ trợ cho các nhà máy chế biến, các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả đổi mới công nghệ và chú trọng hơn tới chất lượng và đóng gói.
Xây dựng được luồng tàu biển hợp lý và hỗ trợ các doanh nghiệp trong vận chuyển rau quả xuất khẩu
Để buôn bán với các thị trường, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu như Công ty xuất nhập khẩu Rau quả I luôn mong muốn có được luồng tàu biển hợp lý với mức cước phí có thể chấp nhận được để thuận tiện hơn cho khâu vận chuyển hàng hoá. Vấn đề này gặp khó khăn ở chỗ nếu như lượng hàng xuất khẩu không lớn không đảm bảo về số lượng thì khó có thể xây dựng được luồng tàu hợp lý, ngược lại nếu thiếu một luồng tàu phù hợp thì kim ngạch xuất khẩu không thể nhiều. Do đó, thời gian tới Bộ Giao thông vận tải cần đề xuất và trình Chính phủ xem xét phương án tăng cường phương thức chuyển hàng đi các cảng Nakhodka và Valdivostok với mức giá cạnh tranh hoặc Nhà nước có thể hỗ trợ một phần chi phí. Bên cạnh đó Nhà nước cũng cần có những phương án để khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng đội tàu trong nước để vận chuyển hàng xuất khẩu. Tính tới đầu năm 2008, tổng số tàu biển có treo cờ Việt Nam có dung tích từ 100 GRT trở lên là 1012 tàu (trong khi cuối năm 2007 là 707 tàu).Việc khuyến khích như vậy vừa giúp cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc lựa chọn các phương tiện vận tải với mức cước thích hợp đồng thời tạo điều kiện cho đội tàu trong nước có hội phát triển hơn nữa qua đó đảm bảo được nhu cầu vận tải trong nước và mở rộng thị phần vận tải trên thị trường quốc tế.
Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại, tăng cường hoạt động của các trung tâm xúc tiến hiện có tại các nước để hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước
- Xây dựng và nâng cao uy tín sản phẩm quốc gia
Uy tín quốc gia và uy tín sản phẩm quốc gia là một tài sản chung vô cùng quý giá. Một quốc gia có uy tín lớn, có ảnh hưởng lớn được thế giới thừa nhận sẽ mang lại những lợi thế vô hình cho tất cả các ngành công nghiệp đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại. Do đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong lĩnh vực xúc tiến thương mại là phải xây dựng và nâng cao uy tín sản phẩm ở cả cấp quốc gia và đối với từng doanh nghiệp thông qua nhiều biện pháp:
+ Thực hiện chế độ kiểm tra chất lượng đối với hàng Việt nam lưu thông trên thị trường trong nước và hàng xuất khẩu, trước mắt áp dụng chế độ kiểm tra bắt buộc đối với một số mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn và mang tính đặc thù của một quốc gia. Các cơ quan chức năng của Nhà nước phải xác định danh mục mặt hàng, xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với các mặt hàng đó nhằm từng bước tạo ra tiềm thức tự nhiên về uy tín sản phẩm.
+ Áp dụng các hình thức khen thưởng thích đáng đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đảm bảo chất lượng hàng hoá theo tiêu chuẩn quy định của Nhà nước. Xử phạt nghiêm khắc những doanh nghiệp đưa ra thị trường hoặc xuất khẩu hàng hoá không đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn quy định của Nhà nước.
- Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại
+ Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại như: tổ chức các đoàn doanh nghiệp ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài vào Việt Nam nghiên cứu khảo sát thị trường, tìm kiếm bạn hàng và cơ hội kinh doanh; tổ chức hoặc tham gia hội chợ triển lãm thương mại ở trong nước và nước ngoài; quảng cáo hàng hoá, thông tin thương mại và các hoạt động khác về xúc tiến thương mại.
+ Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại do cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước tổ chức để hỗ trợ cho doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng, mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu. Trong những năm trước mắt, hoạt động xúc tiến thương mại của Nhà nước tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực chủ yếu sau: đàm phán và ký kết các Hiệp định, thoả thuận song biên và đa biên với chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu hàng Việt nam ra thị trường nước ngoài; xây dựng chính sách và chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài; tổ chức các hội chợ và triển lãm thương mại ở tầm quốc gia, cả trong và ngoài nước; tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại theo phương châm nhanh chóng, chính xác, quảng đại và có hệ thống; tổ chức các phái đoàn thương nhân Việt nam ra nước ngoài hoặc đón các doanh nghiệp đi cùng đoàn các quan chức cao cấp của Chính phủ nước ngoài để tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường và phát triển mặt hàng xuất khẩu; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp.
- Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ngoài
+ Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân tổ chức và tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam ra thị trường thế giới.
+ Khuyến khích việc xuất bản và phát hành các ấn phẩm về xúc tiến thương mại ra nước ngoài và tăng cường thông tin thương mại trên các phương tiện thông tin, tuyên truyền đối ngoại kể cả trên mạng Internet.
+ Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan Thương vụ của Việt nam ở nước ngoài trong các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, trước mắt là ở các thị trường trọng điểm. Trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan Thương vụ Việt nam ở nước ngoài chưa đáp ứng được ngang tầm với những đòi hỏi của tình hình mới và của cộng đồng các doanh nghiệp.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp đặt cơ sở ở nước ngoài dưới các hình thức thích hợp như đại diện thường trú; văn phòng liên lạc, đại diện uỷ thác, Công ty liên doanh,... để phát triển xuất khẩu.
- Thành lập Quỹ hỗ trợ xúc tiến thương mại
+ Thành lập Quỹ hỗ trợ xúc tiến thương mại để thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại của Nhà nước; trợ giúp các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, bạn hàng xuất khẩu; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nâng cao năng lực hoạt động xúc tiến thương mại của đất nước.
+ Quỹ hỗ trợ xúc tiến thương mại có thể được huy động từ ngân sách Nhà nước, đóng góp của các doanh nghiệp và các nguồn tài trợ quốc tế.
+ Ngoài ra, chính phủ cần nghiên cứu dành ưu tiên vốn để sớm hình thành và triển khai hoạt động của Quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu để tiến tới hình thành ngân hàng xuất nhập khẩu.
- Tổ chức các Trung tâm xúc tiến thương mại trong nước
+ Thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại tại các thành phố lớn để giúp các doanh nghiệp trưng bày, giới thiệu hàng hoá; tổ chức triển lãm, hội chợ thương mại; thu thập xử lý và cung cấp thông tin thương mại cho các doanh nghiệp; tổ chức hội thảo và giao dịch thương mại; tiến hành các dịch vụ bảo hiểm, ngân hàng, hải quan giao nhận, vận tải hàng hoá giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong kinh doanh.
- Tổ chức cung cấp thông tin thị trường phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Xây dựng hệ thống thu thập và xử lý thông tin, nối mạng đến các cơ quan Thương vụ của ta ở nước ngoài, các Trung tâm xúc tiến thương maị ở địa phương, các Sở Thương mại và các doanh nghiệp để đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời cho các cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Bộ Công thương nên lập phương án mở thêm các trung tâm xúc tiến thương mại mới tại các bên cạnh một số trung tâm đang hoạt động hiện nay. Đồng thời cũng cần phát huy hơn nữa vai trò của tham tán thương mại, cần đề ra những phương hướng và chương trình hành động cụ thể để hoàn thành tốt hơn vai trò xúc tiến thương mại và làm cầu nối giữa các doanh nghiệp trong nước với khách hàng thị trường khác trong thời gian tới. Cùng với tham tán thương mại tại các nước khác, không những phải hỗ trợ các doanh nghiệp trong đó có Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Rau quả I đưa các mặt hàng Việt Nam thâm nhập thị trường này, mà còn phải đóng góp cho Chính phủ về cơ chế chính sách nhằm khai thông xuất khẩu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chung của cả nước.
3.3.2.1. Một số kiến nghị đối với Hiệp hội
Hiệp hội rau quả Việt Nam có vai trò rất lớn trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu. Để nâng cao vai trò của mình Hiệp hội cần thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:
- Tiếp tục giữ vững các thị trường hiện có và mở rộng các thị trường mới.
- Tiến hành điều tra xã hội học, nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng của người tiêu dùng từng vùng với phương châm xuất khẩu để cung ứng theo nhu cầu, phù hợp với sở thích, phong tục, tôn giáo. Trên cơ sở đó xác định cơ cấu chủng loại mặt hàng; sản xuất, chế biến như thế nào; với khối lượng và phẩm cấp ra sao, tránh tình trạng sản xuất và cung ứng trùng lặp trên thị trường. Xây dựng một đội ngũ tiếp thị, chuyên viên thành thạo, có tinh thần tận tụy. Đoàn kết để bảo vệ lợi ích chung của người tiêu dùng và người sản xuất.
- Tổ chức quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng (đặc biệt là Internet) để người tiêu dùng trong và ngoài nước hiểu được giá trị hàng rau quả Việt Nam Việt Nam, đặc biệt là rau qủa đóng hộp. Mở rộng các đại lý, các trung tâm buôn bán ở nhiều vùng, nhiều quốc gia khác nhau và giành từ 10- 15% chi phí trong giá thành để thực hiện biện pháp này.
- Đồng thời với việc mở rộng thị trường thì một vấn đề cấp thiết hiện nay là xây dựng thương hiệu rau quả Việt Nam để nâng cao tính cạnh tranh và đảm bảo uy tín trên thị trường.
Thực tế, cùng một loại rau quả nhưng có thể do rất nhiều cơ sở khác nhau cùng sản xuất và xuất khẩu, vì vậy vai trò của Hiệp hội ngành hàng là cực kỳ quan trọng. Mô hình thương hiệu hợp lý đối với các sản phẩm rau quả xuất khẩu là mô hình xây dựng thương hiệu nhóm (thương hiệu của Hiệp hội, thương hiệu của một loại rau quả đặc trưng do nhiều cơ sở cùng sản xuất và xuất khẩu). Bên cạnh đó việc đăng ký kịp thời nhãn hiệu hàng hoá hoặc chỉ dẫn địa lý tại thị trường Nga cũng là việc làm cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam.
KẾT LUẬN
Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Để đưa con tàu Việt Nam ra với biển lớn thì việc đẩy mạnh xuất khẩu đã và đang là một chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta. Với thế mạnh là một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển nên thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản là vấn đề rất quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
Qua hơn 23 năm đi vào hoạt động chính thức, tuy có thăng trầm biến động nhưng Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I đã từng bước vượt qua khó khăn, thử thách và khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường, đứng vững trong cơ chế mới. Với bề dày kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh mặt hàng nông sản, với một bộ máy quản lý hoạt động hiệu quả cộng thêm những định hướng đúng đắn, Công ty đã và đang vững bước trên chặng đường phát triển của mình.
Đề tài: “Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản đóng hộp sang thị trường Nga của Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu rau quả I” chính là tâm huyết của bản thân em qua quá trình nghiên cứu chuyên ngành và thực tập tại công ty. Với mong muốn hơn cả một sản phẩm của quá trình học tập và thực hành trong thực tiễn, em hy vọng những giải pháp đề xuất trong chuyên đề thực tập tốt nghiệp này sẽ được quý công ty quan tâm nghiên cứu sâu hơn để đưa ra những giải pháp mang tính thực tế và hiệu quả, góp phần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đồ hộp nói riêng và mặt hàng nông sản nói chung cho công ty.
Trong thời gian thực tập vừa qua, được sự hướng dẫn tận tình của Thầy Tạ Lợi và tập thể cán bộ phòng Kế hoạch - Thị trường (Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I) đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Do kinh nghiệm và kiến thức thực tế còn hạn chế nên bài viết của em không tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ của Thầy để chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu sách báo:
PGS.TS.Nguyễn Thị Hường ( 2002),“ Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn FDI ”, tập I, tập II NXB Thống Kê.
PGS.TS. Nguyễn Đình Hoè (2008), “Hợp tác chiến lược Việt – Nga: những quan điểm, thực trạng, triển vọng”, NXB Chính trị quốc gia.
GS.TS. Nguyễn Thành Độ, TS. Nguyễn Ngọc Huyền,“Quản trị kinh doanh”, NXB Lao Động – Xã Hội, Hà Nội
GS.TS, Đỗ Đức Bình, PGS. TS. Nguyễn Thường Lạng (2002),“Giáo trình Kinh tế quốc quốc tế ”, NXB Lao Động – Xã Hội, Hà Nội.
PGS.TS. Nguyễn Thị Hường,(2002),“Giáo trình Kinh doanh quốc tế ”, tập I, II, NXB Lao Động – Xã Hội, Hà Nội
PGS. TS. Vũ Hữu Tửu, (2007), “Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương”, NXB Giáo dục.
Lương Xuân Quỳ, Lê Đình Thắng, “Giá trị gia tăng nông sản xuất khẩu của Việt Nam” (Thực trạng và giải pháp), NXB : ĐHKTQD
Tài liệu của công ty.
Báo cáo tình hình hoạt động Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I năm 2005, 2006, 2007, 2008 - (Phòng Kế hoạch - Thị trường Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I).
Báo cáo chi tiết xuất nhập khẩu 2005, 2006, 2007, 2008 – ( Phòng Kế hoạch - Thị trường Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I).
Tài liệu tham khảo khác
Các trang web:
Bộ công thương Việt Nam
Báo điện tử về hoa quả
Trung tâm thông tin thương mai - Bộ Công thương
Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu rau quả I
6.
7. Trang thông tin quan hệ hợp tác Việt Nga
Và nhiều trang web khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22039.doc