Ngành Ngân hàng Việt Nam đã có tuổi đời nửa thế kỷ. Sự nghiệp Ngân hàng Việt Nam gắn liền với sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của Đảng và nhân dân trong suốt 50 năm qua. Những đóng góp của Ngân hàng Việt Nam cho đất nước có tầm quan trọng đặc biệt và được mọi người nhìn nhận. Nhất là hoạt động thanh toán qua Ngân hàng.
Hiện nay tình hình thanh toán không dùng tiền mặt trong cả nước nói chung cũng như tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề chưa hợp lý, mặc dù ngành Ngân hàng đã có nhiều cải tiến song vẫn chưa giải quyết triệt để được. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế hiện nay, góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hoá phát triển, điều hoà lưu thông tiền tệ
Để đưa đất nước cất cánh trong thế kỷ 21, cần phải xây dựng cho được một hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện đại và nhiệm vụ của ngành Ngân hàng là phải đẩy nhanh tiến độ cải tổ và đổi mới mọi mặt nhất là mảng thanh toán, chỉnh sửa nhứng khuyết tật làm suy yếu hệ thống nhằm đuổi kịp hệ thống Ngân hàng các nước đang phát triển trong khu vực và thế giới, đồng thời khai thác được triệt để mọi tinh hoa về kỹ thuật nghiệp vụ với bề dày lịch sử lâu đời của ngành công nghiệp đặc biệt này.
Xuất phát từ nghiên cứu tình hình thực tế tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa. Em mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của mình, chắc chắn còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Em mong được sự giúp đỡ đóng góp ý kiến của thầy Đặng Ngọc Đức, các thầy cô giáo khoa Ngân hàng - Trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội, các cô chú trong Ban lãnh đạo, và tập thể CBCNV chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa.
67 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng và hoàn thiện công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đúng hợp đồng đã ký kết.
1.3.4 Qui định đối với Ngân hàng
Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm kiểm soát khả năng thanh toán về các giấy tờ thanh toán của khách hàng, đảm bảo đúng thủ tục, đúng qui định.
Thực hiện uỷ thác thanh toán của chủ tài khoản đảm bảo chính xác, an toàn, thuận tiện. Chi trả bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản trong phạm vi số dư tiền gửi theo yêu cầu của chủ tài khoản. Ngân hàng được quyền từ chối thanh toán các giấy tờ sai qui định, tài khoản không đủ tiền, đồng thời Ngân hàng không chịu trách nhiệm về những nội dung liên đới giữa hai bên khách hàng.
Khi phát sinh các nghiệp vụ giao dịch trên tài khoản tiền gửi, Ngân hàng phải gửi đầy đủ, kịp thời giấy báo Nợ, giấy báo Có và cuối tháng gửi bản sao số dư tài khoản tiền gửi hoặc giấy báo số dư tài khoản tiền gửi cho chủ tài khoản biết.
Nếu do thiếu sót trong quá trình thanh toán gây thiệt hại cho khách hàng thì Ngân hàng, Kho bạc phải bồi thường thiệt hại và tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo qui định của pháp luật.
Chỉ cung cấp số liệu trên tài khoản của khách hàng cho các cơ quan ngoài Ngân hàng, Kho bạc khi có văn bản của các cơ quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật. Và khi thực hiện thanh toán cho khách hàng, Ngân hàng được thu phí theo qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Yêu cầu phát triển và hoàn thiện các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam hiện nay.
Không chỉ riêng ở Việt Nam. Cơ chế thanh toán nói chung chịu sự tác động của các yếu tố về kinh tế – xã hội, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ thanh toán. Cơ chế thanh toán đã phát triển qua nhiều thập kỷ cùng với sự phát triển của nền kinh tế – xã hội và trình độ văn minh của nhân loại từ việc thanh toán hàng đổi hàng, bằng tiền kim loại, tiền giấy đến thanh toán bằng bút tệ.
ở Việt Nam chúng ta với sự nỗ lực của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng hữu quan, công tác thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng được phát triển, mở rộng đến mọi thành phần kinh tế trong xã hội.
Để hoạt đông thanh toán không dùng tiền mặt ngày một đáp ứng với nhu cầu của nền kinh tế, ngày 25/10/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/CP “ về thanh toán không dùng tiền mặt”. Thi hành Nghị định này, ngày 21/02/1994 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký quyết định số 22/QĐ-NH1 ban hành thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt. Quyết định này bước đầu đã hệ thống hoá được các vấn đề liên quan đến công tác thanh toán. Từ khâu mở tài khoản đến các phương thức thanh toán, thuận lợi cho việc nghiên cứu và triển khai ở các Ngân hàng, kho bạc phù hợp với nhu cầu phát triển thanh toán trong nền kinh tế.
Ngày 09/05/1996 Chính phủ lại ban hành Nghị định số 30/CP về “ Quy chế phát hành sử dụng séc “ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/1996 đến nay. Các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt: Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi – chuyển tiền, uỷ nhiệm thu, ngân phiếu thanh toán, séc …được sử dụng rộng rãi.
Thanh toán không dùng tiền mặt đã áp dụng những tiến bộ về khoa học kỹ thuật, đã có nhiều cải tiến về thời gian thanh toán và các thể thức, phương thức thanh toán. Với việc mở rộng mạng lưới Ngân hàng cùng với việc đưa vào sử dụng mạng máy vi tính trong nội bộ các Ngân hàng đã làm cho quá trình thanh toán được nhanh chóng. Trước đây khi tiến hành chuyển tiền giữa các Ngân hàng, các địa phương phải mất từ 7 đến 10 ngày thì hiện nay chỉ mất khoảng 1 đến 2 ngày. Đặc biệt có trường hợp chỉ mất có vài giờ đồng hồ.
Năm 1993 cả nước triển khai thanh toán bù trừ với 43 trung tâm thanh toán trên các địa bàn tỉnh, thành phố thì đến nay số trung tâm thanh toán bù trừ đã tăng lên trên 60 trung tâm và dần khẳng định sự thuận tiện nhanh chóng của phương thức thanh toán này.
Trong công tác tổ chức triển khai các thể thức thanh toán mới, đáng chú ý nhất đó là số lượng tài khoản cá nhân cũng như tài khoản các tổ chức kinh tế không ngừng tăng lên.
Thời gian đầu số tài khoản cá nhân ở 6 tỉnh, thành phố lớn mới chỉ có 11.650 tài khoản với số dư 149 tỷ đồng. Cho đến nay số tài khoản đã lên tới khoảng 155.000 tài khoản. Các cá nhân đã bắt đầu biết sử dụng thanh toán qua tài khoản cá nhân, doanh số thanh toán không dùng tiền mặt qua tài khoản cá nhân hiện nay vào khoảng 1.697 tỷ VNĐ. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển công tác tổ chức thanh toán qua Ngân hàng.
Chương II
Thực trạng về công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh ngân hàng công thương đống đa
2.1 Khái quát về chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa.
2.1.1 Khái quát về tình hình kinh tế- xã hội địa bàn quận Đống Đa
Quận Đống Đa là một quận nội thành của Thành phố Hà Nội, với diện tích rộng 14 km2, gồm 26 phường, gần 40 vạn dân là nơi dân cư tập trung đông đúc và đa phần là khu tập thể của CBCNV thuộc các ngành, các đơn vị kinh tế đóng trên thành phố Hà Nội. Đây là một thị trường có sức mua lớn, nhu cầu tiêu dùng cao nhất thành phố Hà Nội. Mặt khác, đây là một quận tập trung nhiều nhà máy,xí nghiệp lớn của Trung ương và của Hà Nội tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh với đủ ngành nghề như công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, công nghiệp xây dựng…có uy tín trên thương trường như nhà máy cao su Sao vàng, nhà máy phích nước Rạng Đông, nhà máy xe đạp Thống Nhất…Do đó nhu cầu về vốn cũng như nhu cầu về dịch vụ Ngân hàng là rất lớn.
Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa là một Ngân hàng cơ sở hoạt động kinh doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ Ngân hàng trên địa bàn quận Đống Đa – một môi trường rất thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng cũng giúp cho chi nhánh có một môi trường kinh doanh mà các Ngân hàng khác đóng trên địa bàn thủ đô Hà Nội không có để thực hiện các nghiệp vụ của mình như: Tín dụng, thanh toán…góp phần thúc đẩy sự phát triển vững mạnh và đạt hiệu quả của hệ thống NHCT Việt Nam.
2.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa được gọi là Ngân hàng nhà nước quận Đống Đa trực thuộc Ngân hàng nhà nước thành phố Hà Nội. Từ tháng 8 năm 1988 được chuyển thành Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa trực thuộc Ngân hàng Công thương thành phố Hà Nội. Từ 1/04/1993 được đổi thành chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Phát triển cùng với sự đổi mới của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến đổi lớn (Chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước). Cùng với việc hình thành hàng loạt các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh của Ngân hàng nước ngoaì…Qua hơn 10 năm thành lập và đổi mới, tuy gặp nhiều khó khăn trở ngại trong hoạt động kinh doanh, nhưng bằng ý chí vươn lên từ nội lực của 280 CBCNV lại có sự chỉ đạo chặt chẽ của Ngân hàng Công thương Việt Nam từng bước chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa đã tạo được thế chủ động,hoà nhập và nâng cao được năng lực cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Với hoạt động kinh doanh đa năng và không ngừng đổi mới đã góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Mô hình bộ máy tổ chức
Chi nhánh NHCT Đống Đa có trụ sở chính tại Số 187 – Phố Tây Sơn – Quận Đống Đa. Với các phòng ban chức năng: Ban Giám đốc gồm Giám đốc và hai Phó Giám đốc, phòng kinh doanh, phòng kế toán, phòng tiền tệ- kho quỹ, phòng tổ chức hành chính, phòng kiểm soát, phòng nguồn vốn, phòng đối ngoại, phòng vi tính. Ngoài ra chi nhánh còn có 2 phòng giao dịch Kim Liên, Cát Linh và 14 quỹ tiết kiệm nầm rải rác trên đia bàn quận Đống Đa.
Sơ đồ bộ máy tổ chức của chi nhánh NHCT Đống đa
Giám Đốc
Phó
giám đốc
Phó
giám đốc
Phòng giao dịch Kim Liên, Cát Linh và 14 quỹ tiết kiệm
Phòng
Đối
Ngoại
Phòng
Kiểm
Soát
Phòng
Vi
Tính
Phòng
Kế
Toán
Phòng
Tổ
Chức
Phòng
Tiền
Tệ
Phòng
Nguồn
Vốn
Phòng
Kinh
doanh
2.2 Các hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
Hoạt động kinh doanh tiền tệ của chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa những năm gần đây luôn đạt hiệu quả cao. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng luôn luôn bám sát tiền độ thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh trên địa bàn để đẩy mạnh huy động vốn và đầu tư tín dụng, nên đã góp phần thiết thực vào việc mở rộng sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá kinh tế ở thủ đô.
Hoạt động huy động vốn:
Với phương châm “đi vay để cho vay” chi nhánh đã mở rộng mạng lưới giao dịch rộng khắp đến tận các phường, cơ sở kinh tế.v.v. Do đó trong những năm qua công tác huy động vốn đạt mức tăng trưởng nhanh và được đánh giá tốt. Tính đến 31/12/2000 tổng nguồn vốn huy động đạt được 1.850 tỷ đồng trong đó VNĐ đạt 1.634 tỷ, ngoại tệ quy đổi ra VNĐ đạt 216 tỷ.
Bảng 1: Hoạt động huy động vốn
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Số tiền
%
Số tiền
%
1- Huy động từ các tổ chức,doanh nghiệp
244
26,30
559
30,2
2- Huy động từ dân cư
617
66,48
1.249
67,5
3- Nguồn khác
67
7,22
42
2,3
Tổng cộng
928
100
1.850
100
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp năm của chi nhánh NHCT Đống Đa)
Qua số liệu bảng 1, ta thấy hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Công thương Đống Đa năm 2000 so với năm 1999 tăng đáng kể, điều đó chứng tỏ uy tín của Ngân hàng ngày một được khẳng định. Mặc dù trong những năm qua lãi suất luôn luôn biến động, sự cạnh tranh trên thị trường Ngân hàng ngày một sôi động nhưng NHCT Đống Đa luôn đổi mới các phương thức, giữ uy tín và phong cách phục vụ tốt nên vẫn thu hút được lượng khách hàng đáng kể. Thực hiện tốt công tác huy động vốn nhằm đảm bảo nguồn tài nguyên kinh doanh. Tuy nhiên trong cơ cấu nguồn vốn thì chủ yếu là nguồn vốn huy động tiết kiệm dân cư, phần nhiều là tiền gửi có kỳ hạn và lãi suất cao. Đây cũng là điều bất lợi trong kinh doanh tiền tệ và nhất là trong điều kiện cạnh tranh để tồn tại và phát triển hiện nay.
2.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Với nguồn vốn huy động được chi nhánh đã sử dụng một cách tối đa để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các đơn vị kinh tế và các cá nhân bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong điều kiện hiện tại cơ chế tín dụng có sự điều chỉnh đã tạo thuận lợi cho việc đầu tư vốn cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất… Từ đó dư nợ ở NHCT Đống Đa đã tăng dần lên.
Bảng 2: Báo cáo kết quả cho vay
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Số tiền
%
Số tiền
%
1- Dư nợ ngắn hạn
423
59,5
608
59,6
2- Dư nợ trung, dài hạn
288
40,5
412
40,4
Tổng dư nợ
711
100
1.020
100
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp năm của chi nhánh NHCT Đống Đa)
Ngoài việc đầu tư ngắn hạn vốn lưu động cho các doanh nghiệp, Ngân hàng đã đầu tư vốn trung và dài hạn đạt tỷ trọng trên 40%, trong đó đầu tư chiều sâu gần 40 tỷ đồng vào Công ty bóng đèn phích nước Rạng đông, trên 40 tỷ cho Công ty Cơ điện Trần Phú, Công ty bưu chính viễn thông 165 tỷ đồng.Ngân hàng còn đầu tư vào các loại hình kinh tế khác như cho vay Công ty tu bổ di tích, đầu tư cho hợp tác xã lao động ở Quận Đống Đa giúp đỡ con em thương binh, liệt sỹ và các đối tượng chính sách có việc làm… Tính đến ngày 31/12/2000: Doanh số cho vay đạt 1.020 tỷ đồng, so với kế hoạc vượt 21%.
2.2.3 Công tác thanh toán
Công tác thanh toán qua Ngân hàng là một trong những khâu then chốt để thu hút khách hàng và đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng.Trong công tác thanh toán, chi nhánh NHCT Đống Đa đã luôn luôn phấn đấu để phục vụ khách hàng được tốt hơn với chất lượng cao. Ban lãnh đạo luôn đặt mục tiêu đào tạo đội ngũ thanh toán viên có trình độ chuyên môn cao, nghiệp vụ thành thạo, thái độ phục vụ chân thành, cởi mở và tận tình hướng dẫn khách hàng những thủ tục giao dịch để xử lý kịp thời, chính xác các khoản thanh toán, rút ngắn tối đa thời gian thanh toán cho khách hàng, điều hành vốn nhanh nhaỵ góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó chi nhánh đã tự đầu tư vốn, cùng với sự hỗ trợ của NHCT Việt Nam để đổi mới trang thiết bị, công nghệ tin học và trang bị một hệ thống máy vi tính đến các phòng ban nghiệp vụ, thực hiện nối mạng nội bộ cũng như trong toàn hệ thống NHCT Việt Nam để đáp ứng tốt việc khai thác số liệu, xử lý thông tin, tổ chức thanh toán điện tử một cách nhanh chóng với độ chính xác cao. Từ đó đẩy nhanh tốc độ thanh toán, hạn chế được những sai sót, tạo uy tín và thu hút ngày một tăng lượng khách hàng đến giao dịch.
2.2.4 Kết quả kinh doanh
Năm 1999 thu nhập cả năm đạt 98 tỷ đồng, trong đó thu lãi cho vay là 53,8 tỷ đồng, thu lãi điều chuyển vốn 40,08 tỷ, thu phí dịch vụ thanh toán và bảo lãnh là 4,12 tỷ. Tổng chi phí là 87,4 tỷ. Lợi nhuận đạt 7,6 tỷ. Nộp Ngân sách Nhà nước 250 triệu đồng.
Năm 2000 thu nhập cả năm đạt 112 tỷ đồng, trong đó thu lãi cho vay 59,6 tỷ, thu lãi điều chuyển vốn 47,9 tỷ, thu phí dịch vụ thanh toán và bảo lãnh là 4,5 tỷ. Tổng chi phí là 100,2 tỷ. Lợi nhuận đạt 9,5 tỷ. Nộp Ngân sách Nhà nước321 triệu đồng.
2.3 Các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt
2.3.1 Tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt
Trong những năm qua nhận thức được tầm quan trọng của công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Chi nhánh NHCT Đống Đa đã nhanh chóng hoà nhập vào sự chuyển mình của hệ thống NHCT Việt Nam, thực hiện đổi mới công tác thanh toán, nâng cao trình độ, cải tiến nghiệp vụ, ứng dụng công nghệ tin học vào thanh toán. Đồng thời thi hành một cách đúng đắn, linh hoạt các Nghị định, văn bản mới ban hành về công tác thanh toán đảm bảo cho hoạt động thanh toán tại chi nhánh diễn ra nhanh chóng, độ chính xác cao và hết sức thuận lợi cho khách hàng.
Nhờ những cải cách nói trên trong thanh toán không dùng tiền mặt đã làm cho khách hàng nhận thấy lợi ích thật sự của việc thanh toán qua Ngân hàng. Vì vậy tại chi nhánh NHCT Đống Đa doanh số thanh toán không dùng tiền mặt chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh số thanh toán và có xu hướng ngày một tăng, thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 3: Tình hình thanh toán tại chi nhánh NHCT Đống Đa
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
6 tháng năm 2001
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1- Thanh toán bằng tiền mặt
3.027.468
13,8
2.857.175
12,2
1.188.492
9,1
2- Thanh toán không dùng tiền mặt
18.928.644
86,2
20.563.673
87,8
11.905.952
90,9
Tổng cộng
21.956.112
100
23.420.848
100
13.094.444
100
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp kế toán thanh toán năm 1999, 2000 và 6 tháng đầu năm 2001).
Ta có thể giải thích việc quy mô thanh toán không dùng tiền mặt được mở rộng qua một số điểm sau ;
Trong nền kinh tế hàng hoá các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế được phép tự do lựa chọn đối tác và tự do tố chức hạch toán kinh doanh cùng với sự phát triển và đa dạng hoá các loại hình kinh tế. Các tổ chức kinh tế, cơ quan và cá nhân ngày càng mở rộng quan hệ kinh tế cũng như lựa chon phương thức thanh toán. Mà thanh toán qua Ngân hàng với những ưu điểm vốn có như: An toàn, nhanh chóng, thuận lợi nên nó ngày càng được sử dụng phổ biến hơn.
Mặt khác sự đổi mới công tác thanh toán, cải tiến và đa dạng hoá các thể thức thanh toán làm cho quá trình thanh toán không ngừng được hoàn thiện. Từ năm 1999 chi nhánh NHCT Đống Đa đã triển khai hệ thống thanh toán điện tử thay cho hệ thống thanh toán liên hàng qua mạng vi tính trước đây với tốc độ thanh toán được rút ngắn theo yêu cầu đến mức tối đa. Do đó đã tạo điều kiện để công tác thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng được ưa chuộng.
Về phương thức thanh toán, trong năm 2000 ngoài thanh toán trong nội bộ, chi nhánh NHCT Đống Đa còn sử dụng phương thức thanh toán liên hàng và thanh toán bù trừ với các Ngân hàng khác. Kết quả năm 2000 đã thực hiện thanh toán liên hàng 22.213 món với doanh số 3.803.676 triệu đồng, thanh toán bù trừ 24.462 món với doanh số 2.784.890 triệu đồng.
Qua đó cho thấy mối quan hệ giữa chi nhánh NHCT Đống Đa với các Ngân hàng khác trong và ngoài hệ thống khá rộng, do đó vùa đẩy nhanh tốc độ thanh toán, vừa làm tăng thêm uy tín của Ngân hàng mình.
2.3.2 Thực trạng áp dụng các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt
Hiện nay tại chi nhánh NHCT Đống Đa việc thanh toán không dùng tiền mặt chủ yếu được thực hiện qua các thể thức sau: Séc, uỷ nhiệm chi – chuyển tiền, uỷ nhiệm thu, ngân phiếu thanh toán, thẻ thanh toán…
Bảng 4: Tình hình áp dụng các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
6 tháng năm 2001
Món
Số tiền
%
Món
Số tiền
%
Món
Số tiền
%
1- Séc
12.873
926.000
4,9
14.689
1.090.344
5,3
7.966
445.544
3,74
2- UNC-CT
24.690
9.517.525
50,3
30.765
11.270.514
54,8
14.942
6.377.733
53,2
3- UNT
4.761
22.855
0,1
4.817
24.852
0,14
3.280
6.489
0,1
4- NPTT
5.927
501.885
2,65
5.904
563.338
2,74
3.209
355.634
2,98
5- Loại khác
9.955
7.960.379
42,05
10.061
7614.625
37,02
4.627
4.760.552
39,98
Tổng cộng
58.206
18.928.644
100
66.236
20.563.673
100
34.024
11.905.952
100
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp kế toán thanh toán năm 1999, 2000 và 6 tháng đầu năm 2001)
Tại Chi nhánh NHCT Đống Đa thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng tăng về số món cũng như tỷ trọng. Qua số liệu ở bảng 4 ta thấy doanh số thanh toán không dùng tiền mặt không ngừng tăng lên. Năm 1999 là 58.206 món với số tiền là 18.928.644 triệu đồng, đến năm 2000 là 66.236 món với 20.563.673 triệu đồng và 6 tháng đầu năm 2001 là 34.024 món với 11.905.952 triệu đồng, phản ánh trung thực sự biến động không ngừng tăng lên của nền kinh tế thành phố Hà Nội, sự khẳng định uy tín và tầm quan trọng của Ngân hàng và là kết quả tất yếu của sự đổi mới các chính sách, chế độ, cơ chế thanh toán của hệ thống Ngân hàng.
Xét về cơ cấu thanh toán không dùng tiền mặt qua phân tích số liệu ở bảng 4 ta thấy thể thức thanh toán được ưa dùng nhất là Uỷ nhiệm chi- chuyển tiền. Đây là hình thức thanh toán mang tính truyền thống của Ngân hàng, nó đã thay thế một lượng tiền mặt rất lớn trong lưu thông. Hình thức thanh toán bằng Séc, Uỷ nhiệm thu… tỷ lệ nhỏ hơn, chủ yếu áp dụng thanh toán với những món tiền nhỏ và trong trường hợp khách hàng có tín nhiệm cao.
Từ kết quả phân tích thực tế trên cho thấy chi nhánh NHCT Đống Đa đã và đang từng bước đạt được mục tiêu đặt ra của ngành Ngân hàng trong thời kỳ đổi mới “ Tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt, giảm tối thiểu thanh toán bằng tiền mặt”. Để có được kết quả này chi nhánh NHCT Đống Đa đã không ngừng đổi mới trang thiết bị, mở rộng quan hệ thanh toán với khách hàng, tuyên truyền, giúp đỡ khách hàng lựa chọn hình thức thanh toán sao cho có thể đem lại lợi ích cao nhất trong khoảng thời gian ngấn nhất.
Các thanh toán viên của phòng kế toán đã cố gắng làm tốt công việc của mình, đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản của khách hàng và Ngân hàng trong khâu thanh toán. Từ đó tạo được lòng tin đối với khách hàng, khuyến khích được khách hàng đến với ngân hàng, lựa chọn phương thức thanh toán và làm cho hình thức thanh toán này ngày càng chiếm ưu thế hơn.
2.3.2.1 Thể thức thanh toán bằng séc
Đây là thể thức thanh toán ra đời rất sớm, được sử dụng khá phổ biến ở các nước đang phát triển. ở Việt nam ngày 09/05/1996, Chính phủ đã ban hành Nghị định 30/CP về “ Ban hành Quy chế phát hành và sử dụng séc”. Kèm theo Thông tư hướng dẫn số 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 của Ngân hàng Nhà nước về việc thực hiện Nghị định này. Tại chi nhánh NHCT Đống Đa đã làm tốt công tác phát hành và thanh toán séc, tuy nhiên thực tế khối lượng thanh toán bằng thể thức này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh. Từ 4,9% năm 1999 lên 5,3% ở năm 2000 và giảm xuống còn 3,74% ở 6 tháng đầu năm 2001
Bảng 5: Tình hình thanh toán bằng séc
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
6 tháng năm 2001
Món
Số tiền
%
Món
Số tiền
%
Món
Số tiền
%
1- Séc CK
8.395
624.072
67,4
9.411
641.172
58,8
3.682
227.616
51
2- Séc BC
4.478
301.928
32,6
5.278
449.172
41,2
4.284
217.928
49
Tổng cộng
12.873
926.000
100
14.689
1.090.344
100
7.966
445.544
100
(Nguồn: Báo cáo chi tiết kế toán thanh toán năm 1999, 2000 và 6 tháng đầu năm 2001)
* Đối với séc chuyển khoản:
Qua số liệu ở bảng trên ta thấy thanh toán bằng séc chuyển khoản có sự giao động và có xu hướng giảm về tỷ trọng. Mặc dù số món thanh toán tăng lên từ 8.395 món năm 1999 với số tiền 624.072 triệu đồng, đến 9411 món với số tiền 641.172 triệu đồng năm 2000 và 3.682 món có giá trị 227.616 triệu đồng trong 6 tháng đầu năm 2001. So với các loại séc được phát hành trong hệ thống Ngân hàng Việt nam thì séc chuyển khoản được sử dụng khá phổ biến, vì đối tượng áp dụng rộng rãi, thủ tục đơn giản, dùng để chi trả tiền hàng hoá hay dịch vụ đã được cung ứng. Tại chi nhánh NHCT Đống Đa áp dụng cho khách hàng có tài khoản tiền gửi tại cùng một Ngân hàng hoặc khác Ngân hàng nhưng trong cùng một hệ thống, hoặc khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ.
Séc chuyển khoản được thực hiện thanh toán theo nguyên tắc ghi “Nợ “ trước và ghi “Có” sau.Thời hạn hiệu lực của séc chuyển khoản là 15 ngày kể từ ngày phát hành séc cho đến khi séc được thanh toán. Qua khảo sát thực tế cho thấy khách hàng không thích thanh toán những món có giá trị lớn nguyên nhân là do tính không chắc chắn của séc chuyển khoản, tốc độ thanh toán chậm, có thể bị phát hành quá số dư và trong trường hợp đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của bên thụ hưởng.
* Đối với séc bảo chi:
Số liệu ở bảng 5 cho thấy doanh số thanh toán bằng séc bảo chi có xu hướng tăng lên cả về số món lẫn giá trị thanh toán. Từ 4.478 món với trị giá 301.928 triệu đồng năm 1999, lên 5.278 món trị giá 449.172 triệu đồng và 6 tháng đầu năm 2001 có 4.284 món trị giá 217.928 triệu đồng.
Đối với séc bảo chi thực chất là một tờ séc chuyển khoản được Ngân hàng đảm bảo chi trả trong thanh toán nên được khách hàng tín nhiệm, độ an toàn cao hơn so với séc chuyển khoản. Đứng trên góc độ người thụ hưởng séc bảo chi có nhiều ưu điểm: Trước hết séc bảo chi luôn đảm bảo chắc chắn khả năng thanh toán, người thụ hưởng không phải lo lắng gì về việc phát hành có đủ số dư hay không. Vì thực chất khi phát hành séc đơn vị mua đã phải lập uỷ nhiệm chi kèm theo tờ séc gửi đến Ngân hàng xin trích từ tài khoản của mình một số tiền bằng số tiền trên tờ séc để lưu ký vào tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi tại Ngân hàng. Nghĩa là tờ séc bảo chi đã được Ngân hàng đảm bảo chi trả.
Chính vì vậy mà độ an toàn của séc bảo chi cao, được khách hàng ưa chuộng. Hơn nữa tốc độ luân chuyển của séc bảo chi nhanh nên người thụ hưởng không bị ứ đọng vốn. Khi người bán nộp tờ séc này vào Ngân hàng thì thanh toán viên tiến hành ghi “Có” ngay vào tài khoản của người nộp séc đối với những món thanh toán cùng Ngân hàng, trong hệ thống. Còn đối với khách hàng ngoài hệ thống thì sau khoảng 1 đến 2 ngày. Tuy nhiên để có được sự đảm bảo trong thanh toán séc cho người thụ hưởng thì người phát hành phải đến Ngân hàng xin làm thủ tục bảo chi séc, trích tiền để ký quỹ vào tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi và tài khoản này không có sinh lời. Vì thế người phát hành (Người mua) thường không ưa thích sử dụng thể thức này.
Thể thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi – chuyển tiền
Uỷ nhiệm chi- Chuyển tiền là một thể thức được áp dụng phổ biến nhất, có doanh số hoạt động lớn nhất. Tại chi nhánh NHCT Đống Đa tỷ trọng thanh toán bằng uỷ nhiệm chi – chuyển tiền chiếm 50,3% năm 1999, lên 54,8% năm 2000 và 6 tháng đầu năm 2001 đạt 53,2% trong tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt.
Bảng 6: Tình hình thanh toán bằng UNC – Chuyển tiền
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
6 tháng năm 2001
Món
Số tiền
%
Món
Số tiền
%
Món
Số tiền
%
1- UNC
24.607
9.506.860
99,9
30.673
11.260.858
99.9
14.890
6.328.045
99,2
2- Séc CT
83
10.665
0,1
92
9.656
0,1
52
9.688
0,8
Tổng cộng
24.690
9.517.525
100
30.765
11.270.514
100
14.942
6.377.733
100
(Nguồn: Báo cáo chi tiết kế toán thanh toán năm 1999, 2000 và 6 tháng đầu năm 2001)
* Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi:
Nhìn vào bảng số liệu ở trên ta thấy đây là hình thức thanh toán được sử dụng nhiều nhất chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối 99,9%. Sở dĩ uỷ nhiệm chi được sử dụng nhiều như vậy nguyên nhân là do hình thức và chứng từ và thủ tục đơn giản. Nó có thể do khách hàng hoặc Ngân hàng tự tạo mẫu, không sợ nhầm lẫn, bị làm giả như séc. Khách hàng chỉ cần lập 4 liên uỷ nhiệm chi và nộp vào Ngân hàng phục vụ mình, mọi thủ tục thanh toán đều do Ngân hàng đảm nhiệm. Uỷ nhiệm chi được áp dụng rộng rãi với mọi đơn vị có tài khoản ở cùng một Ngân hàng, khác Ngân hàng nhưng cùng hệ thống, khác hệ thống nhưng trên cùng địa bàn và cùng tham gia thanh toán bù trừ và khác Ngân hàng, khác địa bàn thì qua tài khoàn tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước. Ngoài việc sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ uỷ nhiệm chi còn là công cụ trung gian để Ngân hàng bảo chi séc, cấp séc chuyển tiền hoặc điều chuyển vốn trong cùng hệ thống và khác hệ thống.
Trên thực tế khách hàng rất ưa thích sử dụng hình thức thanh toán này vì sự nhanh chóng, thuận tiện và dễ sử dụng. Tuy nhiên hình thức này cũng có một số hạn chế như có thể bị phát hành quá số dư, không thể mang đi giao dịch trao đổi được và cũng có trường hợp người mua đã nhận hàng nhưng gửi uỷ nhiệm chi đến ngân hàng chậm sẽ gây thiệt hại cho người bán, ngược lại bên mua có lợi khi không đủ tiền thanh toán hoặc thanh toán chậm mà không phải chịu hình thức phạt nào trong thanh toán.
* Thanh toán bằng séc chuyển tiền:
Bảng trên cho thấy đây là hình thức thanh toán chiếm một tỷ trong rất khiêm tốn trong thanh toán bằng uỷ nhiệm chi – chuyển tiền (0,1%). Đối với thanh toán bằng séc chuyển tiền, mặc dù việc phát hành séc chuyển tiền khá phức tạp vì phát hành tại Ngân hàng và tính ký hiệu mật nhưng nó lại rất thuận tiện cho khách hàng. Nhờ có séc chuyển tiền nên khi đến địa bàn khác, khách hàng có thể rút tiền mặt để chi tiêu hoặc xin được bảo chi séc để đi mua hàng hay chuyển thẳng vào tài khoản của người bán mà không phải mang theo tiền mặt. Về phía người bán khi bán hàng xong séc được nộp vào Ngân hàng là có tiền ngay. Tuy nhiên việc phát hành séc chuyển tiền trong thực tế mất nhiều thời gian, qua nhiều công đoạn… nên nó không được ưa chuộng bằng hình thức uỷ nhiệm chi.
2.3.2.3 Thể thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu
Theo số liệu ở bảng 4 ta thấy thể thức thanh toán này tại chi nhánh NHCT Đống Đa chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, bình quân 0,1% trong tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt. Cụ thể năm 1999 có 4.761 món với số tiền là 22.855 triệu đồng, năm 2000 có 4.817 món với số tiền 24.852 triệu đồng và 6 tháng đầu năm 2001 là 3.280 món với số tiền 6.489 triệu đồng.
Thực tế cho thấy hình thức này chỉ được áp dụng đối với các khoản chi trả dịch vụ có tính chất định kỳ thường xuyên như: Tiền điện, tiền nước, tiền thuê nhà, tiền điện thoại, phí vệ sinh và làm sạch môi trường… của các đơn vị cung ứng dịch vụ và đối với những khoản tiền thu bán hàng đối với bạn hàng có độ tin cậy cao. Với nguyên tắc thực hiện là khách hàng phải thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng phục vụ đơn vị hưởng, giấy uỷ nhiệm thu chỉ thanh toán một lần và do người bán chủ động lập chứng từ. Theo chế độ thanh toán được quy định tại chi nhánh, nếu trường hợp tài khoản tiền gửi của người mua không đủ khả năng thanh toán, Ngân hàng sẽ báo cho người mua biết đồng thời nhập “sổ theo dõi chứng từ quá hạn thanh toán” và chờ khi nào tài khoản người mua đủ khả năng thanh toán thì mới tiến hành thanh toán và tính phạt. Số tiền phạt chậm trả được tính như sau:
Tiền phạt chậm trả = Số tiền trên UNT x Số ngày chậm trả x 150% lãi suất trần cho vay ngắn hạn.
Trên thực tế tại chi nhánh NHCT Đống Đa từ năm 1999 đến nay không có trường hợp này xẩy do hình thức này chủ yếu chỉ áp dụng với những dịch vụ thanh toán thường xuyên, định kỳ với số tiền ít và vì thế nó chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh.
2.3.2.4 Thể thức thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán:
Tại chi nhánh NHCT Đống Đa, ngân phiếu thanh toán cũng là thể thức được sử dụng khá phổ biến. Năm 1999 có 5.927 món với 501.885 triệu đồng, năm 2000 có 5.904 món với 563.338 triệu đồng, 6 tháng đầu năm 2000 có 3.209 món với 355.634 triệu đồng.
Nét đặc trưng của ngân phiếu thanh toán là như một dạng tiền mặt, nó được gọi là “tiền có thời hạn “, người không có tài khoản ở Ngân hàng cũng có thể sử dụng. Ngân phiếu thanh toán có ưu điểm là gọn nhẹ và có thể chi trả trực tiếp cho người thụ hưởng mà không cần thông qua Ngân hàng. Khi không có nhu cầu sử dụng họ có thể nộp vào Ngân hàng để ghi tăng trên tài khoản của mình, hơn nữa thời hạn thanh toán của ngân phiếu được ghi rõ trên từng tờ ngân phiếu và được đảm bảo lưu thông, thanh toán bởi chính Ngân hàng Nhà nước nên được đông đảo công chúng chấp nhận.
Tuy nhiên do ngân phiếu thanh toán có thời hạn hiệu lực, nếu để quá thời hạn sẽ bị phạt tiền nên người giữ luôn phải tính đến việc đổi ngân phiếu mới. Thêm nữa ngân phiếu thanh toán không ghi danh nên việc giữ gìn phải cẩn thận và nó dễ bị làm giả, lưu giữ ngân phiếu không được hưởng lãi…Chính vì những lý do đó mà tỷ trọng của ngân phiếu thanh toán tại chi nhánh NHCT Đống Đa chỉ chiếm một phần nhỏ so với tỷ trọng chung về thanh toán không dùng tiền mặt.
2.3.2.5 Các thể thức thanh toán khác:
Ngoài các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt cụ thể như đã trình bày ở trên thì tại chi nhánh NHCT Đống Đa còn có một số thể thức thanh toán khác như tính lãi tài khoản tiền gửi khách hàng hay bảng kê tích số, phiếu chuyển khoản, chuyển tiền thanh toán bù trừ.
Những khoản thanh toán này chiếm một tỷ trọng đáng kể trong thanh toán không dùng tiền mặt, điều đó được thể hiện rất rõ trên bảng 4. Cụ thể: Năm 1999 với 9.955 món, số tiền 7.960.379, chiếm 42,05% ; Năm 2000 với 10.061 món, số tiền 7.614.625 triệu đồng, chiếm 37,02% ; 6 tháng đầu năm 2001 với 4.627 món, số tiền 4.760.552, chiếm 39,98%. Sở dĩ các hình thức thanh toán này đạt tới số món và số tiền cao như thế chủ yếu là do các khoản tính lãi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng. Với những khoản tiền gửi dài hạn thì được tính lãi mỗi tháng một lần, với những khoản tiền gửi tiết kiệm thì thì sẽ được tính lãi vào ngày đến hạn. Những khoản tính lãi này lớn cả về món lẫn giá trị vì thế nó chiếm tỷ trọng lớn so với các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt khác tại chi nhánh NHCT Đống Đa.
2.4 Đánh giá chung về thực trạng các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt
Uỷ nhiệm chi: Không giải quyết được tiền hàng đi song song thường thiệt hại cho người bán vì hàng đã trao nhưng tiền chưa nhận được. Chỉ áp dụng cho trường hợp các doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên và uy tín.
Uỷ nhiệm thu: Càng ngày càng ít được áp dụng bởi thanh toán chậm, bị lệ thuộc vào bên mua, tài khoản người mua có tiền hay không, có bị từ chối hay không, không thể nắm được.
Ngân phiếu thanh toán đã góp phần khắc phục tình trạng thiếu tiền mặt trong những năm qua. Qua thực tế sử dụng, ngân phiếu thanh toán đã chứng tỏ những ưu thế về tính tiện lợi, đơn giản. Tuy nhiên đây chỉ là biện pháp tình thế, vì ngân phiếu thanh toán thực chất là đồng tiền mặt có mệnh giá lớn, lưu thông trong thời hạn xác định, do đó chịu rủi ro lớn.
Thư tín dụng: Chủ yếu thanh toán quốc tế, bởi thủ tục và quy định quá chặt chẽ.
Thẻ thanh toán: Đã có máy rút tiền tự động, thanh toán CARD…Tuy nhiên nó gắn liền với công nghệ tin học hiện đai, máy móc trang bị cho việc thanh toán thẻ đòi hỏi nhiều chi phí, giá thẻ cao, kỹ thuật làm thẻ phức tạp, kiến thức về thẻ trong dân cư còn thấp… Đây chính là những trở ngại lớn đối với việc áp dụng thẻ thanh toán ở Việt Nam hiện nay và người sử dụng thể thức này còn rất khiêm tốn.
Séc: Trước đây chúng ta áp dụng nhiều hình thức khác nhau nhưng mỗi loại có những ưu nhược điểm nhất định. Từ khi có nghị định 30/CP của Chính phủ ra đời và thông tư 07/TT- NH1 về việc phát hành và sử dụng séc, đã tạo tiền đề về cơ sở pháp lý, tạo được niềm tin đối với khách hàng, song hiệu quả và giới hạn áp dụng còn hạn chế chưa thoả mãn được nhu cầu thanh toán của xã hội, người dân chưa thấy được việc mở tài khoản cá nhân để thanh toán qua Ngân hàng là cần thiết.
Giới hạn thanh toán séc hẹp, quan hệ tiền hàng không đi đôi với nhau, tiền bao giờ cũng được trả trước hoặc trả sau hàng hoá, dịch vụ đôi bên có thể lợi dụng lẫn nhau.Muốn tránh được điều này phải bảo chi séc, nhưng mỗi lần bảo chi séc phải đến Ngân hàng làm thủ tục và phải trích tài khoản vừa gây ứ đọng vốn và không chủ động trong kinh doanh. Cho nên séc hiện nay vẫn chưa thoả mãn các nhu cầu của khách hàng, chưa thu hút mọi khoản tiền trong thanh toán.
Nguyên nhân chủ yếu đó là do chất lượng thấp và lạc hậu của hệ thống thanh toán khiến cho tâm lý ưa thích sử dụng và lưu giữ tiền mặt của công chúng và doanh nghiệp không những không giảm đi mà có dấu hiệu tăng lên.
Hệ thống tài khoản cứng nhắc, thiếu các tài khoản lưỡng tính khiến cho các Ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn trong việc ứng dụng các kỹ thuật thanh toán linh hoạt và hiện đại phục vụ nhu cầu đa dạng của khách hàng.
chương III
Một số giải pháp góp phần mở rộng và hoàn thiện các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt ở chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
3.1 Phương hướng phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta trong thời gian tới.
Phương hướng phát triển thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam trong thời gian tới với nền kinh tế thị trường, chiến lược phát triển dự kiến 20 năm đầu của Thế kỷ XXI nền kinh tế Việt Nam đạt trình độ một nước công nghệp phát triển. Quá trình đi đến mục tiêu đó kéo theo những biến động lớn trong ngành Ngân hàng. Bên cạnh những khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp, tố chức kinh tế… thời gian gần đây các Ngân hàng đã hướng tới thu hút đa dạng khách hàng bằng nhiều hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư, thử nghiệm các công cụ thanh toán cá nhân hiện đại. Đó là một bộ phận có ý nghĩa ngày càng to lớn trong quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
Nền kinh tế thị trường yêu cầu cơ chế thanh toán phải tính đến sự thích ứng với các chủ thể tham gia thanh toán do có quyền tự do lựa chọn của khách hàng giao dịch, do qui luật cung cầu, cạnh tranh tác động và chi phối. Hoạt đông thanh toán phải đảm bảo hiệu quả cao thể hiện ở thời gian thanh toán nhanh, độ tin cậy cao, chi phí giao dịch thấp, rủi ro ít…
Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường có vai trò quan trọng đối với các chủ thể thanh toán, các trung gian thanh toán, các đối tượng, các cơ quan quản lý Nhà nước. Phương thức thanh toán không chỉ đơn thuần là việc thực hiện chi trả tiền cho nhau, mà hàm nghĩa rộng hơn là chuyển tải các luồng vốn trong nền kinh tế từ nơi này đến nơi khác. Thông qua các thoả thuận thanh toán, quyết toán trong ngày mà góp phần ổn định các nhu cầu dự trữ của Ngân hàng thương mại, cho phép các nhà quản lý tiền tệ, Ngân hàng có thể xác định chính xác các thay đổi cung và cầu về dự trữ khi có sự thay đổi về hoạt động thu chi của chính phủ, hoặc có sự can thiệp vào thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, hỗ trợ trực tiếp cho thị trường liên Ngân hàng và thị trường tài chính, góp phần điều hành mặt bằng lãi suất giữa các khu vực do đồng vốn luân chuyển nhanh chậm, nhiều ít trên thị trường.
Như vậy thanh toán không dùng tiền mặt đã tham gia một cách “chủ động” vào việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Ngoài ra do sự tiến bộ về kỹ thuật được áp dụng vào công nghệ thanh toán mà tác động vào sự ổn định hệ thống tài chính quốc gia. Một sự thanh toán của đơn vị này là nguồn quĩ đối với đơn vị khác, một sự sai sót trong việc chuyển tiền bởi bất kỳ một lý do nào cũng dẫn đến khó khăn, thậm chí thiếu hụt ngân quĩ cho người tham gia thanh toán và tiếp diễn một phản ứng dây chuyền mạo hiểm về khả năng thanh toán.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế thị trường - định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, rất cần có cách nhìn nhận sát hợp với thực tế của Việt Nam. Đó là từ xuất phát điểm của việc chuyển đổi ở mức thấp, có nhiều bất cập, tiềm năng kinh tế, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém và phải đảm bảo cho một xã hội công bằng nên cần sự mạnh dạn song phải cẩn trọng, từng bước không nóng vội để rút ra bài học phát triển tiếp theo.
Nghị định về thanh toán sắp được ban hành theo Luật Ngân hàng, Luật các tổ chức tín dụng. Về đối tượng tham gia thanh toán cũng như chủ thể tham gia thanh toán được mở rộng hơn – không chỉ có các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng mà cả các tổ chức khác khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Điều đó hoàn toàn phù hợp với luật cũng như thực tế đã và đang đòi hỏi.
Phạm vi tham gia thanh toán không chỉ giới hạn trong biên giới mà quan hệ mật thiết với thanh toán quốc tế. Những quan điểm về thanh toán, tiền gửi thanh toán, tài khoản thanh toán cũng được chỉnh theo hướng phù hợp dần với thông lệ quốc tế như cần có loại tài khoản thanh toán được phép thấu chi khi có thoả thuận ở một hạn mức nhất định.
Đương nhiên, về trách nhiệm của các chủ thể tham gia thanh toán cũng được đề cập đầy đủ, cao hơn nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia thanh toán; thanh toán nhanh, an toàn và tin cậy cao, rủi ro thấp nhất. Với phương hướng xây dựng mới cơ chế thanh toán đó sẽ làm cho thanh toán của nền kinh tế nói chung, dòng vốn luân chuyển qua các trung tâm thanh toán nói riêng đạt hiệu quả hữu ích hơn, từng bước hội nhập với sự phát triển của cơ chế thanh toán các nước trong khu vực và thế giới.
Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.
Xuất phát từ những hạn chế của các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt
tại chi nhánh NHCT Đống Đa, tôi xin nêu một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và mở rộng các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt.
3.2.1 Hiện đại hoá công nghệ thanh toán, nâng cao trình độ cán bộ Ngân hàng
Thường xuyên đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhằm không ngừng nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ đặc biệt là trình độ ngoại ngữ, tin học…. Xây dựng cán bộ vi tính điện toán, kế toán thanh toán thành đội ngũ cán bộ làm việc năng động, chính xác, an toàn tài sản là việc làm mang tính cấp bách và lâu dài theo nội dung, yêu cầu thực tế đòi hỏi ngày môt phát triển.
Không ngừng đổi mới, cải tiến công nghệ thanh toán của Ngân hàng luôn là yêu cầu cần thiết khách quan trong nền kinh tế nói chung và đối với chi nhánh NHCT Đống Đa nói riêng. Chi nhánh hiện đã trang bị được hệ thống máy tính tương đối hiện đại. Tuy nhiên theo yêu cầu về đổi mới công nghệ thanh toán thì cần phải ứng dụng nhanh nhạy các phần mềm thích hợp trong thanh toán, hiện đại hoá triệt để công tác thanh toán theo tốc độ phát triển hiện nay của công nghệ thông tin để tăng thêm uy tín, đáp ứng nhu cầu ngày một cao của khách hàng đến với Ngân hàng mình, thu hút thêm khách hàng tiềm năng trong thời đại cạnh tranh quyết liệt giữa các Ngân hàng như hiện nay.
3.2.2 Khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân qua đó mở rộng việc thanh toán qua tài khoản cá nhân
Ngày 19/08/1993 Thống đốc NHNN Việt Nam đã ra Quyết định 160/QĐ-NH2 ban hành thể lệ mở tài khoản cá nhân rất đơn giản, chỉ cần đến Ngân hàng với chứng minh thư nhân dân và khách hàng điền thông tin vào 3 mẫu in sẵn là được. Tại chi nhánh NHCT Đống Đa đã áp dụng và thực hiện với thủ tục đơn giản, thuận tiện và rất nhanh chóng cho khách hàng, song trên thực tế số lượng khách hàng mở tài khoản cá nhân vẫn là ít ỏi, mặc dù chính CBCNV trong chi nhánh đã tham gia mở tài khoản cá nhân, hơn nưã chi nhánh NHCT Đống Đa đóng trên địa bàn có đông dân cư, các hộ buôn bán nhỏ và các đơn vị cung ứng dịch vụ. Đây là điều kiện tốt để chi nhánh đẩy mạnh công tác mở tài khoản cá nhân, thu hút thêm một lượng vốn tín dụng và là cơ sở làm dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Nhận thức về tầm quan trọng của nguồn vốn trong thanh toán thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán còn kém. Vì vậy muốn tăng nhanh số lượng tài khoản tiền gửi thanh toán, tăng tỷ trọng thanh toán qua Ngân hàng, Ngân hàng cần phải cung ứng nhiều hơn nữa các dịch vụ trọn gói hoàn hảo song song với việc thoả mãn tốt nhất nhu cầu về văn minh giao dịch, khuyến khích các doanh nghiệp và tổ chức đóng trên địa bàn thực hiện chi trả thu nhập cho nhân viên thông qua tài khoản tại Ngân hàng.
Đơn giản hoá thủ tục
Đây là một vấn đề cũng gây không ít trở ngại không những cho khách hàng mà còn cho cả Ngân hàng, khách hàng đến với Ngân hàng ngoài các mục đích khác như lãi suất, an toàn và tiện lợi thì họ cũng cần các thủ tục đơn giản, nhanh chóng. Nếu Ngân hàng cứ bắt khách hàng phải làm thủ tục rườm rà quá lâu thì một phần họ ngại, phần khác họ không muốn mất quá nhiều thời gian vào công việc này cho nê Ngân hàng phải cải cách các thủ tục sao cho đơn giản, rõ ràng, thanh toán nhanh, hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn cho khách hàng. Đây chính là vấn đề năng động của Ngân hàng để làm sao cho phù hợp và đáp ứng thật tốt tất cả những nhu cầu của khách hàng, nó tiết kiệm thời gian và tạo tâm lý thoải mái cho cả hai bên.
3.2.4 Hợp lý hoá quá trình thanh toán không dùng tiền mặt theo hướng tiện dụng cho khách hàng
* Đối với uỷ nhiệm chi – chuyển tiền
Với hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi, có thể xẩy ra trường hợp phát hành quá số dư, gây thiệt hại đối với người bán do chậm thanh toán nhưng không phải chịu bất kỳ một hình phạt nào. Điều này cần phải sửa đổi để tạo tâm lý an tâm và công bằng, bình đẳng trong thanh toán của các bên tham gia, cần miễn phí mua ấn chỉ và miễn phí chuyển tiền đối với việc chuyển tiền của chủ tài khoản cá nhân không phải vì mục đích knh doanh.
* Đối với uỷ nhiệm thu:
Cần có những quy định cụ thể, chặt chẽ tạo ra một hành lang pháp lý để khách hàng có thể sử dụng thuận lợi hình thức này một cách an toàn, hiệu quả. Quy định về các mức xử phạt thích đáng đối với từng sai phạm nhằm mở rông hình thức thanh toán uỷ nhiệm thu, tạo điều kiện cho khách hàng tiết kiệm được thời gian về các thủ tục phục vụ công tác thanh toán, tăng thêm độ tin cậy lẫn nhau giữa các khách hàng từ đó giúp Ngân hàng thực hiện tốt vai trò làm trung gian thanh toán của mình.
* Đối với séc:
Ngân hàng nên phát hành cẩm nang sử dung séc với những quy định, những vấn đề có liên quan, tiện ích mang lại của séc nhằm hướng dẫn cụ thể cho các đối tượng có nhu cầu tham gia thể thức thanh toán này.
Thi hành Nghị định số 30/CP ngày 09/05/1996 ban hành quy chế phát hành và sử dụng séc của Ngân hàng Nhà nước Việt nam,tuỳ theo từng loại séc thanh toán trong cùng một Ngân hàng, khác Ngân hàng mà quy định thời gian hiệu lực riêng. Cụ thể thời hạn hiệu lực của séc chuyển khoản và séc bảo chi cùng Ngân hàng, khác Ngân hàng là 15 ngày theo tôi là quá dài so với thực tế thanh toán bằng séc chuyển khoản chỉ từ 1 đến 3 ngày, séc bảo chi từ 2 đến 4 ngày. Do đó cần phải có sự sửa đổi. Mục đích của việc sửa đổi là nhằm đảm bảo sự phù hợp giữa thời gian quy định và thời gian thanh toán thực tế của từng tờ séc. Từ đó đẩy nhanh tốc độ thanh toán, góp phần đẩy mạnh sự vận động của vật tư, tiền vốn trong các đơn vị nói riêng và trong nền kinh tế nói chung, hạn chế sự “nằm chết” của đồng vốn.
Cuối cùng vì séc là một lệnh trả tiền vô điều kiện, hơn nữa vì là một công cụ thanh toán nên nó phải được dễ dàng chuyển đổi ra các dạng vật chất và phi vật chất khác. Có như vậy mới thể hiện tính tiện ích của một công cụ thanh toán và mới được khách hàng, nhất là dân cư dễ dàng chấp nhận sử dụng.
3.2.5 Nghệ thuật kinh doanh (Marketing Ngân hàng)
Ngân hàng cần phải đặt ra chiến lược khách hàng, luôn thu thập thông tin, nắm bắt nhu cầu, phân loại khách hàng và nhất là có chính sách khuyến mãi đối với khách hàng có quan hệ thường xuyên, khách hàng đặc biệt cụ thể là:
Khuyến khích lợi ích vật chất đối với khách hàng có quan hệ thường xuyên như tặng quà, chúc mừng…
Đến các ngày lễ, tết nên tặng quà lưu niệm như lịch, sổ, đồng hồ treo tường…có biểu tượng của Ngân hàng mình.
Tổ chức hội nghị khách hàng trao đổi, phỏng vấn theo dạng trắc nghiệm đơn giản để phát hiện nhu cầu và sở thích của khách hàng.
Có sổ, hộp thư góp ý của khách hàng, để kịp thời chấn chỉnh những sai sót trong quá trình hoạt động…
Có chế độ khuyến khích, khen thưởng bằng vật chất, tinh thần đối với các nhân viên Ngân hàng có thành tích trong giao tiếp tìm ra những phương pháp thu hút khách hàng.
3.3 Một số kiến nghị
3.3.1 Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt nam và Chính phủ
Ngân hàng Nhà nước cùng các Ngân hàng thương mại quốc doanh cần nhanh chóng thiết lập hệ thống thanh toán tự động, liên kết mạng thanh toán quốc gia giữa các Ngân hàng với nhau và giữa Ngân hàng thương mại với khách hàng trong cả nước. Chuẩn bị từng bước tham gia hoà nhập hệ thống thanh toán liên Ngân hàng Quốc tế (SWIFT) để phục vụ thanh toán quốc tế nhanh chóng. Đây là xu hướng tất yếu của nền kinh tế mở của Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước cần ban hành thống nhất chế độ thanh toán không chứng từ qua mạng lưới vi tính, tạo phần mềm (hệ chương trình) cho việc xử lý kỹ thuật truyền File chứng từ giữa các Ngân hàng thông qua mạng lưới vi tính, mở rộng thanh toán bù trừ xuống các quận, huyện thông qua mạng vi tính.
Ngân hàng Nhà nước cần cho phép và khuyến khích các Ngân hàng thương mại được cải tiến công tác thanh toán, kỹ thuật và trình độ công nghệ theo định hướng chung của Ngân hàng Nhà nước để có thời gian thanh toán nhanh chóng, an toàn, chính xác và tiện lợi.
Chính phủ cần phát triển và hoàn thiện môi trường pháp lý, hoà nhập với thông lệ Quốc tế làm cơ sở thúc đẩy hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng.. Bởi vì môi trường pháp lý chính là cơ sở để đảm bảo thanh toán và phát triển. Nhà nước cần phải chỉnh sửa, cải tiến, bổ sung các nội dung, quy chế trong thanh toán không dùng tiền mặt, phải có những hình thức thích hợp để áp dụng các Luật Quốc tế về thanh toán vào nước ta như: Luật séc, Luật thanh toán Quốc tế, Luật hối phiếu thương mại, những quy định về thanh toán hiện đại.
3.3.2 Đối với Ngân hàng Công thương Việt nam.
Thường xuyên quảng cáo, tuyên truyền các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt cũng như những tiện ích của nó trên các phương tiện thông tin đại chúng để khách hàng biết và sử dụng.
Cách thức tỏ chức thanh toán chủ yếu khép kín theo từng pháp nhân Ngân hàng, Kho bạc riêng biệt như hiện nay là chật hẹp, cắt khúc không đủ sức đáp ứng yêu cầu dịch vụ thanh toán cho những quan hệ giao dịch kinh tế đa dạng, đa phương. Do vậy cần hình thành một tổ chức liên kết giữa các đơn vị giao dịch của các pháp nhân Ngân hàng để tiến hành hợp đồng tác nghiệp cùng làm dịch vụ thanh toán cho khách hàng.
Cần có sự cải tiến, bổ sung các thể thức thanh toán tại thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt ban hành theo quyết định 22/QĐ -NH ngày 21/12/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể như:
Đối với thể thức uỷ nhiệm chi – chuyển tiền cần phải được nới rộng phạm vi thanh toán, không phân biệt cùng hay khác hệ thống.
Đối với thể thức uỷ nhiệm thu cũng là một thể thức thanh toán rất phù hợp với cung cách giao dịch trong nền kinh tế hàng hoá lớn cần phải có sự mở rộng đối tượng, quy định các hình thức phạt khi bên mua chậm thanh toán…
Đối với thể thức séc cần khuyến khích trong khu vực dân cư đẩy mạnh thanh toán bằng séc thông qua tài khoản tiền gửi mở taị Ngân hàng. Trong thời kỳ đầu để thu hút và tạo thói quen cho khách hàng thì tiền gửi để phát hành séc sẽ được tính lãi theo mức lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn, các dịch vụ thanh toán séc trên tài khoản này Ngân hàng không thu phí dịch vụ.
Đối với thể thức thư tín dụng là thể thức thanh toán mang hình thức “Bảo lãnh” rất phù hợp với quan hệ giao dịch thanh toán phong phú trong điều kiện hiện tại nhưng quy định vận hành chỉ theo một cách thức đơn thuần là ký gửi toàn bộ số tiền “ bằng tổng giá trị hàng mua”, và chỉ được nhận thanh toán “trong trường hợp bên thụ hưởng mở tài khoản ở Ngân hàng cùng hệ thống hoặc trên địa bàn đó có Ngân hàng cùng hệ thống hoạt động”. Điều này làm cho thể thức thư tín dụng chưa được ưa dùng mặc dù điều kiện khách quan nền kinh tế hàng hoá đã có sự phát triển. Vì vậy cần xoá bỏ bức tường ngăn cách giữa các đơn vị cùng hệ thống với khác hệ thống, mở rộng cách thức vận hành theo nhiều cách như ký gửi toàn bộ, ký gửi một phân hoặc ký gửi dần theo tiến độ giao nhận hàng, dịch vụ …
Trang bị máy rút tiền tự động (ATM). Từng bước áp dụng mở rộng các loại thẻ thanh toán như: thẻ thanh toán điện tử của Ngân hàng và Doanh nghiệp, thẻ thanh toán không dùng tiền mặt và thẻ rút tiền mặt, thẻ phát hành séc của Ngân hàng…
Thiết nghĩ với hướng xây dựng, cải tiến và thực hiện các giải pháp trên một cách đồng bộ tin tưởng trong thời gian tới, hệ thống thanh toán Ngân hàng Việt Nam sẽ phục vụ khách hàng một cách tốt hơn, thu hút cũng như đáp ứng được nhu cầu của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
Kết luận
Ngành Ngân hàng Việt Nam đã có tuổi đời nửa thế kỷ. Sự nghiệp Ngân hàng Việt Nam gắn liền với sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của Đảng và nhân dân trong suốt 50 năm qua. Những đóng góp của Ngân hàng Việt Nam cho đất nước có tầm quan trọng đặc biệt và được mọi người nhìn nhận. Nhất là hoạt động thanh toán qua Ngân hàng.
Hiện nay tình hình thanh toán không dùng tiền mặt trong cả nước nói chung cũng như tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề chưa hợp lý, mặc dù ngành Ngân hàng đã có nhiều cải tiến song vẫn chưa giải quyết triệt để được. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế hiện nay, góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hoá phát triển, điều hoà lưu thông tiền tệ…
Để đưa đất nước cất cánh trong thế kỷ 21, cần phải xây dựng cho được một hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện đại và nhiệm vụ của ngành Ngân hàng là phải đẩy nhanh tiến độ cải tổ và đổi mới mọi mặt nhất là mảng thanh toán, chỉnh sửa nhứng khuyết tật làm suy yếu hệ thống nhằm đuổi kịp hệ thống Ngân hàng các nước đang phát triển trong khu vực và thế giới, đồng thời khai thác được triệt để mọi tinh hoa về kỹ thuật nghiệp vụ với bề dày lịch sử lâu đời của ngành công nghiệp đặc biệt này.
Xuất phát từ nghiên cứu tình hình thực tế tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa. Em mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của mình, chắc chắn còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Em mong được sự giúp đỡ đóng góp ý kiến của thầy Đặng Ngọc Đức, các thầy cô giáo khoa Ngân hàng - Trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội, các cô chú trong Ban lãnh đạo, và tập thể CBCNV chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Em xin chân thành cảm ơn !
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0115.doc