Luận văn Các giải pháp mở rộng tín dụng phát triển và đổi mới công nghệ tại NHCT Đống Đa

Qua phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh của NHCT Đống Đa, ta thấy những kết quả đạt được của NHCT Đống Đa rất đáng biểu dương. NHCT Đống Đa đã bước đầu thành công trong nền kinh tế thị trường, đổi mới hoạt động ngân hàng và trở thành chi nhánh ngân hàng đạt hiệu quả cao nhất trong hệ thống NHCT Việt nam. Những kết quả đạt được bước đầu đã khẳng định những chính sách quan trọng của NHCT Đống Đa là đúng đắn. Cùng với sự biến đổi không ngừng của môi trường kinh doanh, NHCT Đống Đa cũng phải luôn luôn đổi mới hoạt động. Đây là điều kiện tiên quyết để duy trì, phát triển và thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ ngân hàng là : “kinh tế phát triển, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật, lợi nhuận hợp lý”. Luận văn với đề tài : “Các giải pháp góp phần mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ tại NHCT Đống Đa ” đã cố gắng đi sâu vào tìm hiểu, phân tích những kết quả của tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ tại NHCT Đống Đa và đã áp dụng kiến thức marketting ngân hàng để phân tích môi trường kinh doanh, từ đó đề ra giải pháp. Luận văn này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu định hướng mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ. Để thực hiện chiến lược này có hiệu quả cần phải hoạch định một hệ thống kế hoạch cụ thể chi tiết và đòi hỏi nghiên cứu sâu hơn. Hơn nữa, do thời gian thực tập có hạn, trình độ còn hạn chế nên luận văn này không tránh khỏi những sai sót.Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của thầy cô và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo, PTS Lê Đức Lữ. Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cán bộ Phòng Tín dụng công nghiệp NHCT Đống Đa và cô Nguyễn Lê Phương đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này.

doc85 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1050 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp mở rộng tín dụng phát triển và đổi mới công nghệ tại NHCT Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i ở mức nào vẫn chưa được quyết định. Thứ hai : quá trình ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất thường phải có thời gian dài thì mới cho ra được sản phẩm và có hiệu quả. Nếu chỉ cho vay ngắn hạn thì bất hợp lý vì nhiều khi việc ứng dụng khoa học công nghệ đang được triển khai nhưng chưa có kết quả thì đã phải trả nợ. Trong khi đó, nếu cho vay trung và dài hạn thì thời gian cho vay nên kéo dài bao lâu vì vòng đời của công nghệ sản xuất ngày càng bị rút ngắn. Thứ ba : Đối tượng vay vốn ứng dụng khoa học công nghệ rất khó bảo đảm vấn đề tài sản thế chấp. ứng dụng khoa học công nghệ có độ rủi ro rất cao trong khi các tổ chức vay vốn, chủ yếu là các cơ sở nghiên cứu triển khai vẫn phải dựa vào nguồn vốn ngân sách nhà nước. Nếu ngân hàng yêu cầu phải có tài sản thế chấp mới cho vay thì rõ ràng là đối tượng vay vốn không thể đáp ứng yêu cầu này. Nhưng nếu không yêu cầu tài sản thế chấp thì khả năng mất toàn bộ vốn cho vay của ngân hàng rất cao. Ngoài ra, ngân hàng còn gặp khó khăn trong quá trình thẩm định người vay như tư cách pháp nhân, vốn tự có tham gia dự án. Thứ tư : Khoa học công nghệ là lĩnh vực hết sức rộng lớn, mang tính chất chuyên sâu nên cán bộ tín dụng ngân hàng chưa đủ kiến thức, kinh nghiệm để thẩm định về mặt kỹ thuật của dự án. Do đó, vấn đề này phải thuộc về trách nhiệm của người chủ đề tài, của người chấp nhận ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Nhưng hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể nào về trách nhiệm của những cá nhân, tổ chức đó. Thứ năm : những nhân tố ở cấp vĩ mô có ảnh hưởng rất quan trọng đến ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và đổi mới công nghệ nhưng cho đến nay, sự ngành ngân hàng vẫn chưa nhận được sự hợp tác, phối hợp hoạt động của các bộ, các ngành có liên quan. Thứ sáu : hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học khoa học công nghệ vào sản xuất còn dàn trải, chưa tập trung vào những lĩnh vực mũi nhọn, có khả năng triển khai ứng dụng. Đầu tư của nhà nước cho khoa học công nghệ còn thấp, chỉ xấp xỉ 1% tổng chi ngân sách nhà nước, tương đương với 0,2% GDP. Thứ bảy : cho vay ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất là lĩnh vực có rủi ro rất lớn nhưng cho đến nay vẫn chưa có cơ chế bù đắp rủi ro do những nguyên nhân khách quan. Thứ tám : các chính sách ưu đãi của nhà nước thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và tăng đầu tư đổi mới công nghệ chậm được ban hành . Chương III Các giải pháp mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ I Định hướng hoạt động tín dụng đổi mới và phát triển công nghệ tại NHCT Đống Đa Qua phân tích thực trạng tín dụng NHCT Đống Đa, chúng ta thấy những kết quả đạt được của ngân hàng là rất lớn. NHCT Đống Đa đã giải quyết tương đối tốt những vấn đề có liên quan đến mở rộng tín dụng trung và dài hạn. Không thể phủ nhận được những đóng góp của tập thể cán bộ nhân viên ngân hàng đã đưa NHCT Đống Đa trở thành ngân hàng tốt nhất trong hệ thống NHCT Việt nam. Tuy nhiên, trong kinh tế thị trường, mọi tổ chức kinh doanh muốn tồn tại và phát triển đều phải đổi mới để thích ứng với môi trường, hoàn cảnh. NHCT Đống Đa không phải là trường hợp ngoại lệ. Để thực hiện nhiệm vụ ngân hàng là “ kinh tế phát triển, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật, lợi nhuận hợp lý “, với mục tiêu trở thành một ngân hàng mạnh không những trong hệ thống NHCT Việt nam mà cả hệ thống ngân hàng, NHCT Đống Đa không thể không đổi mới. Từ những phân tích những yếu tố môi trường kinh doanh của ngân hàng ở chương I và chương II, ta có thể đi đến kết luận rằng mở rộng tín dụng đổi mới và phát triển công nghệ là một hướng đi đúng của NHCT Đống Đa . Tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ bao gồm những hình thức như cho vay nhập khẩu công nghệ, mua công nghệ trong nước, cho vay ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Trong lĩnh vực ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, ngân hàng chỉ tài trợ cho nghiên cứu ứng dụng mà không tài trợ cho nghiên cứu cơ bản bởi lẽ nghiên cứu cơ bản đòi hỏi phải đầu tư lớn, thu hút nhiều chất xám, thời gian kéo dài và khả năng thành công không lớn. Mục đích đặt ra đối với tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ tại NHCT Đống Đa là : - Củng cố và phát triển mối quan hệ với khách hàng. - Mở rộng các hình thức tín dụng khác - Tăng lợi nhuận trong dài hạn. Quan điểm về cho vay đổi mới công nghệ là: - Tăng cường tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ với trọng tâm là nhập khẩu công nghệ thích hợp để đáp ứng nhu cầu bức xúc của doanh nghiệp. - Nghiên cứu, thực hiện giải pháp cho vay ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất . - Lấy hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn để mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ. - Thực hiện đầu tư có trọng điểm, đầu tư vào những ngành nghề có triển vọng phát triển, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. - Mở rộng cho vay đối với các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó khách hàng quốc doanh vẫn là khách hàng quan trọng nhất nhằm thực hiện chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. - Tăng cường tài trợ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. - Cũng cố uy tín, vị trí của NHCT Đống Đa trên địa bàn truyền thống, từng bước mở rộng địa bàn hoạt động. II Một số giải pháp mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ tại NHCT Đống Đa 1. Giải pháp đối với NHCT Đống Đa 1.1 Ngân hàng cần có hình thức huy động vốn thích hợp và đa dạng hoá hình thức huy động vốn. Để đáp ứng nhu cầu tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ, NHCT Đống Đa cân có hình thức huy động vốn phù hợp. Các dự án đổi mới công nghệ có thời gian hoàn vốn dài nên tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ chủ yếu là tín dụng trung và dài hạn. Hiện nay, ngân hàng vẫn dùng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho dự án đổi mới công nghệ. Như vậy, ngân hàng sẽ đứng trước rủi ro lãi suất và rủi ro mất khả năng thanh toán. Nhưng điều đó không có nghĩa là chính sách này của ngân hàng hoàn toàn sai lầm. Bởi lẽ, trong thời gian qua, lãi suất huy động liên tục giảm từ 0,75%/tháng năm 1999 đến 0,65%/tháng năm 2001 đối với loại kỳ hạn 3 tháng. Nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng với tốc độ nhanh trong khi tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn vẫn còn thấp. Rủi ro lãi suất và rủi ro mất khả năng thanh toán không xảy ra. Tuy nhiên, tình hình sẽ khác đi khi ngân hàng tăng cường tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ trong những năm tiếp theo. Tỉ lệ lạm phát đang có xu hướng tăng lên . Năm 2001, tỉ lệ lạm phát đạt 9,2% .Rất có thể lãi suất huy động sẽ tăng để đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền và rủi ro lãi suất sẽ xảy ra. Hơn nữa, trong năm 2001, tổng doanh số cho vay đã vượt quá tổng nguồn vốn huy động. Nguồn vốn huy động ngắn hạn không còn dư thừa như trước nữa. Nếu ngân hàng mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ, ngân hàng sẽ phải phụ thuộc chặt chẽ vào nguồn vốn của NHCT Việt nam và rủi ro thanh toán sẽ tăng lên. Do đó, ngay từ bây giờ, NHCT Đống Đa cần phải huy động nguồn vốn trung và dài hạn. Ngân hàng sẽ sử dụng toàn bộ nguồn vốn này để tài trợ cho các dự án đổi mới công nghệ. Huy động vốn trung và dài hạn mặc dù rất cần thiết nhưng thật không đơn giản. Trong những năm qua, mặc dù tiền gửi ngắn hạn của dân cư vào hệ thống ngân hàng tăng lên rất nhanh nhưng nhìn chung, người dân vẫn còn ngần ngại gửi tiền trung và dài hạn. Điều đó chứng tỏ những hình thức huy động tiền gửi trung và dài hạn vẫn chưa hấp dẫn. Ngân hàng chỉ có thể thu hút tiền gửi trung và dài hạn khi người dân có tiền tiết kiệm để dành trong thời gian dài. Mục đích tiết kiệm của mỗi người khác nhau nhưng ta có thể phân thành hai nhóm sau : Thứ nhất : tích luỹ tiền để mua, đầu tư vào những tài sản có giá trị lớn như mua hàng tiêu dùng lâu bền, mua và xây dựng nhà cửa... Mục đích của nhóm người này gửi tiền vào ngân hàng là thường thiên về mục tiêu sinh lợi. Nhóm khách hàng này rất nhạy cảm với lãi suất. Nếu ngân hàng đưa ra mức lãi suất huy động hấp dẫn thì lượng tiền gửi của nhóm này sẽ tăng nhiều. Thứ hai : để dành cho chi tiêu sau này, để dành cho tuổi già, cho người thân... Mục đích của nhóm khách hàng này khi gửi tiền vào ngân hàng thường thiên về an toàn tiền gửi, bảo toàn giá trị của tiền gửi. Nhóm khách hàng này phản ứng với lãi suất không nhạy cảm bằng nhóm khách hàng trên. Để huy động vốn trung và dài hạn, NHCT Đống Đa cần thực hiện những biện pháp sau : Bước 1 : tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, tại các quầy tiết kiệm... giới thiệu với người dân về hình thức huy động tiền gửi trung và dài hạn tại ngân hàng. Lãi suất huy động được đặt ra theo nguyên tắc : lãi suất huy động ngắn hạn < lãi suất huy động trung và dài hạn < lãi suất cho vay trung và dài hạn - phí ngân hàng. Biện pháp này rất dễ áp dụng. Ngân hàng chỉ cần bỏ ra chi phí quảng cáo, trả lãi suất huy động trung và dài hạn cao hơn so với lãi suất huy động ngắn hạn. Ngược lại, ngân hàng sẽ huy động được tiền gửi trung và dài hạn, từng bước xây dựng cơ cấu vốn hợp lý tại ngân hàng. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động trung và dài hạn sẽ không nhiều vì biện pháp trên vẫn chưa thực sự thoả mãn tốt nhu cầu của người gửi tiền. Đây là biện pháp mà NHCT Đống Đa nên áp dụng trong thời gian tới vì chi phí bỏ ra tương đối thấp, đơn giản và phù hợp với giai đoạn thử nghiệm. Bước 2 : khi nhu cầu tín dụng đổi mới công nghệ tăng lên và nguồn vốn trung và dài hạn huy động được vẫn không đủ, NHCT Đống Đa cần áp dụng những biện pháp mạnh hơn nữa. Giải pháp 1 : ngân hàng tăng lãi suất huy động trung và dài hạn Lãi suất huy động tăng sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn. Khi tăng lãi suất huy động, ngân hàng có 3 sự lựa chọn. Một là : giữ nguyên lãi suất cho vay để đảm bảo mở rộng tín dụng. Doanh số cho vay trung và dài hạn tăng dẫn đến chi phí ngân hàng trên 1 đồng vốn cho vay giảm. Lợi nhuận ngân hàng vẫn tăng mặc dù thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Hai là : tăng lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay tăng sẽ có thể làm giảm doanh số cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, đây là giải pháp thường được lựa chọn khi lãi suất ngắn hạn tăng. Ba là : trong trường hợp được NHNN cho phép, NHCT Đống Đa có thể giữ nguyên lãi suất cho vay nhưng áp đặt một khoản phí vào các dự án vay vốn theo mức độ rủi ro cao. Thu nhập trên một đồng vốn cho vay đổi mới và phát triển công nghệ sẽ tăng. Giải pháp 2 : gắn lãi suất huy động với chỉ số lạm phát, chỉ số tăng giá ngoại tệ và chỉ số tăng giá vàng Tâm lý chung của người dân khi gửi tiền vào ngân hàng là e ngại đồng tiền bị mất giá. Để tăng lượng tiền gửi trung và dài hạn, NHCT Đống Đa phải đảm bảo giá trị thực của khoản tiền gửi. Ngân hàng có thể thực hiện những biện pháp sau : Một là : đảm bảo giá trị thực theo chỉ số lạm phát. Ngân hàng đưa ra hình thức huy động trong đó lãi suất tiền gửi sẽ được gắn với chỉ số lạm phát. Ví dụ : ngân hàng đưa ra lãi suất thực 3% năm. Nếu sau 1 năm tỷ lệ lạm phát là 7% thì ngân hàng sẽ trả cho người gửi tiền với lãi suất danh nghĩa là 10%. Hai là : đảm bảo giá trị bằng USD. Ngân hàng đưa ra hình thức huy động trong đó lãi suất tiền gửi gắn với tốc độ tăng của USD so với VNĐ. Ví dụ: ngân hàng đưa ra mức lãi suất là 5% cộng với tốc độ tăng của tỷ giá hối đoái. Nếu sau 1 năm, tỷ giá hối đoái tăng 10% thì ngân hàng phải trả lãi 15%. Ba là : đảm bảo giá trị bằng vàng. Mặc dù những biện pháp trên đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người gửi tiền, cho phép huy động được lượng tiền gửi trung và dài hạn lớn nhưng ngân hàng chỉ nên thực hiện những biện pháp này vào thời điểm thích hợp nào đó. Ví dụ: nếu ngân hàng đưa ra hình thức huy động tiền gửi có bảo đảm bằng vàng tại thành phố Hà Nội hiện nay là không hợp lý. Giá vàng trong nước cũng như quốc tế có xu hướng giảm. Người dân thành phố có thể thấy trước là họ sẽ bị thua thiệt khi gửi tiền theo hình thức này. Hình thức huy động tiền gửi gắn với chỉ số lạm phát và tỷ giá hối đoái sẽ thu hút tiền gửi nhiều hơn vì đối với người dân, chỉ số lạm phát và tỷ giá hối đoái rất khó dự đoán. Mặt khác, lượng ngoại tệ trong dân cư còn nhiều nên ngân hàng có thể hy vọng người dân sẽ bán ngoại tệ đi để gửi tiền vào ngân hàng theo hình thức bảo đảm giá trị theo tỷ giá hối đoái. Nhưng nếu tỷ giá hối đoái và lạm phát tăng nhanh thì ngân hàng sẽ chịu thiệt hại lớn. Mặt khác, nếu người dân nhận được tiền lãi thấp hơn nhiều so với tiền lãi mà đáng lẽ họ được hưởng khi gửi tiền theo phương thức không gắn với bất kỳ chỉ số nào thì tâm lý người dân sẽ không được thoải mái, uy tín ngân hàng giảm sút. Chính vì vậy, trước khi quyết định huy động vốn theo phương thức này, NHCT Đống Đa phải dự đoán tương đối chính xác tỉ lệ lạm phát và tỷ giá hối đoái trong những năm tiếp theo. Đây chỉ là giải pháp tình thế khi ngân hàng thiếu vốn trung và dài hạn và dự đoán tốt các chỉ số lạm phát, chỉ số tăng giá ngoại tệ so với nội tệ, chỉ số tăng giá vàng. Ngân hàng không nên huy động tiền gửi trung và dài hạn theo hình thức này thường xuyên nên cách tốt nhất là ngân hàng nên phát hành trái phiếu từng đợt. Giải pháp 3 : cho phép người gửi tiền được lựa chọn lãi suất khi đáo hạn. Theo giải pháp này, ngân hàng kết hợp giữa 2 hình thức, trong đó hình thức thứ nhất là người gửi tiền được hưởng lãi suất danh nghĩa không gắn với bất kỳ chỉ số nào và hình thức thứ hai là lãi suất gắn với chỉ số. Ngân hàng cho phép khách hàng được quyền lựa chọn 1 trong 2 mức lãi suất khi đáo hạn. Ví dụ : lãi suất huy động vốn trung và dài hạn trên thị trường là 12%/năm. Ngân hàng muốn huy động vốn có kỳ hạn 2 năm. Tỷ lệ lạm phát trung bình trong 2 năm được dự đoán ở mức 8% năm. Ngân hàng sẽ phát hành một loại trái phiếu đặc biệt, trong đó cho phép khách hàng được lựa chọn 1 trong 2 phương án khi đáo hạn. Một là : người chủ trái phiếu được hưởng lãi suất 11%/năm. Hai là : người chủ trái phiếu được hưởng lãi suất thực là 3%. Mức chênh lệch 12% - 11% =1% chính là khoản phí mà khách hàng phải bỏ ra để mua quyền lựa chọn. Khoản phí này phụ thuộc vào xác suất tỷ lệ lạm phát cao hơn 8%/năm. Tương tự, giả sử lãi suất ngoại tệ trên thị trường là 6%/năm. Ngân hàng phát hành trái phiếu, trong đó người chủ trái phiếu được lựa chọn 1 trong 2 phương án sau : Một là : người chủ trái phiếu được hưởng lãi suất 11% Hai là : người chủ trái phiếu được hưởng lãi suất 5% cộng với tốc độ tăng của USD so với VNĐ. Nếu biện pháp này được áp dụng, ngân hàng sẽ loại bỏ tâm lý tích trữ đồng đôla Mỹ của người dân. Ngân hàng có thể hy vọng người dân sẽ bán đôla Mỹ đi để mua trái phiếu ngân hàng. Tóm lại : đây là biện pháp mạnh, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dân. Nếu ngân hàng dự đoán tốt tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát, ngân hàng có thể giảm chi phí huy động vốn. Đồng thời, tâm lý của người dân cũng thoải mái vì họ được quyền lựa chọn sao cho có lợi nhất với họ. Nhưng nếu ngân hàng không dự đoán được tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái tương đối chính xác thì ngân hàng chỉ nên phát hành trái phiếu với tổng mệnh giá không lớn. 1.2 Hoàn thiện công tác kế hoạch hoá dài hạn Ngày nay, bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào muốn tồn tại và phát triển phải có hệ thống kế hoạch. Kế hoạch hoá là sự phác hoạ từ định hướng đến cụ thể, chi tiết hoạt động của tổ chức trong hiện tại và trong tương lai. Thành công của hoạt động ngân hàng phụ thuộc vào chất lượng kế hoạch hoá đó. Kế hoạch hoá vừa định hướng hoạt động ngân hàng, nêu những mục tiêu cần phải đạt tới, vừa nêu những biện pháp để đạt được mục tiêu. Nếu hệ thống kế hoạch hoá của ngân hàng không tốt, ngân hàng chỉ biết hoạt động của ngân hàng ngày hôm nay chứ không thể hình dung ra hoạt động ngân hàng trong tương lai. Ngân hàng luôn bị động trước những biến động của môi trường kinh doanh, không thể thích ứng kịp thời và hoạt động sẽ kém hiệu quả . Kế hoạch hoá là thành phần cơ bản của quá trình quản lý chiến lược ngân hàng. Mục đích của nó là xác định các mục tiêu dài hạn và đưa ra các kế hoạch cho quá trình hoạt động nhằm đạt được mục tiêu đó. Nội dung của kế hoạch hoá dài hạn của mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ là : - Nhiệm vụ ngân hàng: xác định cái mà ngân hàng hướng tới, là xuất phát điểm của kế hoạch hoá dài hạn. Nhiệm vụ ngân hàng được xây dựng căn cứ vào lịch sử ngân hàng, cơ cấu tổ chức của ngân hàng, trình độ ngân hàng và chất lượng, định hướng giá trị ban lãnh đạo - Mục tiêu : là sự mở rộng, cụ thể hoá nhiệm vụ và được thể hiện cụ thể. Các mục tiêu có thể được xác định theo khoản trên bảng cân đối, theo một số chỉ tiêu tính toán như ROI- mức doanh lợi đầu tư, ROA- mức doanh lợi của các tài sản có. Khi xây dựng mục tiêu phải phân tích các yếu tố kìm hãm và khả năng của môi trường, phân tích nguồn vốn bên trong. - Phân tích tình hình thị trường tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ: phản ánh tình hình môi trường nói chung và từng phân đoạn thị trường mà ngân hàng hoạt động. Phân tích thị trường bao gồm những nội dung sau: Một là : Xác định thị trường tín dụng đổi mới công nghệ Lựa chọn khách hàng Phát hiện các nhu cầu khách hàng Xác định sản phẩm đáp ứng nhu cầu khách hàng Đánh giá khả năng, tính hợp lý của ngân hàng khi đáp ứng nhu cầu đó. Xác định số vốn cần thiết để thoả mãn nhu cầu và tìm kiếm số vốn đó. Hai là : Đánh giá các đặc trưng của các nhóm khách hàng Đánh giá chỉ tiêu cạnh tranh Phân tích đặc trưng của môi trường. Quá trình quyết định của khách hàng khi sử dụng dịch vụ. Quá trình cung ứng dịch vụ tới khách hàng. Ba là : Đánh giá mức độ hấp dẫn của thị trường tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ Tốc độ phát triển hiện tại và tốc độ phát triển dự tính. Số lượng khách hàng. Sức mạnh tương đối của khách hàng. Tầm quan trọng của đổi mới công nghệ đối với khách hàng. Bốn là : Đánh giá mức độ đa dạng của tín dụng đổi mới công nghệ trên thị trường Chi phí để cung ứng dịch vụ. Chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, các chỉ tiêu so sánh khác. Các trở ngại khi tham gia cung ứng dịch vụ. Mức độ tập trung của đối thủ cạnh tranh. Phân tích xu hướng của các nhân tố ảnh hưởng. - Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến chiến lược mở rộng tín dụng đổi mới công nghệ. Trước hết, ngân hàng phát hiện các yếu tố tác động đến chiến lược ngân hàng thuộc môi trường vi mô và môi trường vĩ mô. Sau đó, ngân hàng sẽ phân tích ảnh hưởng của từng yếu tố đó tới chiến lược ngân hàng. - Đánh giá nguy cơ và khả năng của việc đạt được các mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra của ngân hàng. Trong bước này, ngân hàng thực hiện những công việc sau: Phát hiện các nguy cơ và khả năng Phát hiện điểm mạnh và điểm yếu của ngân hàng Phân tích ảnh hưởng chéo nhau của các nguy cơ và khả năng, của điểm mạnh và điểm yếu của ngân hàng. - Chiến lược phát triển kinh doanh: xác định cần tập trung vào nhóm khách hàng nào, phản ánh các mục tiêu đặt ra đối với từng nhóm khách hàng và số vốn cần thiết cho việc đạt được mục tiêu đó. Trước khi đề ra chiến lược phát triển kinh doanh, ngân hàng sẽ dựa trên các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chiến lược, nhiệm vụ và mục tiêu ngân hàng, quan điểm ngân hàng và triển vọng phát triển, trình độ ngân hàng, mức độ rủi ro chấp nhận. Trên cơ sở đó, ngân hàng lựa chọn phương án chiến lược tăng trưởng, tăng trưởng hạn chế, hạn chế hoặc kết hợp cả 3 phương án. - Những yếu tố điều chỉnh trong chiến lược . Các yếu tố trên thị trường thay đổi bất ngờ. Vì thế những mục tiêu trong kế hoạch hoá tổng thể có thể không được thực hiện. Do đó, trong chiến lược phải có các tham số có thể được điều chỉnh trong quá trình thực hiện kế hoạch đó. - Các kết quả tài chính dự đoán. Kế hoạch hoá chiến lược chỉ thành công khi có sự coi trọng của lãnh đạo, thu hút được đội ngũ chuyên gia có kinh nghiêm trong lĩnh vực này, có một cơ sở thông tin dữ liệu đầy đủ. Hiệu quả của kế hoạch hoá dài hạn chỉ bộc lộ trong dài hạn. NHCT Đống Đa cần lập kế hoạch hoá dài hạn trước khi tình hình tài chính ngân hàng xấu đi, áp lực đối thủ cạnh tranh tăng lên và những tổn thất nghiêm trọng do không được kế hoạch hoá. 1.3 Cần phát triển chiến lược khách hàng trong cho vay đổi mới công nghệ Để đạt mục tiêu mở rộng tín dụng đổi mới công nghệ, NHCT Đống Đa phải lập chiến lược khách hàng. Chiến lược khách hàng chính là những bước đi cụ thể nhằm lôi kéo khách hàng mới, đáp ứng nhu cầu khách hàng về đổi mới và phát triển công nghệ, mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. Cán bộ tín dụng sẽ căn cứ vào chiến lược khách hàng để điều chỉnh hành động cho phù hợp với mục tiêu mở rộng tín dụng đổi mới công nghệ. NHCT Đống Đa cần lập chiến lược khách hàng theo các bước sau: a/ Lựa chọn khách hàng Trước hết, trong giai đầu mở rộng tín dụng đổi mới công nghệ, ngân hàng cần lựa chọn những khách hàng tốt và những khách hàng này sẽ trở thành những khách hàng chủ yếu của ngân hàng. Đó là những khách hàng có có tình hình tài chính lành mạnh, có nhiều tiềm năng sản xuất. Muốn thu hút được những khách hàng này, NHCT Đống Đa cần phân loại khách hàng. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại khách hàng nhưng NHCT Đống Đa nên dựa vào những tiêu thức sau: Thứ nhất : theo hình thức sở hữu. NHCT Đống Đa chia khách hàng của mình thành 2 nhóm : - Doanh nghiệp nhà nước,các viện nghiên cứu triển khai - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thực tiễn cho thấy, các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước thường có nhiều khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn tín dụng của ngân hàng hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chất lượng tín dụng ở nhóm các doanh nghiệp nhà nước bao giờ cũng cao hơn chất lượng tín dụng ở nhóm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thứ hai : Phân loại theo tình hình tài chính và tiềm năng sản xuất của khách hàng. NHCT Đống Đa cần phân loại theo tiêu thức này vì sau khi phân loại, ngân hàng sẽ biết rõ chỗ đứng, vị thế của từng doanh nghiệp, từ đó đưa ra cách sử lý thích hợp. Việc phân loại doanh nghiệp dựa trên hệ thống chỉ tiêu của doanh nghiệp trong 2-3 năm trước đó. Thứ hạng doanh nghiệp được đánh giá theo thang điểm.Ta có thể phân loại doanh nghiệp theo thứ hạng A,B,C,D. Doanh nghiệp loại A là những doanh nghiệp có năng lực tín dụng, có khả năng thanh toán cao, tình hình tài chính ổn định. Doanh nghiệp loại B là doanh nghiệp có tình hình tài chính khá ổn định, thực hiện các giải pháp phòng chống rủi ro, có triển vọng cải thiện hoạt động trong tương lai. Doanh nghiệp loại C là doanh nghiệp có những căng thẳng về tài chính, tiềm ẩn rủi ro, năng lực tín dụng hạn chế. Doanh nghiệp loại D là doanh nghiệp có độ rủi ro cao, không có khả năng thanh toán, nằm trên bờ vực phá sản. Ngân hàng tuyệt đối không cho loại khách hàng này vay. Ngân hàng phân tích tình hình tài chính dựa trên 4 nhóm chỉ tiêu: kết quả kinh doanh, mức độ tự chủ về tài chính, vòng quay vốn, khả năng thanh toán. Trong các chỉ tiêu đánh giá tiềm năng sản xuất của doanh nghiệp, ngân hàng cần chú ý đến các chỉ tiêu về phương hướng hoạt động công ty, hệ thống chiến lược - kế hoạch, vị trí trên thị trường, chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, đặc tính các luồng tiêu thụ sản phẩm của công ty. Ngân hàng cần phân tích cơ cấu nhân sự của doanh nghiệp, trong đó đặc biệt chú ý đến trình độ khoa học kỹ thuật của cán bộ nhân viên doanh nghiệp. Các chỉ tiêu có thể được cho điểm như sau : tốt được 1 điểm, trung bình được 2 điểm, xấu được 3 điểm. Sau khi cho điểm, ngân hàng có thể kết luận doanh nghiệp thuộc thứ hạng nào. Riêng đối với các Viện nghiên cứu triển khai, cần có một cách xếp loại khác. Viện nghiên cứu loại A là những viện nghiên cứu trực thuộc các Tổng công ty mạnh được xếp hạng cao hoặc có bảo đảm tín dụng. Viện nghiên cứu loại B là những viện nghiên cứu còn lại. Ngân hàng cần hướng mọi nỗ lực về phía các khách hàng tốt. Đó là các doanh nghiệp được xếp loại A, B. Đối với khách hàng thuộc loại C, ngân hàng cần thận trọng khi thẩm định phương án đổi mới công nghệ. b/ Tiếp xúc với khách hàng Sau khi lựa chọn xong khách hàng, công việc tiếp theo mà NHCT Đống Đa phải làm là tiếp xúc với khách hàng. Ngân hàng có thể thực hiện các phương pháp sau: - Quảng cáo hình thức tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ của ngân hàng đối với các doanh nghiệp, các viện nghiên cứu triển khai. - Gửi bưu phẩm đến doanh nghiệp để thông báo với khách hàng về dịch vụ ngân hàng. Hình thức này cho phép ngân hàng tiếp xúc rộng rãi, đúng đối tượng, tiết kiệm thời gian, tiền bạc. - Tổ chức buổi toạ đàm để giới thiệu về NHCT Đống Đa cũng như về hình thức tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ. Phương pháp này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ cao để giải thích, giới thiệu, trả lời khách hàng cũng như phải được chuẩn bị kỹ lưỡng. Những người được mời tham dự phải là những nhà quản trị cao cấp của doanh nghiệp. Phương pháp này có tính thuyết phục rất cao. - Tiếp xúc qua điện thoại. Bằng phương pháp này, ngân hàng có thể tiếp xúc trực tiếp trên diện rộng và có thể biết ngay kết quả sau khi tiếp xúc. - Tiếp xúc cá nhân : thường được sử dụng sau khi đã có thoả thuận sơ bộ về cuộc gặp mặt. Trong quá trình tiếp xúc cá nhân, cán bộ tín dụng cần chiếm được tình cảm, lòng tin của khách hàng. c/ Phát hiện nhu cầu của khách hàng Sau khi ngân hàng đã có những tiếp xúc ban đầu, cán bộ tín dụng cần chuẩn bị thông tin cho cuộc gặp gỡ chính thức để phát hiện nhu cầu của họ. Trong cuộc gặp gỡ chính thức, cán bộ ngân hàng cần thu thập thông tin về nhu cầu tín dụng nhằm đổi mới và phát triển công nghệ, các ngân hàng đang phục vụ khách hàng đó. Cán bộ tín dụng cần tìm hiểu mối quan hệ của doanh nghiệp với ngân hàng đang phục vụ, đánh giá mặt mạnh và mặt yếu của ngân hàng, khả năng thu hút khách hàng này của ngân hàng đó. Cần đánh giá mức độ trung thành của khách hàng với ngân hàng đó. Tiếp theo, cán bộ tín dụng cần xem xét lại NHCT Đống Đa có đủ khả năng lôi kéo khách hàng đó hay không. Cần phải phân tích những yếu tố như lãi suất, chất lượng dịch vụ, các dịch vụ bổ sung hiện tại của NHCT Đống Đa có ưu việt hơn ngân hàng đang phục vụ khách hàng hay không? Nếu muốn lôi kéo khách hàng này, NHCT Đống Đa phải bỏ chi phí bao nhiêu, có nên đưa ra mức lãi suất ưu đãi hay không, lợi nhuận dự tính thu được từ khách hàng này là bao nhiêu? Sau khi phân tích, cán bộ tín dụng sẽ quyết định NHCT Đống Đa nên hay không nên lôi kéo khách hàng này. d/ Lựa chọn chiến lược đối với khách hàng Sau bước phân loại, thiết lập mối quan hệ với khách hàng, NHCT Đống Đa cần đưa ra chiến lược đối với từng nhóm khách hàng. Ngân hàng cần phân tích khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên lĩnh vực tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ. Theo tôi, khả năng cạnh tranh của NHCT Đống Đa trên lĩnh vực này ở mức trung bình, không bằng Ngân hàng đầu tư phát triển và một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài nếu các chi nhánh này thoát khỏi khó khăn như đã đề cập ở chương II. Vì vậy, ngân hàng cần theo đuổi chiến lược như sau : Đối với khách hàng có độ hấp dẫn cao ( doanh nghiệp được xếp loại A ), mgân hàng cần duy trì, củng cố và phát triển mối quan hệ với nhóm khách hàng này. Muốn vậy, ngân hàng cần nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Đối với khách hàng có độ hấp dẫn trung bình ( doanh nghiệp được xếp loại B), ngân hàng cần phục vụ có chọn lọc nhóm khách hàng này. Đối với khách hàng có độ hấp dẫn thấp (doanh nghiệp được xếp loại C), ngân hàng chỉ nên duy trì hạn chế. Những phương án đổi mới công nghệ của nhóm khách hàng này cần được xem xét thận trọng và có thể yêu cầu bảo đảm tín dụng. Đối với các viện nghiên cứu - triển khai, ngân hàng có thể thực hiện chiến lược duy trì nếu như viện nghiên cứu - triển khai trực thuộc các Tổng công ty mạnh được xếp loại A, nghiên cứu ứng dụng theo đơn đặt hàng, và là viện nghiên cứu có uy tín cao. Nếu chỉ thoả mãn một trong 3 điều kiện trên thì ngân hàng áp dụng chiến lược phục vụ có chọn lọc. Sau khi lựa chọn chiến lược phù hợp với khách hàng, cần phải lập kế hoạch hành động đối với từng khách hàng. Trong kế hoạch này, ngân hàng cần xác định những yếu tố sau : - Mục tiêu : xác định mức cho vay đối với khách hàng đó, mức độ thoả mãn yêu cầu của khách hàng. - Biện pháp đạt mục tiêu : ngân hàng cần xác định nguồn vốn cho vay lấy từ đâu, cần phải làm gì để phục vụ yêu cầu khách hàng. - Kế hoạch lôi kéo khách hàng : ngân hàng căn cứ vào chiến lược khách hàng, phát hiện nhu cầu khách hàng để đưa ra kế hoạch lôi kéo khách hàng phù hợp nhất. 1.4 Vận dụng, đưa ra mức lãi suất một cách mềm dẻo, linh hoạt Lãi suất ngân hàng phụ thuộc vào nhiều nhân tố như nhu cầu khách hàng, lãi suất của đối thủ cạnh tranh, quy định của Chính phủ, chi phí hoạt động của ngân hàng, lãi suất huy động, lợi nhuận ngân hàng... Mục đích của việc thiết lập chính sách lãi suất là mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ, lợi nhuận hợp lý. Vì vậy, ngân hàng cần tìm mọi biện pháp giảm chi phí hoạt động, giảm lãi suất cho vay. Ngoài ra, ngân hàng có thể thực hiện những biện pháp sau : Thứ nhất :NHCT Đống Đa nên áp dụng chính sách phân biệt lãi suất cho từng đối tượng khách hàng. Đối tượng cần được xem xét giảm lãi suất là: - Những khách hàng được xếp loại A, có phương án đổi mới công nghệ khả thi và nhu cầu vay vốn lớn. - Những khách hàng truyền thống, có mối quan hệ lâu dài với ngân hàng. Ngân hàng nên giảm lãi suất cho những khách hàng này để khuyến khích sự trung thành của khách hàng với ngân hàng. Ngoài ra, để khuyến khích doanh nghiệp trả nợ ngân hàng đúng hạn, ngân hàng có thể đưa ra khoản chiết khấu đối với các doanh nghiệp này. Biện pháp này tương tự như cắt giảm lãi suất nhưng có tác dụng nâng cao chất lượng tín dụng . Doanh nghiệp chỉ được hưởng khoản tiền chiết khấu này khi đã trả xong nợ và tiền lãi cho ngân hàng. Đối với những dự án có độ rủi ro cao nhưng vẫn có thể chấp nhận, ngoài biện pháp thông thường là yêu cầu phải có bảo đảm tín dụng, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng trả thêm một khoản phí. Khoản phí này sẽ được đưa vào quỹ phòng ngừa rủi ro của ngân hàng. Thứ hai : ngân hàng áp dụng lãi suất biến đổi đối với các dự án đổi mới công nghệ cần vay vốn trung và dài hạn. Lãi suất biến đổi theo lãi suất thị trường sau một kỳ hạn trả tiền. Biện pháp này nếu được áp dụng thì NHCT Đống Đa có thể dùng một phần nguồn vốn ngắn hạn dư thừa để tài trợ cho dự án vay vốn trung và dài hạn vì rủi ro lãi suất sẽ không xảy ra. Biện pháp này có nhược điểm là doanh nghiệp không thể biết trước tiền lãi phải trả ngân hàng trong mỗi kỳ nên gây khó khăn cho việc lập kế hoạch trả nợ. Vì vậy, ngân hàng cần nghiêm cứu kỹ doanh nghiệp trước khi đưa ra hình thức này. Ví dụ, ngân hàng có thể áp dụng với các doanh nghiệp có lợi khi chỉ số lạm phát tăng. 1.5 NHCT Đống Đa cần ban hành các tài liệu tham khảo nội bộ Tài liệu tham khảo nội bộ là một văn bản bao gồm các tiêu chuẩn, hướng dẫn và các giới hạn để chỉ đạo quy trình nghiệp vụ cho vay. Chính sách tín dụng là một công cụ rất quan trọng trong việc liên lạc giữa nội bộ ngân hàng và là tài liệu hướng dẫn cán bộ tín dụng trong khi quá trình tín dụng, đặc biệt là các cán bộ tín dụng chưa có kinh nghiệm. Cán bộ tín dụng căn cứ vào tài liệu tham khảo để hành động cho phù hợp. NHCT Đống Đa nên lập tài liệu tham khảo không quá chi tiết đén mức hạn chế tính sáng tạo của cán bộ tín dụng. Tài liệu tham khảo được lập dựa trên kết quả của các bước trên và được xem xét lại hàng năm . Những nội dung chính của tài liệu tham khảo nội bộ là : a/ Nêu mục tiêu - Tăng trưởng tín dụng - Lợi nhuận - Chất lượng danh mục đầu tư: giữ cho khoản thua lỗ ở một tỷ lệ nhất định. - Phục vụ xã hội b/ Thiết lập mức độ thẩm quyền - Trách nhiệm của giám đốc - Trách nhiệm của cán bộ tín dụng c/ Các tiêu thức tín dụng - Quy định các khoản cho vay có thể chấp nhận được và không thể chấp nhận được. - Giới hạn các yếu tố tín dụng cần xem xét và đưa ra các quyết định cho vay. - Đưa ra danh mục tài sản thế chấp có thể chấp nhận được. d/ Các thủ tục kiểm soát - Miêu tả các thông tin và tài liệu chứng từ cần duy trì trong hồ sơ tín dụng và các thông tin bổ sung giữa kỳ cần cập nhật. - Đặt ra tiêu chuẩn giám sát tín dụng, bao gồm việc thường xuyên thăm nơi kinh doanh của khách hàng, kiểm tra xem xét hồ sơ tín dụng thường kỳ, giám sát sự tuân thủ, lịch trình hoàn trả. - Nêu thủ tục báo các các rủi ro tiềm ẩn cho ban quản trị. e/ Các tiêu thức thu hồi khoản cho vay - Xác định điều kiện cần thiết để thu hồi các khoản cho vay - Thủ tục kế toán xử lý khoản thu hồi 1.6 Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng. Chất lượng thẩm định tín dụng là điều kiện để ngân hàng mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ. Nếu chất lượng thẩm định không tốt, ngâ hàng có nhiều khả năng gặp rủi ro khi theo đuổi chính sách mở rộng tín dụng. Chất lượng thẩm định cao sẽ giúp cán bộ tín dụng tự tin hơn khi thẩm định khách hàng mới và qua đó mở rộng thị trường. Ngân hàng cần thực hiện những biện pháp sau để nâng cao chất lượng thẩm định. a/ Nâng cao chất lượng thông tin trong thẩm định dự án Hiệu quả của công tác tín dụng phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thông tin. Thông tin là cơ sở để ngân hàng tính toán hiệu quả kinh tế của dự án. Nguồn thông tin đầu tiên là nguồn thông tin do khách hàng cung cấp. Nhưng nguồn thông tin này có thể không chính xác vì rất ít các doanh nghiệp được kiểm toán. Ngân hàng nên thu thập thông tin như sau: Thứ nhất : phỏng vấn trực tiếp người đi vay Thông qua phỏng vấn, nhờ kinh nghiệm và óc nhạy bén, cán bộ tín dụng có thể biết thêm một số thông tin mà trong hồ sơ xin vay không được đề cập hay phát hiện những mâu thuẩn giữa những thông tin thu thập được. Cán bộ tín dụng tập trung vào những nội dung sau: - Tính cách giám đốc doanh nghiệp hoặc chủ dự án xin vay vốn. Ngân hàng phải đánh giá tính trung thực, đạo đức của người vay và những yếu tố khác như mục tiêu, động cơ người vay. Cán bộ tín dụng đánh giá người vay chủ yếu qua thái độ và hồ sơ của họ. Đồng thời, cán bộ tín dụng phải luôn nhớ rằng uy tín và đạo đức người vay là một yếu tố quan trọng để đánh giá, nhận biết trách nhiệm trả nợ của người vay. - Năng lực quản lý : ngày nay, một doanh nghiệp muốn thành công phải có trình độ cao về hoạch định, quản lý nhân sự, kỹ thuật sản xuất, marketing, cũng như quản lý tài chính. Cán bộ tín dụng phải thu thập thông tin về trình độ học vấn của ban giám đốc, số lượng công nhân kỹ thuật, số kỹ sư,số người có trình độ trên đại học cũng như mô hình quản trị doanh nghiệp, các phương pháp lập kế hoạch, chiến lược, thu nhập của người lao động. - Mối quan hệ của công ty: cán bộ tín dụng cần tìm hiểu xem doanh nghiệp có quan hệ với bao nhiêu ngân hàng, các nhà cung cấp chính cho doanh nghiệp, ai là khách hàng chính... Công việc phỏng vấn đòi hỏi phải được chuẩn bị kỹ càng. Cán bộ tín dụng cần mềm mỏng, tế nhị để có được thái độ hợp tác của người vay. Sau khi phỏng vấn xong, cán bộ tín dụng phải trực tiếp điều tra cơ sở sản xuất. Thứ hai : thu thập thông tin từ nguồn bên ngoài Ngoài hình thức phỏng vấn trực tiếp, cán bộ tín dụng cần thu thập thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp để kiểm tra những thông tin thu thập được và phát hiện những thông tin mới. Ngân hàng có thể thu thập thông tin từ những nguồn sau : - Các trung tâm phòng ngừa rủi ro. Đây là nơi lưu trữ các thông tin về việc doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng nào đó, với số lượng bao nhiêu, sử dụng tài sản gì để thế chấp. - Các nhà cung cấp, các khách hàng chính của công ty. Ngân hàng đánh giá uy tín của doanh nghiệp, khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong tương lai. - Tài liệu về chủ trương, chính sách của nhà nước liên quan đến dự án. b/ Liên hệ với các chuyên gia kỹ thuật trong ngành công nghiệp Phân tích kỹ thuật của dự án đổi mới công nghệ hoặc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất đòi hỏi người thẩm định phải có trình độ chuyên sâu về công nghệ đó. Cán bộ tín dụng không đủ trình độ để thẩm định kỹ thuật và thường chỉ dựa vào phân tích của doanh nghiệp. Hơn nữa, trong các dự án đổi mới công nghệ, phân tích kỹ thuật giữ vai trò rất quan trọng. Phân tích kỹ thuật thành công thì phân tích tài chính mới có ý nghĩa. Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đổi mới công nghệ, cán bộ tín dụng cần thuê các chuyên gia kỹ thuật trong ngành để tư vấn. c/ Cần thiết lập hệ thống quy trình thẩm định riêng, mang đầy đủ đặc trưng của tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ Hiện nay, khi thẩm định các dự án tín dụng nhằm đổi mới công nghệ, cán bộ tín dụng thường chỉ căn cứ vào hướng dẫn thẩm định của NHCT Việt nam. Hướng dẫn thẩm định này áp dụng cho toàn hệ thống NHCT Việt nam, do vậy không chứa đựng đầy đủ những đặc trưng của tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ cũng như đặc điểm của NHCT Đống Đa. Chính vì vậy, NHCT Đống Đa nên lập một hệ thống quy trình thẩm định riêng về tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Quy trình thẩm định này cần được thiết lập chi tiết nhưng chỉ mang tính chất tham khảo. Trong nhiều trường hợp, cán bộ tín dụng có thể phát huy tính sáng tạo của mình. Trong quy trình thẩm định, cán bộ tín dụng cần liệt kê, phân tích những yếu tố thuộc môi trường bên trong, bên ngoài ảnh hưởng đến dự án. Cần phân tích những nhân tố đó ảnh hưởng như thế nào đến dự án, xác suất xảy ra sự cố, hướng khắc phục của doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng cần định lượng các nhân tố ảnh hưởng, các rủi ro. Từ đó, cán bộ tín dụng sẽ đánh giá một cách chính xác hơn rủi ro của dự án và quyết định có cho vay hay không. NHCT Đống Đa nên yêu cầu mỗi cán bộ tín dụng lập riêng một bản quy trình thẩm định đổi mới công nghệ. Sau đó tổ chức một buổi thảo luận trong nội bộ ngân hàng về vấn đề này. NHCT Đống Đa lấy những ý kiến hợp lý nhất và than khảo ý kiến của các chuyên gia, căn cứ vào quy trình thẩm định của NHCT Việt nam để lập ra quy trình thẩm định của ngân hàng. 1.7 Thành lập bộ phận marketting ngân hàng Nhiệm vụ của bộ phận này là góp phần tích cực vào việc xây dựng kế hoạch chiến lược ngân hàng, lập kế hoạch marketting. Bộ phận marketting là bộ phận không thể thiếu được của quản trị ngân hàng. Những giải pháp nêu trên đều dựa trên cơ sở vận dụng kiến thức marketting vào hoạt động ngân hàng. Bộ phận marketting sẽ giúp ngân hàng tránh được những sai lầm, phát huy tối đa điểm mạnh, hạn chế những điểm yếu của ngân hàng, nắm bắt thời cơ. Đây cũng chính là bộ phận hướng dẫn, thúc đẩy cán bộ tín dụng ngân hàng thực hiện mục tiêu. Cán bộ của bộ phận marketting phải là những người có trình độ cao về nghiệp vụ ngân hàng cũng như nghiệp vụ marketting. Đồng thời họ phải là những người có tầm nhìn xa trông rộng, năng động, nhiệt tình với công việc, gắn bó với ngân hàng. 1.8 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Cán bộ tín dụng chính là người trực tiếp lôi kéo khách hàng và thẩm định tín dụng. Do đó, mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ cán bộ ngân hàng. Trình độ và tư cách đạo đức của đội ngũ cán bộ ngân hàng là cơ sở để các nhà quản trị lập hệ thống kế hoạch hoá, thiết lập mục tiêu của ngân hàng. Đây cũng là những nhân tố bảo đảm sự thành công của hệ thống kế hoạch hoá. Thực tiễn cho thấy, hạn chế của NHCT Đống Đa trong mở rộng tín dụng đổi mới công nghệ một phần do trình độ cán bộ tín dụng chưa cao. Ngân hàng cần có kế hoạch nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Cán bộ tín dụng phải đạt được những điều kiện sau: - Phải có tinh thần luôn học hỏi, hoàn thiện bản thân. Đây là điều kiện để rất quan trọng để trình độ cán bộ ngân hàng sẽ không bị lạc hậu trong khi môi trường xung quanh luôn biến đổi. - Phải có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn vững vàng,có hiểu biết về pháp luật, trình độ ngoại ngữ khá, có tính chủ động sáng tạo. Thiếu điều kiện này thì cán bộ tín dụng sẽ rất dễ mắc sai lầm trong quá trình cho vay, gây ra tổn thất cho ngân hàng. - Phải thường xuyên theo dõi những diễn biến của toàn bộ nền kinh tế, có khả năng phân tích những ảnh hưởng của môi trường bên ngoài đến hoạt động tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ. - Có tinh thần tập thể, gắn bó với ngân hàng. Bên cạnh thường xuyên khuyến khích cán bộ tín dụng nâng cao trình độ, NHCT Đống Đa nên áp dụng những biện pháp sau : - Lập một thư viện nhỏ chứa các sách, tạp chí về ngân hàng. Hàng ngày, cho phép cán bộ tín dụng nghỉ vào một giờ nhất định để đọc sách, báo nhằm nâng cao trình độ. - Trang bị mỗi phòng phải có ít nhất một máy vi tính, trong đó lưu giữ những thông tin chi tiết về quy trình tín dụng mà mỗi cán bộ tín dụng phải làm, những ví dụ cụ thể, hồ sơ về doanh nghiệp, những bài học kinh nghiệm, những thông tin về tình hình kinh tế. - Lập kế hoạch đào tạo nhân sự hàng năm. - Hàng năm hoặc 6 tháng một lần, NHCT Đống Đa nên phối hợp với các trường đại học yêu cầu cán bộ tín dụng làm bài kiểm tra. Cần gắn kết quả của bài kiểm tra với mức thưởng. - Trích một phần nhỏ doanh số thu nợ thưởng cho cán bộ tín dụng quản lý dự án đó. Mặt khác, thu hồi lại các khoản tiền thưởng nếu cán bộ tín dụng cho vay dẫn đến nợ khó đòi và trách nhiệm thuộc về cán bộ tín dụng. - Bổ nhiệm những người có trình độ cao, làm việc có hiệu quả tốt vào những vị trí cao. 2. Giải pháp đối với các cơ quan cấp trên Trên đây là những giải pháp đối với NHCT Đống Đa. Tuy nhiên, việc mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ sẽ thuận lợi hơn nếu môi trường kinh doanh được cải thiện. Xin được đề xuất một số giải pháp đối với các cơ quan cấp trên. 2.1 Giải pháp đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước a/ Chính phủ cần khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ bằng vật chất Trên thực tế, các doanh nghiệp đều nhận thấy đổi mới công nghệ là cần thiết nhưng doanh nghiệp có thể gặp nhiều khó khăn khi lập phương án khả thi. Đổi mới công nghệ đòi hỏi thời gian thu hồi vốn dài.Trong khi đó, doanh nghiệp phải hoàn trả vốn ngân hàng trong một khoảng thời gian thường ít hơn 5 năm. Điều này gây bất lợi cho doanh nghiệp vì lợi nhuận sau thuế cộng với tiền khấu hao trong những năm đầu tiên không đủ trả nợ. Vì vậy, nhà nước cần có những chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp trả nợ đúng hạn, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Những biện pháp đó là : Thứ nhất : cho phép các doanh nghiệp được khấu hao nhanh công nghệ mua hoặc tự sản xuất. Thay vì thời gian khấu hao của công nghệ thường là trên 10 năm thì chính phủ nên cho phép doanh nghiệp được khấu hao công nghệ mới trong thời gian nhanh hơn. Như vậy, luồng tiền ròng của doanh nghiệp sẽ tăng vì tiền khấu hao tăng lên nhiều hơn là mức giảm lợi nhuận sau thuế. Trong trường hợp doanh nghiệp kinh doanh có lãi, luồng tiền tăng lên chính bằng mức tăng khấu hao nhân với thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ dùng luồng tiền ròng này để trả nợ ngân hàng. Thứ hai : miễn giảm thuế lợi tức cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ tăng lợi nhuận, tăng nguồn tiền trả nợ ngân hàng. Biện pháp này có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Thứ ba : Chính phủ lập quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Khi khách hàng vay vốn ngân hàng để đổi mới công nghệ hoặc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, khách hàng sẽ được hưởng mức lãi suất ưu đãi. Quỹ hỗ trợ này sẽ bù đắp khoản chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi cho ngân hàng cấp tín dụng. Như vậy, khách hàng vay vốn chỉ phải trả tiền lãi thấp hơn so với các khoản vay thông thường. Quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ do Ngân hàng nhà nước quản lý. Lãi suất ưu đãi được áp dụng theo nguyên tắc không được thấp quá vì doanh nghiệp có thể mang tâm lý ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước, không muốn đổi mới công nghệ khi nhà nước chưa đồng ý cho phép vay với lãi suất ưu đãi. Lãi suất ưu đãi quá thấp sẽ dẫn đến doanh nghiệp cố tình trì hoãn trả nợ, thậm chí chấp nhận lãi suất quá hạn vì lãi suất quá hạn vẫn còn thấp hơn lãi suất thị trường. Vì vậy, lãi suất ưu đãi nên áp dụng ở mức bằng 70% lãi suất cho vay trên thị trường. Ngoài ra, cần phải xác định thời gian khách hàng được hưởng mức lãi suất ưu đãi. Theo tôi, thời gian này không nên kéo dài, nhất là đối với các dự án cần vay vốn lớn vì gây khó khăn cho quỹ và ngăn chặn tình trạng doanh nghiệp kéo dài thời gian vay vốn. Trước mắt, đối tượng được hưởng lãi suất ưu đãi sẽ là các doanh nghiệp nhà nước, hoạt động trong môi trường cạnh tranh, các viện nghiên cứu triển khai. Nguồn vốn cho quỹ hoạt động sẽ lấy từ ngân sách nhà nước, các nguồn tài trợ của nước ngoài... b/ Chính phủ cần phát triển cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ Theo phân tích ở chương I, cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ có ảnh hưởng rất quan trọng đến làm chủ công nghệ nhập, nghiên cứu chế tạo công nghệ mới. Sau đây là một số biện pháp phát triển cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ: Chính phủ cần có chính sách bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám. Cần đầu tư mạnh vào các viện nghiên cứu triển khai. Mặt khác, cần bồi dưỡng kiến thức kinh tế cho đội ngũ các nhà khoa học để nâng cao tính chủ động sáng tạo của họ trong việc tạo ra công nghệ phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Cần xây dựng những trung tâm thông tin và hỗ trợ chuyển giao công nghệ. Nhiệm vụ của trung tâm này là cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp về công nghệ nhập, đánh giá công nghệ nhập, phân tích xem công nghệ nhập có phải là công nghệ thích hợp với doanh nghiệp không. Chi phí dịch vụ của trung tâm nên ở mức vừa phải để khuyến khích doanh nghiệp hoặc ngân hàng cho vay sử dụng dịch vụ này.Nếu có thua lỗ thì ngân sách nhà nước sẽ cấp bù. c/ Ngân hàng nhà nước cần hoàn thiện quy chế cho vay đổi mới công nghệ Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để nhập khẩu công nghệ thì Ngân hàng Nhà nước nên mở rộng thời hạn cho vay so với hiện nay. Hầu hết các dự án nhập khẩu công nghệ có thời gian thu hồi vốn trên 5 năm. Nên chăng, Ngân hàng Nhà nước mở rộng thời hạn cho vay tới 7 năm. Trong trường hợp khách hàng vay vốn là các viện nghiên cứu triển khai, thời hạn cho vay vốn có thể kéo dài từ 3-5 năm. Sau 5 năm, công nghệ nghiên cứu chế tạo có thể đã lỗi thời và không phát huy hiệu quả. Nếu doanh nghiệp tự nghiên cứu sản xuất công nghệ để phục vụ cho nội bộ doanh nghiệp thì thời hạn vay vốn có thể kéo dài hơn. Ngân hàng Nhà nước cũng nên trao quyền cho các ngân hàng thương mại trong việc quyết định có hay không có bảo đảm tín dụng. Trên thực tế, các viện nghiên cứu triển khai rất khó đáp ứng điều kiện là phải có bảo đảm tín dụng. Ngân hàng thương mại có thể căn cứ vào nhiều điều kiện khác nhau để quyết định cho vay hay không chứ không nhất thiết chỉ dựa vào bảo đảm tín dụng. d/ Ngân hàng nhà nước cần có quy định rõ ràng về trách nhiệm của cán bộ tín dụng Nhà nước không nên quy kết trách nhiệm cho cán bộ tín dụng nếu rủi ro xảy ra do nguyên nhân khách quan hoặc không thuộc phạm vi trách nhiệm của cán bộ tín dụng. Ví dụ, trong quá trình phân tích, thẩm định dự án, cán bộ tín dụng phải sử dụng thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có những nguồn thông tin được coi là đáng tin cậy nhất như thông tin về chiến lược phát triển khoa học công nghệ, chiến lược phát triển ngành, những thông tin do trung tâm hỗ trợ chuyển giao công nghệ, ý kiến của các chuyên gia có uy tín... Nếu rủi ro xảy ra do những thông tin này không hợp lý, kém chính xác thì không nên quy hết trách nhiệm cho cán bộ tín dụng. 2.2 Giải pháp đối với NHCT Việt nam NHCT Việt nam nên trao quyền hạn rộng rãi hơn cho NHCT Đống Đa. Những thành công của NHCT Đống Đa trong những năm qua chính là đảm bảo cho sự phát triển đúng hướng. Hơn nữa, chỉ có NHCT Đống Đa mới hiểu được điểm mạnh và điểm yếu của ngân hàng, những diễn biến thực tế trên thị trường mà ngân hàng đang hoạt động. Nhưng điều đó không có nghĩa là NHCT Việt nam buông lỏng quản lý với NHCT Đống Đa. NHCT Việt nam nên thực hiện những biện pháp giám sát từ xa. Cơ chế quản lý của NHCT Việt nam thực hiện như thế nào ? Theo tôi, NHCT Việt nam yêu cầu NHCT Đống Đa trình bày những chiến lược tổng thể của ngân hàng bao gồm chiến lược kinh doanh, chiến lược marketting, kế hoạch đào tạo nhân sự, kế hoạch tài chính. Sau khi thông qua chiến lược này, NHCT Việt nam cho phép NHCT Đống Đa được toàn quyền hành động. NHCT Đống Đa phải báo cáo thường xuyên tiến trình thực hiện những chiến lược đó,các báo cáo tài chính, cung cấp thông tin khi cần thiết cho NHCT Việt nam, đề nghị NHCT Việt nam những biện pháp tháo gỡ khó khăn. Kết luận Qua phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh của NHCT Đống Đa, ta thấy những kết quả đạt được của NHCT Đống Đa rất đáng biểu dương. NHCT Đống Đa đã bước đầu thành công trong nền kinh tế thị trường, đổi mới hoạt động ngân hàng và trở thành chi nhánh ngân hàng đạt hiệu quả cao nhất trong hệ thống NHCT Việt nam. Những kết quả đạt được bước đầu đã khẳng định những chính sách quan trọng của NHCT Đống Đa là đúng đắn. Cùng với sự biến đổi không ngừng của môi trường kinh doanh, NHCT Đống Đa cũng phải luôn luôn đổi mới hoạt động. Đây là điều kiện tiên quyết để duy trì, phát triển và thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ ngân hàng là : “kinh tế phát triển, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật, lợi nhuận hợp lý”. Luận văn với đề tài : “Các giải pháp góp phần mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ tại NHCT Đống Đa ” đã cố gắng đi sâu vào tìm hiểu, phân tích những kết quả của tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ tại NHCT Đống Đa và đã áp dụng kiến thức marketting ngân hàng để phân tích môi trường kinh doanh, từ đó đề ra giải pháp. Luận văn này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu định hướng mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ. Để thực hiện chiến lược này có hiệu quả cần phải hoạch định một hệ thống kế hoạch cụ thể chi tiết và đòi hỏi nghiên cứu sâu hơn. Hơn nữa, do thời gian thực tập có hạn, trình độ còn hạn chế nên luận văn này không tránh khỏi những sai sót.Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của thầy cô và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo, PTS Lê Đức Lữ. Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cán bộ Phòng Tín dụng công nghiệp NHCT Đống Đa và cô Nguyễn Lê Phương đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này. Tài liệu tham khảo 1. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại David cox Giáo trình công nghệ và quản lý công nghệ Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam Ngân hàng thương mại Cẩm nang tín dụng Mai Siêu 6. Marketting ngân hàng Banking commercial management Tạp chí ngân hàng Thời báo kinh tế Việt Nam Hướng dẫn nghiệp vụ cho vay của NHCT Việt nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0048.doc
Tài liệu liên quan