Chuyên đề Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Công ty Tài chính Dầu khí

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, ngành ngân hàng Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Một trong những thách thức đó là rủi ro tín dụng. Do vậy, việc nghiên cứu rủi ro tín dụng và đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng có vai trò sống còn đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung và công ty tài chính dầu khí nói riêng. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, bám sát mục tiêu, phạm vi nghiên cứu, khóa luận đề cập đến một số vấn đề sau: Thứ nhất, khái quát các lý luận cơ bản về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng của các công ty tài chính. Tìm hiểu một số mô hình phân tích, đánh giá và đo lường rủi ro tín dụng.

doc100 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1458 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Công ty Tài chính Dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êm các thông tin về những DN hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Liên hệ với các tổ chức thông tin quốc tế, các tổ chức nước ngoài nhằm khai thác thông tin về các đối tác nước ngoài đầu tư tại Việt Nam để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa rủi ro khi các tổ chức của Việt Nam cho đối tượng này vay vốn. Nhanh chóng củng cố đội ngũ cán bộ, áp dụng công nghệ mới, hiện đại hoá và tự động hóa tất cả các công đoạn xử lý để tạo ra nhiều sản phẩm thông tin. Xây dựng và hoàn thiện các quy chế có liên quan đến thực hiện nghiệp vụ phái sinh tại các tổ chức tín dụng. Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển ngày càng sâu rộng và đa dạng của thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả hàng hóa, lãi suất, tỷ giá trên thị trường là những nguyên nhân gây rủi ro cho nhà đầu tư trong các phi vụ mua bán. Để hạn chế rủi ro thua lỗ có thể xảy ra, các nghiệp vụ tài chính phái sinh đã được hình thành, đó thực chất là những hợp đồng tài chính mà giá trị của nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua bán cơ sở. Hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính theo chiều sâu. Một số đánh giá về thực trạng phát triển thị trường tài chính ở nước ta: + Thị trường tiền tệ: Nhìn chung thị trường này chưa phát triển và NHNN chưa thực sự đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến thị trường. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc ... thiếu linh hoạt. + Thị trường chứng khoán: Trong tiến trình phát triển thị trường chứng khoán Việt nam, tiềm năng của việc tham giá của các công ty tài chính là rất lớn. Việc các công ty tài chính cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ tạo đà thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Qua thực trạng trên xin có một số giải pháp cho phát triển thị trường tài chính nước ta trong thời gian tới như sau: Thứ nhất: NHNN và Bộ Tài chính, trực tiếp là ủy ban chứng khoán nhà nước phối hợp chặt chẽ, trên cơ sở tài trợ quốc tế, tổ chức các cuộc hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn ngắn ngày về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của các công ty tài chính trên thị trường chứng khoán. Bộ tài chính cũng nên cùng NHNN tập trung tháo gỡ vướng mắc trong việc định giá các công ty tài chính. Thứ hai: NHNN và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu kho bạc Nhà nước đấu thầu. Cần có cơ chế để các công ty tài chính cổ phần và các tổ chức khác có quy mô nhỏ hơn có thể tham gia trên thị trường này. Đặc biệt, Bộ Tài cính cần có biện pháp đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu. 2.2) Một số giải pháp vi mô 2.2.1) Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý, khoa học Xây dựng và chuẩn hóa một hệ thống chính sách tín dụng cụ thể, rõ ràng, phù hợp với thực tiễn hoạt động của PVFC là điều kiện để công ty nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro cho các khoản vay, mang lại hiệu quả hoạt động cho công ty. Phải căn cứ vào mục tiêu chiến lược của PVFC đến 2010 và 2015 để hình thành quan điểm tín dụng của PVFC bao gồm: các mục tiêu bám sát chủ trương, đường lối, mục tiêu tham gia phát triển kinh tế đất nước, mục tiêu hoạt động kinh doanh đa năng theo thông lệ quốc tế. Một chính sách tín dụng phải xây dựng được các yếu tố sau: + Có mục tiêu rõ ràng: Công ty cần cân đối giữa các mục tiêu quan trong như mục tiêu sinh lời với mục tiêu bảo đảm tính an toàn, mục tiêu thị phần cao với đảm bảo uy tín DN cũng như đảm bảo an toan vốn vay. + Xác định quyền hạn, trách nhiệm của từng bộ phận và cán bộ tham gia vào quá trình quyết định cho vay như ban giám đốc, bộ phận chức năng, các phòng ban và cán bộ tín dụng. Tính đồng bộ trong hoạt động sẽ tạo ra sự nhịp nhàng, tránh chồng chéo cũng như bỏ sót. + Đưa ra các tiêu thức tín dụng: Quy định điều kiện của các khoản vay có thể chấp nhận được, những yếu tố cần xem xét trước khi quyết định cho vay...Đây là giai đoạn đầu tiên quyết định hiệu quả của công tác triển khai tín dụng sau này cũng như khả năng hoàn vốn của khách hàng. + Xây dựng quy trình tiếp nhận, kiểm tra, đánh giá và quyết định đối với đơn xin vay của khách hàng. Quy trình cho vay cần tuân thủ các bước sau: Sơ đồ 3.2: Quy trình cho vay. Tiếp xúc khách hàng Phân tích tín dụng Thẩm định tín dụng Đánh giá RRTD Quyết định cho vay Giải ngân Đánh giá chất lượng, xem lại khoản vay Trong quy trình tín dụng, cần tách chức năng thẩm định với chức năng theo dõi và quản lý khoản vay. Theo cách thức hiện nay của BIDV thì CBTD vừa làm công tác thẩm định, vừa làm công tác theo dõi, quản lý khoản vay là không hợp lý, chưa có sự chuyên môn. 2.2.2) Nâng cao chất lượng đánh giá khách hàng và lượng hóa RRTD Phân tích, đánh giá khách hàng và lượng hóa RRTD là công việc cán bộ tín dụng cần thực hiện trước khi quyết định cho vay đối với khách hàng. Nếu công tác này được thực hiện khoa học thì RRTD sẽ được hạn chế. Những thông tin cần thiết cán bộ tín dụng có thể thu thập từ: bộ hồ sơ vay vốn theo qui định của công ty, phỏng vấn trực tiếp đối tượng vay, điều tra tại cơ sở hoạt động của người xin vay, thông tin của các tổ chức liên quan hay từ các phương tiện thông tin đại chúng... Trên cơ sở đó sẽ sử dụng các mô hình đo lường RRTD để xác định mức độ rủi ro của khách hàng. - Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng. Trong thời đại ngày nay, yếu tố thông tin là không thể thiếu được, đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng - một ngành kinh tế vốn rất nhạy cảm trước các biến động về kinh tế, chính trị, xã hội. Để đảm bảo tính chính xác, thiết thực của thông tin thì cần phải tiến hành thu thập từ nhiều nguồn và phải tiến hành thường xuyên, chủ động chứ không đợi khách hàng đến xin rồi tiến hành. Vì vậy, phải tổ chức một bộ phận chuyên trách thu thập và xử lý thông tin hiệu quả. Các tổ chức cần quan tâm đến 2 nhóm thông tin cơ bản sau: + Nhóm thông tin tài chính: Đó là những thông tin liên quan đến tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của DN cũng như của ngành mà DN hoạt động hoặc các ngành khác như các chỉ số doanh thu, chi phí, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận ròng, tài sản, nguồn vốn, vốn chủ sở hữu ROA, ROE...Những thông tin này sẽ giúp cho các cán bộ tín dụng phân tích tính thanh khoản, khả năng sinh lời, dự toán nguồn tiền mặt vào và ra...Từ đó xác định khả năng hoàn trả nợ cho tổ chức, khả năng thực hiện dự án xin vay vốn. Tuy nhiên, cần chú ý đến những biểu hiện không bình thường từ các luồng tiền, chu chuyển thanh toán của khách hàng. Ngoài ra, cần cập nhật, phân tích những thông tin về biến động của thị trường tài chính như lãi suất, giá cả, tỷ giá hối đoái. + Nhóm thông tin phi tài chính: bao gồm tư cách đạo đức, uy tín, khả năng quản lý, các quan hệ xã hội của các thành viên chủ chốt trong DN hoặc của khách hàng cá nhân xin vay vốn. Những thông tin được thu thập một phần mang tính chủ quan của cán bộ tín dụng nên cán bộ tín dụng cần phải có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích, đánh giá chính xác, có khả năng phán đoán, quan sát và đánh giá tốt. Cụ thể trong quá trình phân tích, các cán bộ tín dụng nên tạo thói quen sử dụng một vài mô hình hiện đại để có cái nhìn đúng hơn, khách quan về rủi ro đối với từng khách hàng hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ điển hình là việc sử dụng mô hình Porter và mô hình SWOT để phân tích hoạt động của DN cũng như của ngành kinh doanh. Trong khi mô hình SWOT nhấn mạnh đến điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của từng DN cụ thể thì mô hình Porter phân tích về các yếu tố cạnh tranh trong một ngành. Những thông tin tín dụng này sẽ được sàng lọc, lưu trữ và xử lý bằng phương pháp đánh giá nội bộ để có cái nhìn đầy đư hơn về hoạt động cũng như tư cách của khách hàng vay vốn. Một trong các phương pháp đó là đánh giá nội bộ, Về cơ bản có 2 công cụ chính là xếp loại tín dụng (credit rating) đối với khách hàng là DN và chấm điểm tín dụng (credit scoring) đối với khách hàng là cá nhân. Việc xếp loại, cho điểm tín dụng đối với khách hàng sẽ rất thuận lợi cho việc quản trị RRTD. - Sử dụng các mô hình đánh giá và đo lường RRTD. Để đánh giá, lượng hóa RRTD và tổn thất do RRTD gây ra là một việc không đơn giản. Chính vì vậy, cho đến nay hầu hết các tổ chức tín dụng ở Việt Nam đều chưa có một mô hình đo lường RRTD hiệu quả. Để có thể đứng vững trong cạnh tranh và không ngừng phát triển thì PVFC cần xác định và nghiên cứu một mô hình đo lường RRTD phù hợp cho mình, có thể nghiên cứu các mô hình như: mô hình chất lượng dựa trên yếu tố 6C, mô hình điểm số Z, mô hình xác suất tuyến tính, mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng, mô hình xếp hạng của Moody và Standard&Poor. (Mô hình chất lượng dựa trên yếu tố 6C.) Tư cách của người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng. Mục đích vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành hay không, đồng thời phải xem xét lịch sử vay và trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Năng lực của người vay (Capacity): Tuỳ thuộc quy định luật pháp của quốc gia. ở Việt Nam, cá nhân dưới 18 tuổi không đủ tư cách ký hợp đồng tín dụng, đối với DN phải căn cứ vào giấy phép kinh doanh, quyết định thành lập… Thu nhập của người vay (Cash): Trước hết phải xác định nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền bán thanh lý tài sản, tiền từ phát hành chứng khoán…Sau đó cần phân tích tình hình tài chính của DN vay vốn thông qua các chỉ tiêu tài chính sau: Nhóm chỉ tiêu thanh khoản (Liquidity). Hệ số thanh toán vốn lưu động=tiền và các chứng khoán ngắn hạn/tài sản lưu động. Hệ số này thấp chứng tỏ khả năng thanh toán của vốn lưu động thấp. Tuy nhiên, quá cao sẽ biểu hiện tình hình ứ đọng vốn, kém hiệu quả. Hệ số thanh toán ngắn hạn=tài sản lưu động/nợ ngắn hạn. ý nghĩa của hệ số này là mức độ trang trải của tài sản lưu động đối với nợ ngắn hạn mà không cần một khoản vay mượn thêm. Hệ số này lớn hơn hoặc bằng 1 chứng tỏ sự bình thường trong hoạt động tài chính DN. Hệ số thường được các ngân hàng chấp nhận cho vay tín chấp là 2. Hệ số thanh toán nhanh=tiền và các chứng khoán ngắn hạn/nợ ngắn hạn. Hệ số này càng lớn thể hiện khả năng thanh toán nhanh càng cao. Tuy nhiên, hệ số lớn lại gây mất cân đối của vốn lưu động, tập trung quá nhiều vào vốn bằng tiền và chứng khoán ngắn hạn. Nhóm chỉ tiêu đòn cân nợ (Leverage ratios): Hệ số nợ=tổng số nợ/tổng tài sản. Thông thường hệ số này nhỏ hơn hoặc bằng 0,5 là hợp lý. Bởi vì, phân nửa tài sản của DN nên hình thành từ vốn chủ sở hữu. Hệ số khả năng trả lãi=lợi nhuận trước thuế và lãi/chi phí trả lãi. Hệ số này đo lường mức độ an toàn của thu nhập có thể trả lãi. Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời (Profitability ratios). Hệ số lãi ròng=lãi ròng/doanh thu. Hệ số này thể hiện một đồng doanh thu bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Suất sinh lời của tài sản ROA=lãi ròng/tổng tài sản. Hệ số này cho biết một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Hệ số này càng cao thể hiện sự sắp xếp, phân bổ và quản lý tài sản càng hợp lý và hiệu quả. Suất sinh lời của vốn chủ sở hữu ROE=lãi ròng/vốn chủ sở hữu Nhóm chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính của khách hàng Hệ số tự tài trợ=vốn tự có/tổng nguồn vốn. Chỉ số này càng lớn thì khả năng tự chủ của khách hàng càng tốt và nguy cơ rủi ro cho vay càng nhỏ. Tuy nhiên hệ số này quá cao thì DN không tận dụng nguồn vốn vay để sản xuất kinh doanh. Tài sản lưu động ròng=tài sản lưu động - nợ ngắn hạn. Tài sản lưu động ròng>0 phản ánh tài sản cố định của khách hàng hoàn toàn được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn, không phải lấy từ nguồn ngắn hạn. Tùy theo từng loại hình tín dụng mà công ty quan tâm đến các chỉ số khác nhau. Ví dụ, cho vay ngắn hạn thì cần chú ý hơn đến chỉ số lưu động, chỉ số về nợ còn cho vay dài hạn thì cần quan tâm nhiều hơn đến chỉ số sinh lời, khả năng trả nợ. Đảm bảo tiền vay (Collateral): Đây là điều kiện để công ty cấp tín dụng và nguồn tài sản thứ hai để có thể dùng trả nợ vay cho công ty. Các điều kiện (Conditions): Cán bộ tín dụng và nhà phân tích tín dụng cần phải biết được xu hướng hiện hành về công việc kinh doanh và ngành nghề của người vay, cũng như khi điều kiện kinh tế thay đổi ảnh hưởng như thê nào đến khoản tín dụng. Kiểm soát (Control): Tập trung vào các vấn đề như các thay đổi trong pháp luật và quy chế có ảnh hưởng đến người vay, yêu cầu tín dụng của người vay có phù hợp với tiêu chuẩn của công ty hay không. Mô hình ước tính tổn thất tín dụng. Theo ủy ban Basel các tổ chức tín dụng Việt Nam trong đó có PVFC có thể sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu của nội bộ để đánh giá vấn đề rủi ro tín dụng. Với các biến số: (1)PD-Probablity of Default: xác suất khách hàng không trả được nợ. Cơ sở để xác định xác suất này là các số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của khách hàng, bao gồm cả những khoản đã trả trong hạn và những khoản không thu hồi được. (2)LGD-Loss Given Default: Tỷ trọng tổn thất ước tính. Đây là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ (Bao gồm tất cả các khoản chi phí liên quan đến việc khách hàng không trả được nợ). Tỷ lệ này có thể được tính theo công thức: Trong đó số tiền có thể thu hồi bao gồm các khoản tiền mà khách hàng trả và khoản tiền thu được từ tài sản thế chấp, cầm cố. Tỷ lệ này rất khác nhau giữa các khách hàng nên không thể sử dụng LGD bình quân. (3)EAD- Exposure at Default: Tổng dự nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. Đối với những khoản vay kỳ hạn thì EAD xác định không quá khó khăn, tuy nhiên đối với vay theo HMTD, tín dụng tuần hoàn thì lại rất khó xác định. Do đó, ủy ban Basel II yêu cầu tính EAD như sau: EAD = Dư nợ bình quân + LEQ x HMTD chưa sử dụng bình quân Trong đó LEQ-Loan Equipvalent Exposure là tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng có thể có khả năng được khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ. (4) EL-Expected Loss: Tổn thất có thể ước tính Với mỗi kỳ hạn xác định có thể tính toán như sau: EL = PD x EAD x LGD Như vậy với việc xác định được tổn thất ước tính cho một khoản vay giúp PVFC: Xác định hiểu quả công việc của từng cán bộ tín dụng dựa trên sự tính toán mức độ tổn thất của danh mục tín dụng của cán bộ tín dụng đó, từ đó đưa ra các chế độ thưởng phạt cán bộ một cách công bằng. Xây dựng hiệu quả hơn nữa Quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Xác định được tổn thất ước tính của khách hàng có thể giúp ngân hàng giám sát và tái xếp hạng tín nhiệm khách hàng sau khi cho vay. Giúp công ty xác định chính xác được giá trị khoản vay, từ đó, công ty có thể tham gia SWAP tín dụng- Hoán đổi tín dụng - là nghiệp vụ phái sinh liên quan đến hoạt động cho vay, để san sẻ rủi ro và tạo tính linh hoạt trong quản lý danh mục các khoản cho vay của ngân hàng. Như vậy việc xây dựng hệ thống ước tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ thống cơ sở dữ liệu nội bộ là xu thé tất yếu của các tổ chức tín dụng Việt Nam, nên PVFC nên sớm triển khai và áp dụng. Tuy nhiên việc tính toán được PD, LGD,EAD không hề đơn giản mà yêu cầu công ty phải có hệ thống dữ liệu đủ lớn và phần mềm hiện đại. Mô hình xếp hạng của Moody và Standard&Poor. RRTD hay rủi ro không hoàn vốn trái phiếu của công ty thường được thể hiện bằng việc xếp hạng trái phiếu. Những đánh giá này được chuẩn bị bởi một dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó Moody’s và Standard & Poor’s là những dịch vụ tốt nhất. Đối với Moody’s xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Standard & Poor’s thì cao nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa(Moody’s) và AA (Standard & Poor’s) sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao. Trong đó, chứng khoán trong 4 loại đầu được xem như loại chứng khoán nên đầu tư, còn các loại chứng khoán bên dưới được xếp hạng xấu (junk). Nhưng do có mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận nên tuy việc xếp hạng thấp (rủi ro không hoàn vốn cao) song có lợi nhuận cao nên đôi khi khách hàng chấp nhân đầu tư vào các loại chứng khoán này. Bảng 12: Mô hình xếp hạng của Moody’s và Standard & Poor’s. Xếp hạng Tình trạng Moody’s Aaa Chất lượng cao nhất Aa Chất lượng cao A Chất lượng vừa cao hơn Baa Chất lượng vừa Ba Nhiều yếu tố đầu cơ B Đầu cơ Caa Chất lượng kém Ca Đầu cơ có rủi ro cao C Chất lượng kém nhất Standard & Poor’s AAA Chất lượng cao nhất AA Chất lượng cao A Chất lượng vừa cao hơn BBB Chất lượng vừa BB Chất lượng vừa thấp hơn B Đầu cơ CCC-CC Đầu cơ có rủi ro cao C Trái phiếu có lợi nhuận DDD-D Không hoàn được vốn Nguồn: Federal deposit Insurance Coporation (FDIC). 2.2.3) Nâng cao chất lượng cán bộ. Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn, nghiệp vụ kỹ năng nghề ngiệp. Để đảm bảo thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của công tác tín dụng PVFC phải trang bị cho cán bộ tín dụng kiến thức về những vấn đề sau: Các loại hình tín dụng, đặc trưng của từng loại hình tín dụng, những loại rủi ro, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro… Quy trình tín dụng từ khi nhận hồ sơ, phê chuẩn tín dụng, giải ngân tín dụng đến khâu giám sát các khoản tín dụng sau khi đã cấp. Kỹ thuật thẩm định dự án đầu tư, đánh giá khách hàng. Các biện pháp quản lý RRTD, cách thức phân loại nợ, trích lập DPRR. Kiến thức về kinh tế, luật pháp và các chính sách liên quan đến quyền sở hữu tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm, phát mại tài sản. Kỹ năng nghề nghiệp là kỹ năng phân tích công việc và xây dựng bản mô tả công việc. Phát triển các kỹ năng cá nhân/ kỹ năng xã hội. Kỹ năng cá nhân (hay còn gọi là kỹ năng xã hội) cũng là nhóm kỹ năng quan trọng tạo nên năng lực tổng thể của cán bộ, giúp cán bộ hoàn thành hiệu quả công việc được giao. Kỹ năng cá nhân bao gồm nhiều khía cạnh, nhưng tựu chung lại gồm 3 bình diện chính: tổ chức thực hiện công việc, quản lý các mối quan hệ và khả năng quản lý thái độ đối với công việc. Kỹ năng giao tiếp và giải quyết các vấn đề là kỹ năng thường xuyên suốt cả 3 bình diện trên. Yêu cầu về đạo đức. Các nhà ngân hàng là những người làm việc trực tiếp hàng ngày và hàng ngày với tiền tệ hơn bất kỳ tổ chức nào khác. Các nhà ngân hàng còn làm việc với nhiều thông tin bí mật và có tính nhạy cảm cao liên quan đến khách hàng của họ. Do đó, mâu thuẫn lợi ích tiềm tàng thường rất nghiêm trọng. Chính vì vậy, đòi hỏi mỗi cán bộ tín dụng cần có phẩm chất đạo đức tốt, không vì mưu lợi cá nhân mà làm phương hại đến lợi ích của công ty. 2.2.4) Tăng cường kiểm soát, quản lý hoạt động tín dụng và RRTD. - Giám sát RRTD. Đối tượng của giám sát RRTD là tình hình sản xuất kinh doanh thực tế của khách hàng và việc thực hiện các điều khoản đã ký trong hợp đồng tín dụng của khách hàng. Để công tác giám sát RRTD được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả, ngân hàng cần dựa vào các công cụ như: các dấu hiệu rủi ro, bảng và đồ thị theo dõi các chỉ tiêu tài chính của DN, bảng xếp hạng rủi ro và xếp hạng TSĐB. Giám sát tín dụng được thực hiện ở các cấp độ khác nhau: + Cán bộ tín dụng giám sát từng tài khoản, kiểm tra việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, kiểm tra các điều khoản của hợp đồng, gặp gỡ khách hàng, kiểm tra tại chỗ... + Cán bộ tín dụng quản lý rủi ro thường xuyên kiểm tra hạn mức, giám sát rủi ro kinh doanh, tiến hành phân tích các biểu hiện của ngành kinh doanh đó. + Cán bộ hỗ trợ tín dụng tính toán và báo cáo hạn mức tín dụng phục vụ cho các báo cáo nội bộ, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các điều khoản ràng buộc theo hợp đồng tín dụng. + Ban tín dụng: Giám sát định kỳ toàn bộ danh mục cho vay và RRTD. + Kiểm soát nội bộ kiểm tra thường xuyên và định kỳ các quy chế nội bộ và luật hoặc các quy định của cơ quan chức năng. + Ban lãnh đạo: thông qua các thông tin quản lý tín dụng và hệ thống báo cáo để giám sát tổng thể tình hình RRTD. - Xếp hạng rủi ro. PVFC cần thiết lập cho mình một hệ thống xếp hạng rủi ro cho danh mục tín dụng. Điều này giúp công ty có cơ sở để định giá các khoản vay, phát hiện sớm các khoản vay đi chệch hướng hay có khả năng gây tổn thất cho công ty. Ví dụ về hệ thống xếp hạng gồm 6 mức sau: Mức rủi ro Mô tả nội dung 1. Tín dụng ít rủi ro Khả năng thực hiện các nghĩa vụ khách hàng là chắc chắn, đảm bảo việc trả nợ như thỏa thuận, có thể có một số khía cạnh yếu, rủi ro nhỏ. 2. Tín dụng rủi ro trung bình Khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của khách hàng là vững chắc, rủi ro chấp nhận được nhưng có một số khía cạnh yếu kém có thể gây rủi ro, cần chú ý giám sát. 3.Tín dụng trên mức rủi ro trung bình Khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của khách hàng ở mức mạo hiểm do có những yếu kém lớn: các yếu kém này có dấu hiệu và khả năng khắc phục được. Cần tăng việc giám sát để đảm bảo tình huống không xấu đi. 4.Tín dụng rủi ro cao Khách hàng đang trong tình trạng xấu kéo dài. Công ty cố gắng cải thiện hoặc từ bỏ mối quan hệ để tránh thua lỗ. 5.Tín dụng khó đòi lãi Khách hàng có rủi ro cao, có thể bị thất thoát tài sản song có thể hy vọng lấy được tài sản gốc. 6.Tín dụng khó đòi gốc và lãi Khách hàng có rủi ro rất cao, có thể mất cả vốn lẫn lãi và các khoản chi phí sau khi đã nổ lực áp dụng các biện pháp để hạn chế. - Xếp hạng chất lượng TSĐB. Có thể có nhiều khách hàng sau khi xếp hạng rủi ro đều ở cùng một mức giống nhau nhưng công ty có thể thực hiện quyết định cho vay và giám sát khác nhau căn cứ vào chất lượng của TSĐB - nguồn trả nợ thứ 2 của khách hàng. Bảng 13: Hệ thống xếp hạng chất lượng TSĐB. Xếp hạng TSĐB Giá trị có thể phát mại của TSĐB tính bằng số % giá trị khoản vay. A 140% B 110% C 80% D 50% E 20% F 0% - Giám sát xử lý nợ xấu RRTD là không thể tránh khỏi trong quá trình hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung và các công ty tài chính nói riêng. Xử lý nợ xấu là biện pháp cuối cùng nhằm hạn chế tối đa những khoản thiệt hại. Để có thể xử lý nợ xấu có hiệu quả thì điều trước tiên là cần phải phát hiện ra càng sớm càng tốt các khoản nợ có vấn đề, các khoản nợ này cần phải có giải pháp khắc phục ngay. Ngoài ra, cần phải xây dựng chính sách và thủ tục xử lý nợ xấu có hiệu quả. Các thủ tục chính bao gồm : Khi một khoản nợ được xác định là Nợ xấu, ngay lập tức được chuyển sang bộ phận Xử lý nợ xấu. Tại thời điểm này, tài liệu về nợ phải được hoàn thiện với những chứng cớ về tình trạng và nguyên nhân xuống hạng của Nợ xấu. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng có khoản nợ được chuyển sang bộ phận xử lý nợ xấu phải có nhiệm vụ thông báo cho cán bộ thuộc bộ phận nợ xấu những thông tin cần thiết. Việc chuyên giao này cần được phê duyệt thông qua Lãnh đạo phụ trách bộ phận nợ xấu. Cán bộ thuộc bộ phận xử lý nợ xấu cần phải tiến hành ngay việc rà soát nợ xấu mới phát sinh. Thu thập thông tin cập nhật để đánh giá lại tình trạng của khác hàng và hoàn thiện việc rà soát nợ xấu bao gồm : Rà soát toàn bộ tài liệu có liên quan đến khoản vay và tài sản đảm bảo, kiểm tra và đánh giá lại tài sản làm đảm bảo. Kiểm tra lại khả năng và thiện ý của khách hàng, của người bảo lãnh, trong việc thực hiện trách nhiệm trả nợ. Đánh giá lại khả năng tài chính theo tính hình mới. Đánh giá khả năng thứ tự ưu tiên của các chủ nợ, bao gồm các tổ chức khác hoặc người cho vay khác, nếu cần thiết. Ghi chép những chi tiết có liên quan về lịch sử của khách hàng và vị thế hiện hành của khách hàng. + Các chiến lược áp dụng khi xử lý nợ xấu: Chiến lược duy trì áp dụng khi có chiến lược tiếp tục duy trì mối quan hệ tín dụng giữa công ty với khách hàng. Các khách hàng được tiếp tục duy trì có thể có cơ hội để cơ cấu lại hoặc thương thảo lại, tùy thuộc vào khả năng trả nợ và khả năng tồn tại của hoạt động kinh doanh của khách hàng. Nhóm khách hàng này có thể bao gồm khách hàng là doanh nghiệp mà có khả năng tồn tại hoặc các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tiền mặt, nhưng có khả năng tồn tại và có cơ hội để cấu trúc lại nợ hoặc thu hồi nợ. Chiến lược rút lui được sử dụng đối với các khoản vay không có khả năng hoàn trả và cần được thanh lý hoặc xóa nợ. Đối với các trường hợp này, PVFC cần thu thập hoặc thu nợ bắt buộc thông qua các thủ tục pháp lý, hoặc thông qua quy trình không chính thức khác để nhằm duy trì kỹ luật tín dụng. Khi có kết luận rằng các khoản vay không thể phục hồi được hoặc không thể tiếp tục duy trì mà không làm phương hại đến vị thế công ty thì các hành động quyết liệt là cần thiết. Khi đó, việc phát mãi tài sản thế chấp, thu hồi các khoản công nợ của khách hàng sẽ được sử dụng. - Phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng RRTD hợp lý, khoa học. Hiện nay, PVFC vẫn đang thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo Quyết định số 493 của NHNN. Tuy nhiên, để lập Báo cáo tài chính theo Chuẩn mực kế toán quốc tế theo khuyến nghị của cơ quan kiểm toán độc lập, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập cũng như tiến trình cổ phần hóa thì PVFC cần phải xây dựng cho được một phương pháp phân loại nợ và trích lập dự phòng theo chuẩn mực quốc tế hoặc gần với chuẩn mực quốc tế. Trước mắt, phương pháp phân loại nợ được sử dụng cho mục đích quản trị nội bộ trong hệ thống PVFC vì nó cho phép đánh giá được chính xác hơn chất lượng của danh mục tín dụng cũng như ước tính được mức trích lập dự phòng chính xác trên cơ sở đánh giá khả năng thu hồi nợ vay thực tế từ mỗi khách hàng vay. Phân loại nợ: Nợ được phân loại dựa trên hai tiêu chí: tình hình thanh toán nợ và tình hình tài chính của khách hàng. Tình hình thanh toán nợ của khách hàng được đánh giá trên cơ sở xem xét những dấu hiệu xấu liên quan đến khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của khách hàng như: trả nợ không đúng hạn, gia hạn nợ, cơ cấu thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn ... Tình hình thanh toán nợ được đánh giá là tốt, trung bình và xấu. Tình hình tài chính: được đánh giá qua việc phân tích các thông tin tài chính và kết quả kinh doanh của khách hàng vay. Việc đánh giá tình hình tài chính được dựa trên việc xem xét tổng hợp các chỉ số tài chính trong mối liên hệ với môi trường kinh doanh, đặc điểm ngành nghề kinh tế có xu hướng phát triển trong tương lai. Trên cơ sở đánh giá tình hình thanh toán nợ và tình hình tài chính của khách hàng vay, nợ được phân thanh 5 nhóm như sau: Tình hình tài chính Tình hình thanh toán nợ Tốt Trung bình Xấu Rất tốt Đạt tiêu chuẩn Cần lưu ý Dưới chuẩn Trung bình khá Cần lưu ý Dưới chuẩn Dưới chuẩn Trung bình Dưới chuẩn Dưới chuẩn Có vấn đề Trung bình yếu Dưới chuẩn Có vấn đề Không thu hồi được Xấu Có vấn đề Không thu hồi được Không thu hồi được Nhóm 1-Đạt tiêu chuẩn: không có những điểm yếu có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ theo như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Cơ cấu khoản vay tốt nên việc thu hồi nợ được thực hiện kịp thời và đầy đủ xét trên mọi phương tiện. Nhóm 2-Cần lưu ý: Không có những điểm yếu tố rõ ràng nhưng có biểu hiện rủi ro ở mức độ cao hơn mức độ rủi ro bình thường. Nhóm 3-Dưới chuẩn: Những điểm yếu tín dụng rõ ràng, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ. Khoản cho vay không được bảo đảm bằng tình hình tài chính hoặc khả năng thanh toán khả quan của khách hàng. Nhóm 4-Có vấn đề: Các khoản cho vay được xếp loại “có vấn đề” là các khoản cho vay có đầy đủ các điểm yếu của một khoản cho vay “Dưới chuẩn”. Thêm vào dó, khoản cho vay này còn có những điểm yếu làm cho khả năng hoàn trả toàn bộ khoản vay, dựa trên các điều kiện hiện tại, là không chắc chắn. Nhóm 5-Không thể thu hồi được: Là những khoản cho vay rất khó có khả năng thu hồi và giá trị thực hiện quá nhỏ đến mức khả năng tiếp tục được ghi nhân là tài sản không được đảm bảo. Điều này không có nghĩa là các khoản cho vay này hoàn toàn bị mất. Trích lập dự phòng. Việc trích lập DPRRTD sẽ giúp công ty chủ động trong công tác xử lý khi có rủi ro xảy ra góp phần nâng cao năng lực tài chính. Tuy nhiên, việc trích lập và sử dụng dự phòng cần có những quy định cụ thể vì việc trích lập quá ít hoặc quá nhiều đều không tốt đối với chính bản thân ngân hàng. Hiện nay, các tổ chức tín dụng Việt Nam thực hiện việc trích lập, sử dụng dự phòng RRTD theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN. Nhóm nợ Tỷ lệ trích lập Nhóm 1 0% Nhóm 2 5% Nhóm 3 20% Nhóm 4 50% Nhóm 5 100% Thêm vào đó, các tổ chức tín dụng còn trích lập và duy trì một khoản dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4. 2.2.5) Thực hiện phân tán và tối thiểu hóa rủi ro tín dụng Trong theo đuổi chiến lược phát triển tín dụng phù hợp với thị trường mục tiêu, cần chú trọng đa dạng hóa danh mục cho vay của công ty. Các DN thuộc cùng ngành, cùng qui mô, vùng lãnh thổ, cùng điều kiện kinh doanh... có thể có tương quan RRTD cao. RRTD cùng lúc xảy ra với nhiều khách hàng là việc công ty hết sức tránh. Tỷ trọng danh mục cho vay cần chỉ ra tỷ suất sinh lời chấp nhận được thì xác định tỷ trọng đầu tư vào mỗi ngành kinh tế, mỗi vùng, quy mô hay thành phần kinh tế...để rủi ro thấp nhất là bao nhiêu. Các biện pháp đa dạng hóa: + Đa dạng hóa phương thức cho vay như cho vay theo hạn mức, cho vay thấu chi, cho vay đồng tài trợ, tín dụng quay vòng, tín dụng trực tiếp từng lần, tín dụng thuê mua, cho vay ủy thác, cho vay dự án đầu tư, cho vay tiêu dùng dựa trên bảng lương của người xin vay... + Đa dạng hóa khách hàng: Để phân tán rủi ro và đạt được mục tiêu lợi nhuận, các tổ chức tín dụng nên mở rộng cho vay đối với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Đặc biệt đối với PVFC, cần mở rộng cho vay đối với các DNNQD hoạt động tốt nhưng không đủ vốn và các chọn lọc những DNNN có dự án xin vay khả thi, hạn chế cho vay đối với các DNNN hoạt động không hiệu quả hay bù lỗ như hiện nay. Đa dạng hóa sản phẩm của công ty: PVFC cần phải thiết lập bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường để phát triển các sản phẩm mới phục vụ nhu cầu đa dạng của khách hàng và cạnh tranh với các tổ chức khác, nâng cao thị phần tín dụng của mình. Đây cũng là một phương thức để san sẻ và giảm thiểu rủi ro. Xây dựng danh mục đầu tư hợp lý. Một trong những phương pháp được căn cứ để kiểm soát rủi ro là đa dạng hóa đầu tư. Theo đó, việc đầu tư được thực hiện qua nhiều loại tài sản khác nhau tạo thành một danh mục đầu tư sao cho tổng rủi ro trên toàn bộ danh mục sẽ được giảm. Lựa chọn đơn lẻ Sơ đồ 3.3 : Xây dựng danh mục đầu tư bằng quá trình phân bổ tài sản.Cổ phiếu Lợi suất và rủi ro thực hiện theo thời gian Danh mục Lợi suất mong đợi Thái độ đối với rủi ro CP nước ngoài Tiền mặt BĐS Trỏi phiếu Cỏc loại tài sản Kết quả đầu tư Lập danh mục tài sản Tăng cường cho vay theo hợp đồng tài trợ. Quy chế ‘đồng tài trợ của các TCTD” được Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành theo quyết định số 286/2002/QĐ-NHNN ngày 3/4/2002. Mỗi tổ chức tín dụng thường có thế mạnh riêng của mình, vì vậy thực hiện đồng tài trợ sẽ giúp cho các tổ chức bổ sung cho nhau về các thế mạnh, hạn chế nhược điểm, có cơ hội học hỏi lẫn nhau, phối hợp trong hoạt động thẩm định dự án và giám sát sử dụng vốn vay giúp giảm thiểu khả năng xảy ra RRTD và khi xảy ra tổn thất thì tổn thất được san sẻ. Khi thực hiện đồng tài trợ, các tổ chức cần nắm rõ điểm mạnh, điểm yếu của mình và tổ chức bạn để phân chia trách nhiệm của từng thành viên. Liên kết đồng bộ các tổ chức tín dụng. Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO cam kết lộ trình mở cửa ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng. Vì vậy, các tổ chức tín dụng trong nước sẽ đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với các tổ chức nước ngoài. Thêm vào đó, khi nền kinh tế phát triển theo cơ chế mở cửa thì các tổ chức kinh tế cũng theo đó mở rộng bất cứ ngành nghề sản xuất kinh doanh nào. Vì không đủ tiềm lực tài chính các DN đó sẽ xin vay vốn bằng mọi cách kể cả một dự án vay vốn tại nhiều tổ chức khác nhau. Bởi vậy, đã đến lúc các tổ chức tín dụng nên có biện pháp cùng nhau xây dựng mối liên hệ thông tin. 2.2.6) Kết hợp hoạt động tín dụng và bảo hiểm tín dụng. Trong hệ thống các tổ chức tài chính, công ty tài chính và bảo hiểm là hai định chế quan trọng và to lớn. Hoạt động của các công ty bảo hiểm có nhiều khía cạnh khác biệt so với các loại hình kinh doanh khác không chỉ việc chấp nhận rủi ro về phần mình từ các chủ thể kinh doanh khác, mà còn ở khả năng đánh giá khách quan và quản lý rủi ro. Công ty tài chính trong quá trình hoạt động buộc phải chấp nhận nhiều loại rủi ro. Việc xây dựng mối quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa công ty tài chính và công ty bảo hiểm sao cho một phần rủi ro của công ty tài chính được chuyển sang nhà bảo hiểm, có lợi không chỉ cho công ty mà còn cho nhà bảo hiểm. Công ty tài chính thì có thể tập trung thời gian và nguồn lực vào việc trực tiếp cung cấp dịch vụ ngân hàng, tạo khả năng hoạt động theo một cơ chế linh hoạt hơn trong việc xác định chiến lược và cân đối lợi ích giữa “rủi ro và thu nhập”. Công ty bảo hiểm thông qua việc gánh lấy một phần rủi ro của công ty tài chính sẽ đảm bảo tính bền vững, độ tin cậy của công ty. Đến lượt mình, các công ty bảo hiểm có vai trò không nhỏ trong việc mở rộng và đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng. Quá trình quản lý rủi ro phức tạp, nhiều cấp độ có thể được đơn giản hóa nhiều lần thông qua việc chuyển một bộ phận rủi ro mang tính kinh tế và phi kinh tế sang công ty bảo hiểm. Các chuyên gia của công ty bảo hiểm có nhiều điều kiện hơn trong chuyên môn hóa đánh giá khách quan rủi ro và xây dựng chiến lược quản trị rủi ro. Nhờ vậy, tính bến vững, độ tin cậy của công ty tài chính được tăng cường và có tác động tích cực đến việc nâng cao uy tín, thương hiệu công ty. Tín dụng là nghiệp vụ cơ bản hàng đầu và tạo nhiều thu nhập cho công ty tài chính. Trong khi đó, chất lượng tài sản có của công ty tài chính gắn chặt với nhiều nhân tố kinh doanh của người vay, đó là các yếu tố cấu thành RRTD. Việc chuyển một phần rủi ro này cho nhà bảo hiểm đảm bảo độ tin cậy của người vay cao hơn, tạo tiền đề giảm thiểu RRTD cho công ty tài chính và nâng cao chất lượng tài sản có của công ty. Các công ty tài chính có thể sử dụng các loại hình bảo hiểm sau để nâng cao chất lượng quản trị RRTD: bảo hiểm tài sản (trong đó, có bảo hiểm tài sản đảm bảo), bảo hiểm các chu kỳ sản xuất, bảo hiểm trách nhiệm các loại (trong đó có trách nhiệm đối với người thứ 3 khi không hoàn thanh nghĩa vụ theo hợp đồng), bảo hiểm nhân thọ của chủ thể vay vốn, bảo hiểm mùa vụ của các cây công nghiệp, bảo hiểm hàng hóa khi vận chuyển... Loại hình bảo hiểm tín dụng có hai hình thức là: (1) yêu cầu khách hàng tự bảo hiểm đề phòng bất trắc. Khoản tín dụng trong trường hợp này coi như được bảo hiểm gián tiếp. Để sử dụng tốt hình thức này ngân hàng cần có chính sách ưu tiên cho vay đối với đối tượng xin vay đã mua bảo hiểm. (2) Công ty trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp cho các sản phẩm tín dụng của mình. ở trên thế giới hoạt động liên kết giữa bảo hiểm và công ty tài chính đã rất phổ biến, tuy nhiên, ở Việt Nam hoạt động này vẫn còn khá mới mẻ. Các công ty tài chính Việt Nam cũng đã ký thỏa thuận với công ty bảo hiểm quốc tế AIA và công ty Prodential về cung cấp dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm. Do vậy PVFC có thể tiếp tục mối quan hệ này để có thể bổ sung một biện pháp hiệu quả nữa cho quản trị RRTD. 2.2.7) Sử dụng công cụ tài chính phái sinh Hiện nay, bên cạnh các biện pháp truyền thống, các tổ chức tín dụng trên thế giới còn sử dụng phổ biến các công cụ phái sinh, chuyển giao RRTD nhằm hạn chế RRTD. Tín dụng phái sinh phát triển mạnh mẽ ở các thị trường tài chính lớn như Mỹ, Anh, Canada, Đức.... Các tổ chức tín dụng Việt Nam đến nay vẫn chưa thực sự áp dụng công cụ tài chính phái sinh này nhưng với xu thế hội nhập mạnh mẽ và công cuộc hiện đại hóa các tổ chức tín dụng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì các công ty tài chính trong đó có công ty tài chính dầu khí sẽ sớm sử dụng các công cụ này. Tín dụng phái sinh là hợp đồng song phương cho phép những người tham gia thị trường chuyển đổi RRTD của khoản vay và các tài sản khác từ bên mình (gọi là bên mua sự bảo vệ) sang bên khác (gọi là bên bán sự bảo vệ). Các tổ chức cho vay có thể sử dụng tín dụng phái sinh để giảm RRTD (trường hợp là người mua sự bảo vệ) hoặc thu được lợi nhuận lớn hơn (trường hợp là người bán sự bảo vệ). Khoản thanh toán được xác định trong hợp đồng tín dụng phái sinh dựa trên sự xuất hiện của sự kiện tín dụng đối với một thực thể liên quan. Có 3 sự kiện tín dụng cơ bản là phá sản, không trả được nợ và tái cơ cấu nợ. - Hoán đổi tổng thu nhập (Total Return Swaps - TRS). Sự hoán đổi này trao đổi các khoản thanh toán của hai bên bằng số chênh lệch ròng của các khoản thanh toán tương ứng. Người “bán” khoản vay - người phải trả tổng thu nhập (total return payer) chi trả dựa vào thu nhập có từ việc nắm giữ một khoản nợ có nhiều rủi ro hoặc một danh mục các khoản nợ có nhiều rủi ro. Tổng thu nhập của một khoản nợ có nhiều rủi ro bằng tổng thu nhập lãi suất và những thay đổi về giá trị thị trường của khoản nợ đó. Rủi ro của những khoản thu nhập này được đo bằng độ biến động của chúng. Bên đối tác trong hợp đồng hoàn đổi tổng thu nhập - người thụ hưởng tổng thu nhập (total return receiver), trả tiền dựa vào các khoản thu nhập của một trái phiếu không có rủi ro vỡ nợ (ví dụ, trái phiếu Chính phủ) trừ đi khoản đền bù nhận được do phải chịu rủi ro của bên phải trả tổng thu nhập. Kết quả của sự hoán đổi này là người phải trả tổng thu nhập được hưởng dòng thu nhập từ trái phiếu không có rủi ro và người thụ hưởng tổng thu nhập được hưởng dòng thu nhập tương xứng với việc nắm giữ khoản nợ đầy rủi ro. Sơ đồ: Hoán đổi tổng thu nhập. Người phải trả tổng thu nhập (công ty bảo hiểm, nhà đầu tư) Người thụ hưởng tổng thu nhập Tổng lợi tức của tài sản Tỷ lệ tham chiếu+mức chênh lệch Trong TRS, một bên nhận tổng thu nhập từ một tài sản liên quan được xác định trong hợp đồng, còn bên kia nhận được luồng tiền theo tỷ lệ thả nỗi hoặc cố định định kỳ. Luồng tiền này không liên quan đến giá trị tín dụng hay khả năng được nợ của tài sản tham chiếu, đặc biệt trong đó khoản thanh toán dựa trên cùng lượng giá trị danh nghĩa. Hoạt động này cho phép công ty giữ lại toàn bộ tài sản của mình, nhưng vẫn duy trì mức độ RRTD mong muốn. Giả sử một tổ chức cho vay (người thụ hưởng) nắm giữ một khoản vay được xếp hạng tín dụng A, có lãi suất thả nỗi được trả 2% nhiều hơn so với mức lãi suất tham chiếu. Nếu lãi suất tham khảo là 8% thì người vay phải trả một mức lãi suất là 10% trong thời kỳ đó. Một dự giáng hạng mức độ tín nhiệm đối với người vay này mà làm giá của khoản nợ đó giảm đi 5% có nghĩa là mức tổng thu nhập bằng 5%. Người thụ hưởng sẽ được trả 5% trong thời kỳ đó. Người phải trả sẽ được nhận 8% lãi suất tham chiếu trừ đi một khoản chênh lệch, ví dụ là 0,25%, tổng cộng là 7,75% cho thời kỳ này. Các khoản thanh toán thực tế bằng số tiền ròng (sau khi đã bù trừ) các khoản tiền trên, do đó, người phải trả nhận được 2,75%. Kết hợp khoản thu này với 2% có được từ việc nắm giữ các khoản nợ đầy rủi ro này, người này được hưởng một khoản lợi tức cuối cùng là 4,75%. Điều này hấp dẫn đối với người thụ hưởng là khả năng được hưởng dòng thu nhập của khoản nợ mà không cần phải đầu tư để có được khoản nợ này. Hoán đổi tổng thu nhập làm gia tăng tính chắc chắn của dòng tiền mặt. Chiến lược quản lý ngân hàng truyền thống cũng nhằm đạt mục tiêu này. Việc dự phòng vốn cho rủi ro tín dụng mà nhà đầu tư một số tài sản có vào các chứng khoán không có rủi ro vỡ nợ cũng đạt được một giới hạn thấp hơn đối với các khoản tổn thất do vỡ nợ. Một sự khác biệt quan trọng là chiến lược dự phòng vốn trên duy trì một kho các tài sản có tính lỏng cao, trong khi chiến lược sử dụng các hợp đồng phái sinh tín dụng cung cấp vừa đúng lúc các dòng tiền mặt khi các khoản tổn thất được phát hiện. - Hoán đổi tín dụng (credit swaps). So với hình thức hoán đổi tổng thu nhập, đặc điểm thanh toán bất ngờ của các hợp đồng hoán đổi tín dụng gần giống với đặc điểm thường gắn với các hợp đồng bảo hiểm. Như sơ đồ 2 cho thấy, người mua bảo hiểm đối với rủi ro tín dụng bằng cách chi trả các khoản thanh toán định kỳ theo một tỷ lệ % cố định của mệnh giá khoản tín dụng. Nếu rủi ro tín dụng dự kiến xảy ra, ví dụ như người vay vỡ nợ, người bán bảo hiểm chi trả một khoản thanh toán để bù đắp cho phần tổng thất tín dụng đã được bảo hiểm. Ngược lại, người mua bảo hiểm không phải trả khoản tiền nào cả. Sơ đồ : Hoán đổi tín dụng. X%/năm Người bán bảo hiểm Người mua bảo hiểm Có rủi ro tín dụng Thanh toán Không có rủi ro tín dụng Không thanh toán Giả sử rủi ro tín dụng được xác định là vỡ nợ, một hợp đồng hoán đổi tín dụng có thể được hình thành như sau. Như trường hợp trước, giả sử khoản nợ có lãi suất thả nỗi được xếp hạng tín phiếu hạng A trả 2% nhiều hơn so với mức lãi suất tham chiếu. Người nắm giữ khoản nợ này ký kết một hợp đồng hoán đổi tín dụng để bảo hiểm đối với rủi ro tổn thất tín dụng do người vay vỡ nợ. Người nắm giữ khoản nợ này là người mua bảo hiểm, ví dụ trả 0,1% mỗi kỳ cho người bán bảo hiểm. Nếu người vay bị vỡ nợ, người bán bảo hiểm phải trả một khoản thanh toán được xác định từ trước. Ngược lại, người bán bảo hiểm không phải trả bất kỳ một khoản tiền nào. Khoản thanh toán này bù đắp khoản tổn thất phát sinh do người vay vỡ nợ. - Hợp đồng quyền chọn tín dụng (Credit Options). Hợp đồng quyền chọn tín dụng là một công cụ bảo vệ công ty trước những tổn thất trong giá trị tài sản tín dụng, giúp bù đắp mức chi phí vay vốn cao hơn khi chất lượng tín dụng của công ty giảm sút. Ví dụ, PVFC lo lắng về chất lượng tín dụng của một khoản cho vay 10 tỷ đồng mới thực hiện, PVFC có thể ký hợp đồng quyền tín dụng với một tổ chức kinh doanh quyền (option dealer). Hợp đồng này sẽ đảm bảo thanh toán toàn bộ khoản cho vay neeusnhw khoản cho vay này giảm giá đáng kể hoặc không thể được thanh toán. Nếu như khách hàng vay vốn trả nợ như kế hoạch, PVFC sẽ thu được những khoản thanh toán như dự tính và hợp đồng quyền sẽ không được sử dụng. Như vậy, PVFC sẽ mất toán bộ phí trả tiền trên hợp đồng quyền. PVFC cũng thực hiện các hợp đồng quyền tương tự để bảo vệ danh mục đầu tư trong trường hợp những tổ chức phát hành không thể hoàn thành trách nhiệm thanh toán hoặc trong những trường hợp giá trị thị trường của các chứng khoán giảm sút do chất lượng của tổ chức phát hành thay đổi. Sơ đồ : Hợp đồng quyền chọn tín dụng. PVFC Tổ chức kinh doanh hợp đồng quyền tín dụng Phí trả cho hợp đồng quyền chọn Thực hiện thanh toán nếu chi phí tín dụng tăng quá mức thỏa thuận hay CLTD giảm dưới mức thỏa thuận. Hợp đồng quyền tín dụng cũng có thể được sử dụng để bảo vệ PVFC trước rủi ro chi phí vốn tăng do chất lượng tín dụng của PVFC giảm. Ví dụ, khi PVFC lo ngại rằng xếp hạng tín dụng của nó sẽ có thể giảm trước khi PVFC phát hành các trái phiếu dài hạn để huy động thêm vốn, và do vậy công ty có thể bị ràng buộc phải trả một mức lãi suất huy động vốn cao hơn. Một giải pháp trong hoàn cảnh này là PVFC mua hợp đồng quyền bán với mức chênh lệch lãi suất cơ bản cam kết trong hợp đồng được xác định là mức phổ biến trên thị trường hiện tại áp dụng đối với mức rủi ro tín dụng hiện tại của công ty. Giống như các loại hợp đồng quyền chọn khác, hợp đồng quyền chọn rủi ro tín dụng cũng mang mức chênh lệch lãi suất cơ bản. Hợp đồng quyền chọn sẽ thanh toán toàn bộ phần chênh lệch lãi suất cơ bản thực tế (so với một chứng khoán không có rủi ro) vượt trên phần chênh lệch lãi suất cơ bản đã thỏa thuận. Chẳng hạn, PVFC dự tính chi phí vay vốn của nó sẽ cao hơn lãi suất trái phiếu chính phủ 5 năm là 1%. Do sự sụt giảm trong chất lượng tín dụng hay do tình trạng đình trệ của nền kinh tế, mức chênh lệch lãi suất cơ bản mà PVFC sẽ phải thanh toán có thể tăng tới 2% trên lãi suất trái phiếu chính phủ. Nếu điều này xảy ra, hợp đồng quyền bán sẽ trở nên có lợi vì nó giúp PVFC hạ thấp mức lãi suất phải thanh toán gần với mức chênh lệch 1% so với lãi suất của chứng khoán chính phủ. 2.2.8) Áp dụng nghiệp vụ mua bán các khoản tín dụng vào quản trị RRTD Mua bán các khoản cho vay là một hình thức thay đổi chủ thể người cho vay trong mối quan hệ tín dụng. Trong đó, chủ thể cho vay sẽ bán khoản vay của mình (quyền đòi) cho một chủ thể khác với một chủ thể khác. Khi đó, người mua lại khoản vay sẽ trở thành chủ nợ mới đối với người đi vay. Mua bán các khoản cho vay có các dạng như bán khoản cho vay không truy đòi, bán các khoản cho vay có truy đòi. Mua bán các khoản cho vay mang lại lợi ích cho các tổ chức tín dụng, đặc biệt trong quản lý rủi ro. Đó là giải pháp nhằm hạn chế những hậu quả nặng nề có thể mang lại từ rủi ro khi cho vay tập trung, tạo vốn cho hoạt động kinh doanh, trợ giúp quản lý tài chính. Khi danh mục cho vay của công ty mất cân đối, công ty phải chuyển hướng đầu tư nhằm phân tán rủi ro. Việc bán các khoản nợ giúp công ty thực hiện được điều này. Một thuận lợi cho PVFC trong việc thực hiện mua bán các khoản nợ là Bộ tài chính đã thành lập công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC). Công ty này có trách nhiệm mua lại các khoản nợ xấu mà các tổ chức tín dụng không thể tự giải quyết. PVFC hoàn toàn có đủ điều kiện để thực nghiệp vụ mua bán nợ nhằm quản trị RRTD tốt hơn. PVFC đã ký kết hợp đồng mua bán nợ với DATC vào ngày 10/11/1006 với trị giá hơn 31 tỷ đồng. Mua bán nợ là một giải pháp giúp các ngân hàng xử lý các khoản nợ của mình, giải quyết vốn tồn đọng. Tuy nhiên, muốn mua bán nợ đạt hiệu quả cả PVFC và công ty mua bán nợ phải đánh giá đúng khoản nợ, khả năng trả nợ. Điều này đòi hỏi công ty phải xây dựng bộ phận đánh giá và quản lý các khoản nợ để phối hợp với công ty mua bán nợ định giá đúng các khoản nợ. 2.2.9) Các biện pháp khác - Hoàn thiện các hình thức bảo đảm tín dụng. Bảo lãnh: Bảo lãnh giúp công ty yên tâm hơn về khoản vay, giảm thời gian, chi phí để tìm hiểu khách hàng. Tuy nhiên, rủi ro có thể xảy ra do chính người bảo lãnh, vì vậy công ty cần xác định tư cách của người bảo lãnh: có đủ tư cách pháp nhân, đủ điều kiện và khả năng thanh toán khoản vay được bảo lãnh. Thế chấp: Tài sản thế chấp phải đảm bảo đủ các yêu cầu sau: Phải có đủ giấy tờ chứng minh thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đi vay, không thuộc loại pháp luật cấm buôn bán, chuyển nhượng, không phải là tài sản thế chấp ở tổ chức khác hay có tranh chấp. Tài sản phải có giá trị hành hóa khi phát mại. Khi xét đến giá trị của tài sản, công ty phải dự báo giá trị của nó tại thời điểm khoản vay hết hạn. Cầm cố: Cầm cố tài sản là việc bên vay đưa tài sản của mình cho công ty giữ để đảm bảo cho việc trả nợ. Việc đánh giá và định giá tài sản cầm cố như tài sản thế chấp. Khác với thế chấp, tài sản cầm cố chỉ là động sản thuộc quyền sở hữu của bên vay và bán được trên thị trường, có thể là các chứng từ có giá. Tín chấp: Đối với những khách hàng có quan hệ thường xuyên với PVFC, được PVFC xếp vào nhóm khách hàng có quan hệ tốt, hoạt động sản xuất kinh doanh được đánh giá tốt, có lãi và có khả năng thanh toán các khoản vay đúng hạn, có tiền gửi thường xuyên đủ khả năng trả nợ và lãi trong từng kỳ hạn thì công ty có thể cho vay theo phương thức tín chấp. Tuy nhiên, PVFC cần đánh giá kỹ khách hàng và các thông tin trong quá khứ và hiện tại về công ty để có quyết định đúng đắn. - Hiện đại hóa PVFC: Hiện đại hóa PVFC là tất yếu của hệ thống tổ chức tín dụng trong xu thế hội nhập ở nước ta hiện nay. PVFC cần nhanh chóng triển khai hệ thống hiện đại hóa để có sự liên kết thông tin giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống và khác hệ thống. Như thế, hoạt động ngân hàng trong đó có hoạt động tín dụng sẽ diễn ra thuận lợi, ít rủi ro hơn. - Hoàn thiện bộ máy tổ chức: Một ngân hàng với bộ máy tổ chức cồng kềnh, chồng chéo sẽ là nguồn gốc phát sinh RRTD. Vì vậy, PVFC cần cơ cấu lại bộ máy tổ chức theo hướng tách bạch các phòng chức năng, phân rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ phận cũng như thiết lập các nhóm hoặc phòng chuyên môn cho từng nghiệp vụ. - Chứng khoán hóa các khoản vay: Đây là một kỹ thuật tài chính mang lại nhiều lợi nhuận cho nhiều tổ chức tín dụng trên thế giới. Chứng khoán hóa các khoản vay được hiểu đơn giản là việc bán ra thị trường các chứng khoán phát hành dựa trên chính các khoản vay. Chứng khoán hóa các khoản vay giúp PVFC đa dạng hóa danh mục cho vay. Sở dĩ chứng khoán hóa nâng cao chất lượng tín dụng, giảm RRTD vì đòi hỏi ngày càng cao của nhà đầu tư vào chứng khoán đã tạo cơ chế chọn lọc tự động, đòi hỏi các khoản vay phải có chất lượng đáp ứng các yêu cầu về quy mô tín dụng, lãi suất, thời hạn... KẾT LUẬN Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, ngành ngân hàng Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Một trong những thách thức đó là rủi ro tín dụng. Do vậy, việc nghiên cứu rủi ro tín dụng và đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng có vai trò sống còn đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung và công ty tài chính dầu khí nói riêng. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, bám sát mục tiêu, phạm vi nghiên cứu, khóa luận đề cập đến một số vấn đề sau: Thứ nhất, khái quát các lý luận cơ bản về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng của các công ty tài chính. Tìm hiểu một số mô hình phân tích, đánh giá và đo lường rủi ro tín dụng. Thứ hai, nghiên cứu và phân tích hoạt động tín dụng và thực trạng rủi ro tín dụng của PVFC trong giai đoạn 2005-2007 . Qua đó, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại PVFC. Thứ ba, trên cơ sở đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng của PVFC, chuyên đề đã đề xuất một số giải pháp vĩ mô và vi mô nhằm góp phần hạn chế rủi ro tín dụng đối với PVFC. Những giải pháp đề xuất trong khóa luận chỉ đóng góp nhỏ trong tổng thể các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại PVFC nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung. Tuy vậy, những giải pháp này có thể phát huy tác dụng tích cực nếu có sự nổ lực phấn đấu của bản thân PVFC cũng như sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp liên quan trong quá trình thực hiện. Rủi ro tín dụng là một vấn đề phức tạp và đa dạng, và do còn nhiều hạn chế về thời gian và hiểu biết nên khóa luận không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được nhiều ý kiến góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo và những người quan tâm để có thể hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu của mình. Em xin trân trọng cám ơn các thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, đặc biệt là PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33179.doc
Tài liệu liên quan