Chuyên đề Giải pháp phát triển dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế tại Ngân hàng Công thương Việt Nam

Không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của vòng xoáy hội nhập, các ngân hàng của Việt Nam hiện nay đang trong cuộc chạy đua gay gắt. Cạnh tranh giưof đây không chỉ là cạnh tranh về lãi suất vì ngân hàng đang đa dạng hóa các loại hình dịch vụ của mình. Dịch vụ thẻ TDQT cũng đang nằm trong cuộc đua ấy. Thị trường thẻ nói chung, thẻ TDQT nói riêng ở Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng và còn rất nhiều những hạn chế nhất định về đối tượng sử dụng, chính sách pháp luật, cơ sở vật chất Đây là một khó khăn đối với NHCT lúc này. Vì vậy, NHCT cần có những biện pháp thích hợp để vượt qua khó khăn ấy.

doc67 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1675 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp phát triển dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế tại Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thẻ TDQT và có thu nhập ổn định, người ta sẽ ưa thích sử dụng nó. Đặc biệt khi các hoạt động du lịch, giao lưu quốc tế phát triển, thị trường thẻ sẽ có điều kiện phát triển rất tốt. Tuy nhiên không tránh khỏi những tác động tiêu cực từ phía một số chủ thẻ trong xã hội, gây thiệt hại cho ngân hàng phát hành và thanh toán. Đó là những cá nhân, tổ chức làm thẻ giả căn cứ vào các thông tin có được từ việc đánh cắp các dữ liệu trên băng từ của thẻ thật, từ thẻ mất cắp, thất lạc … Đây là loại rủi ro lớn nhất và nguy hiểm nhất hiện nay. Thẻ giả có một số hình thức phổ biến sau: Thẻ bị thay đổi thông tin trên thẻ: tội phạm dùng thẻ thật không còn giá trị lưu hành để thay đổi một số thông tin dập nổi trên thẻ như tên chủ thẻ, mã số thẻ, hạn sử dụng … Thẻ bị mã hóa lại băng từ: tội phạm chỉ mã hóa lại băng từ dựa trên dữ liệu của thẻ thật, nhưng không có các thông tin dập nổi và những đặc điểm bảo mật khác. Loại thẻ này thường được sử dụng tại các đơn vị chấp nhận thẻ thông đồng hoặc các máy bán hàng tự độngkhông được kiểm soát chặt chẽ. Thẻ được làm giả hoàn toàn: Dựa trên các thông tin lấy được từ thẻ thật, tội phạm làm ra một chiếc thẻ giả với đầy đủ các yếu tố cần thiết. Loại thẻ giả này thường rất khó phát hiện. Ngân hàng phải có những nhận thức kịp thời, đúng đắn về những vấn đề này, nhằm hạn chế rủi ro, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận và sử dụng thẻ TDQT, góp phần mở rộng thị trường thẻ TDQT. Khác với môi trường xã hội, môi trường pháp lý là hàng rào nghiêm ngặt để bảo vệ cho chủ thể tham gia vào quy trình phát hành và thanh toán thẻ. Môi trường pháp lý chặt chẽ, đúng đắn sẽ tạo diều kiện cho ngân hàng phát triển dịch vụ của mình. Tuy nhiên, nếu việc quy định về phát hành và thanh toán không được rõ ràng sẽ gây khó dễ cho cả phía cung cấp dịch vụ lẫn những người sử dụng dịch vụ. Lúc đó, pháp luật không những không hoàn thành được nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi bình đẳng cho mỗi chủ thể mà còn gây khó khăn cho công tác triển khai dịch vụ. Do vậy, môi trường pháp lý có vị trí khá quan trọng trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ TDQT. Để phát triển dịch vụ thẻ TDQT đòi hỏi các nhà chức trách hoàn thiện môi trường pháp lý. Thông qua những kiến thức tổng quan về dịch vụ thẻ TDQT ở trên, có thể khẳng định đây là một loại hình dịch vụ hiện đại, mang lại nhiều lợi ích cho các cá nhân cũng như tổ chức trong xã hội. Tuy nhiên lợi ích luôn đi kèm với rủi ro, cũng như thời cơ luôn đi cùng với thách thức. Vì vậy, việc mở rộng dịch vụ thẻ TDQT không những cần được phân tích trên lý thuyết mà còn được nghiên cứu kỹ lưỡng từ tình hình thực tiễn để có thể có những giải pháp hợp lý. Nội dung này sẽ được nghiên cứu trong Chương II của đề tài. Chương II THỰC TRẠNG DỊCH VỤ THẺ TDQT TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 2.1 Tổng quan về Ngân hàng Công thương Việt Nam(NHCTVN) 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển NHCTVN: Thực hiện chính sách đổi mới cơ chế quản lý theo nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, tháng 7/1988 NHCTVN (Vietinbank) được thành lập theo nghị định số 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ). Trong 20 năm xây dựng và trưởng thành, hệ thống NHCT đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức, không ngừng đổi mới phát triển, thu được nhiều kết quả to lớn, đóng góp tích cực cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Là một trong bốn NHTM quốc doanh lớn nhất tại Việt Nam, NHCT có tổng tài sản chiếm hơn 25% tỷ trọng trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Nguồn vốn của NHCT luôn tăng trưởng qua các năm, tăng mạnh kể từ năm 1996, đạt bình quân hơn 20%/năm, đặc biệt có năm tăng 35% so với năm trước. Có mạng lưới kinh doanh trải rộng trên toàn quốc với 2 sở giao dịch, hơn 130 chi nhánh và 750 điểm giao dịch. Có 3 công ty hạch toán kinh tế độc lập: Công ty cho thuê tài chính, Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, Công ty TNHH chứng khoán và 3 đơn vị sự nghiệp: Trung tâm đào tạo, Trung tâm công nghệ thông tin và Trung tâm thẻ. Là thành viên sáng lập của các tổ chức tài chính tín dụng: Sài gòn công thương ngân hàng, Indovinabank, Công ty cho thuê tài chính quốc tế - VILC và Công ty liên doanh bảo hiểm châu Á – NHCT. Là thành viên chính thức của: Hiệp hội Nhân hàng Việt Nam (VNBA), Hiệp hội các Ngân hàng châu Á (AABA), Hiệp hội tài chính viễn thông liên ngân hàng (SWIFT), Tổ chức phát hành và thanh toán thẻ Visa, Master quốc tế. Đã ký 8 hiệp định tín dụng khung với các quốc gia Bỉ, Đức, Hàn Quốc, Thụy Sỹ và có quan hệ chi nhánh với 745 Ngân hàng lớn của hơn 60 quốc gia trên khắp thế giới. Là ngân hàng tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại và thương mại điện tử tại Việt Nam nhằm không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ và cung cấp nhiều tiện ích cho khách hàng: thanh toán chuyển tiền nhanh, tăng vòng quay vốn, nâng cao năng lực cạnh tranh ở trong nước và quốc tế. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của NHCTVN gồm có những bộ phận sau: Hội đồng quản trị: thực hiện chức năng quản lý các hoạt động của toàn bộ ngân hàng. Hội đồng quản trị gồm có 5 thành viên. Trực thuộc hội đồng quản trị là Ban iểm soát. Ban điều hành: Gồm có Tổng giám đốc, các phó Tổng giám đốc và Kế toán trưởng với nhiệm vụ là trực tiếp quản lý các phòng ban, điều hành các hoạt động của ngân hàng dựa trên sự chỉ đạo của hội đồng quản trị. Hội đồng quản lý TSN, TSC (ALCO); Hội đồng Tín dụng, Hội đồng QL CNTT. Các phòng ban và các đơn vị thành viên. Mô hình sơ đồ tổ chức của NHCT Việt Nam: 2.1.3 Tình hình kinh doanh: Cùng với những khởi sác của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua, hoạt động kinh doanh của NHCTVN cũng đã có những bước phát triển khả quan, đã thực hiện và vượt qua các chỉ tiêu về tín dụng, huy động vốn, lợi nhuận, trích lập dự phòng rủi ro. Mục tiêu phát triển của NHCTVN đến năm 2010 là “Xây dựng NHCTVN thành một NHTM chủ lực và hiện đại của nhà nước, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tài chính lành mạnh, có kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa năng, chiếm thị phần lớn ở Việt Nam”. Để có cái nhìn tổng thể về tình hình kinh doanh của NHCT, chúng ta sẽ phân tích một số các chỉ tiêu tài chính chủ yếu mà NHCT đạt được trong một số năm gần đây. Bảng 2.1: Các chỉ số tài chính chủ yếu: Đơn vị: Tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 1. Tổng tài sản 80.887 90.735 116.210 126.352 156.492 2.Cho vay 51.779 64.160 74.426 89.651 106.258 3. Vốn tự có 4.154 4.909 6.013 7.288 9.964 4. Vốn huy động 71.146 81.597 96.284 115.825 132.457 5. Thu nhập ròng 205 207 252 298 336 6. ROA (%) 0,28 0,24 0,32 0,29 0,26 7. ROE (%) 5,6 4,57 4,25 4,08 3,76 8. Hệ số an toàn vốn 6,08 6,3 6,98 7,04 7,13 (Nguồn: Báo cáo thường niên NHCTVN). Trong đó: Thu nhập ròng ROA = ×100% Tổng tài sản bình quân Thu nhập ròng ROE = ×100% Vốn tự có bình quân Vốn tự có Hệ số an toàn vốn = ×100% Tài sản có rủi ro Đánh giá một cách tổng thể ta nhận thấy trong 5 năm qua, các chỉ tiêu tăng trưởng của NHCTVN liên tục tăng, đặc biệt là các chỉ tiêu phản ánh về quy mô và kết quả của các hoạt động chính của Ngân hàng, bao gồm: tổng tài sản và thu nhập ròng. Về tốc độ tăng trưởng vốn huy động: Sau 5 năm, tổng vốn huy động của NHCTVN đã tăng lên gần gấp 2 lần, từ 71.146 tỷ VND năm 2003 lên 132.457 tỷ VND năm 2007. Điều này khẳng định sự lớn mạnh cả về quy mô lẫn uy tín của NHCT trên thị trường vốn huy động. Về tốc độ tăng trưởng tổng tài sản: Đây là chỉ tiêu tổng quát nhất đánh giá cho sự lớn mạnh vượt bậc về quy mô và sự lớn mạnh không ngừng của NHCT trong thời gian qua. Năm 2003, NHCT mới chỉ có trong tay một lượng tài sản là 80.887 tỷ VND, nhưng đến năm 2007 con số này đã tăng lên gấp đôi là 156.492 tỷ VND. Về tốc độ tăng trưởng lợi nhuận ròng: Thông thường, lợi nhuận là yếu tố quan trọng cuối cùng khẳng định quy mô, vị thế cảu một ngân hàng, là chỉ tiêu tổng hợp nhất, phản ánh kết quả kinh doanh của toàn hệ thống. Trong những năm vừa qua, NHCT đã có sự phát triển khá mạnh mẽ, lợi nhuận ròng từ 205 tỷ VND đã tăng đến 336 tỷ sau 5 năm. Đây là sự nỗ lực của cả ban lãnh đạo cùng tập thể cán bộ công nhân viên Ngân hàng cùng với các đối tác và bạn hàng trung thành của NHCT trong suốt chặng đường vừa qua. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, NHCT đã đồng thời đạt được cả hai mục tiêu an toàn và lợi nhuận. Chỉ số an toàn vốn liên tục tăng qua các năm. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong việc thu hút khách hàng, các đối tác làm ăn. Cùng với việc không ngừng hoàn thiện sản phẩm nhằm đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng, tạo uy tín và niềm tin lâu dài, bền vững và ngày càng có nhiều doanh nghiệp, gia đình, cá nhân … tìm đến với NHCTVN. 2.1.4 Quá trình phát triển nghiệp vụ thẻ tại NHCTVN: Sau nhiều nỗ lực nghiên cứu nhằm đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, năm 1009 NHCTVN tham gia vào thị trường thẻ với tư cách là đại lý thanh toán thẻ Visa và Master Card cho Ngân hàng UOB (United Oversea Bank) của Singapore có chi nhánh đặt tại TP HCM. Tại thời điểm này thị trường thẻ Việt Nam bắt đầu sôi động với sự tham gia của một số ngân hàng cổ phần và nước ngoài nên việc mở rộng mạng lưới các đơn vị chấp nhận thẻ trở nên rất khó khăn. Tuy vậy, bằng các chính sách mềm dẻo, NHCTVN đã nỗ lực hết mình để mở rộng mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ của riêng mình, đáp ứng nhu cầucủa khách hàng sử dụng và thanh toán thẻ tại một số tỉnh thành phố lớn như Hà Nội, Tp HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng … Năm 1999, NHCTVN trở thành thành viên chính thức của tổ chưucs thẻ Visa và đồng thời trở thành Ngân hàng thanh toán thẻ TDQT. Thời điểm này đánh dấu chặng đường phát triển mới của dịch vụ thẻ NHCTVN trong quá trình hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với việc triển khai thêm nhiều điểm rút tiền ATM mà đơn vị CNT ở nhiều tỉnh thành trên toàn quốc. Tháng 10/2000, sau nhiều nỗ lực nghiên cứu thị trường, đầu tư công nghệ hiện đại, NHCTVN đã chính thức khai trương hệ thống thẻ ATM hiện đại và có quy mô lớn nhất Việt Nam. Vào cuối năm 2002, NHCTVN đã trở thành thành viên chính thưucs của tổ chức thẻ Master Card. Đây là cơ hội thuận lợi để NHCTVN chính thức phát hành thẻ TDQT Visa, Master Card vào năm 2004 với hai loại thẻ vàng và thẻ chuẩn. Sau 6 tháng triển khai đã có 1000 thẻ được phát hành với doanh số hơn 1 tỷ VND/tháng. Cũng trong năm này thẻ CashCard của NHCT với công nghệ thẻ Chip lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam. Hiện nay, NHCTVN đang tích cực đa dạng hóa các loại thẻ nói chung và thẻ TDQT nói riêng bằng cách xúc tiến với các công ty hàng không, taxi, siêu thị … để đưa sản phẩm vào thị trường. Song song với đó là việc tiếp cận với các tổ chức thẻ quốc tế như Amex, JCB để nhanh chóng phát triển các thương hiệu thẻ nói trên trong thời gian sớm nhất. 2.2 Thực trạng dịch vụ thẻ TDQT tại NHCTVN: Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ TDQT của NHCT phù hợp với các quy định của quy chế phát hành sử dụng và thanh toán thẻ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành theo quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ban hành ngày 19/10/1999, hợp đồng kí kết giữa NHCT với các tổ chức thẻ quốc tế, các quy định và luật lệ hiện hành của tổ chức thẻ quốc tế và luật pháp cảu nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiện nay, NHCT đã phát hành được 2 loại thẻ TDQT là Visa Card và Master Card với thời hạn hiệu lực là 2 năm. Chấp nhận thanh toán cho 2 loại thẻ là Visa và Master Card. 2.2.1 Nghiệp vụ phát hành thẻ TDQT: Hiện nay, NHCTVN đang phát hành 2 loại thẻ: thẻ cá nhân và thẻ cá nhân do công ty ủy quyền sử dụng, với 2 hạng thẻ: Thẻ vàng: Visa và Master Card: 100 triệu VND Thẻ chuẩn (Classic): Visa và Master: 60 triệu VND Thẻ xanh :Visa và Master: 10 triệu VND Hạng của thẻ được phân chia căn cứ vào hạn mức tín dụng ngân hàng cấp cho chủ thẻ. Tương ứng với từng hạn mức tín dụng, ngân hàng quy định hạn mức ứng tiền mặt cho từng loại thẻ. Cụ thể đối với thẻ Visa và Master thì hạn mức ứng tiền mặt là … 2.2.1.1 Quy định về nghiệp vụ phát hành thẻ TDQTcuar NHCTVN: Đối tượng phát hành thẻ TDQT: Các cá nhân được đảm bảo: tức là cá nhân xin được phát hành dưới sự ủy quyền của các tổ chức, công ty sau: Các cơ quan nhà nước, tổ chức, đoàn thể. Các doanh nghiệp Các tổ chức quốc tế, cơ quan ngoại giao và các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam. Các cá nhân khác: là người Việt Nam và người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam có nguyện vọng và đáp ứng các điều kiện sử dụng thẻ do NHCTVN quy định. Thủ tục phát hành thẻ TDQT: Để phát hành thẻ TDQT, mỗi cá nhân phải chuẩn bị hồ sơ như sau: Giấy đề nghị phát hành thẻ TDQT Bản sao CMND hoặc hộ chiếu (Có bản gốc để đối chiếu) Bản sao Hộ khẩu/giấy chứng nhận cư trú (Có bản gốc để đối chiếu) 2 ảnh 3×4 đối với thẻ tín dụng có in ảnh lên thẻ Báo cáo tình hình tài chính, thu nhập cá nhân, tổ chức hay công ty, tùy theo loại hình thẻ cá nhân hay công ty Các giấy tờ liên quan đến hình thức bảo lãnh, thế chấp, cầm cố hay ký quỹ phát hành thẻ. Sau khi nhận được hồ sơ của khách hàng, ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định hồ sơ. Trong vòng 3 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, ngân hàng sẽ đưa ra quyết định chấp nhận hoặc từ chối. Dựa vào hồ sơ khách hàng được chấp nhận, ngân hàng sẽ quyết định hạn mức tín dụng của thẻ, hạng thẻ, loại thẻ, thời hạn hiệu lực. Sau khi ký hợp đồng với khách hàng, hồ sơ khách hàng sẽ được cập nhật vào hệ thống quản lý thẻ tại ngân hàng phát hành. Sau đó, thông tin về khách hàng phát hành thẻ được chuyển đến trung tâm thẻ. Sau khi nhận được thông tin, nhân viên của trung tâm thẻ phải kiểm tra, đối chiếu lại thông tin khách hàng, sau đó chuyển cho bộ phận in thẻ. Tại đây diễn ra các công việc như in nổi, mạ, mã hóa các thông tin cần thiết lên thẻ và băng từ phía sau của thẻ. Hệ thống quản lý thẻ sẽ xác định mã số cá nhân của thẻ (PIN). Một lần nữa, thẻ được kiểm tra, đối chiếu lại thông tin rồi mới được chuyển cho bộ phận khác trước khi giao cho khách hàng. 2.2.1.2 Thực trạng nghiệp vụ phát hành thẻ TDQT tại NHCTVN: Bảng 2.2: Tình hình phát hành thẻ TDQT của NHCT Năm Tổng số thẻ phát hành (thẻ) Tốc độ tăng trưởng (%) Doanh số phát hành (triệu VND) Tốc độ tăng trưởng (%) 2005 2071 152 49.523 95,28 2006 4325 108,8 94.012 89,84 2007 8422 94,73 153.241 63 Nguồn: Trung tâm thẻ NHCTVN Biểu đồ 2.3: Số lượng thẻ TDQT do NHCT phát hành Biểu đồ 2.4: Doanh số phát hành thẻ TDQT Bảng 2.5: Cơ cấu phát hành các loại thẻ TDQT Năm Visa Card Master Card Số lượng (Thẻ) Tỷ trọng (%) Số lượng (Thẻ) Tỷ trọng (%) 2005 1323 63,88 748 36,12 2006 2867 66,29 1458 33,71 2007 5170 61,39 3252 38,61 Nguồn: Trung tâm thẻ NHCTVN Biểu đồ 2.6: Cơ cấu số lượng thẻ TDQT do NHCT phát hành Bảng 2.7: Doanh số phát hành các loại thẻ TDQT của NHCT Năm Visa Card Master Card Doanh số phát hành (triệu VND) Tỷ trọng (%) Doanh số phát hành (triệu VND) Tỷ trọng (%) 2005 32.008 64,63 17.515 35,37 2006 59.328 63,11 34.684 36,89 2007 102.672 67,01 50.569 32,99 Nguồn: Trung tâm thẻ NHCTVN Biểu đồ 2.8: Cơ cấu doanh số phát hành thẻ TDQT Năm 2005, NHCTVN đã phát hành được 2071 thẻ Visa và Master, tăng 152% so với năm trước, nâng tổng số thẻ TDQT do NHCT phát hành lên gần 4000 thẻ, vượt kế hoạch hơn 500 thẻ. Trong đó số lượng thẻ Visa là 1323 thẻ, chiếm tỷ trọng 63,88%, thẻ Master chiếm 36,12% với 748 thẻ. Kết quả này đưa doanh số phát hành thẻ TDQT của ngân hàng trong năm 2005 đạt 49.523 triệu đồng, tăng 95,28% so với năm 2004. Có thể nói đây là một thành công của NHCT vì đây mới chỉ là những năm đầu tiên ngân hàng đưa ra dịch vụ này. Năm 2006, nhờ thực hiện tốt các chính sách marketing, đặc biệt là công tác định hướng sản phẩm, phân đoạn thị trường, xác định thị trường mục tiêu …,NHCT đã nâng số thẻ TDQT phát hành lên con số 4325, tăng 108,8% so với năm 2005, đưa doanh số phát hành đạt 94.012 triệu đồng, tăng 89,84%. Năm 2007 ngân hàng phát hành được 8422 thẻ, tăng 94,73%, doanh số phát hành đạt 153.241 triệu đồng, tăng 63% so với năm 2006. Như vậy trong số đã phát hành thì thẻ Visa chiếm tỷ trọng lớn hơn, cả về số lượng cũng như doanh số. Có thể giải thích điều này bằng việc khi khách hàng thanh toán bằng USD với thẻ Visa sẽ không mất phí make-up như thẻ Master. Tuy là ngân hàng đi sau nhưng qua những con số trên ta thấy dịch vụ thẻ TDQT của NHCTVN phát triển khá đều đặn qua các năm. Đây là tín hiệu đáng mừng cho các ngân hàng thương mại nói chung và NHCTVN nói riêng bởi vì người dân đã dần nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng thẻ TDQT trong thanh toán. 2.2.2 Tình hình thanh toán thẻ TDQT: 2.2.2.1 Quy định về nghiệp vụ thanh toán thẻ TDQT của NHCTVN: Đối tượng và điều kiện điểm ứng tiền mặt: Các chi nhánh, ATM và quầy giao dịch của NHCTVN thưucj hiện giao dịch ứng tiền mặt cho các loại thẻ. Các đại lý của NHCTVN, các điểm thu đổi ngoại tệ được NHCTVN ủy quyền thưucj hiện nhiệm vụ ứng tiền mặt cho các loại thẻ tín dụng. Các đơn vị này phải được phép kinh doanh ngoại tệ, ký hợp đồng với NHCTVN và cam kết tuân thủ các quy định của NHCTVN, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức thẻ quốc tế về dịch vụ ứng tiền mặt. Các đơn vị chấp nhận thẻ có ký hợp đồng dịch vụ ứng tiền mặt với NHCTVn hoặc có văn bản chấp thuận của NHCTVN được thực hiện dịch vụ này. Đối tượng và điều kiện đơn vị chấp nhận thẻ: Các doanh nghiệp nhà nước và các cá nhân kinh doanh hàng hóa, cung ứng các dịch vụ hợp pháp tại Việt Nam. Có địa điểm kinh doanh và đã đăng ký hoạt động kinh doanh phù hợp với luật pháp Việt Nam. Ký hợp đồng chấp nhận thanh toán thẻ với NHCTVN và cam kết tuân thủ mọi luật lệ, quy định cảu NHCTVN, tôe chức thẻ quốc tế về việc thanh toán thẻ TDQT. Không nằm trong danh sách các đơn vị chấp nhận thẻ bị liệt vào loại “có vấn đề” vầ năng lực tài chính, khả năng trả nợ, tín nhiệm trong thanh toán. Có tài khoản riêng tại ngân hàng. Quy trình thanh toán thẻ TDQT tại NHCTVN: Tại đơn vị chấp nhận thẻ: Khi chủ thẻ yêu cầu thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ bằng thẻ TDQT, đơn vị chấp nhận thẻ phải thực hiện lần lượt những bước sau: Kiểm tra thẻ và chủ thẻ: Đây là một bước rất quan trọng trong quy trình thanh toán thẻ nhằm tránh những rủi ro đáng tiếc đem lại từ phía khách hàng. Đơn vị chấp nhận thẻ cần kiểm tra biểu tượng của thẻ theo đúng hướng dẫn của NHCTVN, các yếu tố in trên mặt trước của thẻ như: tên chủ thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực … và một số dấu hiệu đặc trưng của mỗi loại thẻ. Các yếu tố in nổi phải rõ ràng, không có dấu hiệu sửa đổi và phải trùng khớp với dữ liệu trên băng từ khi thẻ cà qua máy EDC. Nếu thẻ có ảnh, nhân viên thanh toán cần đối chiếu ảnh trên thẻ với chủ thẻ. Riêng đối với các đơn vị chấp nhận thẻ thuộc loại hình kinh doanh rủi ro cao thì bắt buộc phải đối chiếu họ tên trên thẻ với họ tên trên CMND hoặc hộ chiếu và giấy tờ tùy thân của chủ thẻ. Thực hiện giao dịch: Sau khi kiểm tra thẻ, nếu không có dấu hiệu nghi vẫn, nhân viên của đơn vị chấp nhận thẻ đưa thẻ qua máy EDC để đọc các dữ liệu. Số thẻ, ngày hiệu lực hiện trên màn hình phải khớp với những chi tiết in nổi trên thẻ. Nhân viên nhập số tiền khách hàng thanh toán vào máy EDC. Sau khi máy trả lời là Approved và cho số cấp phép thì thẻ mới coi như được chấp nhận. Nếu không, đơn vị chấp nhận thẻ phải liên hệ với bộ phận khách hàng của NHCTVN để được hướng dẫn xử lý. Đối với giao dịch thẻ sử dụng mã số cá nhân (PIN), khách hàng phải tự nhập PIN và chỉ cần ký vào liên hóa đơn được lưu lại tại đơn vị chấp nhận thẻ. Sau khi giao dịch được thực hiện, nhân viên in hóa đơn thanh toán thẻ từ máy EDC và yêu cầu khách hàng ký vào ít nhất 2 liên. Nhân viên phải đối chiếu chữ ký trên hóa đơn và trên mặt sau của thẻ xem có trùng khớp hay không, nếu không có dấu hiệu lạ thì nhân viên có thể giao 1 liên hóa đơn cho khách hàng và có thể kết thúc giao dịch với khách hàng tại đây. Đối với giao dịch thường (Không thực hiện qua EDC), sau khi kiểm tra thẻ, đơn vị chấp nhận tehr phải liên hệ với NHCTVN để xin cấp phép giao dịch. Sau khi được phép, nhân viên thanh toán đưa thẻ vào máy cà thẻ để in số liệu trên hóa đơn. Các yếu tố trên hóa đơn phải được kiểm tra và đối chiếu một lần nữa. Sau đó nhân viên thanh toán điền ngày giao dịch, số tiền giao dịch, số cấp phép, tên và số hiệu đơn vị chấp nhận thẻ. Khách hàng được yêu cầu ký vào 2 hóa đơn để nộp lại cho NHCTVN và lưu lại tại đơn vị chấp nhận thẻ. Tại ngân hàng đại lý thanh toán thẻ thuộc NHCTVN: Sau khi nhận được hóa đơn và sao kê do các đơn vị chấp nhận thẻ chuyển lên, đại lý thanh toán kiểm tra tính hợp lệ và sự tương thích giữa các yếu tố trên thẻ với trên hóa đơn và bộ hồ sơ nhờ thu. Hóa đơn thanh toán thẻ được giữ lại tại đại lý làm chứng từ gốc để tra soát và giải quyết tranh chấp nếu có. Ngân hàng thanh toán thẻ tạm ứng khoản tiền ghi trên hóa đơn cho các đơn vị chấp nhận thẻ, đồng thời thu về một khoản phí nhất định tương ứng với khối lượng giao dịch. Sau đó ngân hàng thanh toán lập bảng kê và gửi lên Trung tâm thẻ. Khi Trung tâm thẻ báo Có, ngân hàng sẽ đối chiếu với hồ sơ của mình để tất toán tài khoản tạm ứng. Tại Trung tâm thẻ: Nhận được bảng kê do ngân hàng đại lý gửi lên, Trung tâm thẻ lập hồ sơ quản lý thẻ. Tại đây, tài khoản của ngân hàng thanh toán sẽ được ghi Có và tài khoản của ngân hàng phát hành được ghi Nợ thông qua tổ chức thẻ quốc tế. Hàng tháng vào ngày sao kê Trung tâm thẻ có trách nhiệm gửi bản kê chi tiết các giao dịch phát sinh trong kỳ tới từng chi nhánh. Tại ngân hàng phát hành thẻ: Sau khi nhận được giấy báo Nợ từ Trung tâm thẻ, ngân hàng phát hành tiến hành lập hồ sơ quản lý và hạch toán vào tài khoản thanh toán thẻ. Tiếp đó ngân hàng phải gửi sao kê tới chủ thẻ và yêu cầu chủ thẻ thanh toán khoản nợ trong thời hạn đã thỏa thuận. Đồng thời, ngân hàng phát hành gửi thông tin thu nợ tới Trung tâm thẻ. Chủ thẻ: Sau khi nhận được sao kê và yêu cầu thanh toán của ngân hàng phát hành, chủ thẻ có trách nhiệm phải thanh toán số tiền không dưới mức quy định trong sao kê trong thời gian hạn định. Phương pháp thanh toán có thể là chủ thẻ tự đến ngân hàng nộp tiền mặt hoặc ủy quyền cho ngân hàng trừ trực tiếp vào tài khoản tiền gửi thanh toán của mình. 2.2.2.3 Tình hình thanh toán thẻ TDQT tại NHCTVN: Hiện nay, NHCTVN chấp nhận thanh toán 2 loại thẻ TDQT là Visa và Master Card. Đây là một điểm yếu của NHCTVN với các ngân hàng khác như NH Ngoại thương Việt Nam vì họ có thể thanh toán thêm 3 loại thẻ khác ngoài Visa và Master Card là American Express, JCB và Diners club. Tuy nhiên, NHCTVN cũng đã đạt được những thành công nhất định, điều đó được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.9 Doanh số thanh toán thẻ TDQT của NHCTVN Năm Doanh số thanh toán (Nghìn USD) Tốc độ tăng trưởng (%) 2004 4586 20,68 2005 10366 126,04 2006 12382 19,45 2007 26506 114,07 Nguồn: Trung tâm thẻ NHCTVN Biểu đồ 2.10: Doanh số thanh toán thẻ TDQT Bảng 2.11: Doanh số thanh toán các loại thẻ TDQT Đơn vị: Nghìn USD Năm 2004 2005 2006 2007 Doanh số thẻ Visa 2913 7186 8720 16593 Doanh số thẻ Master 1673 3180 3662 9913 Biểu đồ 2.12 Doanh số thanh toán các loại thẻ TDQT Năm 2004, Tổng doanh số thanh toán thẻ TDQT của NHCTVN đạt 4586 nghìn USD, tăng 20,68% so với năm 2003. Trong đó thẻ Visa chiếm tỷ trọng cao hơn với doanh số là 2913 nghìn USD, còn thẻ Master đạt được doanh số là 1673 nghìn USD. Năm 2005, doanh số thanh toán thẻ TDQT tăng đột biến với tốc độ 126,04% đạt 10366 nghìn USD.Giải thích cho hiện tượng này là chất lượng phục vụ của ngân hàng được cải thiện tốt hơn, số lượng các dự án đầu tư vào trong nước tăng cao, du lịch cũng phát triển mạnh mẽ do đó nước ta đã thu hút được số lượng lớn khách du lịch nước ngoài. Năm 2006, doanh số thanh toán thẻ TDQT tiếp tục tăng 19,45% đạt con số 12382 nghìn USD. Thẻ Visa vẫn chiếm tỷ trọng cao hơn: đạt doanh số 8720 nghìn USD. Năm 2007, với những nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong ngân hàng nói chung, Trung tâm thẻ nói riêng, NHCTVN đã đưa con số thanh toán thẻ TDQT lên con số 26506 nghìn USD, tăng 114,07%. Đây là một kết quả đáng tự hào của toàn thể NHCTVN, nó thể hiện sự tin tưởng của khách hàng cho ngân hàng. Doanh số thanh toán thẻ Visa đạt 16593 nghìn USD, tăng 90,29% còn thẻ Master đạt 9913 nghìn USD và tăng 170,7%. Như vậy, với chất lượng phục vụ ngày càng được cải thiện, NHCTVN đã và đang ngày một thành công trong hoạt động kinh doanh dịch vụ thẻ TDQT. 2.3 Đánh giá về thực trạng dịch vụ thẻ TDQT tại NHCTVN: 2.3.1 Kết quả đạt được: Qua những số liệu ở trên ta thấy được rằng hoạt động kinh doanh thẻ TDQT của NHCTVN đang phát triển mạnh mẽ qua từng năm. Sau hơn 3 năm triển khai dịch vụ, số lượng thẻ phát hành đã tăng hơn gấp 4 lần, doanh số cũng tăng ở mức tương đương. Đây quả là một thành công đáng kể đối với NHCTVN, bởi vì là một ngân hàng đi sau nhưng NHCTVN đã biết cách nắm bắt thị trường, tiếp cận khách hàng và có chiến lược Marketing hợp lý. Chính vì vậy số lượng khách hàng của dịch vụ thẻ TDQT không ngừng gia tăng, chứng tỏ sự tin tưởng của khách hàng vào ngân hàng. Điều này vô cùng quan trọng bởi vì ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, uy tín trong kinh doanh được đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, NHCTVN cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển hoạt động kinh doanh thẻ TDQT, ngân hàng đã cố gắng đầu tư những công nghệ tiên tiến nhất, đáp ứng mọi nhu cầu thanh toán của khách hàng. Thủ tục mở thẻ TDQT của NHCTVN cũng ngày càng đơn giản hơn, độ bảo mật của thẻ ngày càng cao hơn, thời gian thanh toán cũng ngày càng nhanh hơn … 2.3.2 Hạn chế: Trong suốt quá trình triển khai, tuy NHCTVN đã gặp hái được nhiều thành công nhưng dịch vụ vẫn chưa được mở rộng xứng đáng với tiềm năng. Những con số nêu trên vẫn chưa phải là cái đích mà ngân hàng cần đạt tới. Hiện nay, gần 90% các khoản chi tiêu cá nhân vẫn thanh toán bằng tiền mặt. Thẻ TDQT vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống. Trước mắt, ngân hàng còn rất nhiều hạn chế cần phải khắc phục nhằm đưa kết quả lên một mức mong muốn. Không chỉ khuyến khích các thế mạnh, ban lãnh đạo cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên NHCTVN đã mạnh dạn nhìn nhận những hạn chế để đề ra đường lối khắc phục cho tốt hơn. Cụ thể, một số hạn chế trong hoạt động thanh toán thẻ TDQT của NHCT như sau: 2.3.2.1 Đối tượng sử dụng thẻ TDQT còn hạn hẹp: Cho tới hiện nay, chủ yếu những người sử dụng thẻ TDQT là những người có thu nhập cao trong xã hội, những người hay đi công tác ở nước ngoài, một số đối tượng du học, người nước ngoài tới Việt Nam hoặc những cán bộ trong ngành. Việc sử dụng thẻ TDQT trong thanh toán vẫn chưa thực sự phổ biến trong toàn xã hội, khá xa lạ với thói quen tiêu dùng của người Việt Nam. 2.3.2.2 Số lượng các điểm chấp nhận thẻ còn thấp: Tính tới thời điểm hiện tại, NHCT đã có gần 10000 đơn vị chấp nhận thẻ trên cả nước. Chủ yếu các đơn vị này đặt tại các thành phố lớn, những điểm du lịch, nơi có nhiều khách nước ngoài. Trong khi đó với dân số thành thị gần 20 triệu người thì số lượng đơn vị chấp nhận thẻ như vậy là quá ít. Hạn chế này làm cho người dân ít được tiếp cận với phương tiện thanh toán vô cùng tiện lợi và văn minh, dẫn đến việc họ vẫn giữ thói quen tiêu tiền mặt. Hơn nữa, hầu hết các đơn vị chấp nhận thẻ hoạt động trong lĩnh vức kinh doanh nhà hàng, khách sạn, hàng không và một số ở các khu buôn bán, siêu thị có nhiều người nước ngoài qua lại. Điều này đồng nghĩa với việc hạn chế đối tượng sử dụng dịch vụ. 2.3.2.3 Hạn chế về công nghệ: Thanh toán bằng thẻ TDQT là một loại hình dịch vụ hiện đại, tuy không còn mới mẻ nhưng việc áp dụng, đầu tư công nghệ vào là rất lớn. NHCT đã triển khai hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật khá hiện đại, nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất định. Hạn chế lớn nhất là khi khối lượng giao dịch quá lớn, hệ thống máy tính không đáp ứng được nhu cầu, dễ xảy ra sự cố hoặc thất lạc thông tin. Mặt khác thì ngân hàng, chủ thẻ và các đơn vị chấp nhận thẻ luôn bị đe dọa bởi bọn tội phạm sử dụng công nghệ cao. Dù đã có những biện pháp phòng ngừa nhưng ngân hàng vẫn gặp không ít tổn thất. 2.3.2.4 Hạn chế trong Quảng cáo khuyếch trương: Hầu như ngân hàng chưa có chương trình khuyếch trương khuyến mãi quảng cáo thực sự nào dành riêng cho thẻ TDQT mà mới chỉ có các chương trình chung cùng với thẻ ATM, trong đó thẻ ATM là đối tượng chính. Do đó, công tác PR cũng như thương hiệu thẻ TDQT hầu như chưa được xây dựng. Chưa có các chương trình mang tính giáo dục, phổ biến kiến thức về dịch vụ cũng như về tiện ích của dịch vụ thẻ TDQT của NHCTVN trong khi nhu cầu sử dụng thẻ TDQT chủ yếu vẫn đang ở dạng tiềm năng, cần khơi dậy. Các tài liệu hỗ trợ còn đơn giản về nội dung, sơ sài về hình thức. Đây là loại hình thẻ mang tính quốc tế cao nhưng các tài liệu giới thiệu, hỗ trợ mới chỉ có tiếng Việt, chưa có tiếng Anh, gây khó khăn bất tiện khi khách hàng nước ngoài có ý định tham khảo sử dụng dịch vụ của NHCTVN cũng như tạo một hình ảnh chuyên nghiệp về dịch vụ thẻ của NHCT đối với khách hàng. Chưa xây dựng được hệ thống quản lý thông tin thị trường cũng như chưa có cơ chế đánh giá báo cáo, giám sát hiệu quả công tác quảng cáo, khuyếch trương nói riêng và công tác Marketing nói chung. 2.3.2.5 Trình độ chuyên môn còn nhiều hạn chế: Tại trung tâm thẻ: Nhân sự hiện tại của trung tâm thẻ vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong việc triển khai các nghiệp vụ thẻ do các cán bộ này mới được tuyển, đồng thời trung tâm cũng đang thiếu cán bộ cho hoạt động kinh doanh thẻ. Tại chi nhánh: Các cán bộ tại chi nhánh thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng. Nghĩa là một số chi nhánh không bố trí được cán bộ chuyên trách cho hoạt động kinh doanh thẻ, đồng thời các cán bộ kiêm nhiệm hiện tại lại thiếu năng lực và trình độ chuyên môn trong lĩnh vực kinh doanh thẻ, thiếu kiến thức về sản phẩm dịch vụ thẻ TDQT. Ngoài ra, hoạt động đào tạo cho chi nhánh và đại lý chấp nhận thẻ tổ chức hàng năm vẫn chưa đạt được hiệu quả cao. Từ thực trạng dịch vụ thẻ TDQT tại NHCTVN, có thể nói đây là một lĩnh vực đang trên đà phát triển ở nước ta. NHCTVN đã đạt được những kết quả khá khả quan, trước hết nhờ vào sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên trong ngân hàng cũng như những hỗ trợ của các tổ chức thẻ quốc tế, cùng các chủ thể khách. Cụ thể hơn, những kết quả trên xuất phát từ sự đầu tư đúng đắn của ngân hàng cùng với những chính sách Marketing phù hợp. Tuy nhiên, những kết quả mà NHCTVN đạt được chưa thực sự xứng với tầm vóc của ngân hàng cũng như tiềm năng của thị trường Việt Nam. Việc xác định những kết quả và những hạn chế trong công tác triển khai, mở rộng dịch vụ thẻ TDQT có vai trò rất quan trọng cho những định hướng sau này. Với mục tiêu mở rộng hơn nữa dịch vụ thẻ, NHCTVN cần có một số giải pháp phù hợp dựa trên những nghiên cứu thực tiễn đã nêu. Trong Chương III sẽ đề cập tới một số giải pháp đó. Chương III GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TDQT TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 3.1 Thuận lợi và thách thức đối với ngân hàng công thương trong việc phát triển hoạt động kinh doanh thẻ TDQT: 3.1.1 Thuận lợi của NHCT trong việc phát triển hoạt động kinh doanh thẻ TDQT: Tuy là một ngành dịch vụ mới mẻ ở Việt Nam nhưng dịch vụ thẻ, đặc biệt là thẻ TDQT hiện có khá nhiều thuận lợi. Thứ nhất, nền kinh tế nước trong những năm gần đây tăng trưởng với tốc độ khá cao, thu nhập bình quân đầu người ngày càng cao, năm 2007 GDP bình quân đạt 835USD/người/năm. So với các nước phát triển, đây là con số khiêm tốn nhưng với nước ta đây là một con số đáng mừng. Đời sống nhân dân từng bước được nâng cao, nhu cầu chi tiêu ngày càng lớn và không còn bó hẹp trong phạm vi hàng hóa thiết yếu nữa. Vì vậy, nhu cầu thanh toán bằng thẻ đang gia tăng. Thứ hai, ngành công nghệ thông tin và hệ thống cơ sở hạ tầng của nước ta ngày càng phát triển mạnh, tạo nền tảng cho việc phát triển những ngành công nghiệp, dịch vụ hiện đại, trong đó có dịch vụ thẻ. Thứ ba, chúng ta đã gia nhập các tổ chức thương mại quốc tế như AFTA hay WTO, do đó yêu cầu thanh toán bằng thẻ TDQT được đặt ra, không chỉ để phục vụ cho những người nước ngoài ở Việt Nam mà còn phục vụ cho những người Việt Nam học tập và công tác ở nước ngoài và một số bộ phận dân cư có thu nhập cao trong nước. Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước đã và đang tạo nhiều điều kiện cho các Ngân hàng đầu tư phát triển dịch vụ mới thông qua chiến lược đưa công nghệ cao vào ngành ngân hàng. Thẻ TDQT từ đó cũng nhận được những động lực đáng kể. Thứ năm, Việt Nam là một thị trường đang rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, điều này góp phần khuyến khích các tổ chức thẻ quốc tế đầu tư, quảng bá thương hiệu của mình. 3.1.2 Thách thức trong việc phát triển hoạt động kinh doanh thẻ TDQT của NHCTVN Bên cạnh những thuận lợi trên, ngành dịch vụ thẻ, đặc biệt là thẻ TDQT cũng gặp không ít thách thức đòi hỏi các ngân hàng cần phải nỗ lực để vượt qua. Thứ nhất, tình hình kinh tế - chính trị quốc tế đang biến động khó lường, gây ảnh hưởng không nhỏ tới nền tài chính thế giới. Ngành ngân hàng nói chung, dịch vụ thẻ nói riêng cũng không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng này. Thứ hai, môi trường pháp lý trong nước chưa thực sự tạo điều kiện và bảo vệ cho các ngân hàng. Hệ thống văn bản pháp lý còn lỏng lẻo, khái quát, chưa quy định cụ thể cho từng loại nghiệp vụ mà chỉ mới quy định chung cho hoạt động thanh toán thẻ. Thứ ba, Việt Nam đã ra nhập Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á AFTA và Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Các ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều ở nước ta. Với uy tín và bề dày kinh nghiệm, những ngân hàng nước ngoài đang trở thành đối thủ cạnh tranh rất lớn đối với các ngân hàng trong nước. 3.2 Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh thẻ TDQT tại NHCT VN: 3.2.1 Nâng cao chất lượng dịch vụ: Cải tiến công nghệ Là một loại hình dịch vụ hiện đại, công nghệ là một yêu cầu hàng đầu đặt ra đối với dịch vụ thẻ TDQT của NHCT. Vì vậy, để nâng cao chất lượng dịch vụ, một vẫn đề đặt ra là đổi mới, phát triển công nghệ ứng dụng trong dịch vụ thẻ của ngân hàng. Công nghệ trong các ngân hàng thương mại của nước ta tuy đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn còn lạc hậu so với hệ thống ngân hàng của các nước trong khu vực và trên thế giới, chưa thức sự đáp ứng được nhu cầu của người dân, khiến cho khối lượng thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn. Do vậy việc phát triển, cải tiến công nghệ phải được đặt lên hàng đầu. Phát triển sản phẩm mới Cùng với việc nâng cao công nghệ, ngân hàng đồng thời cần nghiên cứu cho ra đời những loại thẻ TDQT mới phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Ngoài việc nâng cao độ an toàn cho thẻ từ, nghiên cứu triển khai thẻ chip, ngân hàng có thể mở rộng thị trường của mình thông qua việc liên kết phát hành thẻ với một số cơ quản, tổ chức như hàng không, bưu điện, bệnh viện … Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Trong mọi ngành nghề, lĩnh vực thì nhân tố con người luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Các ngành dịch vụ nói chung và ngành ngân hàng nói riêng cũng không nằm ngoài phạm vi này. Đặc biệt, việc phát triển dịch vụ thẻ TDQT – một loại hình dịch vụ mới mẻ và hiện đại lại càng cần thiết tới đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo. Nhận thức được điều này, trong thời gian vừa qua NHCT đã có nhiều hoạt động trong chiến lược phát triển con người. Tuy nhiên để phát triển mạnh hơn, NHCT vẫn phải chú trọng các công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên trong ngân hàng nói chung và đội ngũ cán bộ trung tâm thẻ nói riêng, cụ thể như sau: Mở các lớp đào tạo bổ sung và nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, luôn cập nhật mọi thông tin mới nhất về dịch vụ thẻ trên thế giới, đặc biệt là thẻ TDQT, nhằm nâng cao tầm hiểu biết về công nghệ cũng như phương thức tỏ chức quản lý hoạt động thẻ. Ngoài ra, dịch vụ thẻ là một dịch vụ chứa đựng rất nhiều rủi ra nên cần đào tạo kỹ các nghiệp vụ chống rủi ro, không chỉ về lý thuyết mà cần đào tạo cả trong thực tế tại các ngân hàng nước ngoài. Chú trọng việc tìm kiếm những cán bộ có năng lực và sáng tạo trong công việc để làm cán bộ nòng cốt cho trung tâm thẻ. Đồng thời cần xác định rõ thế mạnh của từng cá nhân để sắp xếp cho họ những vị trí hợp lý, giúp họ phát triển được hết thế mạnh của mình. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Marketing, bộ phận phục vụ khách hàng nhằm nâng cao uy tín của dịch vụ thẻ TDQT của NHCT đối với khách hàng. Thường xuyên tổ chức tập huấn về nghiệp vụ thanh toán thẻ cho các đơn vị chấp nhận thẻ để họ luôn được cập nhật mọi thông tin, mọi thay đổi của dịch vụ và những phương thức phòng ngừa rủi ro. Thay đổi hạn mức tín dụng, phí giao dịch, mức ký quỹ phù hợp hơn. Với hạn mức thấp nhất là 10 triệu đồng như hiện nay, chỉ có một bộ phận dân cư có nhu cầu dùng thẻ TDQT. Để thẻ TDQT trở nên phổ biến hơn trong xã hội, NHCT cần quan tâm tới việc hạ thấp hạn mức tín dụng của các loại thẻ, nhằm thu hút tối đa lượng khách hàng tham gia dịch vụ. Theo em, hạn mức tín dụng tối thiểu phù hợp với mức thu nhập của người dân bây giưof là khoảng 4-5 triệu đồng. Cùng với việc hạ thấp hạn mức tín dụng. NHCT cần giảm mức phí giao dịch và mức ký quỹ nhằm khuyến khích khách hàng thanh toán bằng thẻ TDQT ngay cả cho những hoạt động mua sắm hàng hóa thiết yếu. Hạn chế rủi ro Mỗi năm, dịch vụ thẻ, đặc biệt là thẻ TDQT đã mang lại cho NHCT một khoản lợi nhuận đáng kể. Tuy nhiên cũng đã xảy ra những rủi ro đáng tiếc, gây thiệt hại cho ngân hàng, khách hàng và đơn vị chấp nhận thẻ. Dù rủi ro đó có gây thiệt hại cho ai thì cuối cùng ngân hàng cũng chịu thiệt hại về tài chính hoặc uy tín. Điều này cũng đồng nghĩa với việc giảm sút lợi nhuận cho ngân hàng – một điều mà bất cứ một đơn vị kinh doanh nào đều không muốn. Vì vậy, công tác hạn chế rủi ro là vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển ngành dịch vụ hấp dẫn này. 3.2.2 Phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu cho các loại thẻ TDQT: Phân đoạn thị trường là bước rất quan trọng trong hoạt động của tất cả các ngành kinh doanh chứ không chỉ riêng dịch vụ thẻ TDQT. Ngân hàng cần xác định rõ đối tượng phục vụ cảu mình để có những sản phẩm và cách thức phục vụ phù hợp. Ngân hàng không thể chờ đợi khách hàng tới mà phải có biện pháp để thu hút khách hàng mục tiêu của mình. Vấn đề quan trọng đầu tiên là xác định đúng khách hàng mục tiêu, thị trường mục tiêu. Thực tế ở Việt Nam hiện nay, phần đông dân số sống ở nông thôn, thu nhập của họ thấp và không ổn định, mọi chi tiêu gói gọn trongkhoanr tiền tiết kiệm khiêm tốn nên hầu như không có nhu cầu sử dụng thẻ, thẻ TDQT thì càng không. Chính vì vậy, đây không phải là thị trường mục tiêu của NHCT. Phần dân số còn lại sống ở thành thị nhưng không phải ai cũng có thu nhập như nhau. Đứng về góc độ của người làm dịch vụ thẻ, chúng ta có thể chia dân thành thị thành 2 nhóm sau: Nhóm có mức thu nhập bình quân dưới 4 triều đồng/tháng: bao gồm chủ yếu là giáo viên, công nhân viên chức nhà nước, một số người buôn bán nhỏ … Việc chi tiêu cảu họ hầu như nhỏ lẻ, tại các khu chợ, các cửa hàng vừa và nhỏ. Chủ yếu họ mua sắm nhu yếu phẩm hàng ngày, rất ít khi mua những đồ đắt tiền, xa xỉ. Việc ra nước ngoài du lịch, ăn nghỉ khách sạn, nhà hàng sang trọng hoặc mua sắm tại các trung tâm thương mại đắt tiền hầu là rất hạn chế. Vì vậy, đây không phải là khách hàng mục tiêu cho ngân hàng triển khai dịch vụ thẻ TDQT. Nhóm có mức thu nhập bình quân trên 4 triệu đồng/tháng: bao gồm các quan chức chính phủ, những người làm việc tại các cơ quan nước ngoài, các doanh nhân, các nhân viên trong các ngành dầu khí, ngân hàng, hàng không, bưu chính viễn thông … Đối tượng này có khả năng chi trả cho những giao dịch có giá trị lớn, thậm chí thường xuyên phải đi nước ngoài. Đây chính là đối tượng mà NHCT cần chú ý. Ngoài đối tượng dân thành thị có thu nhập khá, NHCT cũng cần chú ý đến đối tượng là người nước ngoài đến Việt Nam dưới các hình thức: công tác, du lịch hoặc Việt kiều về thăm Tổ quốc. Đây là đối tượng khá đông đảo, có nhu cầu dùng thẻ TDQT cao. NHCT cần đẩy mạnh hoạt động thanh toán và phát hành. Sau khi xá định đối tượng phục vụ, NHCT cần tổ chức nghiên cứu thị trường, thăm dò nhu cầu của họ để phát triển những sản phẩm phù hợp và có chính sách quảng cáo, khuếch trương hợp lý. Như vậy, ciệc xác định thị trường mục tiêu là rất quan trọng để ngân hàng có chính sách phù hợp biến những khách hàng tiềm năng trở thành khách hàng thân thiết của ngân hàng. 3.2.3 Tăng cường khuếch trương sản phẩm Trong khi trong khu vực và trên thế giới thị trường thẻ TDQT dadng diễn ra sôi động thì tiếc ở Việt Nam, thị trường này còn quá “trầm”. Một nguyên nhân đó là do các ngân hàng nói chung chưa có chính sách quảng cáo khuếch trương hợp lý. Cho tới nay, chưa có loại thẻ TDQT nào của NHCT được quảng cáo trên truyền hình hay một số phương tiện thông tin đại chúng khác. Do vậy, ngân hàng cần phải có một số biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động khuếch trương như: Cần có những chiến lược quảng cáo riêng với từng nhóm khách hàng nhằm giới thiệu một cách đầy đủ nhất, hiệu quả nhất những tiện ích của chủ thẻ TDQT. Ngân hàng có thể cử cán bộ tới các doanh nghiệp, công sở … để giới thiệu về thẻ TDQT. Đồng thời ngân hàng có thể sử dụng đội ngũ sinh viên làm việc bán thời gian để giới thiệu về thẻ. Một phần không nhỏ những sinh viên sau này ra trường có thu nhập khá, cũng sẽ trở thành khách hàng của ngân hàng. Các kênh thông tin đại chúng cũng là phương tiện quảng cáo hiệu quả. Việc quảng cáo trên truyền hình, đài, báo đều khiến cho thẻ trở nên gần gũi với người dân hơn. Tổ chức các chương trình khuếch trương dịch vụ thẻ TDQT đối với công chúng … 3.2.4 Tăng cường hoạt động chăm sóc khách hàng Thứ nhất, tăng cường các chương trình khuyến mãi như: phát hành thẻ miễn phí, tặng thêm hạn mức sử dụng cho khách hàng hoặc giảm phí giao dịch. Thứ hai, thường xuyên thăm dò ý kiến khách hàng về chất lượng dịch vụ thẻ TDQT do ngân hàng cung ứng thông qua trang web, báo chí, truyền hình hoặc thông qua các hội nghị khách hàng. Thứ ba, tăng cường mở rộng các tiện ích của thẻ nhằm thỏa mãn nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt của khách hàng. Hiện nay, việc dùng thẻ TDQT để thanh toán hóa đơn tiền điện, nước, điện thoại … đã không còn xa lạ. Ngân hàng cần mở rộng thêm các tiện ích khác như thanh toán các phí cầu, phà, mua thẻ điện thoại, thẻ internet, mua vé máy bay, tàu hỏa …Việc mở rộng này đòi hỏi sự hợp tác của NHCT với các đơn vị liên quan. Ngân hàng đóng vai trò trung gian, đem lại sự tiết kiệm về thời gian, cho phí đi lại của khách hàng. Đồng thời, các đơn vị có liên quan sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí trả lương cho nhân viên trực tiếp giao dịch. Việc hợp tác này hoàn toàn là đôi bên cùng có lợi cho nên ngân hàng cần nghiên cứu và đề ra đường lối xúc tiến. Thứ tư, chú trọng việc chăm sóc khách hàng vào các dịp lễ tết, kỷ niệm … Trong các dịp này, nên có quà kỷ niệm, những khuyến mãi nhỏ cho khách hàng để tăng mối quan hệ thân thiết giữa ngân hàng và khách hàng. Thứ năm, ngân hàng cần tăng cường tham gia các hoạt động xã hội như ủng hộ các quỹ từ thiện, tài trợ các hoạt động, xây dựng các chương trình văn hóa xã hội … nhằm khuếch trương thương hiệu của dịch vụ thẻ cũng như thương hiệu của ngân hàng. 3.2.5 Mở rộng mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ TDQT Quy mô của mạng lưới các đơn vị chấp nhận thẻ cũng là một nhân tố quan trọng quyết định doanh số dịch vụ thẻ của ngân hàng. Lý do thật đơn giản như sau: nguồn thu của ngân hàng từ phát hành thẻ chủ yếu là phí thường niên, nhưng nguồn thu này chỉ có hạn chế và cố định. Trong khi đó, nguồn thu từ thanh toán thẻ chứa đựng một tiềm năng rất lớn. Ngân hàng có thể khuyến khích khách hàng chi trả bằng thẻ tín dụng bằng cách mở rộng mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ. Thông thường, những người sử dụng thẻ TDQT là những người có phạm vi chi tiêu rộng, khối lượng chi tiêu lớn. Họ sẵn sàng thanh toán bằng thẻ nếu có máy thanh toán vì họ không thích mang theo tiền mặt. Do vậy, NHCT cần mở rộng quy mô mạng lưới các đơn vị chấp nhận thẻ. Đây cũng là một giải pháp mở rộng môi trường thanh toán bằng thẻ TDQT. Trong thời gian qua, các ngân hàng thương mại nói chung, NHCT nói riêng đã tích cực mở rộng mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ. Tuy nhiên, số lượng vẫn chưa nhiều và tập trung không đồng đều. Chủ yếu các đơn vị chấp nhận thẻ là các nhà hàng, khách sạn, siêu thị lớn, các đại lý vé máy bay, những khu vực có nhiều người nước ngoài cư trú và đi lại … Điều này gây bất tiện cho nhiều chủ thẻ và khiến cho người dân nghĩ rằng thẻ TDQT phục vụ cho người nước ngoài là chính cho nên họ sẽ thờ ơ với loại hình này. Đây là một lý do khiến người dân vẫn muốn sử dụng tiền mặt trong thanh toán hơn. Chính vì lý do đó, muốn khuyến khích người dân sử dụng thẻ nhiều hơn thì phải làm cho họ quen dần với hình thức này thông qua việc mở rộng các đơn vị chấp nhận thanh toán bằng thẻ. 3.3 Một số kiến nghị nhằm phát triển hoạt động kinh doanh thẻ TDQT tại NHCTVN: 3.3.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước: Là cơ quan quản lý nhà nước, Ngân hàng Nhà nước có vai trò chỉ đạo và hoạch định phương hướng cho hoạt động của các ngân hàng thương mại. Trong việc phát triển hoạt động thẻ ta không thể không nhắc đến vai trò quan trọng này. Hiện nay, nước ta mới có rất ít những văn bản pháp quy quy định về phát hành và thanh toán thẻ. Nội dung của các văn bản chưa nêu rõ quy trình cụ thể về nghiệp vụ. Do vậy, khi triển khai dịch vụ, mỗi ngân hàng đều phải tự đưa ra quy chế chứ chưa có sự thống nhất chung giữa các ngân hàng với nhau và với các quy định về quản lý ngoại hối, quản lý tín dụng. Vấn đề đặt ra là cần có một văn bản pháp quy phạm pháp luật quy định cụ thể về nghiệp vụ này. Ngoài ra, chính sách quản lý ngoại hối và quản lý tín dụng cũng cần có một số bổ sung. Cụ thể như sau: Chính sách ngoại hối cần có quy định riêng cho thẻ thanh toán nói chung, thẻ TDQT nói riêng về hạn mức thanh toán, hạn mức tín dụng, nhằm thắt chặt sự quản lý việc sử dụng thẻ của khách hàng, đồng thời hạn chế việc lợi dụng thẻ để chuyển ngoại tệ, ngoài ra vẫn đảm bảo, tạo điều kiện cho sự phát triển của dịch vụ. Chính sách quản lý tín dụng cần phải bổ sung những quy định riêng cho nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ, đặc biệt là thẻ TDQT, nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng tự chịu trách nhiệm thẩm định, hạn chế gây phiền hà cho khách hàng. Mặt khác, không thể quy định điều kiện đảm bảo tín dụng và hạn mức tín dụng của chủ thẻ giống như các khoản cho vay khác mà ngân hàng cần lưu tâm tới khả năng thanh toán của mỗi khách hàng. Cùng với việc hoàn thiện về pháp lý, Ngân hàng Nhà nước cũng cần có những định hướng chiến lược chung về việc phát triển dịch vụ thẻ trong toàn hệ thống, nhằm bảo vệ cho hoạt động của ngân hàng, khách hàng cũng như đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng trên thị trường. Hiện nay, các ngân hàng thương mại triển khai dịch vụ thẻ TDQT còn hoạt động riêng lẻ, chưa có sự đồng bộ, nhất quán. Sự hoạt động độc lập là cần thiết nhưng không nên để vào tình trạng biệt lập. Chúng ta cần có sự thống nhất trong hoạt động để đẩy mạnh sự phát triển của dịch vụ thẻ TDQT trong cả nước, gắn kết các ngân hàng thương mại thành một khối vững chắc, sẵn sàng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Để làm được điều đó, Ngân hàng Nhà nước nên xem xét thành lập một trung tâm thanh toán thẻ quốc gia, hoạt động mang tính hỗ trợ và định hướng cho các ngân hàng thương mại trên cả nước. 3.3.2 Kiến nghị với Chính phủ: Ngoài sự hỗ trợ của Ngân hàng nhà nước, sự hỗ trợ của Chính phủ là vô cùng cần thiết. Nhất là khi môi trường xã hội, pháp lý của nước ta chưa thực sự thuận lợi cho việc phát triển hoạt động thẻ TDQT. 3.3.2.1 Hoàn thiện môi trường pháp lý: Việc hoàn thiện môi trường pháp lý là một nhu cầu bức thiết hiện nay. Cụ thể, Quốc hội và Chính phủ cần sớm ban hành luật thanh toán nhằm hỗ trợ cho các hoạt động thanh toán thẻ. Đồng thời, cần có những quy định cụ thể, rõ ràng về việc giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể khi tham gia các hoạt động phát hành và thanh toán thẻ. Bên cạnh đó, nhà nước cần có những khung hình phạt nghiêm minh cho những đối tượng lưu hành thẻ giả, gian lận trong thanh toán … Ngoài ra cần có những quy định cụ thể hơn cho những thẻ chi tiêu bằng ngoại tệ ở nước ngoài. 3.3.2.2 Nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Dịch vụ thẻ TDQT là một loại hình dịch vụ hiện đại, đòi hỏi các trang thiết bị hiện đại cùng công nghệ tiên tiến. Ngoài việc bản thân các ngân hàng tự trang bị, các tổ chức thẻ quốc tế hỗ trợ, nhà nước cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm khuyến khích các ngân hàng cũng như các chủ thể tham gia vào dịch vụ này. Ngoài ra, nhà nước cần hỗ trợ các ngân hàng mở rộng dịch vụ thẻ TDQT bằng cách giảm thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị bởi vì chúng ta chưa tự sản xuất được các loại máy móc phục vụ cho quá trình thanh toán thẻ. Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động thẻ TDQT tại ngân hàng công thương Việt Nam. Tuy nhiên, để áp dụng có hiệu quả những giải pháp trên cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp và đặc biệt là trong nội bộ ngân hàng. Trong tương lai, nền kinh tế sẽ có nhiều biến chuyển, những giải pháp đề ra ở trên có thể chỉ phù hợp cho một số năm gần đây nhưng những ý kiến đề xuất trên cũng phần nào có tác dụng cho những định hướng sau này. Vấn đề cốt lỗi là làm thế nào ngân hàng phát huy được thế mạnh, hạn chế được điểm yếu của mình, đồng thời tận dụng được thời cơ, vượt qua thử thách. KẾT LUẬN Không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của vòng xoáy hội nhập, các ngân hàng của Việt Nam hiện nay đang trong cuộc chạy đua gay gắt. Cạnh tranh giưof đây không chỉ là cạnh tranh về lãi suất vì ngân hàng đang đa dạng hóa các loại hình dịch vụ của mình. Dịch vụ thẻ TDQT cũng đang nằm trong cuộc đua ấy. Thị trường thẻ nói chung, thẻ TDQT nói riêng ở Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng và còn rất nhiều những hạn chế nhất định về đối tượng sử dụng, chính sách pháp luật, cơ sở vật chất … Đây là một khó khăn đối với NHCT lúc này. Vì vậy, NHCT cần có những biện pháp thích hợp để vượt qua khó khăn ấy. Thông qua những nghiên cứu lý luận và tình hình thực tiễn tại ngân hàng công thương Việt Nam, những nội dung sau đã được thể hiện rõ trong chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về dịch vụ thẻ TDQT trong ngân hàng thương mại. Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ TDQT tại ngân hàng công thương Việt Nam. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển dịch vụ thẻ TDQT tại ngân hàng công thương Việt Nam. Do nhận thức chưa thật sự sâu sắc, trong chuyên đề còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đánh giá của các thầy cô.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33188.doc
Tài liệu liên quan