Chuyên đề Gia nhập WTO và vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia

Sau hơn 20 đổi mới, nước ta đã có những thay đổi lớn về nhiều mặt trong lĩnh vực kinh tế, từ chỗ kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước ngoặt đã làm thay đổi toàn bộ bộ đời sống kinh tế của dân ta. Từ chỗ đói nghèo, không đủ ăn nay chúng ta đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế, lương thực, thực phẩm và nhiều sản phẩm khác không những đáp ứng được tiêu dùng trong nước mà còn được xuất khẩu ra nước ngoài. Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa, tất cả các quốc gia đều có xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều tổ chức kinh tế được thành lập với sự tham gia của nhiều nước khác nhau. Trong đó WTO là tổ chức thương mại lớn nhất, có quy mô toàn cầu. Gia nhập WTO là mục tiêu của nhiều quốc gia trên thế giới để phát triển kinh tế. Việt Nam với quan điểm mở rộng, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, với các tổ chức quốc tế và khu vực.Gia nhập vào tổ chức này là cơ hội lớn để Việt Nam phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cần nhận thức được rằng gia nhập vào WTO không phải là hoàn toàn thuận lợi cho nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia mà bên cạnh những cơ hội thì cũng tồn tại nhiều thách thức đòi hỏi Việt Nam cần phải vượt qua.

doc45 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Gia nhập WTO và vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cung cấp nước sạch và thoát nước còn rất thiếu, không đảm bảo điều kiện vệ sinh. Tại các thành phố còn xảy ra hiện tượng úng lụt khi mưa lớn. Điển hình là trận lụt tại Hà Nội xảy ra vào những ngày đầu tháng 11 năm 2008. 4.2.2. Giá cả dịch vụ Một số giá dịch vụ cơ sở hạ tầng của Việt Nam cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực, trong khi đó một số giá khác lại quá thấp không đủ bù đắp chi phí bỏ ra. Giá thuê đất khu công nghiệp và văn phòng còn cao hơn các nước khác làm giảm việc mở rộng sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Giá cước viễn thông liên tục giảm và có nhiều hình thức khuyến mại nhưng vẫn thuộc loại cao trong khu vực và so với thu nhập của người dân, nhất là cước điện thoại quốc tế. Chế độ quản lý giá của Nhà nước Giá cước các dịch vụ công ích cơ bản như điện, nước, bưu chính, vận tải đường sắt đều do Nhà nước quy định. Bản thân doanh nghiệp không có quyền quyết định giá cước mà chỉ xây dựng mức giá trình cơ quan Nhà nước và Chính phủ phê duyệt. Trên thực tế, do hoạt động không có đối thủ cạnh tranh đưa ra mức giá so sánh nên doanh nghiệp có thể đề nghị mức giá mua, giá bán không hợp lý. Doanh nghiệp có thể tính gộp những chi phí bất hợp lý không liên quan đến kinh doanh hoặc những chi phí do trình độ quản lý và tổ chức yếu kém gây ra. Giá các dịch vụ bưu chính trong nước và quốc tế nhìn chung là khá cao trong khi giá cung cấp nước sạch được quy định bằng một nửa so với mức cần thiết để bù đắp chi phí hoạt động và bảo dưỡng. 4.2.3. Chất lượng dịch vụ Trong những năm gần đây, chất lượng dịch vụ đã được cải thiện rõ rệt nhưng vẫn chưa đa dạng và còn thấp so với các nước trong khu vực. Trong ngành điện, tần số cắt điện trong một năm vẫn còn nhiều: 36% số khách hàng bị cắt điện dưới 3 lần và có đến 25% khách hàng bị cắt điện hơn 10 lần trong năm vừa qua. Việc cắt điện làm cho 50% số khách hàng phải dừng toàn bộ hoạt động kinh doanh, 46% dừng một phần hoạt động. Ngoài ra, điện áp không ổn định ảnh hưởng không tốt tới các thiết bị sử dụng điện. Ở nhiều nước khác như Thái Lan, Hàn Quốc hầu như không xảy ra hiện tượng này. Trong lĩnh vực viễn thông, số lượng khách hàng bị gián đoạn liên lạc vì đường dây và vì tổng đài còn nhiều. Việc tính cước điện thoại và dịch vụ Internet còn có hiện tượng nhầm lẫn và chưa minh bạch. Thời gian lắp đặt các thiết bị viễn thông còn khá lâu. 5. Công nghệ 5.1. Những cam kết chủ yếu khi gia nhập WTO Trở thành thành viên WTO, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs) của WTO ngay sau khi gia nhập. Các tiêu chuẩn về nội dung bảo hộ, bao gồm các thủ tục xác lập và duy trì quyền sở hữu trí tuệ: * Bản quyền tác giả - Theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm: tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hay ký tự khác; bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; tác phẩm báo chí, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự; tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng, nhiếp ảnh, kiến trúc bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình khoa học; tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian; chương trình máy tính sưu tập dữ liệu. Các tác phẩm trên sẽ không được bảo hộ nếu trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng hoặc tổn hại đến an ninh quốc gia. - Các tác phẩm của cá nhân, tổ chức nước ngoài được bảo hộ tại Việt Nam gồm: (i) Các tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam và chưa được công bố ở bất kỳ nước nào khác hoặc những tác phẩm được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tác phẩm đó được công bố đầu tiên ở nước khác; (ii) Các tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. * Nhãn hiệu (bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ) - Nhãn hiệu được bảo hộ theo quy định tại các Điều từ 750 – 753 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 và phần III của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, không có yêu cầu bắt buộc đăng ký đối với bất kỳ hàng hóa và dịch vụ nào. Tất cả các đăng ký nhãn hiệu đều được công bố trên Công báo Sở hữu công nghiệp. - Mọi hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đối với một nhãn hiệu đều phải được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ. * Chỉ dẫn địa lý (bao gồm cả tên gọi, xuất xứ hàng hóa) - Chỉ dẫn địa lý bảo hộ theo quy định tại các điều từ 750 – 753 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 và phần III của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định một hình thức bảo hộ cho tất cả các loại chỉ dẫn địa lý (bao gồm tất cả tên gọi, xuất xứ hàng hóa). Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ vô thời hạn. Chỉ dẫn địa lý tương ứng với khu vực và địa phương thuộc một quốc gia hay lãnh thổ xuyên biên giới quốc tế được bảo hộ nếu đáp ứng tất cả các yêu cầu theo quy định của pháp luật. - Về mối quan hệ giữa bảo hộ chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 cấm việc đăng ký nhãn hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với các chỉ dẫn địa lý được bảo hộ (kể cả tên gọi, xuất xứ hàng hóa), nếu việc sử dụng nhãn hiệu có khả năng gây hiểu sai lệch cho người tiêu dùng về xuất xứ địa lý của hàng hóa. Thời điểm xem xét việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý là ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu. * Kiểu dáng công nghiệp - Kiểu dáng công nghiệp, hình dáng đặc thù bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và có khả năng dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hay thủ công nghiệp được bảo hộ theo quy định tại các Điều từ 750 – 753 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 và phần III của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Đơn đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp được nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Cục Sở hữu trí tuệ) và được kiểm tra về hình thức và nội dung. Thời hạn bảo hộ đầu tiên đối với một kiểu dáng công nghiệp là 5 năm tính từ ngày nộp đơn và có thể được gia hạn 2 lần liên tếp, mỗi lần 5 năm. * Sáng chế - Sáng chế có tính mới đối với thế giới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp được bảo hộ theo quy định tại các Điều từ 750 – 753 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 và phần III của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Đơn sáng chế được thẩm đinh về hình thức và nội dung. Thời hạn thẩm định hình thức là 1 tháng và thẩm định nội dung là 12 tháng. - Chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích có độc quyền sử dụng, chuyển giao quyền sở hữu sáng chế cho người khác. Chủ sở hữu có quyền yêu cầu những người khác chấm dứt hành vi xâm phạm và có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra. 5.2. Thực trạng công nghệ sau gia nhập WTO 5.2.1. Năng lực tạo ra sản phẩm khoa học – công nghệ Kết quả nghiên cứu khoa học – công nghệ chưa có giá trị thương mại. Ít sản phẩm khoa học hay đơn sáng chế được công nhận ở nước ngoài. Ở trong nước, số đơn và bằng sáng chế trung bình cấp cho người Việt Nam là còn rất ít. Trong khi đó, tỷ lệ đơn và bằng sáng chế của người nước ngoài lại khá cao. Nhìn chung, tỷ lệ được cấp bằng sáng chế trên tổng số đơn tương đối nhỏ. 5.2.2. Chuyển giao và phổ biến công nghệ Gần đây, một số ngành như viễn thông, dầu khí, điện lực, xi măng, điện tử tiêu dùng, dệt may, chế biến lương thực – thực phẩm và chế biến một số nông sản đã đầu tư và nâng cao trình độ công nghệ trong sản xuất và hiện đã đạt trình độ công nghệ trung bình của thế giới. Song nhìn chung, trình độ công nghệ của các ngành sản xuất khác của nước ta hiện đang tụt hậu 2-3 thế hệ so với các nước trong khu vực. Hiện đang có một số vấn đề liên quan đến chuyển giao công nghệ và phổ biến công nghệ như sau: Thứ nhất, tỷ trọng hàng hóa và dịch vụ sử dụng công nghệ vừa và cao ở nước ta còn ở mức thấp. Thứ hai, những công nghệ được đầu tư trong những năm qua chủ yếu là nhập khẩu từ nước ngoài. Điều này cho thấy thực tế là những kết quả hoạt động khoa học - công nghệ trong nước thời gian qua chưa có tác động rõ rệt tới việc nâng cao trình độ công nghệ của các doanh nghiệp nước ta và tốc độ chuyển giao công nghệ trong nước rất hạn chế. Thứ ba, các cơ quan nghiên cứu cũng chưa có “lực đẩy” để gắn kết hơn các công trình nghiên cứu với hoạt động của doanh nghiệp cũng như chưa chú ý tới việc quảng bá kết quả nghiên cứu cho doanh nghiệp. Thứ tư, hiện tại vẫn chưa có chính sách hữu hiệu thúc đẩy các cơ quan nghiên cứu triển khai ứng dụng và công bố rộng rãi các kết quả nghiên cứu của mình. Thêm vào đó, các hoạt động hỗ trợ thị trường công nghệ chưa được tổ chức tốt. Hệ thống thông tin và dịch vụ khoa học – công nghệ chưa làm tốt vai trò trung gian, thúc đẩy sự trao đổi thông tin giữa bên cung cấp công nghệ và bên có nhu cầu đổi mới công nghệ. Thứ năm, Việt Nam vẫn còn gặp phải những khó khăn nhất định trong hệ thống hạ tầng phục vụ phổ biến công nghệ. 6. Lao động 6.1. Lực lượng lao động Mặc dù tốc độ tăng dân số của Việt Nam giảm trong những năm gần đây nhưng quy mô dân số của chúng ta là khá lớn và vẫn tăng lên. Trong giai đoạn 2000-2008, mỗi năm dân số tăng thêm từ 1 triệu đến 1,2 triệu người. Theo cuộc điều tra dân số mới nhất vào ngày 1/4/2009 thì dân số nước ta hiện nay là 85.789.573 người. Nhiều nghiên cứu về dân số Việt Nam đã đưa đến kết luận rằng: Việt Nam sẽ có cơ cấu dân số “vàng” muộn nhất là năm 2010. Đạt được cơ cấu dân số “vàng” cũng đồng nghĩa với việc có cơ hội “vàng” trong việc sử dụng nguồn nhân lực trẻ, dồi dào cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo của nền kinh tế, đặc biệt là giai đoạn bản lề 2011-2020 thực hiện chiến lược đưa Việt Nam cơ bản trở thành một quốc gia công nghiệp và xếp vào nhóm các nước có thu nhập trung bình. Biểu 2: Tháp dân số Việt Nam năm 2005 (đơn vị: nghìn người) Male Female FFemale 100+ 90-94 80-84 70-74 60-64 50-54 40-44 30-34 20-24 10-14 0-4 6000 4000 2000 0 2000 4000 6000 Nguồn: Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) Biểu 3: Tháp dân số Việt Nam dự báo năm 2050 (đơn vị: nghìn người) 100+ 90-94 80-84 70-74 60-64 50-54 40-44 30-34 20-24 10-14 0-4 Male Female 6000 2000 4000 0 2000 4000 6000 Năm 2050 Nguồn: Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) Cùng với sự gia tăng dân số, quy mô lực lượng lao động Việt Nam cũng không ngừng tăng lên. Trong giai đoạn 2000-2008, lực lượng lao động Việt Nam tăng với tốc độ trung bình 2,1%/năm với số lao động mới gia nhập hơn 900.000 người/năm. Theo dự báo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), lực lượng lao động Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong giai đoạn 2011-2020 với tốc độ trung bình xấp xỉ 2%/năm với số lao động mới gia nhập thị trường lao động gần 1 triệu người/năm. Nhóm lao động trẻ tuổi sẽ chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động nên hai thập kỷ tới đây sẽ là cơ hội tốt cho Việt Nam phân công lao động vào các ngành trong nền kinh tế. Ngoài ra, người lao động Việt Nam còn được đánh giá là thông minh, khéo tay, cần cù, chịu khó… Tuy nhiên, lao động nước ta còn những hạn chế sau: Thứ nhất, cơ cấu trình độ lao động còn bất hợp lý. Trung bình cứ 1 lao động có trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học thì chỉ có 0,73 công nhân kỹ thuật có bằng. Ở các nước phát triển, cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn hợp lý sẽ là 1 lao động có trình độ cao đẳng, đại học – 5 lao động trình độ trung học chuyên nghiệp – 10 công nhân kỹ thuật. Thứ hai, tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp. Tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ công nhân kỹ thuật trở lên trong tổng lực lượng lao động (15–59 tuổi) năm 2009 ước tính là 30%, lao động chân tay là 70%. Trong khi ở các nước phát triển, tỷ lệ đó tương ứng là 74% và 26%. Tỷ lệ này phản ánh sự lạc hậu về kỹ thuật, công nghệ của nền sản xuất và trình độ thấp của lực lượng lao động. Xu hướng chuyển dịch đó ở nước ta là có tiến bộ nhưng mức tăng của nguồn nhân lực tri thức này vẫn còn xa mới đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Lao động có chuyên môn kỹ thuật ở khu vực nông thôn còn thiếu. Tỷ lệ lao động qua đào tạo ở khu vực nông thôn qua các năm có tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với mức chung của cả nước. Theo báo cáo mới đây của Bộ Lao động Thương binh Xã hội, năm 2009 tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo nghề đến nay mới đạt 18,7%, còn rất thấp so với bình quân chung của cả nước. Thứ ba, sức khỏe người lao động nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu lao động công nghiệp. Chiều cao, cân nặng còn kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thứ tư, tác phong và kỷ luật lao động công nghiệp chưa cao. Đại bộ phận người lao động có nguồn gốc từ nông thôn, chưa được rèn luyện về kỷ luật lao động công nghiệp, còn mang nặng tác phong của một nền công nghiệp tiểu nông, tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc nhóm; thiếu tinh thần hợp tác và gánh chịu rủi ro; ít thể hiện sáng kiến cá nhân và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Thứ năm, các quy chế về bảo hiểm xã hội, an toàn lao động, về các trách nhiệm xã hội chưa đầy đủ và chưa được thực hiện tốt. Số vụ đình công và xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao động tăng lên nhanh chóng, trong đó có không ít trường hợp có xung đột bạo lực, có thể trở thành một cản trở trong quá trình toàn dụng lao động trong nước cũng như xuất khẩu lao động ra nước ngoài. 6.2. Giá cả lao động Cùng với nhịp độ đi lên của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, giá cả sức lao động ở Việt Nam (thể hiện qua tiền công, tiền lương của người lao động) đã được tăng lên. Tuy vậy, nhìn chung giá cả lao động của Việt Nam hiện vẫn được coi là tương đối rẻ và là một trong những lợi thế so sánh của thị trường lao động Việt Nam. 7. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua các đối thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân doanh nghiệp. 7.1. Tinh thần kinh doanh Về quy mô, hơn 90% doanh nghiệp ở Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong mọi ngành, nghề và lĩnh vực hoạt động , chưa doanh nghiệp nào của Việt Nam được xếp hạng theo danh mục thông lệ của quốc tế (ví dụ danh mục 500 doanh nghiệp có đầu tư lớn nhất, 20 doanh nghiệp sản xuất ô tô hàng đầu…). Về động cơ thành lập doanh nghiệp, nhiều công trình điều tra, nghiên cứu cho thấy việc thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam bị chi phối bởi nhiều mục tiêu khác nhau, trong đó còn những mục tiêu chưa thể hiện trực diện tinh thần kinh doanh, chưa coi trọng tối đa động cơ kinh doanh vì lợi nhuận như phần lớn các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới. Về động cơ lựa chọn ngành nghề, sản phẩm kinh doanh, doanh nghiệp Việt Nam nói chung chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi yếu tố kinh nghiệm trong lựa chọn sản phẩm, dịch vụ kinh doanh, phụ thuộc vào nguyên liệu, truyền thống gia đình và địa phương. Thực tiễn cho thấy, có rất ít doanh nghiệp Việt Nam dám mạo hiểm tiên phong đầu tư vào các sản phẩm, dịch vụ mới. Nguyên nhân là trình độ quản lý, trình độ công nghệ, khả năng về vốn, khả năng tiếp cận các nguồn thông tin… của doanh nghiệp còn hạn chế; Nhà nước chưa có đầu tư thích đáng cho vấn đề phát triển sản phẩm mới do hệ thống đào tạo, cơ sở nghiên cứu, cơ chế chuyển giao công nghệ (cả chiều ngang lẫn chiều dọc); các thể chế trung gian (cả trong và ngoài nước) chưa hỗ trợ tích cực cho việc phát triển sản phẩm và công nghệ mới. Về động cơ mở rộng ngành nghề kinh doanh, có nhiều lý do khiến các nhà kinh doanh Việt Nam muốn mở rộng quy mô hoạt động của mình. Tuy nhiên, không nhiều doanh nghiệp coi việc mở rộng ngành nghề kinh doanh nhằm vào mục tiêu mong muốn chiến thắng các đối thủ cạnh tranh. 7.2. Năng lực quản lý và chiến lược cạnh tranh Khả năng quản lí doanh nghiệp Trình độ học vấn của chủ doanh nghiệp, giám đốc doanh nghiệp Việt Nam nói chung không thấp. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ còn ở trình độ tốt nghiệp văn hóa phổ thông. Về kinh nghiệm hoạt động, đa số chủ doanh nghiệp, giám đốc doanh nghiệp đều đã trải qua hoạt động thực tiễn trước đó. Nhiều điều tra, khảo sát còn cho thấy, đa số chủ doanh nghiệp khả năng thích ứng nhanh nhạy với những thay đổi của môi trường bên ngoài thấp. Thực tế cho thấy, số chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lý có khả năng nắm bắt thông tin về sự thay đổi của môi trường thể chế, của thị trường, của khách hàng… để điều chỉnh công nghệ, quy trình sản xuất, mặt hàng, sản phẩm không nhiều. Mô hình quản lý, phân cấp quản lý Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, mô hình tổ chức, quản lý tương tự như các mô hình trên thế giới. Do đó, quá trình ra quyết định trong doanh nghiệp, xét về mặt lý thuyết là không có sự khác biệt lớn khi so sánh trên mặt bằng quốc tế. Tuy nhiên, trong thực tế lại phát sinh vấn đề nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn thực chất là doanh nghiệp một chủ vì các thành viên tham gia góp vốn có quan hệ rất gần gũi (vợ, chồng, con), trong đó phần lớn giám đốc (tổng giám đốc) là thành viên góp vốn chính của công ty. Nhiều công ty cổ phần ở Việt Nam cũng không phân biệt được ranh giới giữa quản lý và điều hành như thông lệ quốc tế, có sự lẫn lộn, không đúng pháp luật, dẫn đến những mâu thuẫn nội bộ. Nhưng biện pháp xử lý nội bộ hoặc chế tài phápluật chưa có, không rõ hoặc không có hiệu lực. Đối với công ty cổ phần được hình thành từ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thì tình hình phức tạp hơn, đặc biệt đối với những doanh nghiệp vẫn còn cổ phần của Nhà nước (cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt hay kể cả cổ phần thường), dẫn đến những can thiệp không cần thiết đối với doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, các quyết định đầu tư, thay đổi thị trường, sản phẩm… thường bị chậm do ách tắc ở bản thân người đại diện cổ phần nhà nước hoặc do cổ đông can thiệp, đòi quyền quyết định. Sự chậm trễ trong quá trình ra quyết định ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Có nhiều nguyên nhân gây nên hiện tượng này, trong đó, do yếu tố lịch sử và văn hóa kinh doanh dẫn đến thói quen kinh doanh cá thể hoặc mang tính gia đình (vừa là chủ sở hữu, vừa là người quản lý, vừa là người điều hành). Đồng thời, thị trường lao động kém phát triển nên chủ doanh nghiệp không có điều kiện để tìm và tuyển dụng các nhà quản lý giỏi và chuyên nghiệp. Hơn nữa, hệ thống pháp luật dân sự và hình sự vận hành chưa tốt tác động không nhỏ tới tâm lý các chủ doanh nghiệp khi trao tài sản và vốn của mình cho người khác quản lý. Tiếp thị, quảng cáo Công tác tiếp thị ít được đầu tư hoặc chưa được nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng. Ngoài ra, trên thực tế, đa số doanh nghiệp Việt Nam chưa coi trọng và đầu tư thích đáng cho vấn đề thương hiệu và bản quyền, đặc biệt là trên thị trường quốc tế. Trình độ giải quyết xung đột thương mại quốc tế của doanh nghiệp nước ta còn hạn chế. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn gần đây là khá cao nhưng năng lực cạnh tranh trên bình diện quốc gia nói chung còn thấp. Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và các chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia Năm Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%) Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng Mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh 2002 7,08 65/80 62/80 NA 2003 7,34 60/102 60/102 NA 2004 7,79 61/104 77/104 NA 2005 8,4 74/117 81/117 98/175 2006 8,2 77/125 86/125 104/175 2007 8,48 70/131 68/131 91/178 2008 6,18 75/133 70/133 NA Nguồn: Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF); Ngân hàng thế giới (WB) Như vậy, ngoài tốc độ tăng trưởng kinh tế, các chỉ số này của nước ta vẫn còn thấp, xếp hạng có xu hướng giảm và giảm tương đối so với các quốc gia khác. Chương 2: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia 1. Xây dựng chiến lược phát triển và chiến lược cạnh tranh tích cực Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ này là “…đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [5, 108]. Quan điểm cơ bản của chiến lược trong thời kỳ này là phải đảm bảo phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, phải đặt trọng tâm vào chất lượng tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, chuyển dịch và nâng cấp cơ cấu kinh tế. Phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế là bước đầu tiên hướng tới nâng cao năng suất và sức cạnh tranh. Song như thế chưa đủ mà cần phải có một chiến lược cạnh tranh tích cực. Chiến lược cạnh tranh tích cực là một bản luận cứ có cơ sở khoa học xác định rõ mục tiêu và phương hướng phát triển cơ bản của nền kinh tế nói chung, của các mặt hàng, ngành hàng, các doanh nghiệp nói riêng trong khoảng thời gian 10 năm hoặc dài hơn, làm căn cứ cho việc hoạch định các chính sách và kế hoạch sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ của chiến lược là cungcấp tầm nhìn của một quá trình làm cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch và các kế hoạch phát triển trung và ngắn hạn nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp và của các quốc gia trong các hoạt động xuất khẩu lẫn các hoạt động chỉ phục vụ thị trường trong nước phải cạnh tranh với nhập khẩu. Xây dựng chiến lược cạnh tranh tích cực thực chất là nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế bằng cách chủ động làm hạn chế những bất lợi, phát huy những lợi thế hiện có nhằm phát triển sản xuất và đưa ra thị trường những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả và mang thương hiệu Việt Nam. Điều này cũng có nghĩa là sự phát triển sản xuất nội địa của Việt Nam phải hướng tới các mục tiêu sau: - Tăng giá trị gia tăng trong giá trị sản phẩm. - Nâng cao năng suất, chất lượng lao động, hạ giá thành sản phẩm. - Nâng cao chất lượng sản phẩm. - Nâng cao khả năng sáng tạo những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam. Theo hướng đó, việc điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế đáp ứng yêu cầu của chiến lược cạnh tranh tích cực cần theo các hướng cơ bản dưới đây: 1.1. Xác định ngành có thế mạnh để mở cửa tham gia cạnh tranh Những ngành hàng có thế mạnh để mở cửa tham gia cạnh tranh bao gồm: lúa gạo, cao su, cà phê, chè, hạt điều, thủy sản, dệt may, giày da, rau quả, thực phẩm chế biến, cơ khí nhỏ, điện tử… Đối với những ngành này những biện pháp điều chỉnh có thể khái quát bao gồm: Một là đổi mới và nâng cao công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển và chú trọng tính đồng bộ trong đầu tư giữa sản xuất, chế biến, cung cấp nguyên liệu. Hai là, ổn định và mở rộng thị trường xuất khẩu, xây dựng hệ thống thông tin dự báo thị trường, thành lập trung tâm xúc tiến thương mại đối với từng ngành hàng. Ba là, Nhà nước tạo những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất – kinh doanh, xuất khẩu; hỗ trợ gián tiếp như nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất, kể cả hệ thống dịch vụ như ngân hàng, tư vấn quản lý, pháp lý… 1.2. Xác định các ngành và lĩnh vực cần tập trung hỗ trợ để có thể cạnh tranh trong tương lai Trong những năm tới cần tập trung vào phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giày và các ngành chế biến sản phẩm từ nông, lâm, ngư nghiệp. Đồng thời cũng rất cần tích cực chuẩn bị các điều kiện và tranh thủ chuyển mạnh sang phát triển nhanh các ngành công nghiệp, cơ khí, điện tử và công nghệ thông tin, các ngành có công nghệ cao. Phát triển một số ngành sản xuất nguyên liệu cơ bản theo hướng ưu tiên phát triển ngành công nghiệp dầu khí, công nghiệp luyện kim và một số sản phẩm hóa chất cơ bản. Các ngành dịch vụ cần được ưu tiên phát triển: thương mại, tài chính ngân hàng, du lịch, viễn thông, vận tải, bảo hiểm, tư vấn, kết cấu hạ tầng, giáo dục và đào tạo. Có chính sách hỗ trợ các ngành này, nhất là thương mại, tài chính - ngân hàng phát triển theo kịp trình độ các nước trong khu vực và ngày càng hiện đại để phục vụ kịp thời có hiệu quả cho các ngành sản xuất – kinh doanh, góp phần giảm chi phí đầu vào, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Các giải pháp chủ yếu là: + Xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển ngành phù hợp với yêu cầu của một ngành cần tập trung hỗ trợ. Đối với những ngành có chiến lược, cần soát xét lại cho phù hợp với yêu cầu nói trên. + Nghiên cứu thị trường và có chính sách thị trường thích hợp với từng ngành, lĩnh vực. Chính sách thị trường đúng là một đảm bảo quan trọng cho tính ổn định, phát triển của các ngành này. + Tập trung nguồn lực xứng đáng để phát triển, bao gồm vốn đầu tư, tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đầu tư phát triển kĩ thuật công nghệ… + Hoàn thiện hệ thống chính sách để thực hiện ưu tiên, hỗ trợ phát triển. + Có chính sách thu hút vốn và cho phép các nhà đầu tư nước ngoài vào phát triển các ngành cần tập trung phát triển ở nước ta. Hình thức đầu tư, mức độ tham gia cần được cân nhắc, xác định thận trọng để vừa đạt mục tiêu thu hút ngoại lực và phát triển nội lực, vừa không làm phương hại đến chủ quyền và an ninh trên lĩnh vực kinh tế. 1.3. Đẩy mạnh các hoạt động quyền bảo hộ sở hữu công nghiệp, các hoạt động bảo hộ và bảo hiểm sản xuất nhằm bảo vệ các chủ thể kinh doanh Một là, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp Các hoạt động canh tranh quốc tế chỉ có thể diễn ra bình thường khi các chủ thể cạnh tranh được duy trì và bảo vệ. Vì vậy, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là những vấn đề quan trọng của quá trình cạnh tranh. Sở hữu công nghiệp và bản quyền tác giả là loại hình của sở hữu trí tụệ, tức là liên quan đến những thành quả sáng tạo của trí tuệ con người. Song về đối tượng sở hữu thì giữa sở hữu công nghiệp và bản quyền tác giả có khác nhau. Nếu đối tượng sở hữu công nghiệp gắn với các hoạt động công nghiệp, thương mại như các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc, tên xuất xứ và chống cạnh tranh bất hợp pháp thì bản quyền tác giả liên quan đến những sáng tạo nghệ thuật như: các bài thơ, các tiểu thuyết, bản nhạc, các bức họa, tác phẩm điêu khắc, điện ảnh… Nền kinh tế hàng hóa phát triển đã thúc đẩy các hoạt động cạnh tranh mạnh mẽ không chỉ diễn ra ở những hàng hóa tiêu dùng mang tính vật chất mà cả ở các hàng hóa nghệ thuật. Cho nên giải pháp bảo vệ các chủ thể cạnh tranh bằng cách hoàn thiện và đảm bảo quyền sở hữu công nghiệp phải bao hàm cả quyền tác giả. Để đẩy mạnh công tác bảo hộ sở hữu công nghiệp nhằm góp phần bảo vệ các chủ thể cạnh tranh, cần hướng vào những mặt sau đây: + Tiếp tục đẩy mạnh và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. + Tiếp tục phát huy những hình thức bảo hộ sở hữu công nghiệp đã có và từng bước tiếp cận những hình thức bảo hộ mới trên cơ sở đa dạng hóa các loại đối tượng bảo hộ sở hữu. + Cục sở hữu công nghiệp cùng với Bộ Giáo dục Đào tạo, cac cơ quan thông tin đại chúng tổ chức giáo dục nội dung sở hữu công nghiệp theo hai hướng: tuyên truyền rộng rãi nhằm nâng cao nhận thức chung của xã hội về ý nghĩa, cách thức bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; tổ chức nghiên cứu chuyên sâu lý luận và thực tiễn vấn đề sở hữu công nghiệp, đào tạo chuyên gia giỏi trong lĩnh vực còn mới mẻ này, từng bước giới thiệu, đưa vào nghiên cứu như một môn khoa học, trước hết là ở các trường đại học thuộc chuyên ngành kinh tế. + Ngày nay xu hướng toàn cầu hóa kinh tế được gia tăng, do đó đòi hỏi hoạt động sở hữu công nghiệp phải hội nhập vào hoạt động chung của thế giới. Hai là, tăng cường các hoạt động bảo hộ và bảo hiểm sản xuất nhằm khắc phục rủi ro, phá sản trong cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Thực tế cho thấy cạnh tranh kinh tế giữa các nước, dù nước đó ở trình độ phát triển kinh tế như thế nào, truyền thống hay hiện đại, đều thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước nhằm tránh sự đổ vỡ, rủi ro, phá sản của các doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Thông qua bảo hộ, Nhà nước tạo điều kiện nuôi dưỡng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương lai. Đương nhiên, ở mỗi nước, trong từng thời kì, mức độ, quy mô và thời gian bảo hộ đối với từng mặt hàng sản xuất có khác nhau. Bảo hộ chính là bảo vệ ngành sản xuất non trẻ của đất nước, hạn chế và chống lại sự cạnh tranh của nước ngoài. Điều này hoàn toàn không loại trừ sự cạnh tranh quyết liệt diễn ra bởi các doanh nghiệp trong nước. Ngược lại, sự cạnh tranh này còn trở nên cần thiết và trở thành phòng thí nghiệm để cho ra đời những sản phẩm mới theo hướng tốt, đẹp, rẻ nhất, thích ứng với nhu cầu tiêu dùng nhất. Từ đó, vươn lên tham gia cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước. Vấn đề rõ ràng là áp dụng bảo hộ đối với một số sản phẩm do các doanh nghiệp trong nước sản xuất là cần thiết và đối với nước ta lại càng trở nên cấp bách hơn, song phải bảo hộ hợp lý. Ba là, áp dụng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu Những giải pháp để thực hiện chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu phải được đưa ra và triển khai thực hiện cả từ phía các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu và phía Nhà nước. - Đối với doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh hàng xuất khẩu, cần đẩy mạnh hoạt động thông tin về các thị trường các nước để định hướng chiến lược đầu tư đúng vào những mặt hàng có khả năng xuất khẩu cao, có sức cạnh tranh lớn, định hướng vào thị trường xuất khẩu cụ thể. Doanh nghiệp cần phải phối hợp với các tổ chức xúc tiến thương mại để nhận được sự hỗ trợ về các thông tin nói trên, hỗ trợ về tham gia hội chợ, triển lãm, chắp mối kinh doanh, tổ chức khảo sát thị trường, tư vấn xuất khẩu. Doanh nghiệp phải lựa chọn sản xuất sản phẩm để xuất khẩu, đồng thời phải coi trọng nhập thiết bị và định hướng đầu tư đúng. - Đối với Nhà nước, cần phải có chính sách lựa chọn, ưu tiên phát triển các ngành mũi nhọn (có sức cạnh tranh trên cơ sở lợi thế so sánh tĩnh và lợi thế so sánh động) có tác dụng hỗ trợ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm chủ lực. Tiếp tục đổi mới để hoàn thiện cơ cấu pháp lý, các biện pháp, chính sách kinh tế theo hướng ưu tiên, khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế trong nước, các chủ đầu tư nhất định yên tâm bỏ vốn đầu tư dưới mọi hình thức để thành lập các cơ sở sản xuất – kinh doanh hướng mạnh vào xuất khẩu. Tiếp tục đổi mới hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý ngoại thương sao cho vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa nhất quán với định hướng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Xóa bỏ các chính sách, thể chế, thủ tục cản trở xuất khẩu để thực hiện tự do hóa xuất khẩu các sản phẩm không phải là quốc cấm. 2. Phát triển khoa học – công nghệ và giáo dục Ngày nay khoa học – công nghệ và giáo dục đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh của mọi nền kinh tế. Ở Việt Nam, sự hạn chế trong cạnh tranh của các doanh nghiệp, ngành kinh tế và cả nền kinh tế có một phần nguyên nhân do những bất cập từ phía khoa học – công nghệ, giáo dục. Đó là tình trạng: trình độ khoa học - công nghệ, giáo dục không đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế đang đẩy mạnh hội nhập vào khu vực và quốc tế; cơ cấu của hệ thống khoa học - công nghệ và cơ cấu của hệ thống giáo dục đào tạo còn lệch pha với cơ cấu của nền kinh tế, sự thiếu gắn kết giữa hoạt động khoa học – công nghệ, giáo dục đào tạo với hoạt động kinh tế. 2.1. Giải pháp phát triển khoa học- công nghệ Một là, tăng cường sự gắn kết giữa hoạt động khoa học công nghệ với hoạt động kinh tế. Thứ nhất, tạo lập phương thức mới gắn kết khoa học - công nghệ, sản xuất về căn bản – đó chính là mối quan hệ dựa trên cơ chế thị trường. Cũng như mọi loại thị trường khác, thị trường công nghệ đòi hỏi chúng ta phải tiến hành các công việc: xây dựng chủ thể thị trường, xây dựng hệ thống pháp lý, cải tiến hệ thống quản lý. - Ban hành đủ các văn bản cụ thể để thực thi quyền bảo hộ sáng chế. - Nâng cao trình độ chuyên môn về bảo hộ và xử lý vi phạm quyền bảo hộ sáng chế của đội ngũ cán bộ trí thức, tăng cường trang thiết bị và các phương pháp hiện đại phát hiện và xử lý vi phạm quyền bảo hộ sáng chế. Bên cạnh biện pháp pháp lý, cần chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục thói quen tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ. - Xúc tiến và xây dựng các chế tài, quản lý thị trường công nghệ như hệ thống cơ quan trọng tài, các điểm đăng ký hợp đồng công nghệ, các tổ chức quản lý các hợp đồng giao dịch công nghệ…; xác định các tổ chức môi giới thị trường như các cơ sở đại lý công nghệ, các trung tâm thuê mướn và trao đổi nhân lực khoa học - công nghệ. Thứ hai, mở rộng quan hệ trực tiếp giữa các cơ quan khoa học - công nghệ với doanh nghiệp thông qua hợp đồng nghiên cứu. Ở đây, điều đáng chú ý là tăng cường sự nỗ lực tiếp thị của các cơ quan khoa học - công nghệ. Hai là, khắc phục sự mất cân đối giữa cơ chế hệ thống khoa học - công nghệ và cơ cấu nền kinh tế theo hướng: - Bố trí và phân bổ đội ngũ các nhà khoa học- công nghệ sao cho đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành và sát với địa bàn hoạt động kinh tế. - Khắc phục sự lệch pha về đầu tư và xác định hướng ưu tiên phát triển công nghệ. 2.2. Giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo Mở rộng quy mô giáo dục - đào tạo Do có một lực lượng lớn lao động chưa qua đào tạo nên năng suất lao động của nền kinh tế còn khá thấp, khả năng tiếp thu tiến bộ khoa học – công nghệ còn hạn chế… và do đó ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của hàng hoá được làm ra. Đặc biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp sản xuất còn dựa vào sức người là chính nên hiệu quả kinh tế rất thấp. Để mở rộng quy mô đào tạo cần: + Tăng cường đầu tư cho giáo dục – đào tạo từ nguồn năng suất. + Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục. + Tận dụng và nâng cao hiệu quả của các hình thức đào tạo từ xa để nâng cao trình độ dân trí và kỹ năng của người lao động. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo sao cho khắc phục được tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” theo hướng: + Mở rộng hệ thống giáo dục dạy nghề và trung học chuyên nghiệp phải gắn liền với đa dạng hoá loại hình đào tạo. + Khắc phục sự bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo theo ngành, điều chỉnh cơ cấu đào tạo lại so với cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng đào tạo Hiện nay, chất lượng đào tạo ở hệ thống giáo dục - đào tạo ở nước ta thấp. Hậu quả của chất lượng thấp này là những nguồn lực được đào tạo ra trường tỏ ra không đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của hoạt động kinh tế và của thị trường lao động. Dưới đây là một số biện pháp cơ bản: - Tiến hành đổi mới nội dung giáo dục - đào tạo theo hướng: + Xây dựng một chương trình học ở bậc phổ thông hợp lý và thiết thực. + Trên tinh thần gắn việc học với cuộc sống, với xã hội, áp dụng trong giáo dục phổ thông, ngay từ tiểu học, những hiểu biết và những kỹ năng theo bốn yếu tố: hiểu biết về bản thân mối quan hệ với lao động; hiểu biết về thế giới lao động; học về kỹ năng chọn nghề và ra quyết định; học về kỹ năng thực hiện quyết định chọn nghề và sự quá độ sang hành nghề. + Ở bậc giáo dục tiểu học và trung học phổ thông, tập trung phát triển những năng lực làm bệ đỡ cho nền học tập suốt đời. Ở bậc đại học, tập trung trang bị cho sinh viên những tri thức của một xã hội dựa vào thông tin. - Tiến hành đổi mới phương thức giáo dục – đào tạo theo hướng: + Phát huy tính tự học, tự nghiên cứu của người học, rút ngắn thời gian học trên lớp và tăng thời gian tự học của học sinh, sinh viên. + Gắn đào tạo của nhà trường với hoạt động của nhà máy, doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên có điều kiện xâm nhập từ xa, có định hướng về các hoạt động của mình trong tương lai. 3. Tiếp tục hoàn thiện các chính sách kinh tế (tài chính, tiền tệ) nhằm tạo môi trường nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế 3.1. Giải pháp đối với lĩnh vực ngân hàng - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo lập hành lang pháp lý có hiệu lực, đảm bảo an toàn, bình đẳng cho mọi tổ chức tài chính, ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. - Từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của ngân hàng Nhà nước nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả điều hành vĩ mô. - Thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng theo lộ trình đã được phê duyệt nhằm sớm hình thành những ngân hàng lớn, có uy tín, có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. - Nhanh chóng thực hiện các biện pháp tái cơ cấu như cổ phần hóa, phát hành cổ phiếu lần đầu.. cho các ngân hàng. - Từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ hiện có. Thực hiện các biện pháp nhằm thu hút lực lượng lao động có trình độ, có năng lực trên thị trường nhân sự hiện nay. - Tăng cường hợp tác quốc tế dưới nhiều hình thức nhằm học hỏi kinh nghiệm quản lý, công nghệ quản trị của các ngân hàng hàng đầu. Tranh thủ sự hỗ trợ của các thể chế tài chính quốc tế, tận dụng những ưu đãi của các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng dành cho các nước đang phát triển. - Mỗi ngân hàng thương mại cần xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện mới, xây dựng các quy chế quản lý và điều hành phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Trước mắt, các ngân hàng thương mại tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau: + Tăng vốn và cải thiện cơ cấu vốn: mở rộng phạm vi và các hình thức huy động như mở tài khoản phát hành séc và phiếu mua hàng, séc quà tặng. Ngân hàng có thể kết hợp với nhiều doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ để phát hành các phiếu mua hàng với nhiều mệnh giá và thời gian linh hoạt. Tiếp tục xây dựng mới các điểm thanh toán tự động và đồng bộ hóa công nghệ thanh toán giữa các ngân hàng với nhau. Đơn giản hóa các thủ tục cho vay và trả góp, các ngân hàng ký hợp đồng với các doanh nghiệp để cung ứng các hàng hóa giá trị lớn (bất động sản, động sản có giá trị lớn) theo hình thức trả góp với thế chấp chính là tài sản đó. Các ngân hàng cũng có thể ký các hợp đồng mua sắm trong tương lai theo hình thức ba bên (ngân hàng – khách hàng – doanh nghiệp cung ứng sản phẩm) nhằm thu hút những khoản tiết kiệm dài hạn. + Đổi mới, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng: đầu tư đồng bộ hạ tầng công nghệ và các phần mềm chuyên ngành nhằm giảm thời gian luân chuyển chứng từ và thời gian thanh toán, nhất là với các ngân hàng thương mại quốc doanh. Từng bước tự động hóa một số khâu giao dịch, nhất là các giao dịch cần thời gian ngắn như thanh toán các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Song song với hiện đại hóa công nghệ là việc chuyển đổi, hoàn thiện hệ thống kế toán theo các tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán quốc tế. Sự đồng bộ về hệ thống kiểm toán, kế toán sẽ tạo thuận lợi trong hợp tác, liên doanh với các đối tác nước ngoài. + Cải thiện chất lượng kinh doanh và khả năng tài chính, tập trung vào bốn nội dung chính: (i) Tăng quy mô vốn và tập trung nguồn vốn cho kinh doanh; (ii) Bổ sung vốn chủ sở hữu từ phần lợi nhuận thu được; (iii) Thanh lý những tài sản không trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh doanh chính. Trong giai đoạn đầu, khi nguồn vốn chủ sở hữu chưa lớn, các ngân hàng thương mại cần thanh lý những tài sản giá trị lớn nhưng không tham gia vào hoạt động kinh doanh hoặc những tài sản mang tính đầu tư dài hạn như bất động sản; (iv) Giải quyết tình trạng dư nợ, đưa về tỷ lệ an toàn, từng bước thực hiện các giao dịch (nhất là đối với khu vực doanh nghiệp và Nhà nước) trên nguyên tắc thị trường; phân loại mức độ rủi ro các khoản nợ quá hạn và ngăn chặn những khoản nợ xấu mới có thể phát sinh. 3.2. Chính sách tỷ giá Điều hành tỷ giá trong mối quan hệ với lãi suất, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thanh toán quốc tế; điều chỉnh linh hoạt tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng tăng hoặc giảm ở mức độ hợp lý, phù hợp với tín hiệu thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước, không phá giá đồng Việt Nam so với đô la Mỹ. Đảm bảo cân bằng cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối: - Phát triển thường xuyên, hiệu quả thu hút tín dụng thương mại, nhập khẩu trả chậm là một giải pháp tốt cho cân đối cung cầu ngoại tệ. - Tăng cường công tác quản lý ngoại hối, hoàn thiện cơ chế quản lý hiện hành. + Tập trung ngoại tệ vào ngân hàng. + Đổi mới cơ chế quản lý ngoại tệ đối với dân cư thuộc diện người cư trú, xử lý vấn đề về quyền sở hữu ngoại tệ hợp pháp gửi tại ngân hàng, chứ không có quyền cất giữ ngoại tệ tiền mặt tại gia đình. + Thực hiện quyết liệt, thường xuyên việc kiểm tra, kiểm soát các hoạt động mua bán ngoại tệ tiền mặt tại thị trường chợ đen, việc xuất nhập khẩu vàng lậu; mọi việc công bố, yết giá bằng ngoại tệ trên thị trường nội địa Việt Nam phải hoàn toàn chấm dứt. 4. Tạo môi trường chính trị - xã hội và pháp lý thuận lợi, cải cách hành chính và tăng cường vai trò của Nhà nước, Chính phủ 4.1. Tạo môi trường chính trị - xã hội và pháp lý ổn định, thuận lợi Một là, giữ vững ổn định chính trị - xã hội Chúng ta đều đã nhận thức khá rõ một môi trường chính trị ổn định, các thiết chế chính trị và pháp luật vững chắc đóng vai là những điều kiện tiên quyết quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nói chung và cạnh tranh nói riêng. Trong điều kiện cạnh tranh diễn ra gay gắt trên thị trường trong nước và nước ngoài, sự ổn định chính trị - xã hội có thể được xem là một lợi thế so sánh cần phát huy. Để giữ vững và tăng cường hơn nữa sự ổn định chính trị - xã hội cần phải: + Tiếp tục đổi mới hơn nữa về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tư tưởng, đặc biệt là đổi mới hệ thống chính trị, cải cách nền hành chính quốc gia. Yếu tố quyết định sự thành công đó là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước của dân, do dân và vì dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh; kịp thời ngăn chặn mọi âm mưu của các thế lực phản động, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia… từng bước đi lên xã hội chủ nghĩa. + Cùng với sự ổn định chính trị là chính sách ngoại giao mềm dẻo, đảm bảo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ với khẩu hiệu “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Việc mở rộng quan hệ ngoại giao là tiền đề cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại” [5, 197]. Hai là, xây dựng khuôn khổ pháp lý cho các chủ thể kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Xây dựng khuôn khổ pháp lý mang tính chất tạo môi trường cho các chủ thể nâng cao sức cạnh tranh là vấn đề cực kỳ quan trọng. Điều đó đòi hỏi phải đảm bảo quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh của các chủ thể kinh tế. - Hoàn thiện và đảm bảo quyền tự do lựa chọn ngành nghề hay tự do gia nhập hoặc rời ngành đang kinh doanh, đang cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, chúng ta cần: + Quy định lại quy chế chuyển đổi hình thức pháp luật của doanh nghiệp. Có thể tiếp cận sự chuyển đổi này bằng cách ghi nhận sự chuyển đổi nếu doanh nghiệp đáp ứng được các điều kiện của loại hình doanh nghiệp mới theo quy định của pháp luật. + Bổ sung, sửa đổi quy định về vốn pháp định. - Hoàn thiện và đảm bảo quyền tự chủ, quyền tự do liên doanh, liên kết trong các hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế. 4.2 Cải cách nền hành chính quốc gia, tăng cường vai trò Nhà nước nhằm đảm bảo nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Cải cách hành chính Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới công tác xây dựng thể chế, trước hết là thể chế kinh tế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực; đảm bảo trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế - xã hội. Thứ hai, kiện toàn hợp lý tổ chức bộ máy Nhà nước bao gồm: - Đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động và quy chế làm việc của các cơ quan nhà nước để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ. - Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cấp, từng tổ chức, từng cá nhân, khắc phục tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn, chậm trễ trong công việc. - Kiện toàn bộ máy và tinh giản biên chế một cách cơ bản. Thứ ba, đào tạo, nâng cao năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức - Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức với chương trình, nội dung sát hợp và thực tế. - Thực hiện quy chế tuyển chọn, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật. Thực hiện nguyên tắc người phụ trách công việc có quyền và trách nhiệm trong việc tuyển chọn, sử dụng cán bộ, công chức dưới quyền. - Thanh lọc những người quan liêu, vô trách nhiệm và những kẻ tham nhũng trong cơ quan Nhà nước. - Tăng cường giáo dục và kiển tra việc thực hiện công vụ của cán bộ, công chức đi đôi với cải cách tiền lương. Tăng cường đổi mới vai trò của Nhà nước Một là, cần phải đổi mới tư duy và phương thức hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước Hai là, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế bao gồm: + Tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường. + Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế. + Đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch hóa. + Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách tài chính - tiền tệ và giá cả. + Nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước. Ba là, đẩy mạnh hoạt động thông tin nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường khu vực và quốc tế. Đối với các doanh nghiệp thì việc thu thập đủ thông tin và xử lý đúng thông tin là công cụ quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường. Bởi vì, có đủ thông tin nhà sản xuất mới biết sản xuất cái gì? Bán ở đâu? Và sản xuất bằng cách nào? Hơn thế nữa, đủ thông tin và xử lý đúng thông tin giúp cho chủ thể kinh doanh chớp lấy thời cơ trong kinh doanh hoặc phòng chống kịp thời những rủi ro có thể xảy ra. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà hiện nay các nhà quản lý kinh tế hiện đại xem thông tin là một yếu tố của quá trình sản xuất – kinh doanh mà thiếu nó không thể tiến hành sản xuất một cách bình thường được. Đặc biệt, điều đó lại càng quan trọng hơn trong sự bùng nổ thông tin hiện nay. KẾT LUẬN Sau hơn 20 đổi mới, nước ta đã có những thay đổi lớn về nhiều mặt trong lĩnh vực kinh tế, từ chỗ kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước ngoặt đã làm thay đổi toàn bộ bộ đời sống kinh tế của dân ta. Từ chỗ đói nghèo, không đủ ăn nay chúng ta đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế, lương thực, thực phẩm và nhiều sản phẩm khác không những đáp ứng được tiêu dùng trong nước mà còn được xuất khẩu ra nước ngoài. Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa, tất cả các quốc gia đều có xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều tổ chức kinh tế được thành lập với sự tham gia của nhiều nước khác nhau. Trong đó WTO là tổ chức thương mại lớn nhất, có quy mô toàn cầu. Gia nhập WTO là mục tiêu của nhiều quốc gia trên thế giới để phát triển kinh tế. Việt Nam với quan điểm mở rộng, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, với các tổ chức quốc tế và khu vực....Gia nhập vào tổ chức này là cơ hội lớn để Việt Nam phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cần nhận thức được rằng gia nhập vào WTO không phải là hoàn toàn thuận lợi cho nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia mà bên cạnh những cơ hội thì cũng tồn tại nhiều thách thức đòi hỏi Việt Nam cần phải vượt qua. Trải qua hơn 3 năm Việt Nam tham gia vào WTO, những thành tựu mà chúng ta đạt được là đáng kể, tuy nhiên bên cạnh đó vần tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết. Vì vậy, chúng ta phải luôn có giải pháp thích hợp vào từng thời điểm, từng giai đoạn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần phát triển kinh tế, theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách tham khảo 1. Lê Xuân Bá, Doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2006. 2. Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, Văn kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), Nhà xuất bản lao động xã hội, 2007. 3. Ban Thư ký Khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương, Khi Việt Nam đã vào WTO, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2007. 4. Nguyễn Khương Bình, WTO với doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội và thách thức hậu gia nhập WTO, Nhà xuất bản lao động, 2006. 5. Chu Văn Cấp, Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2003. 6. Vũ Thị Hiền – Nguyễn Hữu Khải, Các ngành dịch vụ Việt Nam năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản thống kê, 2007. 7. Hồ Đức Hùng, Kinh tế Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững, Nhà xuất bản thông tấn, 2007. 8. Bùi Văn Huyền – Ngô Quang Minh, Kinh tế Việt Nam sau một năm gia nhập WTO, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2008. 9. Vũ trọng Lâm, Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2006. 10. Trần Sửu, Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa, Nhà xuất bản lao động, 2006. 11. Trần Thu Thảo, Toàn cảnh tiềm lực kinh tế Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Nhà xuất bản lao động, 2008. 12. Nguyễn Hữu Thắng, Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2008. 13. Nguyễn Xuân Thắng, Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 2007. 14. Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Sổ tay về các quy định của WTO và cam kết gia nhập của Việt Nam, Nhà xuất bản đại học kinh tế quốc dân, 2007. 15. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Nhà xuất bản giao thông vận tải, 2003. Tạp chí 1. Nguyễn Ngọc Bảo, Cơ chế điều hành lãi suất và sự ổn định của thị trường tiền tệ, Tạp chí Tài chính, số 539, tháng 10/2009. 2. Vũ Khoan, Nhìn lại tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 223, tháng 5/2009. 3. Nguyễn Duy Lộ, Góp phần bàn về chủ trương, giải pháp quản lý ngoại hối để bình ổn tỷ giá ngoại tệ Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 24, tháng 12/2009. 4. Lê Xuân Trường, Công tác thuế năm 2008 – những ấn ượng mạnh mẽ, Tạp chí Tài chính, số 531, tháng 1/2009. 5. Thanh Văn, Tình hình thực hiện tài chính – ngân sách năm 2009, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện năm 2010, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 463, tháng 12/2009. Các trang web 1. Trang web của Bộ Lao động Thương binh Xã hội: www.molisa.gov.vn. 2. Trang web của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc: www.undp.org. 3. Trang web của Cục sở hữu công nghiệp Việt Nam: www.noipvietnam.com 4. Trang web của Diễn đàn kinh tế thế giới: www.weforum.org. 5. Trang web của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn. 6. Trang web của Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn. 7. Trang web của Tổng cục thuế Việt Nam: www.gdt.gov.vn. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25598.doc
Tài liệu liên quan