Toàn bộ bài viết này có thể xem là một bức tranh toàn cảnh về quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ở chi nhánh Ngân hàng ĐT-PT Hà Nội và những kết quả mà Ngân hàng đã đạt được trong 3 năm 2000, 2001, 2002. Nhờ sự ra đời kịp thời và đúng lúc, nghiệp vụ bảo lãnh ở chi nhánh Ngân hàng ĐT-PT Hà Nội đã nhanh chóng được xã hội chấp nhận và liên tục phát triển mạnh qua các năm. Hiện nay, tuy kết quả đạt được chưa cao nhưng nó đã khẳng định được sự cần thiết của nghiệp vụ này đối với hoạt động của ngân hàng và đối với toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra nó còn thể hiện nỗ lực của cán bộ, nhân viên ngân hàng trong giai đoạn đầu áp dụng nghiệp vụ bảo lãnh.
Trong suốt quá trình thực tập tại Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội, được sự quan tâm của các cô chú, anh chị làm việc tại phòng tín dụng 3 và giúp đỡ tận tình của Cô Trịnh Thu Hằng - Trưởng phòng Tín dụng 3 và chị Hà - Cán bộ phòng Tín dụng 3. Đặc biệt là được sự chỉ bảo sâu sắc của thầy giáo Thạc sĩ Đặng Anh Tuấn, em đã đi sâu phân tích tình hình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, rút ra những ưu, nhược điểm của ngân hàng trong công tác thực hiện nghiệp vụ này, từ đó làm cơ sở cho việc đưa ra các ý kiến với hy vọng sẽ đóng góp được một phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng.
106 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 759 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng ĐT-PT Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu. Đây là loại hình bảo lãnh mới được ngân hàng triển khai trong một vài năm trở lại đây và vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong doanh số bảo lãnh của ngân hàng. Tuy vậy với chính sách thu hút khách hàng, tỷ trọng của loại hình đã dần tăng lên qua các năm. Cụ thể: Năm 2000, tỷ trọng chỉ là 3.8%, năm 2001 chiếm 4.81% và đến năm 2002 tỷ trọng này là 6.3%. Thiết nghĩ, ngân hàng nên sớm có các biện pháp nhằm phát triển loại hình bảo lãnh rất có tiềm năng phát triển này.
+ Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm: Tại ngân hàng bảo lãnh này bao gồm hai loại là bảo lãnh bảo đảm chất lượng công trình và bảo đảm chất lượng máy móc thiết bị, trong đó chủ yếu là bảo lãnh chất lượng công trình. Doanh số phát sinh loại này không lớn song cũng có xu hướng tăng dần qua các năm.
+ Các loại bảo lãnh khác như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh nộp thuế,...doanh số phát sinh còn nhỏ. Với đội ngũ cán bộ kinh nghiệm, năng động, ngân hàng hoàn toàn có đủ khả năng phát triển, hạn chế tối đa rủi ro và thu thêm phí . Vì vậy, ngân hàng cần phải có các biện pháp nhằm phổ biến các loại hình bảo lãnh này cho khách hàng.
1.3.2 Cơ cấu hoạt động bảo lãnh theo ngành
Bảng 10: Cơ cấu bảo lãnh theo ngành
Đơn vị: Triệu đồng, %
Các chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Bảo lãnh trong ngành xây lắp
351,078
93.40%
517,202
93.23%
756,076
94.60%
Bảo lãnh trong các ngành khác
24,809
6.60%
37,530
6.77%
43,159
5.40%
Tổng
375,887
100%
554,732
100%
799,235
100%
Nguồn: phòng nguồn vốn kinh doanh
Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội và năm huyện ngoại thành, nơi có đông các doanh nghiệp nói chung và các tổng công ty, công ty hoạt động trên lĩnh vực xây dựng. Do hoạt động trên lĩnh vực này lâu đời nên ngân hàng có nhiều khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp thi công xây lắp. Do vậy bảo lãnh trong xây lắp luôn chiếm một tỷ lệ rất cao (trên 93%) trong tổng doanh số bảo lãnh của ngân hàng. Cụ thể trong năm 2000 doanh số bảo lãnh trong ngành xây lắp là 351,087 triệu đồng, năm 2001 là 517,202 triệu đồng: tăng 202,214 triệu đồng (tương ứng với 57%) so với năm 2000. Và năm 2002 tăng 238,876 triệu đồng (tương ứng với 46%) so với năm 2001.
Như vậy, có thể nói hoạt động bảo lãnh trong ngành xây lắp đều tăng trưởng qua các năm. Đây là một thế mạnh của Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội. Quả thực, nghiệp vụ này được thực hiện trước hết là để phục vụ nhu cầu của khách hàng truyền thống và cũng là việc ngân hàng biết khai thác lợi thế của các nhu cầu trên lĩnh vực chuyên doanh của mình. Và việc quan hệ chủ yếu với các khách hàng trên lĩnh vực xây dựng thể hiện rất rõ tính chuyên doanh của ngân hàng. Lợi ích của ngân hàng chuyên doanh và đa năng vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Song với định hướng chuyển dần sang kinh doanh đa năng thì ngân hàng cần thu hút thêm các khách hàng mới ngoài khách hàng truyền thống.
1.3.3 Cơ cấu bảo lãnh theo thành phần kinh tế Bảng 11: Cơ cấu bảo lãnh theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Triệu đồng, %
Các chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
DNQD
373,218
99.29%
548,075
98.80%
779,254
97.50%
DNNQD
2,669
0.71%
6,657
1.20%
19,981
2.50%
Tổng
375,887
100%
554,732
100%
799,235
100%
Nguồn: phòng nguồn vốn kinh doanh
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy doanh nghiệp quốc doanh chiếm phần lớn doanh số hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Với ngân hàng có lẽ đây là một kết quả chưa làm ngân hàng thoả mãn, vì nó chứng tỏ nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng chủ yếu được các khách hàng truyền thống sử dụng còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (các khách hàng mới) chiếm tỷ lệ rất ít.
Hiện nay, không chỉ riêng với bảo lãnh mà cả hoạt động tín dụng, các giao dịch của ngân hàng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn rất nhỏ bé. Cho tới năm 2000, ngân hàng mới bảo lãnh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với tỷ trọng là 0.71% tổng doanh số bảo lãnh của ngân hàng. Năm 2001 tỷ trọng này là 1.2% và năm 2002 là 2.5%. Các con số này thể hiện ngân hàng đã cố gắng trong nâng cao doanh số bảo lãnh của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Câu hỏi đặt ra là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ít có nhu cầu bảo lãnh hay không được đáp ứng nhu cầu? Quả thực đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngân hàng đòi hỏi các doanh nghiệp này phải ký quĩ 100%. Trong khi đó vốn lưu động của doanh nghiệp còn phải đi vay, và vốn tự có thì còn ít ỏi. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp, mặc dù muốn song với yêu cầu ký quỹ của ngân hàng doanh nghiệp không thể sử dụng dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng.
1.3.4 Cơ cấu bảo lãnh theo thời gian
Bảng 12: Cơ cấu bảo lãnh theo thời gian
Đơn vị: Triệu đồng, %
Các chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Trên 1 năm
332,096
88.35%
507,691
91.52%
684,065
85.59%
Dưới 1 năm
43,791
11.65%
47,041
8.48%
115,170
14.41%
Tổng
375,887
100%
554,732
100%
799,235
100%
Nguồn: phòng nguồn vốn kinh doanh
Theo bảng số liệu ta có thể thấy rằng bảo lãnh trên 1 năm (trung và dài hạn) chiếm tỷ lệ lớn (80- 90%). Điều này lại một lần nữa khẳng định ưu thế, chức năng chính của ngân hàng là phục vụ trong lĩnh vực đầu tư xây dựng vì các dự án trong lĩnh vực đầu tư xây dựng thường có thời gian dài trên 1 năm. Nên các loại bảo lãnh ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng cũng thường kéo dài đến khi dự án kết thúc.
1.4 Tình hình các hình thức bảo đảm cho bảo lãnh tại Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội
Bảng 13: Tình hình các loại bảo đảm tại Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội
Đơn vị: Triệu đồng, %
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
Tín chấp
39,806
10.59%
45,821
8.26%
75,128
9.40%
Ký quĩ
225,156
59.90%
359,466
64.80%
547,476
68,50%
Thế chấp
110,925
29.51%
149,445
26.94%
176,631
22,10%
Tổng
375,887
100%
554,732
100%
799,235
100%
Nguồn: Phòng NVKD
Những năm mới bắt đầu hoạt động Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội bắt buộc tất cả các khách hàng tham gia bảo lãnh đều phải ký quỹ, đối với khách hàng truyền thống ( tỷ lệ ký quỹ thấp ). Nhưng hiện nay ngân hàng chấp nhận cả tín chấp và thế chấp: đây chính là một cơ chế mới của ngân hàng giúp cho ngân hàng hoạt động như một ngân hàng thương mại thực sự và ngân hàng tăng doanh số trong các năm qua.
Qua bảng số liệu cho thấy hình thức bảo đảm bằng biện pháp tín chấp chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn, con số này năm 2000 là 10.59%, năm 2001 là 8.26% và năm 2002 là 9.4%. Điều này thể hiện ngân hàng rất cẩn trọng trong việc thực hiện tín chấp với khách hàng, chỉ những khách hàng nào làm ăn lâu năm, có uy tín và tạo được sự tin tưởng của ngân hàng thì ngân hàng mới cho phép dùng hình thức tín chấp. Thực tế khách hàng truyền thống của ngân hàng chiếm một lượng đa số trong hoạt động của ngân hàng, vậy mà ngân hàng lại chỉ cho phép một bộ phận sử dụng tín chấp trong hoạt động bảo lãnh, điều này sẽ gây bất lợi cho ngân hàng. Thiết nghĩ, ngân hàng nên mở rộng hình thức này để các nhà đầu tư có cơ hội được sử dụng dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng.
Trong khi đó hình thức bảo đảm bằng biện pháp ký quỹ lại chiếm tỷ lệ cao nhất ( trên dưới 60%) và tỷ lệ này có hướng tăng lên, cụ thể là: năm 2000 chiếm 59.9%, năm 2001 chiếm 64.8% và năm 2002 chiếm 68.5%. Tỷ lệ này thể hiện đây là biện pháp đảm bảo được ngân hàng sử dụng nhiều nhất và chắc chắn khi thực hiện bảo lãnh cho khách hàng, biện pháp đảm bảo bằng ký quỹ sẽ làm cho ngân hàng cảm thấy yên tâm. Nhưng tỷ lệ này cao như vậy cũng chứng tỏ một điều ngân hàng chưa thực sự tin tưởng vào khách hàng của mình kể cả khách hàng truyền thống. Tức là ngân hàng chưa tạo được mối quan hệ tốt với khách hàng.
Hình thức đảm bảo bằng biện pháp thế chấp năm 2000 chiếm 29.51% và tỷ lệ này giảm dần, cụ thể năm 2001 là 26.94%, năm 2002 là 22.1%. Điều này chứng tỏ ngân hàng không ưa thích hình thức này. Bởi vì khi khách hàng thế chấp bằng tài sản thì trong thời gian dài của dự án, giá trị tài sản đó có thể có những thay đổi làm thiệt hại đến ngân hàng (khi việc bảo lãnh xảy ra). Ngoài ra công tác thẩm định, đánh giá tài sản của ngân hàng còn chưa cao do đó cũng hạn chế việc ngân hàng nhận bảo đảm bằng tài sản thế chấp.
1.5 Nhận xét chung:
Nghiệp vụ bảo lãnh là một loại dịch vụ mới được chi nhánh Ngân hàng ĐT-PT Hà Nội đưa vào áp dụng trong thực tế nhằm đa dạng hóa loại hình hoạt động của Ngân hàng, phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng và của toàn bộ nền kinh tế. Nhờ sự ra đời đúng lúc nên nghiệp vụ này nhanh chóng được xã hội chấp nhận. ngay sau khi triển khai cụ thể việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đã có nhiều khách hàng đến với ngân hàng, nhất là khách hàng thuộc lĩnh vực xây dựng cơ bản. Tuy còn nhiều điểm chưa hợp nhưng nhìn một cách tổng quan qua hơn 7 năm hoạt động ngân hàng đã rất cố gắng và đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Nhưng để đạt được kết quả đó không thể phủ nhận công lao của tập thể cán bộ ngân hàng đã xây dựng được một quy trình nghiệp vụ hợp lý, chặt chẽ và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận trong việc thực hiện quy trình đó. Trên cơ sở đó ngân hàng cần tiếp tục phát huy thế mạnh của mình để tiếp tục mở rộng và phát triển nghiệp bảo lãnh.
III. Những hạn chế trong quá trình thực hiện hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội.
So với hoạt động tín dụng thì bảo lãnh ngân hàng là nghiệp vụ còn quá non trẻ, giá trị bảo lãnh thực hiện được tuy có tăng nhưng chưa được cao. Hiện nay nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng tại ngân hàng chưa phát huy hết tiềm năng tác dụng vì còn tồn tại một số hạn chế cản trở sự phát triển của bảo lãnh ngân hàng:
1. Về cơ chế chính sách:
+ Hiện nay nước ta vẫn đang là một nước nông nghiệp lạc hậu, nền kinh tế kém phát triển, quy mô của các hoạt động kinh tế còn nhỏ hẹp nên hạn chế sự tham gia của nghiệp bảo lãnh. Nghiệp vụ bảo lãnh là sản phẩm của cơ chế thị trường bởi lẽ chỉ có cơ chế thị trường với những hoạt động kinh tế phong phú và đa dạng trên mọi lĩnh vực, những mối quan hệ đan xen phức tạp giữa các thành phần kinh tế mới nảy sinh nhu cầu cần phải có bảo lãnh ngân hàng. Nhưng ở nước ta chế độ bao cấp tồn tại trong một thời gian dài đã kìm hãm sự phát triển kinh tế nói chung và sự ra đời của nghiệp vụ bảo lãnh nói riêng. Ngoài ra chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay là tích cực mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với các nước trên thế giới. Những năm gần đây quan hệ kinh tế quốc tế ở nước ta phát triển mạnh nhưng vẫn ở mức thấp so với các nước khác trên thế giới. Vì vậy, các dự án đầu tư nước ngoài vào nước ta còn hạn chế ảnh hưởng đến nghiệp vụ bảo lãnh.
+ Một nguyên nhân khác cũng không kém phần quan trọng đó là do môi trường pháp lý và cơ chế chính sách của nước ta chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, chúng ta chưa có luật về bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh được thực thi theo các văn bản dưới luật như: quy chế bảo lãnh ngân hàng, hướng dẫn quy chế bảo lãnh ngân hàng... Mà các văn bản này thường xuyên được sửa đổi, bổ sung gây khó khăn cho việc thực thi bảo lãnh. Hơn nữa các văn bản sửa đổi lại có độ trễ của nó. Vì thế, đã cản trở khá lớn việc mở rộng và phát triển công tác bảo lãnh.
+ Ngoài ra nền kinh tế thế giới cũng có phần nào ảnh hưởng đến hoạt động bảo lãnh. Khi các chính sách vĩ mô của thế giới thay đổi hoặc các cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra cũng tác động không có lợi cho hoạt động hoạt động bảo lãnh.
2. Về một số quy định trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh:
2.1 Về điều kiện đảm bảo:
Hiện nay Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội yêu cầu tất cả các khách hàng mới và khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi tham gia bảo lãnh phải ký quỹ với tỷ lệ là 100%. Điều này làm bảo lãnh ngân hàng không phát huy được chức năng bảo đảm và chức năng tài trợ của nó. Và quan trọng hơn với quy định này ngân hàng sẽ không thu hút thêm được khách hàng mới. Do đó sẽ ảnh hưởng đến kết quả của nghiệp vụ bảo lãnh.
2.2 Về các loại hình bảo lãnh của ngân hàng:
Trên lý thuyết thì ngân hàng cũng thực hiện đầy đủ các loại bảo lãnh hiện có song trong thực tế Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội chưa sẵn sàng đáp ứng tát cả các nhu cầu bảo lãnh phát sinh như: bảo lãnh hoàn thuế, bảo lãnh đại lý ... Như vậy sản phẩm của ngân hàng chưa đa dạng và phong phú sẽ làm hạn chế các khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng.
2.3 Về phí bảo lãnh:
Hiện nay ngân hàng áp dụng phí khá đồng đều do chính sách phí cứng chưa linh hoạt. Điều này gây ra sự không chính xác trong việc phản ánh các chỉ tiêu khác như: thời gian bảo lãnh, số tiền bảo lãnh .... Chính sách phí như vậy cũng trở thành rào cản trong công tác thu hút khách hàng mới và giữ gìn quan hệ với khách hàng truyền thống.
3. Về công tác tổ chức và trình độ cán bộ.
Bảo lãnh là một nghiệp vụ còn rất non trẻ và mới mẻ đối với Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội do đó thiếu kinh nghiệm trong việc tổ chức cán bộ đảm nhiệm công tác bảo lãnh là khó khăn không chỉ của riêng Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội. Ngân hàng cũng dã tổ chức nhiều đợt tập huấn về bảo lãnh cho các nhân viên và thực hiện tách riêng phòng thẩm định. Song để đạt được kết quả tốt thì đó là một quá trình lâu dài bởi nghiệp vụ này cũng luôn có những biến đổi theo thời gian. Ví dụ trong công tác thẩm định thì khách hàng xin bảo lãnh rất đa dạng nhiều ngành nghề nhưng ngân hàng lại không có đầy đủ các cán bộ thẩm định ở mọi lĩnh vực, và trình độ thẩm định của các cán bộ hiện có thì không cao, không được cập nhật, bổ xung nên mỗi khi ngân hàng phải thẩm định một dự án lớn hoặc đòi hỏi trình độ chuyên môn cao thì ngân hàng phải đi thuê chuyên gia,gây ảnh hưởng đến phí thu từ hoạt động bảo lãnh.
Hiện nay hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng do các cán bộ phòng tín dụng đảm nhiệm. Các cán bộ này được phân công quản lý một hay một số khách hàng và họ phải đảm nhiệm tất cả các giao dịch về tín dụng, bảo lãnh của khách hàng đó. Việc phân công trách nhiệm công việc như vậy có một ưu điểm là giúp cho cán bộ ngân hàng tiến hành công việc một cách nhanh hơn vì đã hiểu rất rõ về khách hàng của mình. Ngược lại có một hạn chế đó là công việc sẽ không được san sẻ đồng đều cho mọi người.
4. Về đối tượng khách hàng.
Một vấn đề xuyên suốt quá trình phân tích đó là sự bó hẹp của đối tượng khách hàng bảo lãnh. Khách hàng bảo lãnh của ngân hàng hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, có quan hệ giao dịch với ngân hàng trong thời gian dài, có mở tài khoản chính tại ngân hàng. Điều này chứng tỏ chính sách giữ khách hàng cũ được ngân hàng thực hiện tốt nhưng chính sách thu hút khách hàng mới chưa được chú trọng.
5. Về công nghệ ngân hàng:
Ngân hàng cũng đã chú trọng đầu tư và phát triển công nghệ ngân hàng như nối mạng kế toán tín dụng. Nhưng chưa làm được đối với bảo lãnh, tóm lại cơ sở vật chất đầu tư cho bảo lãnh còn lạc hậu và thiếu thốn so với các hoạt động khác. Khi khách hàng tiếp xúc với ngân hàng nếu ngân hàng có trình độ công nghệ cao thì tạo được cho khách hàng sự tin tưởng vào việc thực hiện bảo lãnh sẽ được nhanh chóng thuận tiện, đó cũng là một yếu tố có lợi cho ngân hàng trong việc thu hút khách hàng mới.
6. Về quy trình bảo lãnh.
Đây là vấn đề quan trọng nhất đối với một ngân hàng bởi đó là cái mà khách hàng sẽ tiếp xúc trực tiếp, khách hàng sẽ cảm nhận được phong cách làm việc của ngân hàng có nhanh chóng, thuận tiện, có lợi cho khách hàng hay không? Một vấn đề nổi bật trong quy trình bảo lãnh của ngân hàng: là quy trình bảo lãnh của Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội chưa có bước tìm kiếm khách hàng. Đây là một khâu quan trọng vì nếu không tìm kiếm thêm khách hàng thì hoạt động bảo lãnh sẽ không được mở rộng và phát triển. Hiện nay khách hàng bảo lãnh tại Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội chủ yếu là các khách hàng truyền thống nên đối tượng còn bó hẹp. Vì vậy phải có thêm khâu tìm kiếm, lựa chọn khách hàng và khâu này phải đưa lên hàng đầu trong quy trình bảo lãnh của ngân hàng .
Thứ hai như đã nói ở trên thẩm định cũng là một khâu khó khăn cho ngân hàng trong việc xét duyệt bảo lãnh. Để đảm bảo cung cấp bảo lãnh cho khách hàng đúng theo quy định thì ngân hàng phải tiến hành nhanh chóng khâu thẩm định trong khi đó chuyên môn chưa cao, kèm theo đó là khi khách hàng ký quỹ 100% thì khâu thẩm định càng bị coi nhẹ. Nhưng khi khách hàng không đủ năng lực để thực hiện hợp đồng thì mặc dù ngân hàng không bị thiệt hại về tài sản, ngân hàng vẫn phải chịu hậu quả đó là uy tín giảm sút.
Một khó khăn nữa mà ngân hàng thường gặp phải là trong khâu theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng để đôn đốc người được bảo lãnh thực hiện đúng các cam kết. Nhưng hầu hết, các công trình, dự án của khách hàng rất xa trong khi đó các cán bộ tín dụng lại rất bận nên việc theo dõi thường xuyên là rất khó khăn, hiện nay ngân hàng chỉ dưạ vào uy tín và sự trung thực của khách hàng.
Mặc dù cho đến hiện nay Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội chưa xảy ra rủi ro. Nhưng các món bảo lãnh của ngân hàng thường là rất dài do đó rủi ro tiềm ẩn là rât lớn vì vậy ngân hàng phải nâng cao chất lượng thực hện quy trình để hạn chế tối đa việc xảy ra rủi ro.
CHƯƠNG III
Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng ĐT-PT Hà nội
I. Phương hướng mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh ở Chi nhánh ngân hàng ĐT-PT Hà Nội.
1. Sự cần thiết phải mở rộng nghiệp vụ bảo lãnh ở Chi nhánh ngân hàng ĐT-PT Hà Nội.
Xét trên toàn bộ nền kinh tế, nghiệp vụ bảo lãnh ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là hoạt động xây dựng cơ bản trên địa bàn. Các dự án, các công trình xây dựng lớn không thể thực hiện được việc đấu thầu, kí hợp đồng thi công... nếu không có sự tham gia của nghiệp vụ bảo lãnh. Việc ứng dụng nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động kinh tế là một xu hướng quốc tế, giúp Việt Nam dễ dàng hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Việc đưa nghiệp vụ bảo lãnh vào áp dụng tại ngân hàng là biện pháp đa dạng hóa loại hình hoạt động của ngân hàng. Từ chỗ chỉ hoạt động những hoạt động truyền thống như huy động và cho vay, hiện nay ngân hàng đã có thêm nhiều loại hình dịch vụ như chuyển tiền, thanh toán chứng từ nhờ thu, dịch vụ chiết khấu hối phiếu,chứng từ có giá và nghiệp vụ bảo lãnh... nghiệp vụ bảo lãnh cũng góp phần làm tăng thu nhập của ngân hàng.
Ngoài ra các món bảo lãnh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản còn có vai trò thu hút khách hàng trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Điều này không phải là do ngân hàng dùng biện pháp cưỡng chế bắt buộc người được bảo lãnh phải chấp nhận vay số tiền mà ngân hàng đã trả thay khi rủi ro xảy với lãi suất bằng 150% so với lãi suất thông thường mà lý do ở đây là vì khi ngân hàng thực hiện các món bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng có nghĩa là ngân hàng đã đảm bảo về khả năng tài chính của doanh nghiệp xin bảo lãnh để thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng cơ sở. Vì thế nên khi khách hàng trúng thầu hay ký được hợp đồng thì thường ngân hàng bảo lãnh sẽ làm nhà tài trợ chính về vốn cho các nhà thầu xây dựng công trình.
Vậy nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng là một hoạt động không thể thiếu và rất cần thiết đối với doanh nghiệp, do vậy việc mở rộng hoạt động bảo lãnh là một điều tất yếu để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
2. Phương hướng mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh.
Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội với 7 năm thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng đã đạt được những kết quả tốt, có những bước tiến vững chắc để tiếp tục bước cao hơn và đạt được kết quả tốt hơn. Ngân hàng cũng luôn luôn cố gắng vươn lên những mục tiêu mới hơn, nhiệm vụ khó khăn hơn.
Xuất phát từ thực tế hoạt động bảo lãnh của ngân hàng và nhu cầu bảo lãnh của nền kinh tế, phương hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng trong thời gian tới như sau:
+ Hoàn chỉnh quy trình bảo lãnh sát thực tế, phù hợp với yêu cầu của khách hàng, nhanh gọn.
+ Mở rộng khối lượng khách hàng tham gia nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng: cụ thể là đáp ứng khối khách hàng truỳen thông, mở rộng khách hàng mới có chọn lọc.
+ Đa dạng hoá và mở rộng các hình thức bảo lãnh, các loại bảo lãnh đang thực hiện đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
+ Hiện đại hoá cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động bảo lãnh để nâng cao chất lượng giao dịch.
+ Duy trì mức độ an toàn trong hoạt động bảo lãnh như hiện nay.
Trên cơ sở những ưu điểm và nhược điểm rút ra từ quá trình phân tích, chúng ta sẽ tìm giải pháp phát huy những ưu điểm hiện có và hạn chế, khắc phục những nhược điểm đang tồn tại nhằm đạt được mục tiêu : “Hiệu quả - An toàn trong tăng trưởng” đối với nghiệp bảo lãnh ngân hàng. Tuy nhiên, các giải pháp phải nằm trong khuôn khổ luật pháp Việt Nam, tuân thủ luật các tổ chức tín dụng, không trái với quy chế bảo lãnh của ngân hàng Nhà nước Việt Nam và dựa trên cơ sở những hướng dẫn của Ngân hàng ĐT-PT Trung ương.
II- Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội.
1. Chính sách khách hàng:
Để đạt được những phương hướng trên trước hết ngân hàng phải chú trọng chính sách khách hàng. Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội cần phải tiến hành phân đoạn thị trường để có các chính sách phù hợp đối với từng đối tượng khách hàng đảm bảo mục tiêu giữ gìn, phát triển khối khách hàng truyền thống và mở rộng, thu hút thêm khách hàng mới.
* Đối với nhóm khách hàng truyền thống: ngân hàng phải xác định đay là một thị trường quan trọng và chủ chốt của ngân hàng nên phải có các chính sách ưu đãi thích hợp để giữ gìn.
Trước đây Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội vẫn yêu cầu các khách hàng truyền thống phải ký quỹ 5% khi thực hiện bảo lãnh tại ngân hàng. Nhận thấy đây là một điều bất lợi cho ngân hàng vì khi khách hàng không thực hiện đúng hợp đồng thì ngân hàng chỉ được dảm bảo có 5% còn 95% không có gì để đảm bảo, con số này là không đáng không kể, trong khi đó các ngân hàng khác trên địa bàn không yêu cầu khách hàng truyền thống phải ký quỹ. Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội đã bỏ yêu cầu ký quỹ với các khách hàng truyền thống nhưng đồng thời kết hợp các biện pháp bảo đảm như: Khối lượng hoàn thành chưa được thanh toán, tiền thanh toán được chỉ định chuyển về tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại ngân hàng ĐT-PT Thành phố Hà Nội, bảo lãnh của bên thứ ba (doanh nghiệp cấp trên), tiền gửi đối ứng... Nhưng như thế chưa đủ ngân hàng cần phải có một số chính sách ưu đãi khác như: phí bảo lãnh có thể linh động hơn, xây dựng hạn mức bảo lãnh có thể vượt quá mức cho phép và trình lên ngân hàng trung ương để đáp ứng nhu cầu của khách hàng truyền thống ( khách hàng truyền thống của Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội chủ yếu là các tổng công ty lớn, các doanh ngiệp trong lĩnh vực đầu tư xây dựng nên các dự án xin bảo lãnh thường có giá trị lớn). Giải quyết nhanh gọn và ưu tiên khi khách hàng truyền thống có yêu cầu bảo lãnh, loại bỏ một số thủ tục rườm rà không cần thiết vì khách hàng truyền thống và ngân hàng đã hiểu rất rõ về nhau.
Nhằm đẩy mạnh chính sách khách hàng và để giữ vững mối quan hệ với khách hàng truyền thống của ngân hàng, giữ vững và ngày một tăng trưởng thị phần trên địa bàn, Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội phải luôn luôn cố gắng đáp ứng đầy đủ và thực hiện tốt các giao dịch của khách hàng truyền thống kèm theo là các chính sách khuyến khích, nới lỏng các điều kiện thực hiện giao dịch bảo lãnh.
* Đối với nhóm khách hàng mới thiết lập quan hệ bảo lãnh với ngân hàng.
Những khách hàng này có mức độ tín nhiệm đối với ngân hàng chưa cao nên để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hành và đảm bảo an toàn cho ngân hàng, chi nhánh sẽ đáp ứng mọi nhu cầu bảo lãnh của khách hàng sau khi đã xem xét, thẩm định kỹ càng hồ sơ bảo lãnh và có thêm sự hỗ trợ của các hình thức bảo đảm như thế chấp, cầm cố, ký quỹ 100%... Hiện nay tại Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội tỷ lệ ký quỹ đối với các khách hàng mới là 100%.
Tóm lại, để thực hiện tốt chính sách khách hàng, đạt các mục tiêu đã đặt ra ngân hàng cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau:
+Trong cơ chế thị trường, khách hàng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng cũng vậy, số lượng khách hành sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến doanh số bảo lãnh thực hiện được và thu nhập do hoạt động bảo lãnh đem lại. Công tác thu hút khách hàng được thực hiện bằng nhiều cách. Có thể là tìm mọi biện pháp để lợi ích mà ngân hàng đem lại cho khách hàng là nhiều nhất, hoặc ngân hàng có chính sách ưu đãi khách hàng hấp dẫn hơn đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, còn một biện pháp có tác dụng toàn diện hơn trong chính sách khách hàng, đó là mở hội nghị khách hàng.
Hội nghị khách hàng là nơi gặp gỡ giữa Người cung ứng dịch vụ - Ngân hàng và Người có nhu cầu dịch vụ- các khách hàng. Hay nói cách khác đây là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về dịch vụ ngân hàng. Hội nghị khách hàng không chỉ đem lại lợi ích cho khách hàng mà còn giúp ngân hàng trong việc xây dựng định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới một cách hợp lý nhất . Bởi vì trong hội nghị khách hàng ngân hàng không chỉ tìm hiểu nhu cầu hiện tại mà còn tìm hiểu cả nhu cầu trong tương lai của khách hàng.
Ngoài ra, việc mở hội nghị khách hàng còn thể hiện sự quan tâm của Ngân hàng đối với khách hàng của mình; tạo điều kiện cho khách hàng bày tỏ mọi ý kiến, nguyện vọng của họ xung quanh vấn đề cung ứng các dịch vụ của Ngân hàng. Từ đó Ngân hàng có biện pháp khắc phục những nhược điểm còn thiếu sót và thỏa mãn mọi yêu cầu của khách hàng trong khả năng của mình, phù hợp với luật pháp Việt Nam.
Hội nghị khách hàng là cơ hội để Ngân hàng giới thiệu về dịch vụ bảo lãnh. Đây là loại hình dịch vụ mới nên việc giới thiệu cần được thực hiện chu đáo, có sức hấp dẫn, thu hút khách hàng. Quan trọng nhất là kích thích, gợi mở nhu cầu của khách hàng, nhất là đối với những khách hàng chưa bao giờ sử dụng hình thức bảo lãnh ngân hàng để bổ sung cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính của họ.
+ Tạo mối quan hệ thân thiết, gần gũi bằng các cuộc thăm viếng của lãnh đạo ngân hàng đến các cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng, hoặc sử dụng các dịch vụ hay sản phẩm của khách hàng khi ngân hàng có nhu cầu.
+ Lắng nghe ý kiến và tôn trọng khách hàng, coi khách hàng là bạn hàng vì không có khách hàng thì không có ngân hàng.
+ Tận tình giúp đỡ khách hàng, khi khách hàng gặp khó khăn ngân hàng phải cùng với khách hàng tìm các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, như thế sẽ có lợi cho cả khách hàng và ngân hàng.
2. Đa dạng hoá phát triển sản phẩm:
Để nghiệp vụ bảo lãnh phát triển toàn diện và đồng đều ngân hàng không chỉ chú trọng mở rộng đối tượng khách hàng mà còn phải chú trọng phát triển và đa dạng hoá sản phẩm. Trong các loại hình bảo lãnh hiện nay, ngân hàng chưa triển khai thực hiện đầy đủ các loại bảo lãnh, một phần do nhu cầu khách hàng chưa nhiều.
+ Để đa dạng hoá sản phẩm của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng cần phải mở rộng thêm các loại hình bảo lãnh chưa thực hiện, để sẵn sàng phục vụ khách hàng khi có nhu cầu.
+ Để phát triển các loại hình bảo lãnh ngân hàng cần phải giới thiệu, quảng cáo cho khách hàng biết các sản phẩm mới của mình và có các hình thức khuyến khích khi khách hàng sử dụng các sản phẩm mới của nghiệp vụ bảo lãnh.
Tóm lại để đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh trước hết phải làm cho khách hàng thực sự thấy được sự thuận tiện và lợi ích cho họ khi sử dụng các lọai hình mới. Từ đó ngân hàng đề ra các biện kích thích và thu hút khách hàng.
3. Đa dạng hoá phát triển thị trường:
Như đã nói ở trên khách hàng chủ yếu của Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội là các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư xây lắp. Điều này chứng tỏ ngân hàng chưa triển khai tốt việc phát triển và mở rộng thị trường. Để trở thành một ngân hàng thương mại hiện đại đa năng ngân hàng cần chú ý đề ra các biện pháp chính sách để phát triển đa dạng thị trường khách hàng. Hiện nay ngân hàng cần triển khai và thực hiện tốt các chính sách sau:
+ Tăng cường và giữ vững khối khách hàng quốc doanh: mặc dù mục tiêu là đa dạng hoá phát triển thị trường nhưng song song với nó là việc giữ vững và phát triển thị trường truyền thống, bởi khách hàng truyền thống đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Nên ngân hàng phải nghiên cứu sao cho ngày càng phục vụ khách hàng truyền thống tốt hơn hiện nay.
+ Mở rộng thị trường đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: đây là một thị cần được ngân hàng đầu tư thích đáng để mở rộng hoạt động bảo lãnh vì hiện nay nền kinh tế nước ta các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển rất mạnh, các doanh nghiệp này cũng có những đóng góp không nhỏ trong việc phát triển nền kinh tế. Do đó tiềm năng mở rộng hoạt động bảo lãnh đối với nền kinh tế này rất lớn.
+ Ngoài ra phải phát triển các loại hình, hình thức phát hành bảo lãnh để phục vụ được tất cả các đối tượng khách hàng.
4. Chính sách phí
Chúng ta đã biết phí bảo lãnh chính là giá cả của hoạt động bảo lãnh. Vậy theo quy luật tất yếu nếu hai ngân hàng có chất lượng bảo lãnh như nhau, uy tín ngang nhau nhưng giá cả lại khác nhau thì khách hàng sẽ chọn ngân hàng nào có giá cả thấp hơn. Chính vì điều này mà ngân hàng cần phải nhgiên cứu sao cho có một chính sách phí linh hoạt, mềm dẻo để khi khách hàng đã đến với ngân hàng sẽ không sử dụng nghiệp vụ bảo lãnh chỉ vì phí bảo lãnh không làm họ hài lòng. Hiện nay quy chế Ngân hàng Nhà nước quy định phí bảo lãnh không quá 2% số tiền còn đang bảo lãnh. Còn thực tế tại Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội phí bảo lãnh hiện nay trung bình là 1,8% / năm. Như vậy theo nhận xét của riêng em như thế là vẫn còn cao. Điều đó sẽ làm hạn chế công tác thu hút khách hàng. Ngân hàng nên áp dụng phí cho từng đối tượng là khác nhau, ví dụ khách hàng truyền thống, khách hàng ngoài quốc doanh và khách hàng mới mức phí sẽ không giống nhau. Khi thực hiện giao dịch với khách hàng ngân hàng nên giữ kín các mức phí mà ngân hàng đã bảo lãnh cho các khách hàng khác để khách hàng không phải thắc mắc và không gây khó khăn cho ngân hàng .
Phí bảo lãnh phải phù hợp với các chính sách khác trong khối tổng thể các chính sách và phụ thuộc bởi các yếu tố: rủi ro, thời hạn và số tiền bảo lãnh.
5. Điều chỉnh điều kiện đảm bảo:
Hiện nay Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội thực hiện chế độ đảm bảo như sau:
+ Đối với khách hàng truyền thống không phải ký quỹ nhưng áp dụng kèm theo các biện pháp như: tiền gửi thanh toán phải được chỉ định gửi về tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội, hay bảo lãnh của bên thứ ba...
+ Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải ký quỹ 100% khi tham gia bảo lãnh tại Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội. Theo em các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay đa số là nguồn vốn còn hạn hẹp, có doanh nghiệp vốn lưu động còn đi vay như vậy yêu cầu ký quỹ 100% là chưa hợp lý vì nếu một hợp đồng bảo lãnh có thời gian dài thì họ sẽ phải chấp nhận để vốn của mình chết trong ngân hàng và như thế bảo lãnh sẽ mất đi chức năng tài trợ của nó. Vì vậy ngân hàng nên nới lỏng điều kiện này cho các doanh nghiệp quốc doanh như: làm ăn có uy tín với ngân hàng nhiều lần, sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng, có tài khoản tiền gửi thanh toán và trong thời gian bảo lãnh tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp được gửi về ngân hàng hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba..., thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh này cũng không phải ký quỹ cho ngân hàng.
+ Đối với khách hàng mới thì ngân hàng phải xem xét và tìm hiểu tư cách khách hàng này qua các thông tin trước đây họ đã làm ăn ra sao có uy tín không? Đã từng làm ăn với ai? Kết quả như thế nào? Từ những thông tin đó ngân hàng ra quyết định khách hàng phải ký quĩ bao nhiêu phần trăm, phí bảo lãnh là bao nhiêu.
6. áp dụng công nghệ thông tin vào bảo lãnh
Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội nên xúc tiến việc áp dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ bảo lãnh bằng việc xây dựng và đưa nối mạng vi tính nội bộ giữa các Phòng tín dụng, Phòng kế toán của Hội Sở Chính với các chi nhánh trực thuộc. Việc này sẽ giúp cho hoạt động bảo lãnh nhanh chóng, an toàn, chính xác hơn và giảm bớt khối lượng công việc cho các cán bộ thực hiện bảo lãnh.
7. Nâng cao trình độ cán bộ và công tác tổ chức cán bộ
Để nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng ngày càng phát triển, ngoài việc xây dựng một quy trình thực hiện hợp lý, Ngân hàng còn phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của cán bộ bảo lãnh.
Nguồn nhân lực là yếu tốt trung tâm của mọi hoạt động kinh tế, trong đó có hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Một chính sách bảo lãnh đúng đắn, một quy trình bảo lãnh hoàn thiện chỉ phát huy tác dụng khi những người thực hiện nó có đủ năng lực, trình độ để đảm đương công việc. Đối với một loại hình dịch vụ như bảo lãnh ngân hàng thì cán bộ bảo lãnh lại càng có vai trò quan trọng, bởi lẽ cán bộ bảo lãnh là người đại diện cho ngân hàng trực tiếp giao dịch với khách hàng. Mọi hành vi của cán bộ bảo lãnh đều thể hiện hình ảnh của ngân hàng trong con mắt khách hàng. Ví dụ, một khách hàng đến xin bảo lãnh ngân hàng được cán bộ bảo lãnh đón tiếp niềm nở, hướng dẫn tận tình thì họ thường nhận xét là phong cách phục vụ của ngân hàng tốt. Hay nói cách khác, chất lượng phục vụ trong hoạt động bảo lãnh của ngân hàng được thể hiện thông qua mọi hành vi của cán bộ bảo lãnh. Vì vậy, cần phải coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ bảo lãnh không chỉ về chuyên môn nghiệp vụ mà còn về phong cách, đạo đức và những kiến thức bổ sung khác như chính trị, luật pháp, nâng cao trình độ quản lý, giao tiếp khách hàng...
Bảo lãnh ngân hàng là một loại hình dịch vụ còn rất mới mẻ cho nên ngân hàng phải thường xuyên bổ sung kiến thức về nghiệp vụ cho cán bộ bảo lãnh, trên cơ sở nền tảng nghiệp vụ bảo lãnh ở các nước phát triển trên thế giới và những kinh nghiệm rút ra từ thực tế trong quá trình thực hiện nghiệp bảo lãnh ở Việt Nam.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của cán bộ bảo lãnh cũng là một biện pháp nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng của ngân hàng. Nhưng ngoài sự nỗ lực của cán bộ bảo lãnh ngân hàng cần hỗ trợ thêm cho công tác hướng dẫn khách hàng một hệ thống chỉ dẫn bằng cách bảng biểu. Hệ thống này sẽ rút ngắn thời gian của cán bộ bảo lãnh trong công tác hướng dẫn khách hàng về các thủ tục hành chính.
Thực hiện tốt công tác hướng dẫn khách hàng góp phần giữ khách hàng cũ và thu hút thêm khách hàng mới do sự truyền miệng, làm tăng uy tín của ngân hàng.
Tiến hành tập huấn cho các cán bộ để nâng cao trình độ hiểu biết thêm về nghiệp vụ bảo lãnh. Việc tập huấn này giúp các cán bộ ngân hàng hiều đúng bản chất vai trò cũng như khả năng rủi ro của hoạt động bảo lãnh. Ngoài ra, ngân hàng cũng phải phổ biến những qui định chung thống nhất từ Hội Sở Chính đến các chi nhánh trực thuộc.
Đào tạo nghiệp vụ bảo lãnh qua các lớp đào tạo chuyên môn hay qua các ngân hàng bạn. Ngân hàng cũng phải thường xuyên tổ chức các buổi tổng kết để đúc rút kinh nghiệm cần thiết cho hoạt động bảo lãnh.
Khắc phục những hạn chế do việc tổ chức cán bộ tổ chức tín dụng chuyên trách một số khách hàng bằng cách thường xuyên trao đổi thông tin giữa các cán bộ tín dụng. Ngân hàng cũng phải cố gắng để thành lập ra tổ bảo lãnh, việc này giúp cho nghiệp vụ bảo lãnh được chuyên môn hoá hơn.
8. Hoàn thiện và bổ sung qui trình bảo lãnh:
Như trong phần phân tích đã nêu trong toàn bộ quy trình nghiệp vụ bảo lãnh chưa có bước nào nhấn mạnh đến công tác thu hút khách hàng. Trên cơ sở đó, thiết nghĩ, ngân hàng nên có thêm khâu “Tìm kiếm và lựa chọn khách hàng” và “ Giới thiệu nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng cho khách hàng”. Công việc này sẽ giúp ngân hàng ngày càng có thêm nhiều khách hàng mới đến với nghiệp vụ bảo lãnh. Cụ thể, ngân hàng nên đưa hai khâu này vào bước 1 của qui trình bảo lãnh.
* Công tác tìm kiếm và lựa chọn khách hàng
Đây là công việc đầu tiên nhưng đóng vai trò rất quan trọng cho việc thành bại của dự án bảo lãnh sau này. Để nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng ĐT-PT Hà Nội phát triển mạnh mẽ trong hiệu quả và an toàn, việc tích cực tìm kiếm không thể tách rời việc lựa chọn, thu hút các dự án và khách hàng bảo lãnh tốt về với ngân hàng.
Trong 7 năm thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, khách hàng của ngân hàng trong hoạt động này đều là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Vì thế, Ngân hàng nên tiếp tục phát triển số lượng khách hàng thuộc lĩnh vực này trong thời gian tới. Bên cạnh đó, xúc tiến công tác tìm kiếm và lựa chọn khách hàng trên mọi ngành sản xuất thuộc mọi thành phần kinh tế. Ví dụ, khi ký kết các hợp đồng kinh tế có giá trị lớn như hợp đồng cung ứng nguyên vật liệu, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm...đều cần phải có sự tham gia hỗ trợ của bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo thanh toán hay một loại bảo lãnh nào khác mà các bên yêu cầu. Vấn đề đặt ra đối với ngân hàng là phải tìm cách đáp ứng tốt nhất mọi yêu cầu của khách hàng.
* Công tác giới thiệu nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng:
ở nước ta, tuổi thọ của nghiệp vụ bảo lãnh còn quá non trẻ. Thêm vào đó, các doanh nghiệp Việt Nam mới tiếp xúc với quy luật của cơ chế thị trường trong thời gian ngắn. Cho nên nhiều doanh nghiệp chưa biết đến hoặc chưa có thói quen sử dụng hình thức bảo lãnh ngân hàng trong công việc làm ăn của họ, Mặc dù có thể những dự án mà họ thực hiện chứa đựng rủi ro rất cao. Điều đó đòi hỏi ngân hàng phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giới thiệu nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng.Khi triển khai công tác giới thiệu nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng cần phải giải quyết 3 nội dung: Giới thiệu cho ai ? Giới thiệu như thế nào ? Giới thiệu cái gì ?
+Đối tượng giới thiệu
Khác với các hoạt động kinh tế khác, chính sách khách hàng của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng không chỉ quan tâm đến những khách hàng xin bảo lãnh. ở đây việc giới thiệu nghiệp vụ bảo lãnh nhằm vào hai đối tượng : Khách hàng xin bảo lãnh và Doanh nghiệp yêu cầu bảo lãnh ( Người thụ hưởng trong quan hệ bảo lãnh )
Các doanh nghiệp yêu cầu thư bảo lãnh không trực tiếp tham gia vào quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến số món bảo lãnh và giá trị bảo lãnh của ngân hàng. Bởi lẽ một khi những doanh nghiệp này có yêu cầu đối tác kinh doanh của mình phải nộp một thư bảo lãnh ngân hàng thì ngân hàng mới có khách hàng đến xin bảo lãnh.
Đối với những doanh nghiệp xin bảo lãnh, ngân hàng cũng cần phải chú trọng công tác thu hút khách hàng để họ thiết lập quan hệ bảo lãnh với ngân hàng.
+ Phương thức giới thiệu
Việc giới thiệu nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau tùy theo từng đối tượng khách hàng.
Doanh nghiệp xin bảo lãnh ngân hàng thường là những doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, có các dự án kinh doanh lớn, việc tuyên truyền, giới thiệu nghiệp vụ bảo lãnh mang ý nghĩa rất quan trọng. Ngân hàng có thể gửi Catalog đến các doanh nghiệp này hoặc cử nhân viên Chi nhánh trực tiếp tiếp cận doanh nghiệp để phát hiện và gợi mở về nhu cầu bảo lãnh cho khách hàng.
Trong môi trường cạnh tranh, một khách hàng có nhu cầu xin bảo lãnh có thể lựa chọn một ngân hàng phục vụ mình trong số nhiều ngân hàng khác nhau. Vấn đề đặt ra đối với ngân hàng là làm sao để khách hàng đó đến xin bảo lãnh ở ngân hàng mình? Để trả lời câu hỏi này trước hết chúng ta cần xem xét những tiêu chuẩn để khách hàng lựa chọn ngân hàng phục vụ mình:
- Ngân hàng có uy tín cao trong hoạt động kinh doanh, có năng lực tài chính vững mạnh.
- Công tác phục vụ khách hàng tốt.
- Các loại hình bảo lãnh phong phú, đa dạng.
- Thủ tục hành chính đơn giản.
- Mức độ an toàn trong hoạt động bảo lãnh cao.
Nhiệm vụ của Ngân hàng là phải đáp ứng các tiêu chuẩn này một cách tốt nhất có như vậy khách hàng mới đến xin bảo lãnh ở ngân hàng.
Những khách hàng truyền thống có thể tự đánh giá các chỉ tiêu này qua quá trình giao dịch lâu năm với ngân hàng, còn đối với những doanh nghiệp chưa quan hệ giao dịch với ngân hàng thì ngân hàng phải cung cấp cho họ những thông tin cần thiết để có thể lôi cuốn, thuyết phục họ đến với ngân hàng.
III. Kiến nghị
1. Chính phủ cần hoàn thiện hành lang pháp lý
Bảo lãnh cũng như các hoạt động khác của ngân hàng cần phải có một hành lang pháp lý chặt chẽ và thuận lợi để phát triển. Hiện nay, các văn bản, qui định của luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng thường xuyên sửa đổi song vẫn bộc lộ những điểm bất hợp lý, đôi khi lại quá chặt chẽ. Khi thực thi theo các văn bản này, các ngân hàng buộc phải vượt rào để giải quyết cho phù hợp với tình hình thực tế hoặc phải thu hẹp hoạt động nếu theo đúng qui định. Cả hai đều bất lợi cho các ngân hàng.
Vì vậy, Nhà nước cần sớm tạo hành lang pháp lý đầy đủ thuận tiện cho hoạt động bảo lãnh phát triển. Cụ thể cần phải ban hành luật bảo lãnh, thế chấp, cầm cố tài sản....
Ban hành luật bảo lãnh sẽ tạo hành lang pháp lý không những cho hoạt động bảo lãnh trong nước mà còn tạo ra căn cứ dẫn chiếu thống nhất cho các ngân hàng khi bảo lãnh cho bên nước ngoài.
Mặt khác, các chế độ thể lệ trong ngành ngân hàng hầu hết là các văn bản dưới luật nên khi thực hiện không được đồng bộ giữa các bộ, các ngành. Bảo lãnh còn liên quan tới việc thực hiện luật pháp trong một số bộ ngành khác. Sự tháo gỡ khó khăn phải được sự giúp đỡ của các ngành này.
2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
+Mở rộng hạn mức bảo lãnh: hiện nay, Ngân hàng Nhà nước qui định giá trị của món bảo lãnh không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Thiết nghĩ, Ngân hàng Nhà nước nên cho phép Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội nâng cao và mở rộng hạn mức bảo lãnh để kịp thời đáp ứng nhu cầu của khách hàng, tận dụng cơ hội kinh doanh.
+Về mức phí bảo lãnh: Ngân hàng Nhà nước qui định, với các món bảo lãnh có phí dưới 300.000 đồng thì Ngân hàng thu phí là 300.000 đồng, như vậy là chưa hợp lý vì:
Có nhiều món bảo lãnh chỉ phát sinh với số tiền nhỏ, trong thời gian rất ngắn như: bảo lãnh dự thầu (3-5 ngày), như vậy mức phí này quá cao.
Với các doanh nghiệp thường xuyên phải xin bảo lãnh các món nhỏ và thời gian ngắn thì với mức phí như vậy, chi phí cho việc bảo lãnh đối với doanh nghiệp là rất cao. Như vậy doanh nghiệp sẽ bằng cách này hay cách khác hạn chế việc sử dụng dịch vụ bảo lãnh của các ngân hàng.
3. Kiến nghị với Ngân hàng ĐT- PT Việt Nam
+ Đối với mức uỷ nhiệm ký bảo lãnh:
Ngân hàng chỉ được ký và duyệt các món bảo lãnh trong hạn mức và thẩm quyền ký Ngân hàng Trung ương đã qui định. Ngoài ra phải trình lên Ngân hàng ĐT- PT Việt Nam xin giải quyết, điều này sẽ hạn chế việc thực hiện bảo lãnh của Ngân hàng đối với khách hàng.
+Ngân hàng ĐT- PT Việt Nam nên có hướng dẫn về xây dựng mức bảo lãnh thường xuyên:
Việc áp dụng mức bảo lãnh thường xuyên cho các doanh nghiệp sẽ rất hiệu quả cho việc phát triển bảo lãnh. Ngân hàng ĐT- PT Việt Nam đã ký hợp đồng với các Công ty lớn sau đó uỷ quyền hạn mức bảo lãnh thường xuyên về cho chi nhánh thực hiện. Trong thời gian tới, Ngân hàng ĐT- PT Việt Nam nên phát triển hình thức này và ban hành hướng dẫn cho phép Chi nhánh xác định hạn mức bảo lãnh thường xuyên với khách hàng mà không phải ký kết qua Ngân hàng ĐT-PT Việt Nam.
+ Ngân hàng nên hỗ trợ các Chi nhánh về mặt kinh phí trong công tác đào tạo nghiệp vụ, kiến thức chuyên môn của cán bộ Ngân hàng nói chung và các cán bộ thực hiện bảo lãnh nói riêng. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn theo từng chuyên đề như: thẩm định tín dụng, bảo lãnh, tài trợ ngoại thương, thanh toán quốc tế.
+ Ngân hàng cần tiếp tục hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng cho các Chi nhánh đồng thời phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước để tổ chức có hiệu quả, nâng cao, chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin, giúp cho các chi nhánh phòng ngừa rủi ro một cách tốt nhất. Trước hết là việc phát triển tin học trong toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển để sớm có chương trình giáo dục trực tiếp tiện ích cho Ngân hàng.
+Ngân hàng nên tiếp tục tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh các hoạt động của các chi nhánh và đội ngũ nhân sự.
kết luận
Toàn bộ bài viết này có thể xem là một bức tranh toàn cảnh về quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ở chi nhánh Ngân hàng ĐT-PT Hà Nội và những kết quả mà Ngân hàng đã đạt được trong 3 năm 2000, 2001, 2002. Nhờ sự ra đời kịp thời và đúng lúc, nghiệp vụ bảo lãnh ở chi nhánh Ngân hàng ĐT-PT Hà Nội đã nhanh chóng được xã hội chấp nhận và liên tục phát triển mạnh qua các năm. Hiện nay, tuy kết quả đạt được chưa cao nhưng nó đã khẳng định được sự cần thiết của nghiệp vụ này đối với hoạt động của ngân hàng và đối với toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra nó còn thể hiện nỗ lực của cán bộ, nhân viên ngân hàng trong giai đoạn đầu áp dụng nghiệp vụ bảo lãnh.
Trong suốt quá trình thực tập tại Ngân hàng ĐT- PT Hà Nội, được sự quan tâm của các cô chú, anh chị làm việc tại phòng tín dụng 3 và giúp đỡ tận tình của Cô Trịnh Thu Hằng - Trưởng phòng Tín dụng 3 và chị Hà - Cán bộ phòng Tín dụng 3. Đặc biệt là được sự chỉ bảo sâu sắc của thầy giáo Thạc sĩ Đặng Anh Tuấn, em đã đi sâu phân tích tình hình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, rút ra những ưu, nhược điểm của ngân hàng trong công tác thực hiện nghiệp vụ này, từ đó làm cơ sở cho việc đưa ra các ý kiến với hy vọng sẽ đóng góp được một phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng.
Do thời gian có hạn và sự hiểu biết của em còn hạn chế nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của Quý thầy cô, các anh chị ở Ngân hàng và tất cả các bạn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2003
Danh mục tài liệu tham khảo
Peter Rose - Quản trị ngân hàng thương mại.
David Cox – Nghiệp vụ ngân hàng thương mại.- Nhà xuất bản quốc gia năm 1997.
Lê Văn Tư - Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại - Nhà xuất bản thống kê 2000.
Học viện Ngân hàng - Marketing trong ngân hàng.
Quy chế bảo lãnh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 25/08/2000.
Văn bản hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng ĐT- PT Việt Nam ngày 04/09/2001.
Qui trình bảo lãnh – ISO của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 2001
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội
Tạp chí Ngân hàng năm 2000, 2001, 2002.
Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ 2000, 2001, 2002.
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I: Ngân hàng thương mại và bảo lãnh của ngân hàng thương mại 3
I. Tổng quan về ngân hàng thương mại 3
1. Khái niệm, chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại 3
1.1. Sự ra đời của ngân hàng thương mại 3
1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại 5
2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại 6
2.1. Hoạt động huy động vốn 6
2.2. Hoạt động sử dụng vốn 8
II. Nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại 9
1. Khái niệm bảo lãnh của ngân hàng thương mại 9
2. Các yếu tố trong bảo lãnh 10
2.1. Các bên trong bảo lãnh 10
III. Đặc điểm, chức năng và vai trò của bảo lãnh ngân hàng 12
1. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng 12
1.1. Bảo lãnh là một quan hệ nhiều bên, phụ thuộc lẫn nhau 12
1.2. Sự độclập của thư bảo lãnh 12
2. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng 13
2.1. Chức năng bảo đảm 13
2.2. Chức năng tài trợ 14
2.3. Chức năng đôn đốc hoàn thành hợp đồng 14
2.4. Chức năng đánh giá năng lực nhà thầu 14
3. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng 15
3.1. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng đối với doanh nghiệp 15
3.2. Vai trò bảo lãnh đối với ngân hàng 15
3.3. Vai trò bảo lãnh đối với nền kinh tế 16
IV. Phân loại bảo lãnh ngân hàng 17
1. Các loại bảo lãnh ngân hàng 17
1.1. Phân theo mục đích của bảo lãnh 17
1.2. Phân loại theo cách mở bảo lãnh 23
1.3. Phânloại theo đối tượng bảo lãnh 27
1.4. Phân loại theo hình thức sử dụng 28
2. Một số mô hình bảo lãnh chủ yếu 28
2.1. Mô hình một ngân hàng bảo lãnh 29
2.2. Mô hình nhiều ngân hàng bảo lãnh 29
3. Các hình thức phát hành bảo lãnh 29
4. Sự cần thiết của nghiệp vụ bảo lãnh 29
Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh ở chi nhánh ngân hàng Đầu tư - Phát triển Hà Nội 31
I. Vài nét về chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội 31
1. Lịch sử ra đời và phát triển của ngân hàng 31
2. Cơ cấu tổ chức 33
3. Tình hình hoạt động kinh doanh 34
3.1. Hoạt động huy động vốn 34
3.2. Hoạt động sử dụng vốn 39
II. Những quy định trong việc thực hiện bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Hà Nội 44
1. Quy định chung 44
1.1. Các bên trong bảo lãnh 44
1.2. Phạm vi bảo lãnh 45
1.3. Điều kiện bảo lãnh 46
1.4. Hồ sơ đề nghị bảo lãnh 48
1.5. Hợp đồng bảo lãnh 48
1.6. Cam kết bảo lãnh 49
1.7. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng và khách hàng tham gia bảo lãnh 50
1.8. Phí bảo lãnh 52
1.9. Thời hạn của bảo lãnh 53
1.10. Thẩm quyền ký bảo lãnh 54
2. Quy trình bảo lãnh tại ngân hàng 54
III. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng Đầu tư - Phát triển Hà Nội 67
1. Thực trạng hoạt động bảo lãnh 67
1.1. Kết quả chung đạt được của nghiệp vụ bảo lãnh qua các năm 68
1.2. Kết quả phí bảo lãnh 70
1.3. Về cơ cấu hoạt động bảo lãnh 71
1.4. Tình hình các hình thức bảo đảm cho bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Hà Nội 77
1.5. Nhận xét chung 78
III. Những hạn chế trong quá trình thực hiện hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư- Phát triển Hà Nội 79
1. Về cơ chế chính sách 79
2. Về một số quy định trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh 80
3. Về công tác tổ chức và trình độ cán bộ 80
4. Về đối tượng khách hàng 81
5. Về công nghệ ngân hàng 81
6. Về quy trình bảo lãnh 82
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Hà Nội 83
I. Phương hướng mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh 83
1. Sự cần thiết phải mở rộng nghiệp vụ bảo lãnh ở Chi nhánh ngân hàng Đầu tư - Phát triển Hà Nội 83
2. Phương hướng mở rộng và nâng cao hiệu hoạt động bảo lãnh 84
II. Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng Đầu tư - Phát triển Hà Nội 85
1. Chính sách khách hàng 85
2. Đa dạng hoá phát triển sản phẩm 88
3. Đa dạng hoá phát triển thị trường 88
4. Chính sách phí 89
5. Điều chỉnh điều kiện đảm bảo 90
6. áp dụng công nghệ thông tin vào bảo lãnh 90
7. Nâng cao trình độ cán bộ và công tác tổ chức cán bộ 91
8. Hoàn thiện và bổ sung quy trình bảo lãnh 92
III. Kiến nghị 95
1. Chính phủ cần hoàn thiện hành lang pháp lý 95
2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước Việt Nam 95
3. Kiến nghị với ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam 96
Kết luận 98
Danh mục tài liệu tham khảo 99
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH345.doc