Kinh doanh tiền tệ tín dụng trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay các Ngân hàng thương mại gặp phải rất nhiều khó khăn, rủi ro. Thực trạng đó là kết quả tổng hợp của rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhưng để có thể tồn tại và phát triển đòi hỏi mỗi ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nói riêng phải biết vượt lên chính mình, đẩy lùi những vướng mắc tồn tại trong kinh doanh, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất bằng các biện pháp khác nhau. Song dù các giải pháp có hữu hiệu tới đâu chúng ta cũng chỉ có thể hạn chế rủi ro, chứ đặt vấn đề thủ tiêu rủi ro là hoàn toàn thiếu thực tế. Do vậy trong quá trình kinh tế đòi hỏi mỗi ngân hàng phải biết chấp nhận rủi ro ở một mức nhâts địng mà đảm bảo cho hoạt động Ngân hàng ổn định và phát triển vững chắc.
Trong thời gian tới nền kinh tế Việt Nam sẽ có rất nhiều chuyển kiến mạnh mẽ, khó khăn cũ có thể sẽ mất đi những tất yếu có những khó khăn mới nẩy sinh. Yêu cầu đặt ra là Ngân hàng nhà nước cũng như ngân hàng công thương Việt Nam cần có biện pháp chỉ đạo thích hợp và bản thân Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm cũng cần phải có những biện pháp cụ thể nhằm giải quyết những khó khăn đang tồn tại và những khó khăn mới nẩy sinh.
Nhất định với những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ ngành ngân hàng nói chung và Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nói riêng sẽ vưngx bước di lên xứng đáng với vị trí của mình như Đại hội Đảng đã xác định "Ngân hàng là trung tâm tiền tệ tín dụng và thanh toán của các thành phần kinh tế huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thúc đẩy sản xuất phát triển có hiệu quả góp phần ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam".
Hoàn thành bản chuyên đề này em xin chân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các can sbộ Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, đặc biệt là các anh chị trong phòng kinh doanh tín dụng. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với thầy giáo là người trực tiếp hướng dẫn em trong việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
70 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ở ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các doanh nghiệp còn ít ỏi , nghèo nàn .Để hoạt động được,các nhà kinh doanh đều phải dựa vào vốn vay ngân hàng ,do đó chỉ cần một sự biến động nhỏ của thị trường hoặc một sự tăng lai xuất cũng có thể đẩy doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn về tài chính.Cũng vì đồng vốn ít ỏi đa khiến cho các doanh nghiệp thiếu khả năng chủ động trong sản xuất kinh doanh ,đổi mới công nghệ . Thêm vào đó là công nghệ sản xuất hiện hành của các doanh nghiệp đa quá lạc hậu ,làm cho năng suất lao động thấp ,chất lượng sản phẩm kém ,giá thành cao.Trong khi nhu cầu của thị trường ngày càng đòi hỏi cao về chất lượng và mẫu ma ,thị hiếu lại luôn thay đổi .Trường hợp khác ,ví dụ như công ty TNHH Hoàng Mai do thiếu tài chính đa sử dụng vốn vay của NHCT Hoàn Kiếmvào nhiêù mặt hoạt động của công ty (kể từ việc mua nhà xưởng,xây dựng cải tạo nhà xưởng và mua máy móc thiết bị ,đến việc mua nguyên liệu phục vụ sản xuất may gia công và xuất khẩu hàng nội địa.. .) nên khi kinh doanh thua lỗ đa không chủ động chuyển hướng kinh doanh được và mất khả năng thanh toán nợ vay cho NHCT Hoàn Kiếm
Mặt khác muốn kinh doanh thành công ,người điều hành doanh nghiệp phải biết cách tổ chức quản lý kinh doanh .Không thể lấy lòng nhiệt tình và sự chịu đựng khó khăn để thay thế kiến thức quản trị kinh doanh ,đặc biệt là trong cơ chế thị trường như hiện nay.Nhưng thực tế cho thấy ,các nhà kinh doanh ở nước ta chưa có được những cái cần thiết đó ,hiện nay chúng ta mới chỉ bắt đầu quan tâm đến việc đào tạo đội nhũ cán bộ làm nghề quản trị kinh doanh
Đối với thành phần kinh tế quốc doanh ,phần lớn các nhà kinh doanh đều trưởng thành trong thời kì bao cấp ,nhiều người thiếu sự năng động cần thiết và những kiến thức cơ bản về kinh doanh trong cơ chế thị trường .Còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì các ông chủ trực tiếp điều hành phần lớn lại là nhũng người không qua các khoá đào tạo về nghiệp vụ quản trị kinh doanh .Nhiều người trong số họ trưởng thnàh lên không phải nhờ vào kiến thức kinh doanh của họ mà bắt đâù sự nghiệp của mình dựa vào tài sản do gia đình ,người thân trợ giúp hoặc nhờ vào các cơ may .. . Bởi vậy không ít doanh nghiệp khởi đầu bằng dự án khả quan ,với một kì vọng tốt đẹp nhưng do hạn chế về kiến thức kinh doanh mà nhiều doanh nghiệp trong số đó đa làm ăn thua lỗ ,dẫn tới sự bất cần ,lao vào con đường kinh doanh theo kiểu chụp dựt ,lừa đảo và đi đến phá sản ,kéo theo những khoản nợ khó đòi của một hoặc một số ngân hàng nào đó.Có thể đưa ra ví dụ về trường hợp công ty TNHH Ngôi sao á Đông, công ty này đa vay tiền của NHCT Hoàn Kiếm để mua quần áo thể thao các loại và đồ hộp hoa quả xuất sang thị trường Đông Âu (CHLB Nga).Do quản lý kinh doanh kém nên hoạt động của công ty bị chệch choạc ,hàng hoá tồn đọng nhiều ,vốn bị chiếm dụng lớn .v..v.. khiến cho công ty này còn rất ít khả năng thanh toán nợ vay của ngân hàng , buộc NHCT Hoàn Kiếm phải chuyển sang xử lý tài sản thế chấp của họ để thu hồi nợ
2.1.3.2- Rủi ro do thiếu thông tin
Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý kinh doanh không thể thiếu thông tin, thông tin được coi là đối tượng lao động của người điều hành. Chúng ta thường nói "thời đại ngày nay là thời đại thông tin", thế nhưng trong thực tế các doanh nghiệp ở nước ta lại đang hoạt động trong tình trạng thiếu thông tin, thông tin sai lệch hoặc thông tin lạc hậu. Do tình trạng thông tin bất cập như vậy nên các doanh nghiệp trong nước đã không nắm bắt được tình hình thị trường, nhu cầu, chủng loại, giá cả vì vậy đã có những quyết định sai lầm.
2.1.3.3- rủi ro do thiếu thích nghi với cạnh tranh.
Cạnh tranh là một tất yếu của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ quá độ chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, sự cạnh tranh diễn ra rất phức tạp nhiều khi còn thiếu lành mạnh, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế mở, tính cạnh tranh không chỉ ở trong nước mà nó còn chịu ảnh hưởng của thế giới bên ngoài. Vì vậy rủi ro do thiếu thích nghi với cạnh tranh là vô cùng lớn và có tính phổ biến, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nước ta đang trong tình trạng yếu kém về cả năng lực tài chính lẫn năng lực quản trị kinh doanh.
Trong thời gian qua do thiếu thích nghi với cạnh tranh, hàng ngàn doanh nghiệp nước ta đã bị giải thể, để lại gần 2000 tỷ đồng tiền nợ không có khả năng thanh toán cho ngân hàng. Một số doanh nghiệp khác đang hoạt động thì không ít trường hợp kinh doanh thua lỗ, đặt nhiều ngân hàng vào thế "Tiến thoái lưỡng nan". Xét theo góc độ tín dụng thì đây là những con nợ coá thể mang lại rủi ro cho ngân hàng bất cứ lúc nào.
2.1.3.4 Tư cách người vay kém.
Đánh giá về rủi ro tín dụng ngtân hàng do các nguyên nhân xuất phát từ phía người vay, chúng ta nhận thấy rằng không ít những chủ doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của ngân hàng không chỉ kém về năng lực quản lí điều hành kinh doanh mà còn yếu kém cả về tư cách khi xét theo góc độ ý muốn trả nợ ngân hàng. Mặc dù đa số người vay thường có ý nghĩ xuất phát điểm là tốt đẹp, với mong muốn thanh toán được nợ vay ngân hàng từ hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình nhưng cũng không ít những con nợ đã rắp tâm lừa đảo ngân hàngngay từ đầu. Họ thường tìm cách săn đón, nói hay nói tốt về dự án, chuẩn bị hồ sơ một cách hoàn chỉnh và chu đáo khiến cho một số cán bộ tín dụng dễ phán xét sai lầm khi quyết định cho vay. Khi đã vay được vốn ở ngân hàng rồi thì họ lại sử dụng vốn đó vào các việc khác như: buôn lậu, chơi đề, chơi hụi, cho người khác vay để hưởng chênh lệch lãi suất cao hơn...
Với những trường họp như vậy thì thất bại luôn chờ sẵn họ và hậu quả đổ lên nhà ngân hàng. Ví dụ ở NHCT Hoàn Kiếm, khách hàng Lê Văn Đức đã vay vốn của ngân hang, dùng tài sản nhà đã thế chấp mang bán cho người khác, nay bị công an quận Đống đa bắt giữ. Vũ Văn Nam cũng vay vốn ở ngân hàng với mục đích nâng cấp khách sạn, song cho đến nay thời hạn thu hồi nợ đã quá lâu rồi nhưng chưa trả được nọ cho ngân hạng, gây thất thu gần 2 tỷ đồng...
Trong thời gian gần đây, khách hàng có nhiều thủ đoạn mới , tinh vi, khó phát hiện hơn nhiều tây khó khăn cho cán bộ tín dụng như:
- Lập cân đối kế toán sai, phương án kinh doanh và các hợp đồng kinh doanh giả để vay vốn rồi bỏ trốn.
- Giả mạo giấy tờ: khách hàng làm giấy tờ giả mạo, làm giả chữ kí, con dấu để lừa vay vốn ngân hàng, chiếm đoạt tiện.
- Kết hợp với cán bộ có thẩm quyền để lừa đảo bằng cách làm nhiều bản chứng từ sở hữu nhà đất hợp pháp của một ngôi nhà để đi lừa đảo vay nhiều ngân hàng.
- Bán tài sản đang thế chấp ở ngân hàng...
Để khắc phục được tình trạng này, không còn cách nào khác NHCT Hoàn Kiếm nói riêng và hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung cần phải đào tạo đội ngũ cãn bộ tín dụng có năng lực, có trình độ chuyên môn cao, nhanh nhạy, phản ứng kịp thời và có khả năng phán đoán, đánh giá khách hàng trước khi quyết định cho vay. Đồng thời phải kết hợp với các ngành khác tránh tình trạng lừa đảo, giả mạo giất tờ của khách hàng khi đến vay vốn của ngân hàng.
2.1.4 Một số nguyên nhân khác
Nước ta vẫn đang trong giai đoạn chuyển mình sang nền kinh tế thị trường, do đó có nhiều thay đổi trong chính sách và cơ chế. Chính những sự thay đổi này đã ảnh hưởng lớn tới hoạt động của các đơn vị, tổ chức kinh tế, bởi vì họ thường không thể phản ứng kịp thời trước sự biến động đột ngột của môi trường kinh doanh nên tất yếu gánh chịu thất bại. Trong trường hợp khác, có những doanh nghiệp mặc dù phương án SXKD tốt, có tính khả thi cao song không may gặp phải những rủi ro bất khả kháng như thiên tai, dịch hoạ... nên đã mất khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Năm 2001 ở NHCT Hoàn Kiếm có tới 223 triệu đồng (chiếm 0,3% tổng dư nợ quá hạn do nguyên nhân bất khả kháng. Quí I - năm 2002 tỷ lệ này còn cao hơn nhiều (chiếm 1,7 % ). Với những trường hợp như vậy, ngân hàng cần có nhiều biện pháp xử lý như gia hạn nợ cho khách hàng đảo nợ hoặc đề nghị Bộ tài chính xem xét khoanh nợ cho các đơn vị đó.
2.2 Nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng
2.2.1 Cho vay không đúng nguyên tắc.
Theo trên thì nguyên nhân chủ quan gây ra rủi ro tín dụng cho NHCT Hoàn Kiếm cũng không phải là nhỏ. Như năm 2001 có tới 27 tỷ đồng nợ quá hạn là do nguyên nhân chủ quan gây ra, chiếm 36 % tổng dư nợ quá hạn. Sang quý I năm 2002 con số này cũng không giảm chút nào cả. Xin kể ra một vài lý do chủ yếu gây ra nợ quá hạn của ngân hàng:
- Do cán bộ tín dụng không thực hiện đúng các nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ cho vay.
- Khi xử lý thông tin không quán triệt đầy đủ các quan điểm, yêu cầu của nguyên tắc tín dụng.
- Cán bộ tín dụng chủ quan quá tin tưởng vào khách hàng mà coi nhẹ khâu kiểm tra, giám sát.
- Chính sách tín dụng lỏng lẻo, để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng
- Cho vay quá mức an toàn về bảo lãnh, thế chấp.
- Cố ý thoả hiệp với người vay mặc dù biết rõ rủi ro sẽ xảy ra.
- Thiéu lòng tin về khách hàng và thị trường cho vay...
2.2.2 Kiểm tra kiểm soát không tốt
Hoạt động tín dụng là hoạt động rất phức tạp và nhậy cảm, luôn có sự biến động từ thái cực này sang thái cực khác. Trong khi đó cán bộ tín dụng hay làm việc theo thói quen. Việc kiểm tra, giám sát khoản cho vay tốt sẽ giúp cho họ sớm nhận ra sai sót, nắm bắt và xử lý kịp thời những khoản cho vay có vấn đề. Trong thực tế, những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng ở NHCT Hoàn kiếm, ta thấy cũng có một phần là do kiẻm tra, kiểm soát không tốt. Cụ thể là:
- Hệ thống thanh tra ngân hàng Nhà nước kiểm soát hoạt động của các ngân hàng thương mại không thường xuyên và kém hiệu quả. Thông thường họ chỉ có mặt khi sự việc đã vỡ lở , cũng có khi phát hiện được vấn đề lại không có biện pháp xử lý kịp thời.
- Việc kiểm soát của ngat chính bản thân NHCT Hoàn kiếm cũng tỏ ra lỏnh lẻo. Phòng kiểm soát nằm xa trung tâm, ít tiếp xúc với cán bộ tín dụng do đó đã tạo điều kiện cho một số cán bộ tín dụng làm bừa, làm ẩu và thiếu trách nhiệm, dẫn đến những rủi ro tín dụng không đáng có.
Mặt khác, do kiểm tra soát nội bộ không tốt nên ban lãnh đạo ngân hàng không đánh giá được chất lượng công tác của từng cán bộ tín dụng, từ đó không có chế độ khen thưởng và kỷ luật kịp thời, không tạo được không khí thi đua lành mạnh trong tập thể cán bộ tín dụng, không nâng cao được tinh thần trách nhiệm của mỗi thành viên, ngược lại nó còn gây tâm lý chán nản cho nhiều cán bộ tín dụng với tư tưởng :" Được việc thì tất cả đều hưởng, ngược lại hỏng việc thì một mình phải chịu tất cả".
2.2.3-Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp.
Mặc dù biết rằng nguyên tắc cho vay là phải có tài sản thế chấp song cán bộ tín dụng cũng không nên cứng nhắc quá trong điều kiện này. Có đơn vị sản xuất kinh doanh tốt thì có thể không cần tài sản thế chấp vẫn yên tâm cho vay được . Ngược lại có những khách hàng vay với tài sản thế chấp lớn nhưng làm ăn thua lỗ dẫn đến ngân hàng phải phát mại tài sản để thu hồi nợ. nhưng việc bán các tài sản thế chấp để thu hồi lại vốn đã cho vay là một vấn đề không dễ dàng chút nào. Ngân hàng thường gặp phải khó khăn trong giấy tờ sở hữu tài sản, về giá cả của tài sản, về thời gian bán được tài sản thế chấp và gây chậm trễ trong việc thu hồi vốn. có những tài sản thế chấp khi định giá cho vay thì nó đang ở thời điểm giá cao, đến khi phát mại bán đi giá bị hạ gây thua lỗ cho nhà ngân hàng.
Rõ ràng tỷ lệ vốn được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh là cao song trên thực tế Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm vẫn gặp phải rủi ro lớn như năm 2000, nợ quá hạn chiếm gần 30% tổng dư nợ. điều này cho thấy không nên quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, hãy lựa chọn khách hàng thật kỹ lưỡng. nhất là trong giai đoạn hiện nay khi khách hàng ngày càng có nhiều mánh khoé lừa đảo tinh vi hơn, họ có thể dùng một tài sản thế chấp để đi vay vốn ở nhiều tổ chức tín dụng gây nên thất thoát lớn cho ngành Ngân hàng.
2.2.4- Ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận, mở rộng kinh doanh tín dụng một cách quá tải.
Hoạt động của NHTM cới mục đích chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận Việc kinh doanh tín dụng rất khó khăn và mạo hiểm ,đòi hỏi phải có sự dám chấp nhận rủi ro ,việc mở rộng tín dụng là cần thiết trong quá trình hoạt động của ngân hàng .Nhưng việc chấp nhận rủi ro phải có sự tính toán kĩ lưỡng ,cần phải có giới hạn nhất định trên cơ sở các qui chế về tín dụng và thực tế hoạt động của khách hàng để có sự sàng lọc cần thiết nhằm mục đích bảo đảm an toàn tới mức có thể cho món vay.
Thực tế ở Việt Nam cho thấy ,các NHTM trong lúc hăng hái săn tìm lợi nhuận đa bất chấp cho vay cả với những khoản vay không lành mạnh ,thiếu sự an toàn tối thiểu . Trong điều hành ,ngân hàng đa thực hiện cơ chế khoán doanh thu ,đây là một vấn đề chứa dựng nhiều yếu tố mất an toàn ,một động lực mà mặt trái đa thức đẩy cán bộ tín dụng ngân hàng “bằng mọi giá phải cho vay được “
Một tình trạng khá phổ biến nữa là trong những năm gần đây ,cùng với sự gia tăng mạnh về mạng lưới kinh doanh của ngân hàng là việc tăng khối lượng tín dụng ddến kinh ngạc .Nhiều ngân hàng đa bằng mọi biện pháp ,từ quản trị điều hành đến tác nghiệp ,đều hướng vào nhằm đạt được khối lượng dư nợ tín dụng không giới hạn,với số lượng khách hàng tối đa.Vì không có sự chuẩn bị nên nhiều khi đa bố trí cả những cán bộ không đủ tiêu chuẩn làm công tác tín dụng.
2.2.5- Thông tin tín dụng không đầy đủ.
Thông tin tín dụng là vấn đề quan trọng hàng đầu để có quyết định cho vay đúng đắn. trong nhiều trường hợp do điều tra không tốt nên thông tin sai lệch hoặc không đầy đủ. ở nước ta hiện nay chưa có hàng kinh doanh thông tin tín dụng nào. trung tâm thông tin TPR của ngân hàng Nhà nước mới ra đời, hoạt động chưa hiệu quả nên việc hỗ trợ cho các cán bộ tín dụng ngân hàng rất kém. Hiện tượng một khách hàng vay nhiều ngân hàng là phổ biến, nhưng các ngân hàng không có thông tin đầy đủ nên nhiều trường hợp đổ bể rồi hoặc khách hàng đã hoàn toàn mất khả năng thanh toán ngân hàng mới nhận ra...
3- Kết quả thu hôi nợ quá hạn ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Hiện nay Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm vẫn tích cự tiếp tục theo dõi đôn đốc thu hồi các khoản nợ quá hạn, xem xét phân tích những món nợ quá hạn có khả năng thu hồi trước, kiên quyết bám sát con nợ, thường xuyên kiểm tra cán bộ thực hiện, tìm biện pháp thu hồi nợ một cách hiệu quả nhất.
Tăng cường quan hệ với các cơ quan nội chính có liên quan như UBND, Sở nhà đất, công an ... nhờ họ giúp đỡ để hoàn thiện hồ sơ giấy tờ, tiến hành giám sát tài sản thế chấp để thu nợ.
Hoạt động của ngân hàng là luôn phải đối mặt với rủi ro, coi rủi ro như một cơ hội để kinh doanh. song cần phải biết chấp nhận nó ở mức độ phù hợp với điều kiện của mình. Thông qua số liệu về rủi ro của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếmtrong 3 năm (1999 - 2001) điểm nổi bật đáng báo động nhất là tỷ lệ nợ quá hạn quá cao trong khi tỷ lệ thu hồi nợ quá hạn lại quá thấp. gần như một nửa số nợ quá hạn là chưa thể thu hồi được ở mỗi năm. Đặc `biệt năm 2000 chỉ có 37,2 % nợ quá hạn đã tu hồi được, còn lại 62,8 % chưa thu hồi, phần lớn trong số đó là nợ khó đòi, khả năng hoàn trả quá mỏng manh.
Mặc dù số nợ quá hạn đã thu hồi được về tuyệt đối vẫn tăng nhanh qua các năm ( từ 21 tỷ năm 1999 lên 123 tỷ năm 2001 ) song do số nợ quá hạn cũng tăng lên không ngừng nên tỷ lệ thu hồi nợ quá hạn thực chất tăng lên không đáng là bao. Hi vọng rằng với các biện phápthu hồi nợ quá hạn một cách tích cực, hiệu quả như hiện nay ngân hàng đang áp dụng sẽ làm giảm đáng kể con số nợ quá hạn mỗi năm.
4. Các biện pháp mà NHCT Hoàn kiếm đã áp dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Muốn khắc phục tồn tại, đưa chi nhánh thoát ra khỏi tình trạng hiện nay, con đường duy nhất là mở rộng hoạt động, tăng cường nguồn thu, chú trọng công tác huy động vốn và cho vay đồng đều, tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn để tăng thị phần dư nợ cho các doanh nghiệp quốc doanh, với đường lối chung do NHCT Hoàn kiếm đề ra là "ổn định phát triển vũng chắc, an toàn và hiệu quả", sau đây là một số biện pháp cụ thể mà ngân hàng đã áp dụng thu được thành công đáng kể.
4.1- Công tác tổ chức cán bộ.
đây là công tác quan trọng hàng đầu trong đó yếu tố con người quyết định sự thành bại của chi nhánh. Trước năm 2001, bộ máy của ngân hàng bị rệu rã do lãnh đạo và một số cán bộ tín dụng cấu kết với nhau làm sai nguyên tắc, dẫn đến thất thoát lớn ở ngân hàng. Từ quí III/2000, ban lãnh đạo mới lên kế nhiệm, đã và đang tiếp tục kiện toàn bộ máy lãnh đạo đảm bảo điều hành thống nhất và có hiệu quả. Tăng cường cán bộ cho những khâu còn thiếu như phòng kinh doanh và phòng thanh toán quốc tế.
Kiên quyết sử lý nghiêm minh những cán bộ thoái hoá, đảm bảo kỷ cương trong công tác điều hành, tránh tình trạng vô trách nhiệm trong công việc.
4.2- Chú trọng công tác đánh giá khách hàng.
trong cơ chế như hiện nay, mỗi ngân hàng phải tự chịu trách nhiệm về mọi mặt lao động của mình để luôn đảm bảo mục đích cuối cùng của mình là an toàn trong kinh doanh, hạn chế rủi ro và thu được nhiều lợi nhuận. Làm được điều đó, quả là không dễ chút nào. Trong thời gian vừa qua , đặc biệt từ cuối năm 2000 trở lại đây, NHCT Hoàn Kiếm đã rất chú trọng tới đối tượng cho vay, kiên quyết không cho vay đối với những khách hàng không có đủ điều kiện, nghiên cứu kỹ càng về khách hàng như:
- Xem xét, phân tích trình độ quản lý kinh doanh và trình độ quản trị điều hành của khách hàng.
- Phân tích tình hình tài chính của khách hàng.
- Xem xét khả năng trả nợ của khách hàng.
- Nghiên cứu, kiểm tra tính pháp lí của tài sản thế hcấp kĩ càng...
Chính nhờ các biện pháp trên mà hiện nay NHCT Hoàn Kiếm đã giảm đáng kể tỷ lệ rủi ro của mình (tù 30% năm 2000 xuống 10% hiện nay).
4.4 Đặc biệt, bước sang năm 2002, NHCT Hoàn Kiếm có những bước thay đổi rõ rệt trong công tác đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng. Phòng kinh doanh thường xuyên cử người đi học các lớp nâng cao nghiệp vụ quản lý tín dụng, phòng ngừa rủi ro, thường xuyên tổ chức các buổi giảng dạy, học chế độ kế toán mới áp dụng cho các đơn vị kinh tế nhằm nâng cao trình độ hiểu biết cho cán boọ tín dụng, tránh xảy ra những sai lầm không đáng có trong quá trình cho vay.
4.5 Ngăn ngừa các khoản vay khó đòi và tổn thất tín dụng.
Việc ngăn ngừa những khoản vay khó đòi và tổn thất tín dụng bao gồm:
Tăng cường sự giám sát món vay thông qua việc tăng chi phí thu nợ, đưa ra lời khuyên cho khách hàng trong viẹc tìm kiếm biện pháp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng ngay khi có dấu hiệu khách hàng đang gặp khó khăn về tài chính. Nhân viên ngân hàng có thể đưa ra các lời khuyên cho khách hàng như:
- Tăng thêm vốn : Nếu là công ty cổ phần thì khuyến khích họ bán thêm cổ phiếu , còn đối với các loại hình doanh nghiệp khác thì sử dụng các biện pháp như kêu gọi cộng tác, liên doanh liên kết...
- Giảm bớt kế hoạch mở rộng: Nếu kế hoạch mở rộng đang được trù tính, thì người vay nên loại bỏ chúng cho đến khi tình hình tài chính được cải thiện...
- Gia hạn nợ, giảm mức thu của các kì hạn nợ cho khách hàng.
- Tăng thêm các khoản vay mới nhằm cứu vãn tình hình tài chính đang suy sụp của người vay. Hình thức này được áp dụng trong trường hợp người vay kinh doanh thua lỗ vì lý do khách quan hoặc hoạt động kinh doanh của người vay sẽ tốt hơn khi được gia tăng vốn.
4.6- Công tác thu hồi nợ quá hạn, xử lí các khoản nợ khó đòi.
Ngân hàng đã đôn đốc, thu hồi nợ quá hạn, xem sét phân tích những món nợ có khả năng thu hồi trước, bám sát con no9ự, tìm ra biện pháp thu hồi nợ có hiệu quả nhất.
Đối với các khoản nợ khó đòi, ngân hàng phải lựa chọn một trong hai hình thức: hoặc tổ chức khai thác, hoặc phát mại tài sản thế chấp. Tuỳ theo hình thức và thái độ của khách hàng mà ngân hàng lựa chọn ra một biện pháp vừa giúp cho ngân hàng giảm bớt thiết hại lại vừa không nhẫn tâm với người vay.
chương III
giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm
I/ Giải pháp chung cho toàn bộ hệ thống NHTM.
Trong các loại hình kinh doanh của cơ chế thị trường, kinh doanh tiền tệ là hóc búa nhất nhất thứ đến là thầu khoán là đơn giản hơn là kinh doanh bình thường nhưng có lẽ kinh doanh tiền tệ càng hóc búa bao nhiêu, đồng tiền càng có sức lôi kéo đầy ma lực bấy nhiêu, thì người ta lại càng muốn kinh doanh nó bấy nhiêu, có thể coi ngân hàng là một ví dụ điển hình. Như vậy kinh doanh tiền tệ hôm nay đối với ngân hàng là một bài toán không có lời giản chính xác. Khi mà ngân hàng luôn tồn tại trong vòng xoáy của đồng tiền, của các quy luật thị trường và quy luật xã hội thì việc đảm bảo cho ngân hàng tồn tại trước sóng gió thị trường là điều cần thiết.
Làm thế nào để đảm bảo nguyên tắc hoàn trả? Tiền gốc và tiền lãi đwocj trả đúng hạn. đó chính là nội dung sẽ được đề cập trong chương này. Tuy nhiên, bài viết chỉ điểm và nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm mà thôi. Cụ thể bao gồm các giải pháp sau:
1- Tổ chức hợp lý và khoa học quy trình cho vay.
Bất cứ một công trình quản lý tín dụng nào cũng đều có 3 giai đọan: Giai đoạn thẩm định dự án; giai đoạn giám sát khách hàng vay vốn và giai đoạn thu nợ.
* Giai đoạn thẩm định dự án: Là giai đoạn khởi đầu có tính chất quyết định đối với sự an toàn của khoản tiền vay. Mức độ rủi ro của khoản vốn cho vay phụ thuộc vào việc xem xét hồ sơ vay vốn, đánh giá tài sản thế chấp, đánh giá tính khả thi của dự án mà từ đó đưa ra quyết định có cho khách hàng vay hay không? Dân gian có câu "Vạn sự khởi đầu nan" Quả đúng như vậy. Nếu trong quá trình thẩm định dự án cho vay mà ngân hàng mắc sai lầm thì hậu quả của nó là không lường được. Trong thực tế các doanh nghiệp vì muốn vay được tiền của ngân hàng nên họ luôn có hành động "đẹp" hồ sơ xin vay của mình bằng mọi cách, họ có thể dùng mọi thủ đoạn như khai khống hồ sơ, mua chuộc các cán bộ công chứng nhằm hợp thức hoá các giấy tờ, không chỉ có vậy do sự sơ hở trong pháp luật, các doanh nghiệp còn dùng một vật thế chấp để làm mấy bộ hồ sơ xin vay. Như vậy nếu không tỉnh táo thì liệu dự án cho vay của ngân hàng có thu hồi lại được không?
* Quá trình giám sát người vay: Xem xét người vay sử dụng đồng tiền vay như thế nào có tính chất quyết định giúp Ngân hàng lượng định các rủi ro có thể xảy ra với mình. Việc giám sát có thể thực hiện dưới nhiều hình thức như: Kiểm tra định kỳ báo cáo tài chính của doanh nghiệp, kiểm tra về tình hình sản xuất kinh doanh thực tế, kiểm tra về khả năng chi trả thanh topán của doanh nghiệp để từ đó ngân hàng có những giải pháp kịp thời ứng phó trước khi có rủi ro xảy ra. Nhưng trong thực tế, các ngân hàng hết sức lơi lỏng trong việc giám sát khách hàng họ cho vay để rồi "đem con bỏ chợ". Khi hậu quả xảy ra thì ngân hàng là nơi gánh chịu đầu tiên.
* Quá trình thu nợ và thanh lý nợ: là khâu quan trọng quyết định tới sự tồn tại của ngân hàng. Ngân hàng có thể thu hồi nợ trước hạn nếu thấy các khoản nợ cso vấn đề, có nhiều khả năng dẫn đến tổn thất cho nhà ngân hàng hoặc ngân hàng sẽ áp dụng những định chế taì chính buộc doanh nghiệp phải thanh toán nợ đúng hạn.
Từ sự phân tích ở trên, thấy rằng Ngân hàng cần phải làm chặt chẽ hơn nữa quá trình cho vay, cụ thể là:
- Biện pháp 1: Trước khi quyết định cho vay, ngân hàng cần phải nắm đwocj hồ sơ của khách hàng một cách chi tiết như: Quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh, bảng cân đối kế toán tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của một vài năm trước... Ngân hàng phải điều tra tại doanh nghiệp cũng như qua các nguồn tin khác như trung tâm phòng choóng rủi ro (CIC), các Ngân hàng bạn, khách hàng tiêu thụ của người vay tiền... Phải biết khách hàng vay tiền để làm gì? làm thế nào để một đồng tiền vay có thể tạo ratra tại doanh nghiệp cũng như qua các nguồn tin khác như trung tâm phòng choóng rủi ro (CIC), các Ngân hàng bạn, khách hàng tiêu thụ của người vay tiền... Phải biết khách hàng vay tiền để làm gì? làm thế nào để một đồng tiền vay có thể tạo ra hơn một đồng để trả vốn và lãi cho Ngân hàng và còn tạo lợi nhuận cho người vay.
- Biện pháp 2: Khi món tiền cho vay đã được thực hiện thì buộc Ngân hàng theo nguyên tắc quản lý tiền vay mà thuực hiẹn giám sát quá trình cho vay của Ngân hàng. Ngân hàng cần phải phân công trách nhiệm cụ thể đối với từng cán bộ tín dụng, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của họ trong công việc được những chính sách hợp lí trong việc nâng cao tinh thần của cán bộ tín dụng có như vậy quá trình giám sát khách hàng vay mới được thực hiện một cách triệt để.
- Biện pháp 3: Trên cơ sở chu kì hoạt động của doanh nghiệp, Ngân hàng nên chia nhỏ kì hạn cho vay. Trong mỗi thời kì người cán bộ tín dụng phải bán sát tình hình hoạt động của doanh nghiệp, phân tích mọi thông tin liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để có biện pháp xử lý nợ một cách linh hoạt, kịp thời, hạn chế mức tối đa thiệt hại khi có rủi ro xảy ra.
2. Các giải pháp an toàn đối với nợ quá hạn.
Tín dụng là một nhiệm vụ hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng tới sự phát triển và tồn tại của Ngân hàng vẫn phải là "hiện thực khả thi và hiệu quả". Trong đó nhiệm vụ bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro là vấn đề then chốt được đặt ra.
Trong thời gian qua, bên cạnh những chuỷen biến tích cực trong hoạt động kinh doanh tín dụng thì hiện tượng nợ quá hanj tại nhiều Ngân hàng có xu hướng gia tăng, đó chính là tiếng chuông báo động cho các Ngân hàng vì vậy cần phải có những giải pháp nhằm hạn chế bớt rủi ro tín dụng Ngân hàng mà cụ thể là vấn đề nợ quá hạn.
2.1 Các biện pháp ngăn ngừa các khoản cho vay dẫn tới nợ quá hạn.
* Trên góc độ nhà Ngân hàng, hầu hết họ mong muốn các khoản tài sản thế chấp được phát mại để mà trả nợ hay được các công ty bảo hiểm, người bảo lãnh thanh toán hộ. Do vậy để lượng định các rủi ro này thì phải nắm được các dấu hiệu chỉ ra sự khó khăn về tài chinhs của khách hàng. Những dấu hiệu này là cơ sở để Ngân hàng tìm biện pháp điều chỉnh và ngăn ngừa kịp thời, tránh dẫn đến khoản nợ quá hạn có thể gây rủi ro cho nhà Ngân hàng. Các dấu hiệu này là:
- Các doanh nghiệp chậm trễ trong việc nộp các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của mình.
- Doanh nghiệp có những biểu hiện trốn tránh hoặc thoái thác khi Ngân hàng tới kiểm tra hoạt động của họ.
- Số dư tiền gửi giảm sút, xuất hiẹn séc rút quá số dư hoặc séc thanh toán bị trả lại.
- Có sự gia tăng các khoản nợ chưa thanh toán.
- Hoàn trả vay Ngân hàng chậm hoặc quá kì hạn, không đầy đủ như cam kết.
- Các thảm hoạ xảy ra như bão lụt, hoả hoạn, mất trộm, tham ô...
* Khi phát hiện các khoản cho vay có dấu hiệu bị đe doạ không được hoàn trả đối với Ngân hàng thì tốt nhất là tìm biện pháp điều chỉnh kịp thời để bảo vệ lợi ích của nhà Ngân hàng. Có thể áp dụng một số biện pháp sau:
- Gia tăng khối lượng khoản cho vay đối với các doanh nghiệp có phương án phục hồi sản xuất có tinhs khả thi cao. Giải pháp này chỉ thực sự cso hiệu quả khi mà cả Ngân hàng và doanh nghiệp cùng nỗ lực vực doanh nghiệp đi lên vì nều không có sự gia tăng các khoản cho vay của Ngân hàng thì món nợ của doanh nghiệp sẽ mất khả năng thanh toán và khi đó rủi ro của Ngân hàng càng lớn.
- Ngân hàng có thể kêu gọi người bảo lãnh cho doanh nghiệp như các cổ đông chủ chốt, người cung ứng hay tiêu thụ sản phẩm hoặc một vài người cho vay dài hạn.
- Đề nghị người vay giảm bớt kế hoạch phát triển dài hạn để tăng cường vốn cho kinh doanh.
- Cán bộ Ngân hàng có thể khuyên hoặc cố vấn cho doanh nghiệp trong việc tìm ra chiến lược kinh doanh mới . Việc làm này không chỉ giúp cho doanh nghiệp có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng mà còn tăng them sự thân thiết trong quan hệ Ngân hàng - khách hàng. Đây là một nguyên tắc tương đối quan trọng trong hệ thống nguyên tắc quản lý tiền vay.
Những biện pháp này có thể gây thêm chi phí cho Ngân hàng nhưng thiết nghĩ nếu so chi phí này với khoản tín dụng mà không có khả năng thanh toán thì cũng chỉ là "Muối bỏ biển" mà thôi. Do vậy Ngân hàng cần phải nhanh nhạy hơn nữa trong việc phát hiện các khoản nợ quá hạn và linh hoạt hơn nữa trong việc ngăn ngừa các khoản cho vay có mầm mống dẫn tới quá hạn.
2.2 Biện pháp xử lý các khoản nợ quá hạn của NHTM.
Đối với các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi , đã từ lâu các Ngân hàng thường sử dụng một trong hai phương pháp sau đó là :
- Phương pháp khai thác
- Phương pháp thanh lý
Việc áp dụng phương pháp nào là phụ thuộc vào khả năng chi trả của khách hàng, thái độ của khách hàng với các khoản đi vay, thái độ của các chủ nợ khác và chi phí cho việc thu hồi nợ.
* Biện pháp khai thác : ở các nước kinh tế thị trường phát triển, môi trường pháp lý gần như đã hoàn thiện nên hầu hết các khoản nợ khó đòi của Ngân hàng đều áp dụng biện pháp khai thác. Nghĩa là, người vay được phép tự khắc phục các khó khăn tài chính và hoàn trả các khoản nợ cho Ngân hàng càng nhanh càng tốt. Dĩ nhiên người vay phải thành khẩn thái độ với các khoản vay và chi trả là thoả đáng. áp dụng biện pháp khai thác để xử lý các khoản nợ khó đòi giống như một chương trình phục hồi mà ngân hàng áp đặt lên người vay, với sự thoả thuận và cộng tác của họ. Các biện pháp cụ thể có thể là:
- Ngân hàng hướng dẫn người vay trên nhiều khía cạnh nhằm tác động đến khả năng tạo lợi nhuận, ngân hàng có thể gia hạn, điều chỉnh hợp đồng tín dụng để giảm quy mô hoàn trả trước mắt, có thể tìm giải pháp cho vay, tiếp vốn để gia tăng sức mạnh tài chính của khách hàng, khôi phục lại sản xuất kinh doanh.
- Ngân hàng đề nghị người vay quản lý chặt chẽ ngân quỹ, khuyên bán bớt tài sản có giá trị, giảm lượng hàng tồn kho hoặc thanh lý bớt tài sản không sử dụng.
* biện pháp thanh lý: Trogn trường hợp thấy rõ việc tổ chức khai thác là không tiện lợi, không có hy vọng thu hồi được nợthì ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp thanh lý để xử lý khoản cho vay khó đòi. Biện pháp thanh lý được thực hiện khi người vay không sẵn lòng chi trả, có hành động lẩn trốn, lừa đảo, tình trạng tài chính là vô vọng.
- Nếu khoản cho vay có tài sản bảo đảo hoặc thế chấp, ngân hàng cùng chuyên gia tư vấn pháp luật, nhân viên thanh lý thực hiện bán đấu giá các tài sản đó theo pháp luật hiện hành.
- Nếu là các khoản cho vay không có thế chấp, bảo đảm thì ngân hàng phải chờ đợi sự phán quyết của toà án kinh tế mới có biện pháp thu hồi vốn như bán tài sản của người vay. Nếu người vay không có tài sản thì kết quả đòi nợ vô hiệu hoá và người vay phải thúan dân sự.
như vậy, để có thể phát huy cao hơn nữa hiệu quả của những biện pháp này thì Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng thương mại và các cơ quan chức năng khác như (Toà án, Viện kiểm soát...) thực hiện nghiêm túc chỉ thị 235/TTG ngày 11/5/1999 về đẩy mạng thanh toán nợ và sử lý nợ giai đoạn II.
3- Thế chấp không phải là chỗ dựa vững chắc cho khoản tiền vay
Thế chấp tài sản là một công cụ quan trọng trong quản lý tiền vay của Ngân hàng. Tài sản thế chấp là cơ sở giúp cho ngân hàng có khả năng thu hồi nợ vay một khi khách hàng không có khả năng trả nợ, giúp ngân hàng giảm mức tối đa sự thiệt hại khi có rủi ro xảy ra.
Chúng ta không phủ nhận vai trò trợ giúp đắc lực của tài sản thế chấp đối với ngân hàng nhưng cũng không vì thế mà chúng ta lại tuyệt đối hoá vai trò của nó trong cơ chế tín dụng hiện nay. Mục đích của tín dụng cho vay không phải là thu nợ mà giúp khách hàng có vốn để duy trì hoặc mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, mang lại hiệu quả kinh tế cho khách hàng, cho xã hội và cho chính bản thân ngân hàng. Một khi đã phải mang tài sản thế chấp ra phát mãi thì mọi chuyện đã rõ ràng: sản xuất kinh doanh thua lỗ, vốn đã mất và quan hệ giữa ngân hàng và khách hàngđã chấm dứt. Mặt khác, không phải tài sản thế chấp nào cũng có thể bán một cách dễ dàng để ngân hàng có thể thu hồi nợ một cách nhanh chóng, đặc biệt khi đó là tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhà nước.
Ai cũng biết rằng, doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu toàn dân. Bởi vậy toàn bộ tài sản, nhà xưởng đều thuộc sở hữu nhà nước. Việc luật cho phép các doanh nghiệp nhà nước được đem tài sản thế chấp để vay vốn nếu theo nghĩa bình đẳng trong quan hệ dân sự thì chẳng có gì phải bàn. Nhưng nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, mất khả nưng thanh toán các khoản nợ thì có nhiều điều phải nói đến. Đó là khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ,theo hợp đồng vay vốn ngân hàng sẽ phát mại tài sản để thu hồi vốn. Nếu đó là ngân hàng quốc doanh thì thực chất việc phát mại tài sản chỉ là việc chuyển tài sản "từ túi này sang túi khác". Nếu là ngân hàng thương mại cổ phần thì đó là việc chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân.
Như vậy tài sản thế chấp đã rơi vào vòng luẩn quẩn không lối ra. Do đó, hiện nay ngân hàng nhà nước đã ban hành văn bản hướng dẫn cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước không bắt buộc phải có tài sản thế chấp khi vay.
Tuy tài sản thế chấp còn có một số hạn chế nhất định song ngân hàng vẫn cần phải thực hiện một cachs nghiêm túc các thủ tục về thế chấp trong quá trình cho vay. Giải pháp này gắn liền với việc nâng cao năng lực công táo và phẩm chất đạo đức của người cán bộ tín dụng, tránh tình trạng đánh giá quá cao giá trị của tài sản thế chấp khiến cho việc phát mại tài sản khi có rủi ro xảy ra sẽ không bù đắp được thiệt hại của ngân hàng.
Mặt khác, không phải khách hàng nào cũng đòi hỏi phải có tài sản thế chấp, ngân hàng hãy "trông mặt mà bắt hình dong". Tất nhiên "trông mặt" bao hàm nhiều vấn đề như bề dầy kinh nghiệm trong mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, như khả năng quản lý, hiệu quả kinh tế của dự án đang có nhu cầu vay vốn. Tất cả những điều đó sẽ cho chúng ta thấy được một chân dung khách hàng khá hoàn chỉnh, giúp ta có cách xử lý đúng đắn với mức độ rủi ro thấp nhất.
Vậy vấn đề chính trong giải quyết cho vay không phải ở chỗ khách hàng có tài sản thế chấp hay không mà quan trọng hơn doanh nghiệp đó là ai và hiệu quả sử dụng vốn như thế nào.
4- Nhân tố con người.
Vai trò quyết định của con người trong công cuộc cải cách và đổi mới, hoàn thiện hệ thống ngân hàng là không thể phủ nhận được. Bởi vì dù có hàng ngàn, hàng vạn những định chế kỳ diệu nhưng khi thiếu đi yếu tố con người, thiếu đi những cán bộ thẳng thắn, trung thực, có trình độ thì kết quả cũng chỉ là con số không.
Thực tế đẫ cho thấy rằng nếu một ngân hàng nào có đội ngũ cán bộ nhanh nhạy, sáng tạo trong công việc, có tinh thần tập thể vì lợi ích của ngân hàng thì ngân hàng đó chắc chắn có thể đứng vững và phát triển trước những sóng gió của thị trường.
Thật may mắn trong ngành ngân hàng Việt nam có đa số cán bộ ngân hàng là tốt, sứng đáng với truyền thống của ngành, sứng đáng với lời dạy của bác Hồ. Chúng ta đã có những cán bộ khước từ hối lộ hàng chục ngàn USD của doanh nghiệp nhằm lung lạc và mua chuộc cán bộ tín dụng để rút tiền vay. Nhiều cán bộ kho quỹ trả lại tiền thừa, phát hiện ngoại tệ giả. Tuy nhiên chuyện "con sâu làm giàu nồi canh" không phải là không có trong ngành ngân hàng. Những cán bộ tín dụng tha hoá về đạo đức, hoa mắt trước sự lôi cuốn của đồng tiền đã tạo nên cơ hội cho doanh nghiệp lũng đoạn nhà ngân hàng. Không chỉ có vậy các cán bộ tín dụng còn gian dối trong việc thẩm định tình hình tài chính của khách hàng, đánh giá sai về tài sản thế chấp, lơ là đi sự giám sát của mình đối với doanh nghiệp để rồi khi doanh nghiệp chốn nợ thì ngân hàng lĩnh toàn bộ rủi ro. Bên cạnh đó năng lực hoạt động của cán bộ tín dụng còn hạn chế do đội ngũ cán bộ được đào tạo có trình độ đại học còn rất ít, các cán bộ ngân hàng chưa ý thức được quyền lợi sát sườn của họ đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ hệ thống ngân hàng. đây là một bài học có thực đã xảy ra ở ngân hàng cổ phần Gia Định. Từ chủ tịch hội đồng quản trị đến phó tổng giám đốc, kế toán trưởng, thủ quỹ... đã thông đồng với nhau sử dụng chứng từ giả, sổ sách giả để chiếm đoạt 14 tỷ đồng từ số vốn huy động trong dân là 72 tỷ và 97 lượng vàng. Nếu vẫn còn tồn tại những con người như vậy thì hỏi liệu ngân hàng có thể phát triển trong cơ chế đầy dẫy những khó khăn như ngày hôm nay không?
Do vậy cán bộ tín dụng cần phải được giao trách nhiệm cụ thể gắn nghĩa vụ của họ với lợi ích khi hoàn thành công việc. Mặt khác công việc của một cán bộ tín dụng đòi hỏi không chỉ có kiến thức chuyên sâu về kinh doanh tín dụng mà còn phải hiểu biết nhiều lĩnh vực để phân tích và phán đoán chính xác, đưa ra quyết định phù hợp. đòi hỏi thì cao, trách nhiệm nặng nề nhưng quyền lợi của họ như thế nào thì còn ít được quan tâm tới, không công bằng so với các công việc khác. Chính vì điều này đã tạo một ý nghĩ chốn tránh nhiệm vụ. Nếu làm tốt thì hưởng chung còn khi làm giở thì một mình phải gánh chịu. điều này làm cho nhiều cán bộ tín dụng không giám mạnh dạn đưa ra quyết định cho vay. Thiết nghĩ ngân hàng cần phải có chính sách khen thưởng thoả đáng với những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời cũng có biện pháp kỷ luật đối với những người vi phạm gây thiệt hại cho ngân hàng. Bên cạnh đó cần tăng cường đào tạo để nâng cao hơn nữa kiến thức của cán bộ ngân hàng giúp cho họ tinh thông nghiệp vụ, có kinh nghiệm thực tiễn trong công việc.
II- Một số kiến nghị đối với các cơ quan chức năng (Chính phủ, ngân hàng nhà nước, cơ quan pháp luật...)
1- Hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng.
Để giảm bớt rủi ro đối với hoạt động ngân hàng trong cơ chế thị trường nên hình thành các quỹ bảo hiểm: Quỹ bảo hiểm tài sản thế chấp, Quỹ bảo hiểm tín dụng. Thu nhập của quỹ là một tỷ lệ nhất định của phần vốn được bảo hiểm và đảm bảo đủ để bảo toàn, tăng trưởng quỹ nhằm bù đắp cho những rủi ro mất mát có thể sảy ra cho cả người cho vay và người vay.
2- Tăng cường hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng (CIC)
Thông tin tín dụng là yếu tố quan trọng trong quản lý tín dụng, nhờ có thông tin tín dụng người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng càng chính xác bao nhiêu thì khả năng phòng ngừa rủi ro càng lớn do chúng ta tránh được việc lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Trong thực tế trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Việt Nam ra đời cách đây 4 năm đã thực sự phần nào trở thành một người bạn đáng tin cậy đối với ngân hàng. CIC đã được triển khai ở tất cả các địa phương và bước đàu thu được thông tin của 77000 doanh nghiệp, đây là doanh nghiệp có mức nợ gần 50 triệu đồng. Trung tâm CIC đã phát huy vai trò của mình trong việc cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin hết sức quý báu, giúp cho các tổ chức tín dụng tránh được rủi ro trong việc thiếu thông tin. Tuy nhiên, do mới ra đời nên CIC vẫn còn chưa đi vào nề nếp từ khâu cập nhật số liệu đến khâu cung cấp thông tin, chưa có những chế tài trong việc xử lý cung cấp những thông tin sai lệch dẫn đến rủi ro.
Nhằm giúp cho ngân hàng tránh được thất bại trong việc đánh giá,xem xét và quản lý tài sản thế chấp thì CIC ngoài việc cung cấp các thông tin về hoạt động kinh doanh của khách hàng vay còn phải là nơi đăng kí pháp định tài sản thế chấp của ngân hàng thương mại. Ta hãy xét ví dụ sau:
Ngân hàng A cấp tài khoản cho vay 100 triệu cho khách hàng X với tài sản thế chấp trị giá 400 triệu. Ngân hàng A trong quá trình thẩm định cho vay của mình sẽ được CIC cung cấp những thông tin về khách hàng X như: Tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng và quyền sở hữu của khách hàng X đối với tìa sản thế chấp như thế nào, đồng thời CIC sẽ cung cấp cho ngân hàng A giấy công nhận quyền chủ nợ cấp I (ghi rõ khách hàng X chưa thế chấp tài sản này ở bất kỳ một ngân hàng nào khác ).
Làm xong những thủ tục này thì ngân hàngA sẽ cho khách hàng X vay tiền. Trường hợp khách hàng X lại đến vay của ngân hàng B một khoản tiền vay là 100 triệu đồng và cùng tài sản thế chấp thì CIC sẽ cung cấp cho ngân hàng B những thông tin tương tự như trên, ngân hàng B sẽ biết được rằng tài sản đó đã được thế chấp tại ngân hàng A do vậy ngân hàng B có thể chủ động xem xét các thông tin về ông X để rồi quyết định cho vay hay không. trường hợp B cho X vay và ông X bị phá sản thì ngân hàng A sẽ là người được trả gốc và lãi trước. Ngân hàng B chỉ được thu nợ trên phần còn lại. điều này làm cho các ngân hàng tỉnh táo và cẩn thận hơn trong việc ra quyết định cho vay.
Mặt khác làm việc này còn ngăn chặn được tình trạng khách hàng dùng nhiều thủ đoạn để có chứng từ gốc đem thế chấp tài sản ở nhiều ngân hàng và tránh được những tranh chấp và trật tự thu nợ trên tài sản thế chấp. Về phía khách hàng điều này cũng giúp cho họ dễ dàng và thuận lợi trong việc dùng một tài sản thée chấp để đi vay nợ tại nhiều ngân hàng. Một việc khác nữa cũng cần nói tới là nó giúp cho việc thực hiện đồng tài trợ của nhiều ngân hàng đối với một khách hàng, giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro tín dụng.
3- Cần phải hoàn thiện văn bản pháp luật về tài sản thế chấp.
Nhà nước cần tạo lập một môi trường pháp lý hoàn chỉnh hơn nhằm tạo ra sự an toàn pháp lý cho hệ thống tiền tệ. Chính do thiếu môi trường pháp lý an toàn đã khiến cho hoạt động tín dụng của ngân hàng hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn. Nhà nước cần tiếp tục cho ra một số đạo luật có liên quan đến hoạt động của ngân hàng. (Thật hữu ích cho các ngân hàng hiện nay vì luật ngân hàng đã ra đời). Đặc biệt cần phải hoàn thiện tốt hơn luật thế chấp và những văn bản hướng dẫn việc xác định quyền sở hữu các tài sản cố định thường được dùng để làm tài sản thế chấp. Mặt khác cũng phải có các quy định tạo sự dễ dàng hơn trong việc thanh lý các tài sản thế chấp của doanh nghiệp, tư nhân có nợ quá hạn không trả được.
4- Các biên pháp khác.
Để mối quan hệ giữa hoạt động tín dụng ngân hàng và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển cần có sự phối hợp đồng bộ của các cấp các ngành và thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu sau đây:
- Chính phủ cần có thái độ dứt khoát xắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, chỉ để tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp thực sự cần thiết cho dân sinh , tạo điều kiện cho đầu tư tín dụng nâng cao được hiệu quả. đặc biệt tăng cường trách nhiệm trong việc cấp giấy phép thành lập công ty tư nhân, công ty TNHH, tránh thành lập tràn lan gây hậu quả xấu cho các đối tác cũng như trong xã hội.
- Bộ tài chính cần tiếp tục cấp bổ xung mức vốn điều lệ đã được duyệt cho các doanh nghiệp để đảm bảo đủ số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước.
- Chính sách tín dụng cần được tiếp tục hoàn thiện đảm bảo vừa huy động được tiền gửi vào ngân hàng (đặc biệt nguồn vốn trung và dài hạn) vừa đảm bảo cho các ngân hàng thương mại kinh doanh có lãi, bảo toàn được vốn, khuyến khích được các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, kích thích mở rộng tín dụng trung và dài hạn để đổi mới kỹ thuật, hiện đại hoá công nghệ, tăng sức cạnh tranh nội địa.
III- Một số kiến nghị với Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh.
1- Tăng cường tổ chức hoạt động kiểm soát nội bộ ngân hàng.
Công tác kiểm soát nội bộ có vai trò quan trọng trong quản trị và điều hành của các ngân hàng trong điều kiện môi trường kinh doanh đa dạng phức tạp và cạnh tranh quyết liệt. Đặc biệt ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, gần 2 năm nay vụ án điều tra chưa kép lại , nó đã để lại một hậu quả vô cùng nặng nề cho ban lãnh đạo cũng như cán bộ công nhân viên của ngân hàng. Vì vậy phải tăng cường tổ chức hoạt động kiểm tra việc chấp hành các quy định, quy trình cho vay, thực hiện các thủ tục nghiệp vụ của các bộ phận và cán bộ ngân hàng. Làm tốt công tác này giúp cho việc phát hiện kịp thời những vi phạm và đề ra hưỡngử lý thích hợp, góp phần đảm bảo an toàn vốn vay. Cụ thể, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm cần làm tốt các việc sau:
- Bố trí những người có năng lực và có trách nhiệm để giám sát và kiểm tra hoạt động của ngân hàng thường xuyên, đặc biệt lựa chọn những nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn cao để kiểm soát công tác tín dụng.
- Định kỳ kiểm tra việc chấp hành các quy chế kinh doanh, nhất là việc thực hiện qui trình cho vay và quản lý vốn vay.
- Xử lý nghiêm túc, kịp thời những sai phạm, qui trách nhiệm đối với những cá nhân thực hiện sai qui chế dẫn đến thất thoát vốn ngân hàng.
2- Công tác tổ chức cán bộ.
Đây là công tác quan trọng hàng đầu trong đó yếu tố con người quyết định sự thành bại của chi nhánh. Do đó cần phải tiếp tục kiện toàn bộ máy lãnh đạo cũng như đội ngũ nhân viên ngân hàng đảm bảo việc điều hành và hoạt động thống nhất, có hiệu quả. Tăng cường cán bộ có trình độ cho những khâu còn thiếu như phòng kinh doanh tín dụng và phòng thanh toán quốc tế...
Kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ thoái hoá, đảm bảo kỷ cương trong công tác điều hành, tránh tình trạng vô trách nhiệm trong công việc. Những cán bộ không đủ tiêu chuẩn cần phải loại ra khỏi dây chuyền cho vay không để họ tiếp tục có điều kiện gây thêm những hậu quả mới .
3- Công tác thu hồi nợ quá hạn.
Cần phải tiếp tục theo dõi đôn đốc cán bộ thu nợ để thu hồi các khoản nợ quá hạn. Xem xét, phân tích những món nợ có khả năng thu hồi trước, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, kiên quyết bám sát con nợ, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện thu nợ của cán bộ tín dụng. Do đó cần phải tăng cường quan hệ với các cơ quan nội chính có liên quan như: UBND, Sở nhà đất Hà Nội, Công an, Viện kiểm sát, Toà án nhân dân... để nhờ họ giúp đỡ hoàn thiện hồ sơ giấy tờ và khi tiến hành phát mại tài sản thế chấp để thu nợ.
Với các con nợ có thái độ chây ỳ, không có thiện chí trong việc trả nợ thì kiên quyết đưa ra cơ quan luật pháp để xử lý.
4- Chế độ khen thưởng với cán bộ tín dụng.
Ngân hàng Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nên sớm có quy chế định mức công việc cho cán bộ tín dụng để trả lương kinh doanh tương ứng. Đây là yếu tố tác động lớn tới nợ quá hạn. Thật bất công nếu như trả lương kinh doanh như hiện nay, trách nhiệm và công việc của cán bộ tín dụng rất nặng nề, nhưng tiền lương vẫn giống như bất kỳ một bộ phận nào khác. Nếu muốn có chất lượng tín dụng tốt phải xem xét đến sự hợp lý giữa quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ tín dụng. Bên cạnh đó, phải quy trách nhiệm vật chất chế tài đối với các cán bộ tín dụng cố tình vi phạm nguyên tắc chế độ tín dụng hiện hành dẫn đến tình trạng nợ quá hạn, nợ không có khả năng thu hồi.
Nhìn một cách toàn diện ta thấy hoạt động tín dụng là nguồn cơ bản của thu nhập hoặc thua lỗ của một ngân hàng cho nên rủi ro tín dụng sẽ tạo khó khăn lớn nhất cho ngân hàng. Với ý nghĩa quan trọng đó của tín dụng không chỉ làm cho người cán bộ tín dụng thấy vinh dự, tự hào mà còn trao cho họ một trách nhiệm nặng nề bởi đánh giá rủi ro tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng là một công việc hết sức phức tạp và đầy rẫy khó khăn. Công việc của một cán bộ tín dụng đòi hỏi họ không chỉ có kiến thức chuyên sâu, kinh nghiệm hoạt động mà có khả năng đánh giá, phán đoán chính xác. trong các báo cáo tổng kết hoạt động của ngân hàng thường xuyên nhắc nhở đến việc rà soát lại đôị ngũ cán bộ tín dụng có biện pháp kỷ luật thích đáng và kiên quyết đưa ra khỏi ngân hàng những cán bộ mất phẩm chất... nhưng chẳng mấy khi đề cập đến thành tích của họ. vì vậy thiết nghĩ Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nói riêng và các ngân hàng thương mại nước ta nói chung cần phải quan tâm hơn nữa đến quyền lợi và trách nhiệm của các cán bộ tín dụng.
5- Thực hiện nghiêm túc các qui chế tín dụng.
Cần phải thực hiện nghiêm túc các quy chế tín dụng đã được đề ra, tránh tư tưởng săn tìm lợi nhuận bằng mọi giá. Trong mọi trường hợp không được hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để lôi kéo khách hàng, thực hiện cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng và để món vay có thể hoàn trả cả trong trường hợp dự án kinh doanh thất bại thì phải thực hiện thế chấp đúng đắn, phù hợp với thực tế.
Nhưng cũng phải cảnh tỉnh quan điểm cho rằng TSTC là tất cả, do đó hễ cứ có thế chấplà cho vay mà quên đi những vấn đề cơ bản của tín dụng. Để ngăn ngừa rủi ro từ phía khách hàng, Ngân hàng cần thực hiện việc lựa chọn khách hàng một cách đúng đắn hơn nữa, chỉ cho vay đối với những khách hàng có đầy đủ điều kiện tín dụng. Khi món tín dụng đã được cấp, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng và người điều hành là phải thường xuyên giám sát hoạt động của người vay, phát hiện kịp thời những món vay có vấn đề đưa ra giải pháp hữu hiệu.
Kết luận chung
Kinh doanh tiền tệ tín dụng trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay các Ngân hàng thương mại gặp phải rất nhiều khó khăn, rủi ro. Thực trạng đó là kết quả tổng hợp của rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhưng để có thể tồn tại và phát triển đòi hỏi mỗi ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nói riêng phải biết vượt lên chính mình, đẩy lùi những vướng mắc tồn tại trong kinh doanh, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất bằng các biện pháp khác nhau. Song dù các giải pháp có hữu hiệu tới đâu chúng ta cũng chỉ có thể hạn chế rủi ro, chứ đặt vấn đề thủ tiêu rủi ro là hoàn toàn thiếu thực tế. Do vậy trong quá trình kinh tế đòi hỏi mỗi ngân hàng phải biết chấp nhận rủi ro ở một mức nhâts địng mà đảm bảo cho hoạt động Ngân hàng ổn định và phát triển vững chắc.
Trong thời gian tới nền kinh tế Việt Nam sẽ có rất nhiều chuyển kiến mạnh mẽ, khó khăn cũ có thể sẽ mất đi những tất yếu có những khó khăn mới nẩy sinh. Yêu cầu đặt ra là Ngân hàng nhà nước cũng như ngân hàng công thương Việt Nam cần có biện pháp chỉ đạo thích hợp và bản thân Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm cũng cần phải có những biện pháp cụ thể nhằm giải quyết những khó khăn đang tồn tại và những khó khăn mới nẩy sinh.
Nhất định với những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ ngành ngân hàng nói chung và Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nói riêng sẽ vưngx bước di lên xứng đáng với vị trí của mình như Đại hội Đảng đã xác định "Ngân hàng là trung tâm tiền tệ tín dụng và thanh toán của các thành phần kinh tế huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thúc đẩy sản xuất phát triển có hiệu quả góp phần ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam".
Hoàn thành bản chuyên đề này em xin chân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các can sbộ Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, đặc biệt là các anh chị trong phòng kinh doanh tín dụng. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với thầy giáo là người trực tiếp hướng dẫn em trong việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
tài liệu tham khảo
1- Ngân hàng thương mại
Edward W. Reed, PhD và Edward K.Gill, PhD
2- Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính
FrederiC.S.Michkin
3- Hội thảo phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn
Ngân hàng công thương Việt Nam
4- Tạp trí ngân hàng
5- Thời báo kinh tế
6- tạp chí nghiên cứu kinh tế
7- Các văn bản về thể lệ, chế độ tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và
Ngân hàng công thương Việt Nam.
8- Các báo cáo tổng kết hoạt động của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm năm 1999 - 2000 - 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0370.doc