Tổng công ty rau quả nông sản Việt Nam là doanh nghiệp đầu ngành trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh rau quả và nông sản của Việt Nam. Trong những năm vừa qua Tổng công ty đã đạt được rất nhiều thành tựu trong hoạt động xuất khẩu rau quả. Mặt hàng rau quả của Tổng công ty đã có mặt tại hơn 60 quốc gia trên thế giới và ngày càng được người tiêu dùng ưa chuộng
Hiện nay trong xu thế toàn cầu hoá thì việc mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu luôn là mối quan tâm hàng đầu đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Và đây cũng là một trong năm tư tưởng chỉ đạo trong chiến lược xuẩt nhập khẩu giai đoạn 2001 – 2010 mà Nhà nước ta đã đề ra “Ra sức mở rộng thị trường và đa dạng hoá thị trường, củng cố chỗ đứng trên các thị trường mới, tích cực tìm kiếm bạn hàng theo phương châm người bán tìm người mua, chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới để tiêu thụ hàng hoá”.
80 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả nông sản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t lượng, mẫu mã. Tổng công ty cần lưu ý tới những sự thay đổi đó để có những chính sách phù hợp nhằm giữ được sự ổn định và tăng trưởng trong hoạt động xuất khẩu rau quả vào thị trường này.
b. Thị trường EU
Đây là thị trường rộng lớn với 27 quốc gia thành viên, có sự liên kết tương đối chặt chẽ và thống nhất, là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá hùng mạnh của thế giới. Chính vì vậy đây là thị trường có sức mua rất lớn, tuy nhiên thị trường EU lại nổi tiếng là một thị trường “khó tính” với những quy định khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng, quy cách mẫu mã và đặc biệt người tiêu dùng ở thị trường này cũng đòi hỏi cao về chất lượng mẫu mã sản phẩm. Người dân ở đây ưa chuộng các sản phẩm xanh, sạch phục vụ sức khoẻ, thích tính độc đáo, sự tiện lợi và an toàn. Trị giá xuất khẩu của Tổng công ty sang thị trường này tăng giảm không ổn định, năm 2005 tăng 18,2% so với 2004, năm 2006 chỉ bằng 69,71%, giảm 30,29% so với năm 2005. Nguyên nhân chính là do thiếu nguyên liệu để sản xuất một số mặt hàng khiến cho KNXK của các mặt hàng này giảm sút thậm chí bằng 0 như dứa nghiền, chuối hộp, vải purre. Hơn nữa, việc ra quyết định yêu cầu tất cả các mặt hàng rau quả nhập khẩu từ tất cả các nước phải đảm bảo đủ tiêu chuẩn HACCP thì mới được nhập khẩu vào thị trường này đã gây ra không ít khó khăn cho Tổng công ty, làm cho khối lượng nhập khẩu của Tổng công ty vào thị trường này giảm đáng kể. Tuy nhiên đến năm 2007 kim ngạch xuất khẩu rau quả sang thị trường EU đã có sự tăng trưởng vượt bậc, đạt 7,652 triệu USD, tăng 79% so với năm 2006. Năm 2007 thực sự là một năm ấn tượng đối với hoạt động xuất khẩu rau quả sang thị trường EU, chứng tỏ Tổng công ty đã có những biện pháp thích hợp trong việc đảm mảo các khâu từ sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, đóng gói, vận chuyển, áp dụng các quy trình sản xuất đạt tiêu chuẩn mà thị trường EU yêu cầu…
c. Thị trường Mỹ
Mỹ là một trong những nước sản xuất rau quả lớn của thế giới nhưng hàng năm Mỹ vẫn phải nhập khẩu một lượng rau quả lớn. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Tổng công ty sang thị trường này chủ yếu là dứa đã qua chế biến như: dứa miếng, dứa cô đặc, các loại nước purre như vải purre, gấc purre. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Tổng công ty là mặt hàng xuất khẩu không được đa dạng nhưng trị giá xuất khẩu của các mặt hàng lớn.
Trong 3 năm gần đây, KNXK của Tổng công ty vào thị trường này liên tục tăng trưởng, năm 2005 tăng 41% so với năm 2004, năm 2006 tăng 11,4% so với năm 2005, năm 2007 tăng 34% so với năm 2006..Mỹ là một thị trường có sức mua lớn nhưng xuất khẩu vào thị trường này không phải dễ khi mà những quy định về tiêu chuẩn chất lương, tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường rất khắt khe. Hơn nữa, xuất khẩu vào thị trường này phải cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm của các nước có nền sản xuất rau quả mạnh như: các nước Mỹ Latinh, Thái Lan, Croatia. Như vậy trong tương lai Tổng công ty cần phải đẩy mạnh chiến lược đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu vào thị trường này bằng những hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại.
d. Thị trường Đài Loan
Đài Loan là một thị trường tiềm năng, thị hiếu tương đối đa dạng và không đòi hỏi cao về chất lượng. Thị trường này có vị trí gần Việt Nam nên việc vận chuyển được tiến hành thuận lợi. Thị trường Đài Loan nhập khẩu chủ yếu các loại rau như; bắp cải, súp lơ, dưa chuột, thanh long,nấm. dứa và vải cuả Tổng công ty. Cũng giống như Mỹ, các sản phẩm của Tổng công ty xuất khẩu sang thị trường này không được đa dạng. Trong 3 năm gần đây, KNXK của Tổng công ty vào thị trường này không ổn định, năm 2005 tăng 13% so với 2004, năm 2006 giảm 15,5% so với 2005. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do mất mùa của vùng sản xuất vải làm cho các nhà máy không đủ nguyên liệu để sản xuất, chế biến. Đài Loan cũng là một trong những thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO nên Việt Nam được hưởng mức thuế suất giảm của một số mặt hàng rau quả. Tuy nhiên điểm khó khăn trong các chính sách phi thuế quan của Đài Loan là ở chỗ các biện pháp hạn chế chỉ được quy định một cách chung chung mà chưa đi vào chi tiết hoá cho từng mặt hàng như nhiều nước khác, điều này dẫn đến tình trạng không minh bạch và rất khó áp dụng.
Biểu 2.2: Cơ cấu thị trường xuất khẩu rau quả chính
của Tổng công ty năm 2007
4. Những thành tựu Tổng công ty đã đạt được trong việc mở rộng thị trường
Tổng công ty đã tiếp tục duy trì và mở rộng những thị trường truyền thống, đồng thời không ngừng tìm kiếm và thâm nhập thị trường mới. Từ chỗ chỉ có thị trường tiêu thụ Nga, đến nay Tổng công ty đã có quan hệ hợp tác buôn bán với 60 thị trường khác nhau trên thế giới với giá trị ngày càng gia tăng.
Tổng công ty cũng đã phối hợp với các đơn vị tổ chức thực hiện chương trình như tham gia hội chợ và khảo sát nước ngoài trong chương trình xúc tiến thương mại Ngành rau quả năm 2006 như: tham dự hội chợ thực phẩm quốc tế Moscow Nga và khảo sát thị trường Belarus 9/2006, khảo sát thị trường Anh và Pháp 11/2006; thực hiện chương trình xúc tiến thương mại năm 2007: đã tổ chức đoàn khảo sát thị trường Trung Quốc, Ba Lan, Ukraina, tham dự Hội chợ thực phẩm quốc tế Moscow. Qua các chương trình xúc tiến thương mại Tổng công ty đã tiếp xúc, trao đổi với các đối tác và đạt đựơc thoả thuận về hợp tác liên doanh sản xuất, thương mại trong thời gian tới; đã có được một số đơn đặt hàng rau quả các loại; đồng thời qua khảo sát đã tìm hiểu kỹ hơn nhu cầu hiện tại cũng như xu hướng của 4 thị trường , vấn đề an toàn vệ sinh và chất lượng sản phẩm. Nhờ đó mà có thể đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Tổng công ty đã có những nỗ lực trong việc đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến để tạo ra các sản phẩm có chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu phong phú của thị trường thế giới.
5. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân
5.1 Những tồn tại
Mặc dù có nhiều nỗ lực trong các công tác xúc tiến thương mại nhưng việc mở rộng thị trường xuất khẩu của Tổng công ty vẫn còn nhiều hạn chế.
- Thị trường xuất khẩu còn nhỏ lẻ, chưa phát triển được thị trường theo chiều sâu. Đồng thời số lượng thị trường không ổn định, vẫn còn để xảy ra tình trạng để mất thị trường. Cụ thể, năm 2005 rau quả của Tổng công ty xuất khẩu sang 58 nước trên thế giới, đến năm 2006 con số này tăng lên 75 nước, nhưng đến năm 2007 thì chỉ còn lại 60 thị trường.
- Hoạt động Marketing còn nhiều yếu kém, các chiến lược thị trường và chiến lược sản phẩm chưa cụ thể, vẫn còn mang tính chất định hướng, chưa có chương trình hoạt động cụ thể. Tổng công ty vừa xuất khẩu rau quả vừa xem xét phản ứng của khách hàng ở thị trường đó mà không có sự nghiên cứu, hoạch định từ những bước đầu tiên.
- Ở một số thị trường như Mỹ, Đài Loan cơ cấu mặt hàng còn kém đa dạng.
- Tổng công ty chưa mở rộng thị trường sang một số thị trường nhập khẩu rau quả lớn của Việt Nam như Trung Quốc, Nhật Bản… trong khi những thị trường này chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam.
- Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường không ổn định qua các năm. Đó là do các đơn đặt hàng từ khách hàng không ổn định, số lượng khách hàng lên xuống thất thường, đó là do kết quả của việc mở rộng thị trường không thường xuyên và hiệu quả.
- Nguồn hàng cung ứng cho xuất khẩu của Tổng công ty không được ổn định cả về số lượng lẫn chất lượng. Khả năng huy động một lượng cung lớn cho hợp đồng lớn trong một thời gian ngắn rất kém.
5.2. Nguyên nhân
- Nguyên nhân từ phía Tổng công ty
+ Tổng công ty chưa quan tâm nhiều đến hoạt động nghiên cứu thị trường nói chung và nghiên cứu thị trường xuất khẩu rau quả nói chung. Cụ thể là Tổng công ty chưa đầu tư đúng mức về vốn, thời gian, công sức cho các hoạt động nghiên cứu và dự báo thị trường, nguồn thông tin và dự báo về thị trường xuất khẩu rau quả còn ít, không cập nhật và thiếu tin cậy. Chính vì vậy mà Tổng công ty chưa nắm bắt kịp thời những biến động của thị trường quốc tế.
+ Các biện pháp xúc tiến xuất khẩu rau quả của Tổng công ty còn đơn điệu. Tổng công ty mặc dù có tích cực tham gia vào các hội chợ triển lãm quốc tế nhưng mới chủ yếu ở các nước Châu Âu chứ chưa quan tâm nhiều đến thị trường Châu Á, trong khi đây lại là nhưng thị trường chủ lực của hoạt động xuất khẩu rau quả của Việt Nam.
+ Chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Đội ngũ cán bộ của Tổng công ty có tuổi trung bình khá cao, thiếu những người trẻ xông xáo, dám nghĩ dám làm. Số lượng nhân viên làm công tác nghiên cứu thị trường còn ít, hầu hết chưa được đào tạo chuyên sâu về nghiên cứu thị trường nên trình độ nghiệp vụ không cao. Trình độ của cán bộ trong các khâu ký kết hợp đồng, kiểm tra chất lượng hàng hoá chưa cao nên ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, để mất khách hàng.
+ Sức cạnh tranh của sản phẩm còn kém cả về chất lượng, giá cả,mẫu mã, bao bì sản phẩm, không tạo được ấn tượng ban đầu cho khách hàng. Trong khi thị trường thế ngày càng có nhu cầu cao hơn đối với các sản phẩm rau quả thì chất lượng các sản phẩm rau quả của Việt Nam nói chung và của Tổng công ty nói riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường xuất khẩu, đặc biệt là những thị trường khó tính. Các sản phẩm rau quả xuất khẩu của ta luôn bị đánh giá thấp hơn so với các nước xuất khẩu rau quả khác như Thái Lan. Đó là do Tổng công ty cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả khác trong quá trình chuẩn bị hàng cho xuất khẩu chưa đảm bảo được sự đồng đều về màu sắc, kích cỡ, độ tươi, độ chín. Việc bao gói, bảo quản sản phẩm cũng được tiến hành đơn giản, chưa có các loại thùng, hộp chuyên dụng cho rau quả làm cho rau quả dễ bị dập, nát, hỏng. Đồng thời các sản phẩm rau quả tươi thì chứa nhiều chất độc hại do trong quá trình chăm bón, người sản xuất đã lạm dụng các loại hoá chất độc hại, thuốc kích thích tăng trưởng, thuốc trừ sâu. Còn các sản phẩm rau quả chế biến thì do trình độ và công nghệ còn lạc hậu, không đồng bộ nên sản phẩm chưa đáp ứng được những yêu cầu khắt khe về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm ở các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật…
+ Mối liên kết giữa Tổng công ty và các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả khác trong hoạt động mở rộng thị trường còn lỏng lẻo. Hầu hết các doanh nghiệp đều tiến hàng hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường theo kiểu mạnh ai nấy làm chứ chưa có sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau trong việc thăm dò thị trường, tìm bạn hàng và ký kết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Các doanh nghiệp cũng chưa chủ động phối hợp với nhau để tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm rau quả xuất khẩu. Chính vì vâyh, sự có mặt của hàng rau quả Việt Nam trên thị trường thế giới còn rất lẻ tẻ, thưa thớt.
- Nguyên nhân từ phía Nhà nước
+ Các thủ tục xuất khẩu hàng hoá nói chung như thủ tục hải quan còn nhiều rườm rà khiến Tổng công ty gặp nhiều khó khăn, mất thời gian, ảnh hưởng tới việc giao hàng và thực hiên hợp đồng. Giao hàng chậm, không đúng thời hạn sẽ khiến Tổng công ty bị mất uy tín, mất khách hàng và gặp khó khăn khi muốn mở rộng thị trường.
+ Sự hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động xúc tiến xuất khẩu, nghiên cứu thị trường của các công ty còn nhiều hạn chế.
Hỗ trợ thông tin về thị trường xuất khẩu: Thông tin về thị trường xuất khẩu rau quả do cá cơ quan tổ chức Nhà nước cung câp cho các doanh nghiệp còn chung chung, chưa cụ thể và cập nhật. Đồng thời sô liệu do các cơ quan như Tỏng cục hải quan, Tổng cục thống kê, các Bộ và hiệp hội ngành hàng đưa ra thường chênh lệch nhiều và không đảm bảo độ chính xác, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, đánh giá thị trường xuất khẩu.
Hỗ trợ xúc tiến thương mại: Hiện nay, Việt Nam chưa có các trung tâm giới thiệu mặt hàng rau quả xuất khẩu tại các thị trường lớn, các hội chợ, triển lãm dành riêng cho hàng rau quả tổ chức trong nước còn ít ỏi, chưa đem lại lợi ích thiết thực cho cá doanh nghiệp.
Hỗ trợ tín dụng: Tuy trong thời gian qua Nhà nước đã có các chính sách hỗ trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất, chế biến và xuất khẩu rau quả như theo quyết định 178, Chính phủ cho vay với lãi suất thấp hơn 0,2% /tháng so với mức lãi suất cho vay xuất khẩu mà ngân hàng thương mại áp dụng, song trên thực tế việc vay vốn của các doanh nghiệp rất khó khăn và không được hưởng lãi suất vay ưu đãi do thủ tục vay vốn phức tạp.
Như vậy trong thời gian vừa qua, hoạt động mở rộng thị trường của Tổng công ty rau quả nông sản Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc tăng quy mô cũng như tăng giá trị xuất khẩu trên các thị trường. Tuy nhiên, do sức cạnh tranh của các mặt hàng chưa cao, xúc tiến thương mại vẫn còn yếu kém nên dẫn tới việc số lượng thị trường và kim ngạch xuất khẩu tăng giảm thất thường. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước và Tổng công ty cần phải có những giải pháp hiệu quả để khắc phục những tình trạng trên và mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả, đóng góp nhiều hơn nữa vào sự phát triển của đất nước.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU RAU QUẢ CỦA TỔNG CÔNG TY RAU QUẢ NÔNG SẢN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ QUÓC TẾ
I-Dự báo thị trường rau quả thế giới tới năm 2010
1. Các xu hướng tác động tới thị trường rau quả trong những năm tới
- Xu hướng tăng tỷ trọng giao dịch rau quả tươi trong tổng giao dịch rau quả toàn cầu
Thông thường, xuất khẩu các nông sản chế biến được coi là có lợi thế hoan là các nông sản chưa qua chế biến đối với các quốc gia xuất khẩu vì nó làm tăng giá trị gia tăng của sản phẩm và lợi nhuận xuất khẩu. Tuy nhiên đối với thị trường rau quả lại có sự khác biệt trong phương diện này.
Rau quả, đặc biệt là trái cây sẽ cung cấp giá trị dinh dưỡng nhiều hơn nếu nó được tiêu dùng ở dạng tươi với điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong thời gian gần đây, xu hướng tiêu dùng ở các nước đặc biệt là các nước phát triển là gia tăng nhu cầu đối với sản phẩm rau quả tươi. Vì vậy, rau quả tươi thường có giá cao, thậm chí còn cao hơn so với các sản phẩm chế biến.
Mặt khác, các nước đang phát triển khó có thể cạnh tranh về chất lượng đối với sản phẩm rau quả chế biến của các nước phát triển. Việc xuất khẩu rau quả chế biến qua các nước phát triển luôn gặp phải những khó khăn về hàng rào thuế quan, khả năng cạnh tranh với quy mô sản xuất lớn, hơn nữa, thị trường sản phẩm rau quả chế biến đã tương đối bão hoà do người tiêu dùng có xu hướng chuyển sang các sản phẩm tươi có giá trị dinh dưỡng cao.
Chính những nguyên nhân trên đã khiến cho rau quả tươi ngày càng chiếm ưu thế trong hoạt động xuất khẩu rau quả của thế giới.
- Xu hướng tăng cường các biện pháp bảo hộ
Theo Hiệp định Nông nghiệp trong khuôn khổ WTO và các thoả thuận đa phương, song phương khác, thuế nhập khẩu đối vơi rau quả tươi cũng như rau quả chế biến đã giảm đi đáng kể nhưng thay vào đó, nhiều biện pháp phi thuế quan, nhiều rào cản nhập khẩu đã được các nước nhập khẩu áp dụng thông qua các tiêu chuẩn về môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm…
Theo thống kê cảu FAO (tháng 7/2000) thì có đến 80% doanh nghiệp xuất khẩu rau quả tươi trên thế giới gặp khó khăn do những nguyên nhân liên quan đến rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu.
2. Triển vọng thị trường rau quả thế giới
Theo dự báo của tổ chức Nông lương thế giới FAO, trong thời kỳ 2001 – 2010 nhu cầu tiêu dùng rau quả hàng năm tăng bình quân 3,6% trong khi tốc độ tăng sản lượng rau quả chỉ đạt 2,8. Như vậy đối với thị trường thế giới cung vẫn chưa đáp ứng đủ cầu.
+ Nhu cầu nhập khẩu rau tăng bình quân 1,8% /năm, trong đó các nước nhập khẩu chủ yếu là Pháp, Đức, Canada khoảng trên 155.000 tấn mỗi nước: Anh, Mỹ, Bỉ, Hồng Kông, Singapore khoảng trên 120.000 tấn mỗi nước; các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất và Bêlarut khoảng 50.000 tấn mỗi nước. Các nước xuất khẩu rau chủ yếu là các nước đang phát triển, đặc biệt là Trung Quốc, Thái Lan.
+ Đối với quả, nhu cầu nhập khẩu tăng ổn định, phù hợp với khả năng cung ứng. Nhu cầu về quả nhiệt đới sẽ tăng nhanh từ nay đến 2010 với tốc độ 8% /năm, trong đó nhập khẩu của các nước phát triển sẽ chiếm tới 80% nhập khẩu của toàn thế giới. Hai khu vực nhập khẩu nhiều nhất vẫn sẽ là Mỹ và EU, chiếm tới 70% nhập khẩu toàn thế giới.Ngoài ra, Nhật Bản, Canada và Hồng Kông cũng là những thị trường nhập khẩu lớn.
+ Đối với quả có múi: Sản xuất tăng nhanh trong khi nhu cầu tăng trưởng chậm đã gây sức ép lên giá cả các loại quả có múi tươi cung như chế biến, làm giảm diện tích trồng mới trong thời gian qua. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng vẫn sẽ ở mức thấp trong thời gian tới. Sao paolo của Braxin và Florida của Mỹ vẫn là những khu vực cung cấp quả có múi lớn nhất thế giới. Tuy nhiên sản lượng quýt của Tây Ban Nha và sản xuất cam quýt của Trung Quốc dự báo cũng sẽ tăng nhanh trong khi sản xuất của các nước Mỹ Latinh dự báo cũng tiếp tục tăng nhưng ở mức độ chậm hơn. Sản xuất và tiêu thụ quả có múi ở Châu Á cũng có triển vọng tăng lên, tuy nhiên, nhu cầu chủ yếu được đáp ứng từ nguồn cung nội địa, tỷ trọng tham gia vào thị trường thế giới vẫn sẽ khá hạn chế.
+ Đối với sản phẩm chuối: Nhập khẩu chuối toàn cầu dự báo sẽ đạt 14,3 triệu tấn năm 2010, thấp hơn 4% so với tổng lượng xuất khẩu chuối do những hao hụt trong quá trình vận chuyển. Nhập khẩu chuối vào các nước đang phát triển sẽ tăng mạnh hơn, đưa tỷ trọng của các nước này trong tổng lượng nhập khẩu toàn cầu từ 25% hiện nay lên gần 50% vào năm 2010.
Nhập khẩu chuối của các nước phát triển dự báo sẽ tăng 1 – 2%/năm trong những năm tới. Nhập khẩu của Hoa Kỳ và Canada dự báo sẽ đạt 4,6 triệu tấn vào năm 2010, nhưng tỷ trọng của hai nước này trong tổng lượng nhập khẩu giảm từ 39% xuống còn 32% trong cùng giai đoạn. Nhập khẩu chuối của Nhật Bản dự báo sẽ tăng khoảng 0,7%/năm, tăng lên 1,1 triệu tấn vào năm 2010 và chủ yếu nhập từ Philippin.
II- Định hướng xuất khẩu rau quả của Tổng công ty giai đoạn 2001- 2010
- Định hướng cho sản phẩm và thị trường
+ Lựa chọn sản phẩm chủ lực trên cơ sở lợi thế về sản xuất và xuất khẩu và nhu cầu của thị trường đồng thời đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu, tạo ra sự khác biệt so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
+ Duy trì và mở rộng các thị trường trọng điểm như EU, Nga, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan. Củng cố lại thị trường các nước Đông Âu, phát triển các thị trường mới tại Châu Phi và Trung Đông. Tiếp tục chiến lược đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, hướng mạnh vào thị trường nội địa. Mở rộng mạng lưới tiêu thụ trong nước các sản phẩm chế biến như nước quả, vải hộp, ngô rau, ngô ngọt, đậu, rau quả chiên sấy.
- Quan tâm hơn nữa đến công tác thông tin và tiếp thị, coi trọng đảm bảo chữ tín trong kinh doanh.
- Thống nhất sử dụng thương hiệu VEGETEXCO cho tất cả các sản phẩm của Tổng công ty và quảng bá thương hiệu.
- Phối hợp chặt chẽ giữa Công ty mẹ với các Công ty con và Công ty liên kết trong thu mua nguyên liệu, sản xuất chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm. Xác định và phát triển mở rộng thị trường cho các nhóm sản phẩm có nhu cầu cao và có khả năng cung cấp như: purre vải (vải, gấc, lạc tiên), rau quả đông lạnh (dứa, vải), đồ hộp (dứa, dư chuột, vải, nấm, chôm chôm), nước dứa tươi và nước dứa cô đặc. Tăng cường giao dịch với khách hàng để có những hợp đồng lớn từ trước vụ sản xuất, sớm đặt hàng, ký kết hợp đồng, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ động lên kế hoạch sản xuất nguyên liệu và chế biến.
- Về công tác xúc tiến thương mại: Chuẩn bị và tổ chức tốt cho đaong khảo sát thị trường Nam Phi, chương trình đào tạo kỹ năng xuất khẩu và phổ biến những chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà nước. Phối hợp với Hiệp hội Trái cây Việt Nam, tham gia các chương trình xúc tiến thương mạic ủa Hiệp hội. Quản trị tốt trang Web của Tổng công ty, cung cấp kịp thời những thông tin dự báo về thị trường, giá cả, tình hình mùa vụ, sản lượng cây trồng.
Bảng 10: Định hướng sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Tổng công ty
Sản phẩm chủ lực
Sản phẩm đa dạng
Thị trường chính
1.Rau quả tươi
- Bắp cải, khoai tây, hành tây, cà rốt, dưa hấu
- Chuối, vải
- Hoa lay ơn, loa kèn, phong lan
- Su hào, súp lơ, tỏi tây, đậu quả, cà chua, dưa chuột, nấm hương…
- Thanh long, nhãn, cam, quýt, bưởi, chanh, xoài, dưa, chôm chôm, đu đủ.
Nga, Nhật Bản, Đông Bắc Á, Đài Loan
2. Rau quả đóng hộp
- Dứa: Dứa miếng, dứa khoanh, nước dứa tự nhiên, dứa cô đặc
- Nấm hộp, chôm chôm hộp, vải hộp
- Dưa chuột lọ dầm dấm, cà chua quả đóng lọ
- Dứa rẻ quạt, dứa trụ, dứa lọ
- Cốc tai nước đường
- Ớt quả dầm dấm, hỗn hợp dưa cà chua bao tử
- Mận nước đường, nước quả hộp, bưởi hộp, nước yến, măng hộp…
- Thanh long purre, vải purre, gấc purre
Nga, Mỹ, Nhật Bản, Tây Bắc Âu, Hàn Quốc và một số nước khác…
3. Rau quả đông lanh
- Dứa đông lạnh
- Bắp non đông lạnh
- Vải đông lạnh
- Bắp non, bí đỏ, ớt, rau poxoi đông lạnh
- Dưa hấu, khoai môn, khoai mỡ đông lạnh
Hà Lan, Mỹ, Bỉ, Đức, Ba Lan, Nhật
4. Rau quả sấy muối
- Chuối sấy, cơm dừa sấy
- Dưa chuột, nấm muôi
- Đu đủ sấy, bí đỏ sấy khô
- Ớt muối, măng muối
- Lạc rang muối…
Nga, Mỹ, Nhật, Đài Loan, EU và một số nước khác
III) Các giải pháp chủ yếu để mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả nông sản Việt Nam
1. Nâng cao chất lượng của sản phẩm rau quả
- Phát triển vùng sản xuất rau quả
Để đảm bảo khối lượng, chất lượng rau quả xuất khẩu, thực hiện tốt các hợp đồng đã ký, Tổng công ty phải cùng các địa phương thực hiện quy hoạch các vùng chuyên canh rau quả theo hướng sản xuất hàng hoá, với kỹ thuật tiến bộ, được thu hoạch, xử lý bảo quản chế biến theo tiêu chuẩn quốc tế. Tổng công ty đóng vai trò là người nắm bắt nhu cầu của thị trường thế giới, từ đó định hướng cơ cấu cây trồng sao cho phù hợp, đạt hiệu quả cao trong sản xuất và xuất khẩu.
Đồng thời người sản xuất cần học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc lai tạo giống; áp dụng công nghệ sinh học vào việc lai tạo để có thêm nhiều giống mới trái sai, kích thước lớn, đồng đều mà vẫn đảm bảo được hương vị của trái cây thuần chủng; phát triển các mô hình sản xuất rau quả kỹ thuật cao như rau sạch, rau an toàn; không sử dụng thuốc trừ sâu quá liều lượng và các chất kích thích tăng trưởng độc hại trong quá trình sản xuất.
- Đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch (bảo quản và chế biến)
Về chế biến: Tổng công ty phải đảm bảo công nghệ chế biến đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm được quốc tế công nhận như ISO, HACCP… đồng thời phải thường xuyên tìm hiểu, cập nhật các thông tin về các tiêu chuẩn, quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm của các thị trường, đặc biệt là những thị trường lơn như Mỹ, EU, Nhật để có quy trình chế biến, bảo quản phù hợp. Tổng công ty cũng nên học hỏi các doanh nghiệp nước ngoài về các kỹ thuật bảo quản và nhập những dây chuyền máy móc tiên tiến hiện đại thay cho những thiết bị cũ, lạc hậu. Tổng công ty cũng nên mời các chuyên gia bạn sang chuyển giao công nghệ, hướng dẫn vận hàng dây chuyền chế biến, bảo quản rau quả.
Về bảo quản, đóng gói: Tổng công ty cần ứng dụng các công nghệ bảo quản rau quả tiên tiến có thể bảo quản rau quả được lâu ngày như: phát triển nhà xử lý, bảo quản bằng kho lạnh, bảo quản bằng nước ozon…Các loại rau quả tuyệt đối không được sử dụng các hoá chất độc hại để bảo quản hoặc để giữ được mùi vị, màu sắc của sản phẩm.
Bao bì đóng gói cũng có giá trị không nhỏ trong việc thu hút người tiêu dùng, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Trong điều kiện sản phẩm tràn ngập thị trường, nhất là chất lượng, giá cả nhiều khi không chênh lệch, tất nhiên người mua sẽ lựa chọn những sản phẩm có hình thức đẹp hơn, đặc biệt đối với người tiêu dùng ở các thị trường cao cấp như EU, Mỹ thì vấn đề này càng không được xem nhẹ. Do vậy, cải tiến mẫu mã, bao bì đóng gói là rất quan trọng, không những đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật mà còn phải tiên dụng, đẹp mắt
Tổng công ty cần đảm bảo chất lượng ổn định đồng đều của các lô hàng xuất khẩu, tuyệt đối không vì lợi nhuận trước mắt mà xuất cả những lô hàng kém chất lượng, vì những lô hàng kém chất lượng có nguy cơ bị trả lại là rất cao. Hơn nữa, việc xuất những lô hàng kém chất lượng sẽ làm cho các nhà nhập khẩu cũng như người tiêu dùng nước ngoài có ấn tượng xấu về sản phẩm của Tổng công ty. Sản phẩm sẽ rất khó khăn trong việc tăng khối lượng bán trên thị trường quốc tế, thậm chí sẽ phải chịu sự tẩy chay của người tiêu dùng. Do vậy để có vị trí vững chắc trên thị trường xuất khẩu và thiết lập quan hệ làm ăn lâu dài với nhà nhập khẩu thì cách tốt nhất là Tổng công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng của các mặt hàng rau quả xuất khẩu.
2. Các giải pháp về thị trường
2.1. Tiến hành công tác nghiên cứu thị trường
Thị hiếu tiêu dùng của người dân ở các khu vực, các nước và các vùng trong một nước là khác nhau. Do vậy một sản phẩm có thể bán ở một thị trường này với giá cao nhưng sang thị trường khác co thể lại không tiêu thụ được. Chính vì vậy, nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng là vô cùng cần thiết. Nó quyết định việc có hay không duy trì được hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty.
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu kỹ về các thị trường Tổng công ty nên đưa ra chiến lược cụ thể đối với từng thị trường
- Đối với các thị trường truyền thống
Tổng công ty nên tăng cường củng cố các mối quan hệ thương mại tốt đẹp, đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá xuất khẩu để tạo lòng tin tuyêt đối cho người tiêu dùng của nước nhập khẩu, tạo cho họ thói quen tiêu dùng rau quả của Việt Nam và tuyệt đối không để bất cứ sai sót nào xảy ra trong khâu chế biến cũng như khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm.
- Đối với các thị trường cấp thấp
Cần liên kết với các tổ chức thương mại của các nước để thực hiện các chương trình hội chợ, trưng bày và bán các sản phẩm rau quả của Việt Nam. Cũng cần lưu ý thông qua Việt kiều, những người Châu Á và các tổ chức của họ ở thị trường này để dần đưa các sản phẩm rau quả vào thị trường.
- Đối với các thị trường cao cấp
Để xuất khẩu vào thị trường này Tổng công ty cần phải giảiquyết rất nhiều vấn đề nhưng quan trọng nhất là phải đảm bảo chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo và giữ vững uy tín của Tổng công ty.
2.2. Thông tin thị trường
Trong điều kiện hội nhập, thông tin có vai trò vô cùng quan trọng giúp cho các nhà quản lý, các doanh nghiệp cũng như là người tiêu dùng đưa ra được những quyết định tối ưu nhất. Đặc biệt trong công tác nghiên cứu mở rộng thị trường thì thông tin càng trở nên quan trọng, khả năng thu thập thông tin một cách chính xác và xử lý thông tin tạo nên một chỗ đứng vững chắc cho Tổng công ty trên thị trường. Tổng công ty cần có thông tin về các tình hình:
- Thị trường có nhiều triển vọng nhất đối với hoạt động xuất khẩu rau quả của Tổng công ty .
- Tình hình cạnh tranh giữa các đối thủ trong hiện tại và tương lai.
- Tình hình sản xuất, đầu tư, áp dụng công nghệ mới cũng như trình độ tổ chức, quản lý,chiến lược kinh doanh của bạn hàng.
- Các biến động về kinh tế, chính trị, xã hội của các nước vì điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sự vận động của thị trường, tới cung cầu sản phẩm.
- Các chính sách về hải quan, thuế xuất nhập khẩu, các quy định của các nước về vệ sinh an toàn thực phẩm, về các tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường.
Những thông tin này giúp cho Tổng công ty có thể xác lập được kế hoạch sản xuất, chiến lược marketing, lựa chọn được đối tác và thị trường thích hợp cho hoạt động xuất khẩu của mình.
Tuy nhiên để có thể thu thập được thông tin thì Tổng công ty cân lưu ý một số điểm sau:
+ Phải có đội ngũ cán bộ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có trình độ ngoại ngữ tốt, có kinh nghiệm trong nghiên cứu tình hình thị trường , có khả năng chọn lọc, phân tích thông tin
+Xây dựng hệ thống thông tin một cách có hiệu quả từ nhiều kênh khác nhau như: thu thập tại đại bàn, từ Internet, từ các thương vụ cử đại diện ra nước ngoài…Làm tốt công tác dự báo về cung, cầu, giá cả.
+ Nâng cao trình độ hiểu biết về luật pháp quốc tế của đội ngũ cán bộ làm công tác thương mại và của các doanh nghiệp để hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động đối phó với những tranh chấp, rào cản thương mại của các thị trường.
+ Cần khai thác tối đa sự trợ giúp của các cơ quan việt Nam ở nước ngoài, các cơ quan của họ ở Việt Nam, vừa hiệu quả vừa tiết kiệm chi phí.
+ Tổng công ty cần tích cực tham gia nhiều hơn vào các hội chợ triển lãm quốc tế, các hội nghị chuyên đề do nước ngoài tổ chức, chuyển hẳn từ tiếp thị thụ động sang tiếp thị chủ động
3. Xây dựng thương hiệu
Thương hiệu Vegetexco đã có nhưng chưa thực sự tạo ấn tượng cho người tiêu dùng. Do vậy cần có những biện pháp để phát triển thương hiệu. Bởi vì đối với khách hàng, một thương hiệu có uy tín luôn mang lại niềm tin và là sự lựa chọn của khách hàng. Rõ ràng là những sản phẩm mang một thương hiệu nổi tiếng, kể cả những sản phẩm mới tung ra thị trường sẽ dễ thuyết phục khách hàng lựa chọn hơn là những sản phẩm cùng loại nhưng không có thương hiệu hoặc thương hiệu kém nổi tiếng hơn. Như vậy thương hiệu chính là tấm giấy thông hành để sản phẩm của Tổng công ty có thể thâm nhập vào thị trường quốc tế. Vì vậy trong thời gian tới Tổng công ty cần chú ý các vấn đề sau:
- Việc xây dựng thương hiệu phải bắt đầu từ việc bảo đảm được sự ổn định và ngày càng nâng cao chất lượng rau quả xuất khẩu. Nếu chỉ đăng ký thương hiệu cho sản phẩm rồi sau đó lại không quan tâm đến việc phát triển sản phẩm thì không những không khai thác được giá trị của thương hiệu mà còn làm cho khách hàng mất lòng tin vào sản phẩm của doanh nghiệp bởi thương hiệu không đơn thuần là nhãn hiệu hàng hoá mà nó còn là tổng thể của các yếu tố vô hình và hữu hình như chất lượng sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp.Thương hiệu chỉ thực sự là thương hiệu đúng nghĩa khi được thị trường quốc tế biết đến và công nhận. Do vậy doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo dựng ấn tượng tốt về sản phẩm trong nhận thức của khách hàng quốc tế.
- Xây dựng thương hiệu cần đi đôi với quảng bá thương hiệu. Muốn vậy Tổng công ty cần tích cực tham gia vào các hội chợ triển lãm quốc tế về nông sản và rau quả, in ấn các Cactalo giới thiệu sản phẩm với khách hàng quốc tế. Đặc biệt hiện nay ở Việt Nam ngành du lịch đang phát triển. Trong một năm ở khắp mọi miền đất nước liên tục diễn ra các lễ hội du lịch thu hút sự quan tâm và tham gia của động đảo khách du lịch trong và ngoài nước. Do vậy, Tổng công ty cần chủ động đăng ký các gian hàng tại các lệ hội để giới thiệu, bày bán sản phẩm của mình với khách du lịch quốc tế.
Một điều nữa cần lưu ý là tạo dựng được thương hiệu đã khó nhưng bảo vệ, giữ gìn và phát triển thương hiệu đó một cách lâu dài còn khó hơn. Tổng công ty cần chú ý đến việc giáo dục lề lối tác phong văn hoá, lễ nghi cho các cán bộ trong giao tiếp, đàm phán với phương châm lấy chữ tín làm đầu.
4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực xuất khẩu rau quả
Chất lượng nguồn nhân lực ảnh hưởng rất nhiều tới hoạt động kinh doanh đặc biệt là với hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty. Để thực hiện tốt các nội dung của hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu như nghiên cứu thị trường, phân tích, dự báo, đàm phán, ký kết hợp đồng… đòi hỏi cán bộ công nhân viên phải có trình độ cao cả về chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm và nhạy bén trước sự thay đổi của thị trường. Do vậy, Tổng công ty có thể sử dụng một số giải pháp sau:
- Thường xuyên cử cán bộ, nhân viên đi nghiên cứu thị trường nước ngoài, tham gia các khoá học tập huấn về nghiệp vụ xuất nhập khẩu.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhân viên trẻ, thiếu kinh nghiệm đi học các lớp tập huấn hay học hỏi kinh nghiệm từ những nhân viên lớn tuổi, giàu kinh nghiệm hơn.
- Có kế hoạch tuyển thêm các nhân viên mới trong lĩnh vực marketing quốc tế có trình độ cao.
- Có chế độ khên chê, thưởng phạt công minh tạo điều kiện cho các nhân viên có động lực để phấn đấu và hăng hái làm việc.
Cán bộ công nhân viên được nâng cao về chất lượng, trình độ sẽ giúp Tổng công ty giải quyết nhanh, chính xác và hiệu quả mọi công việc, ký kết được nhiều hợp đồng, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu.
III) Kiến nghị với Nhà nước và Bộ NN&PTNT
1.Hoàn thiện quy hoạch vùng nguyên liệu, mạng lưới chế biến, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu rau quả
Muốn mở rộng thị trường xuất khẩu thì nguồn hàng xuất khẩu phải đủ khả năng cung ứng cho thị trường với số lượng lớn và chất lượng ổn định, chủng loại sản phẩm phải phong phú và giá cả phải ngang bằng với mức chung trên thị trường thế giới. Hơn nữa đối với các mặt hàng rau quả tươi thì khâu vận chuyển, bảo quản từâpsex tạo ra những thuận lợi cũng như những khó khăn cho hoạt động xâm nhập thị trường.
Trong thời gian qua, hoạt động mở rộng thị trường của Tổng công ty chưa mấy thành công một phần là do khối lượng hàng hoá chưa đủ cung ứng cho thị trường quốc tế, việc vận chuyển và bảo quản rau quả còn yếu. Song nguyên nhân sâu xa là do công tác quy hoạch vùng sản xuất, mạng lưới chế biến và cơ sở hạ tầng ở Việt Nam còn nhiều bất cập. Do đó trong thời gian tới Nhà nước cần chú trọng các công việc sau:
- Quy hoạch hợp lý nguồn nguyên liệu và mạnh lưới chế biến rau quả, tạo ra sự gắn kết giữa vùng nguyên liệu, nhà máy chế biến và thị trường tiêu thụ.
Nhà nước cần quy hoạch, đầu tư phát triển vùng chuyên canh rau quả trên cơ sở nghiên cứu kỹ đặc điểm canh tác, trồng trọt, điều kiện sinh sống của nhân dân từng vùng, từng địa phương. Nhà nước phải đảm bảo việc phát triển vùng nguyên liệu sẽ phát huy được thế mạnh của từng vùng, từng địa phương, tạo thêm việc làm và ổn định đời sống cho nhân dân trong vùng. Các nhà máy chế biến rau quả phải được xây dựng gắn với vùng nguyên liệu với quy mô phù hợp. Đối với vùng nguyên liệu phân tán nên phát triển hệ thống chế biến vừa và nhỏ, vừa đảm bảo việc bảo quản và chế biến tại chỗ, vừa làm vệ tinh cung cấp bán thành phẩm cho các cơ sở chế biến công nghiệp công suất lớn, tạo nên hệ thống nhiều tầng công nghệ, nhiều quy mô với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
Đồng thời, khi quy hoạch vùng nguyên liệu, mạng lưới chế biến phải tính đếnviệc phát triển hệ thống phân phối tiêu thụ sản phẩm bởi hệ thống này đóng vai trò lớn trong nội tiêu và xuất khẩu nhằm đảm bảo việc cung cấp nguồn hàng xuất khẩu được nhanh chóng, thuận lợi. Do vậy, song song với việc phát triển vùng chuyên canh rau quả, Nhà nước cần triển khai xây dựng các chợ đầu mối rau quả được trang bị đầy đủ các thiết bị kiểm tra, đo lường sản phẩm, các khu sơ chế, bảo quản rau quả tại các vùng chuyên canh và đô thị lớn.
- Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất, chế biến và xuất khẩu rau quả.
Hiện nay, mạng lưới thuỷ lợi ở nông thôn về cơ bản đã được xây dựng xong nhưng các hồ chứa nước, trạm bơm không được cải tạo nâng cấp thường xuyên nên vẫn xảy ra tình trạng không có đủ nước cung cấp cho sản xuất nông nghiệp. Hệ thống đường giao thông vẫn chưa được nâng cấp gây nhiều khó khăn cho công tác vận chuyển rau quả vốn là những mặt hàng dễ bị dập, nát. Do vậy, Nhà nước cần nhanh chóng đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, chế biến rau quả; củng cố, phát triển hệ thống đê điều, hồ chứa nước, kênh mương, trạm bơm, trạm điện để hạn chế tối đa ảnh hưởng bất lợi của thời tiết như mưa rét, bão lụt hoặc hạn hán kéo dài…tới quá trình sản xuất; nâng cao chất lượng đường giao thông để đáp ứng nhu cầu vận chuyển rau quả, tránh tình trạng đường làm xong lại sửa, làm đi làm lại, kéo dài vừa gây lãng phí tiền bạc, công sức, vừa cản trở lưu thông hàng hoá.
Đặc biệt cần xây dựng hệ thống kho vận tải tại các khu vực cửa khẩu, bến cảng là địa điểm tập kết hàng hoá trước khi xuất khẩu. Cần có những kho lạnh để bảo quản hàng rau quả với khối lượng lớn trong trường hợp cần thiết.
Để thực hiện nhanh, hiệu quả các công việc trên, Nhà nước cần khuyến khích, thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước vào quá trình phát triển vùng nguyên liệu, mạng lưới chế biến, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, chế biến, xuất khẩu thông qua các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp.
2. Tạo môi trường pháp lý ổn định và thống nhất cho các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả
Giống như tất cả các sản phẩm khác, hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả của Tổng công ty chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các quy định pháp luật có liên quan như: thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nguyên liệu, thủ tục xuất khẩu… Nếu những quy định này thông thoáng hơn, có nhiều ưu đãi hơn thì các doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn trong hoạt động xuất khẩu, cạnh tranh được với các đối thủ nước ngoài về chi phí sản xuất, giá xuất khẩu… Ngược lại, nếu các thủ tục xuất khẩu phức tạp, thuế xuất khẩu, nhập khẩu nguyên liệu cao sẽ gây trở ngại lớn cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Chính vì vậy để đẩy mạnh hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả thì Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý ổn định và thống nhất cho các doanh nghiệp như đơn giản các thủ tục hành chính, thủ tục xuẩt nhập khẩu để đảm bảo cho các doanh nghiệp thực hiên đúng thời gian giao hàng mà không mất quá nhiều thời gian và công sức, từ đó nâng cao uy tín của các doanh nghiệp, tạo lòng tin đối với khách hàng.
3. Nâng cao hiệu quả các hoạt động hỗ trợ đối với doanh nghiệp xuất khẩu rau quả
Với hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu thì thông tin về thị trường rau quả quốc tế và xúc tiến thương mại là vô cùng quan trọng. Các doanh nghiệp có nắm chắc được thông tin về thị trường trong nước và quốc tế thì mới vạch ra được các chiến lược kinh doanh cụ thể, chính xác, lên kế hoạch chủ động tìm kiếm bạn hàng phù hợp. Bên cạnh đó việc thường xuyên tham gia vào các hoạt động xúc tiến thương mại với đối tác nước ngoài sẽ khiến các doanh nghiệp và khách hàng nước ngoài có cơ hội tìm hiểu về nhau và về sản phẩm mà họ quan tâm. Ở Việt Nam các hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế. Về phía Nhà nước và các Bộ có liên quan cũng chưa có sự quan tâm đúng mức. Vì vậy trong thời gian tới Nhà nước cần hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại hiệu quả hơn, từ đó đẩy mạnh hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp.
- Về hỗ trợ cung cấp các thông tịn liên quan đến thị trường xuất khẩu rau quả
+ Nhà nước cần giao cho các cơ quan chức năng như các Bộ, trung tâm thông tin, các tổ chức xúc tiến thương mại, các cơ quan nghiên cứu kinh tế - thương mại …đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu rau quả thế giới để cung cấp thông tin thường xuyên cho các doanh nghiệp. Thông tin phải mang tính cập nhật, chính xác cao bởi rau quả là mặt hàng mang tính chất thời vụ, thời hạn sử dụng ngắn hơn nhiều so với các mặt hàng khác. Đồng thời thông tin phải bao gồm nhưng nội dung cơ bản như: nhu cầu thị trường, giá cả các loại rau quả trên thị trường xuất khẩu, danh sách các nước nhập khẩu chủ yếu, các quy định và tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như hệ thống kiểm dịch rau quả của các nước nhập khẩu, thông tin về các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu rau quả, các xu hướng vận động, biến đổi của thị trường rau quả thế giới…
+ Cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa Bộ Thương Mại và Bộ NN & PTNT trong hoạt động đàm phán, ký kết các thảo thuận song phương và đa phương, định hướng cho các doanh nghiệp phát triển thị trường. Bộ Thưong mại có hệ thống các Vụ chính sách thị trường ngoài nước, có hệ thống thương vụ, đại diện thương mại của nước ta đặt tại các nước. Đây là những đầu mối quan trọng tổ chức thu thập thông tin thường xuyên, cung cấp thông tin một cách nhanh nhất cho doanh nghiệp và người sản xuất. Do vậy hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần bổ sung chức năng, nhiệm vụ, đổi mới phương thức hoạt động để các cơ quan này thực sự là tổ chức xúc tiến thương mại, hỗ trợ hướng dẫn các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phát triển kinh doanh theo sát nhu cầu thị trường.
Kinh nghiệm của một số nước kinh doanh thành đạt trong lĩnh vực xuất khẩu rau quả cho thấy cần thiết phải có những tổ chức chuyên trách trong việc nghiên cứu thị trường ngoài nước. Tổ chức này có nhiệm vụ:
Thu thập thông tin về cung, cầu, giá cả, thị hiếu tiêu thụ, dung lượng, khả năng cạnh tranh đối với từng nhóm hàng, mặt hàng.
Xử lý thông tin, dự báo sản phẩm tiềm năng ở mỗi thị trường cụ thể về các mặt: số lượng, chất lượng, giá cả, thị hiếu.
Cung cấp thông tin đã xử lý một cách nhanh nhất cho các cấp lãnh đạo, làm cơ sở để xây dựng chiến lược kinh doanh, chỉ đạo điều hành kinh doanh.
Cung cấp thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các tổ chức khuyến nông, các cấp chính quyền, đoàn thể... tới người sản xuất, giúp họ định hướng sản xuất lâu dài, ổn định, có căn cứ phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Cung cấp thông tin về những ưu thế của sản phẩm trong nước tới khách hàng thông qua các cuộc hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế. Giúp họ hiểu rõ về sản phẩm Việt Nam nhằm tạo ra nhu cầu tiêu thụ.
- Về hỗ trợ xúc tiến thương mại đối với sản phẩm rau quả xuất khẩu
Trong thời gian tới Nhà nước cần phải thành lập một số trung tâm giới thiệu sản phẩm rau quả xuất khẩu tại một số thị trường quan trọng trên thế giới như Mỹ, Nhật Trung Quốc, EU… Đây là cách tốt nhất tạo ra sự hiện diện thường xuyên của các mặt hàng rau quả mà ta cần bán, đồng thời tạo cơ hội để khách hàng có thể trực tiếp tìm hiểu các sản phẩm mà họ cần. Các trung tâm này sẽ giới thiệu cho khách hàng, các nhà nhập khẩu nước ngoài về các chủng loại rau quả xuất khẩu của Việt Nam, danh mục các nhà xuất khẩu rau quả, tư vấn cho khách hàng. Đồng thời đây cũng là nơi cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp trong nước về các yêu cầu của khách hàng nước ngoài, đóng vai trò trung gian giữa bên xuất khẩu và nhập khẩu.
Mặt khác, các cơ quan Nhà nước ở Trung ương và địa phương, các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài như các đại sứ quán cần tăng cường tổ chức các cuộc triển lãm, hội chợ dành riêng cho mặt hàng rau quả có sự tham gia đông đảo các doanh nghiệp trong nước và mời các nhà nhập khẩu, các khách nướ ngoài tới tham dự, đồng thời cho ý kiến nhận xét, đánh giá về sản phẩm
Hàng năm Nhà nước trợ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả trong hoạt động xúc tiến thương mại qua việc miễn giảm chi phí mà các doanh nghiệp phải trả cho việc thuê các gian hàng giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ, triển lãm tổ chức trong nước và quốc tế, hỗ trợ chi phí cho việc trưng bày sản phẩm, quảng cáo sản phẩm. Tuy nhiên việc quản lý quỹ dành cho xúc tiến xuất khẩu phải chặt ché, tránh tình trạng tham ô, sử dụng lãng phí, không hiệu quả hoặc phân bổ không đồng đều.
- Về hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả
Ngoài Tổng công ty rau quả nông sản có quy mô tương đối lớn nhưng cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác đều gặp phải tình trạng thiếu vốn nên hoạt động xúc tiến thương mại còn nhiều hạn chế. Vì vây, Nhà nước cần hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả. Việc hỗ trợ phải đảm bảo sự bình đẳng thực sự trong quan hệ tín dụng giữa các thành phần kinh tế, đơn giản hoá thủ tục vốn vay và áp dụng lãi suất ưu đãi đối với các doanh nghiệp xuất khẩu.
Nhà nước cũng cầnốap dụng chính sách hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả có vốn Nhà nước chiếm cỏ phần chi phối, đặc biệt là Tổng công ty rau quả nông sản Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của thế giới để đảm nhiệm vai trò tiên phong và hướng dẫn về thị trường và công nghệ trong chế biến xuất khẩu.
4. Nhà nước nghiên cứu và phổ biến các quy định vê vệ sinh an toàn thực phẩm tới người sản xuất
Hiện nay các rào cản qui định về chất lượng an toàn thực phẩm mặt hàng rau quả ở các nước nhập khẩu là rất cao, nhưng vấn đề này ở Việt Nam người sản xuất chưa quan tâm đúng mức, việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu trong canh tác còn tuỳ tiện vừa ảnh hưởng đến chất lượng của rau quả vừa không đạt được những tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu. Trong khi đó chưa có cơ quan quản lý chất lượng và vệ sinh rau quả chuyên làm chức năng vừa xây dựng những tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, vừa phối hợp với các nước nhập khẩu giám sát chất lượng rau quả tạo điều kiện cho việc xuất khẩu rau quả tươi. Vì vậy trong thời gian tới các ngành, các cơ quan có chức năng cần nghiên cứu và phổ biến các quy định, các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm của một số nước được coi là thị trường tiềm năng của mặt hàng rau quả Việt Nam như tiêu chuẩn ISO (International Organization for Standardization), HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point), GAP (Good Agriculture Practice)… Đồng thời cũng có những biện pháp xử phạt đích đáng đối với những doanh nghiệp không thực hiện đúng những yêu cầu về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, ảnh hưởng tới uy tín của các sản phẩm rau quả xuất khẩu của Việt Nam nói chung.
Việt Nam cũng cần khẩn trương ký kết Hiệp định kiểm dịch thực vật với các nước đang xúc tiến và mở rộng ra các nước có nhu cầu nhập rau quả Việt Nam, bao gồm các quy trình giám sát, kiểm tra và xử lý để đảm bảo rau, quả xuất khẩu đáp ứng tiêu chuẩn của nước nhập khẩu, trước mắt tập trung vào một số hàng hoá và nước nhập khẩu quan trọng. Các cơ quan chức năng, cụ thể là Cục Bảo vệ thực vật, Cục Quản lý thị trường và Tổng cục Hải quan phải phối hợp chặt chẽ việc nhập khẩu và quản lý sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cũng như công tác kiểm tra dư lượng hoá chất đối với rau quả tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu.
Trong công tác tìm hiểu và cung cấp thông tin về thị trường cho doanh nghiệp, cần chú ý đến các thông tin cụ thể và chi tiết về danh mục thuốc trừ sâu được phép sử dụng, mức dư lượng cho phép, thiết bị và công nghệ được dùng để kiểm tra các tiêu chuẩn SPS (Sanitary and Phytosanitary measureS) ...vì quy định của mỗi nước cũng như mối quan tâm của mỗi nước nhập khẩu đối với các chỉ tiêu này có thể rất khác biệt.
5. Nhà nước cần có chính sách phát triển hiệp hội ngành hàng
Mở rộng thị trường xuất khẩu có nghĩa là phải xâm nhập ngày càng sâu vào môi trường kinh doanh quốc tế vô cùng rộng lớn, trong khi đó đại đa số các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả của Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên nếu các doanh nghiệp này tiến hành hoạt động này một cách đơn lẻ thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thâm nhập và khai thác thị trường xuất khẩu.
Hiện nay, mối liên kết giữa các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong hoạt động mở rộng thị trường còn lỏng lẻo. Các doanh nghiệp vẫn tự tiến hành nghiên cứu thị trường, tìm bạn hàng, quản cáo sản phẩm, xây dựng thương hiệu mà chưa có sự phối hợp với nhau nên kết quả thu được hầu như không đáng kể. Trong thời gian tới, Chính phủ cần tạo điều kiện để phát huy hơn nữa vai trò của Hiệp hội trái cây, Hiệp hội rau quả Việt Nam. Các tổ chức này là đầu mối giao lưu với các tổ chức quốc tế, thống nhất điều hành kinh doanh sản xuất và xuất khẩu rau quả. Hiệp hội được thành lập còn nhằm mục đích xúc tiến sự liên kết giữa khu vực Nhà nước và tư nhân. Các hiệp hội này có nhiệm vụ:
- Tư vấn giúp Chính phủ trong việc xác định các chính sách có liên quan tới sản xuất, thị trường, vấn đề chế biến, xuẩt nhập khẩu, vận chuyển và một số lĩnh vực khác có liên quan tới sự phát triển của ngành rau quả.
- Thu thập, phân tích, thống kê một cách có hệ thống, phổ biến những thông tin có liên quan tới ngành rau quả.
- Phổ biến các tiến bộ kỹ thuật về cây ăn quả…
- Tổ chức, hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc xâm nhập, tìm kiếm thị trường mới, tham gia hội chợ, triển ãm quốc tế…
Thông qua Hiệp hội, các thành viên sẽ có cơ hội gặp gỡ, trao đổi thông tin về thị trường xuất khẩu, liên kết tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bad thương hiệu, phối hợp thực hiện các hợp đồng xuất khẩu lớn. Các hội viên có thể cùng nhau xây dựng kế hoạch, chiến lược chung trong hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu và kế hoạch riêng cho từng nhóm doanh nghiệp có cùng đặc điểm về quy mô kinh doanh, địa bàn hoạt động…
KẾT LUẬN
Tổng công ty rau quả nông sản Việt Nam là doanh nghiệp đầu ngành trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh rau quả và nông sản của Việt Nam. Trong những năm vừa qua Tổng công ty đã đạt được rất nhiều thành tựu trong hoạt động xuất khẩu rau quả. Mặt hàng rau quả của Tổng công ty đã có mặt tại hơn 60 quốc gia trên thế giới và ngày càng được người tiêu dùng ưa chuộng
Hiện nay trong xu thế toàn cầu hoá thì việc mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu luôn là mối quan tâm hàng đầu đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Và đây cũng là một trong năm tư tưởng chỉ đạo trong chiến lược xuẩt nhập khẩu giai đoạn 2001 – 2010 mà Nhà nước ta đã đề ra “Ra sức mở rộng thị trường và đa dạng hoá thị trường, củng cố chỗ đứng trên các thị trường mới, tích cực tìm kiếm bạn hàng theo phương châm người bán tìm người mua, chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới để tiêu thụ hàng hoá”.
Thông qua việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động mở rộng thị trường của Tổng công ty rau quả nông sản trong thời gian qua, em nhân thấy hoạt động mở rộng thị trường của Tổng công ty trong thời gian gần đây đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ song vẫn còn những tồn tại, những khó khăn cần tháo gỡ. Từ đó em cũng đề xuất một số giải pháp thiết thực để đưa rau quả thực sự trở thành một mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Tổng công ty, khẳng định được vị trí trên thị trường thế giới với thị trường ngày càng được mở rộng về chiều rộng và chiều sâu, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế của đất nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS Phạm Văn Khôi cùng sự chỉ bảo tận tình của các bác, cô, chú trong phòng Kinh doanh Xuất nhập khẩu 5 – Tổng công ty rau quả nông sản Việt Nam đã giúp em hoàn thành đề tài này.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế nông nghiệp – PGS. TS. Vũ Đình Thắng – NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
Giáo trình Quản trị kinh doanh nông nghiệp – PGS. TS. Trần Quốc Khánh – NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty rau quả nông sản Việt Nam qua các năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007.
Thị trưòng xuẩt nhập khẩu rau quả - PGS. TS. Nguyễn Văn Nam.
Giáo trình kinh tế thương mại – GS. TS. Đặng Đình Đào – Hoàng Đức Thân
Xuất khẩu hang hoá Việt Nam 20 năm đổi mới.
Website: www.rauhoaquavietnam.vn
www.vneconomy.vn
www.mof.gov.vn
www.agro.gov.vn
www.kinhtenongthon.com.vn
www.viettrade.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34963.doc