Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi tổ chức, cá nhân trong nước, đặc biệt là trong lĩnh vực XNK, từ đó tác động mạnh mẽ đến hoạt động TTQT của các NH. Do đó XNK nói chung, tín dụng chứng từ nói riêng rất cần đến những chính sách phù hợp với mục tiêu của từng thời kỳ để hoạt động ngày càng được mở rộng và ngày càng phát triển, đồng thời phòng tránh được rủi ro có thể xảy ra cho các đơn vị kinh doanh XNK và NH.
Thứ nhất: Cần tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thanh tín dụng chứng từ trong hệ thống các NHTM.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro pháp lý trong giao dịch tín dụng chứng từ là sự thiếu vắng các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các bên trong quy trình thanh toán.
Ở Việt Nam hiện nay, ngoài UCP và một số thông lệ quốc tế khác, ta không có một luật hay văn bản dưới luật nào điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại thương với giao dịch tín dụng chứng từ. Nhiều vụ tranh chấp xảy ra không thể giải quyết nếu chỉ căn cứ vào UCP do UCP không phải là luật và không thể thay thế luật pháp quốc gia. Hơn nữa UCP600 vẫn có những tồn tại nhất định do không bao quát tất cả các giao dịch vô cùng phong phú trong thực tiễn. Bởi vậy Chính phủ cần sớm ban hành những văn bản pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa hợp đồng ngoại thương và hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, nêu lên nghĩa vụ, quyền hạn của các bên tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ.
Chính phủ cần ban hành văn bản liên ngành nhằm phối hợp chặt chẽ hoạt động của ngân hàng với hoạt động của các bộ ngành liên quan. Trong nghiệp vụ tín dụng chứng từ, các NH Việt Nam đã phải vận dụng các thông lệ quốc tế cả trong lĩnh vực bảo hiểm, vận tải nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Tuy nhiên, các biện pháp tự bảo vệ này có hiệu quả hay không phụ thuộc vào quy định của luật pháp Việt Nam. Ví dụ như, theo thông lệ quốc tế, khi vận đơn lập theo lệnh của NH, nếu khách hàng không có khả năng thanh toán L/C thì NH có quyền nhận hàng theo vận đơn. Nhưng trên thực tế, ở Việt Nam, việc NH nhận hàng hoá theo vận đơn rất khó khăn vì theo quy định của hải quan, NH không có giấy phép nhập khẩu, không phải người mua nên không được nhận hàng.
Ngoài ra, giao dịch giữa NH và KH trong quan hệ tín dụng chứng từ cũng cần có các quy định cụ thể để tạo sự thống nhất về pháp lý, góp phần giảm thiểu rủi ro trong quan hệ thanh toán giữa KH và NH. Thực tế cho đến nay, hầu hết các KH đến NH yêu cầu mở L/C chỉ thông qua các loại giấy tờ như: Đơn yêu cầu mở L/C, giấy cam kết TT, đơn xin bảo lãnh nhận hàng và ký hậu vận đơn, thông báo L/C, đơn xin chiết khấu chứng từ . Nhà nước cần quy định cụ thể tính chất pháp lý của các chứng từ này và ràng buộc trách nhiệm giữa hai bên, tránh gây khó khăn cho toà án khi xét xử tranh chấp.
Ngoài ra Chính phủ cần ban hành những văn bản quy định trách nhiệm kiểm tra các chứng từ khi DN xin mở L/C. Hiện nay, trong phương thức tín dụng chứng từ các NHTM không được hướng dẫn cụ thể về việc kiểm tra giấy phép NK hợp lệ của KH khi phát hành L/C, dẫn đến việc chấp hành quy định này ở mỗi ngân hàng một khác. KH có thể lợi dụng một giấy phép hay một hạn ngạch NK để mở L/C ở nhiều NH khác nhau, nhằm mục đích thiếu trung thực trong kinh doanh. Hay trong trường hợp KH sử dụng một hợp đồng để mở nhiều L/C thanh toán ra nước ngoài nhằm mục đích rửa tiền hoặc thanh toán tiền hàng nhập lậu thì các cơ quan pháp luật có yêu cầu NH chịu trách nhiệm không là cả một vấn đề.
84 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1725 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp phòng ngừa rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất sắc do ngân hàng Mỹ Wachovia trao tặng ngày 14 tháng 4 năm 2009, Giải thưởng thanh toán do SHBC trao tặng... có được những thành tích đó MB mà cụ thể là Phòng TTQT luôn quan tâm và có các biện pháp dự phòng, khắc phục mọi rủi ro trong thanh toán ở mức cao nhất.
Khó khăn vướng mắc và nguyên nhân
MB luôn không ngừng cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tiện ích và hiệu quả nhất, để đạt điều đó thì tập thể MB luôn ra sức đồng lòng vượt qua mọi thách thức khó khăn như:
MB là ngân hàng đi vào hoạt động hơn 15 năm nên mặt nhân sự còn thiếu cả về số lượng và chất lượng để phục vụ quá trình lớn mạnh và phát triển lâu dài của ngân hàng, điều này đã làm hạn chế đi sự gia tăng thị phần và lợi nhuận của MB chính vì thế hàng năm hàng kỳ và ở các phòng ban trong MB thường xuyên mở các khóa lớp đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ cho cả nhân viên và cán bộ quản lý để không ngừng nâng cao chất lượng các dịch vụ của MB cho khách hàng.
Cũng do sự non trẻ trong quá trình hình thành nên việc sắp xếp mô hình tổ chức còn nhiều hạn chế chưa thực sự theo sát khách hàng và tới tận chi nhánh để nắm bắt những phát sinh và những hạng chế còn tồn tại. Công tác kiểm tra kiểm soát giữa các bộ phận còn chưa chặt chẽ.
Nhìn chung MB cũng giống như các NHTM khác đều tồn tại hệ thống phòng ngừa rủi ro chưa theo kịp được sự biến động của thị trường, đây cũng là một vấn đề mà hệ thống ngân hàng nước ta cần xem xét và cùng nhau đưa ra biện pháp khắc phục.
Qua thực tế thì nguồn ngoại tệ mua vào của MB rất nhỏ so với nguồn ngoại tệ cho vay để thanh toán L/C vì vậy việc thiếu hụt ngoại tệ trong thanh toán cũng là một khó khăn mà MB gặp phải trong thời gian vừa qua vì chúng ta biết nền kinh tế có những biến đổi thường xuyên và khó lường nên tỷ giá liên tục thay đổi việc giữ trữ ngoại tệ bị chi phối dẫn tới việc thiếu ngoại tệ thanh toán và thừa khi muốn kinh doanh nội tệ.
Công nghệ cũng là một chìa khóa để giành thắng lợi tuyệt đối trong kinh doanh đặc biệt lĩnh vực ngân hàng, hàng ngày hàng giờ lượng thông tin cũng như lượng công việc cần phải xử lý tại MB liên tục tăng chính vì vậy nhu cầu về sử dụng công nghệ ngân hàng trong kinh doanh của MB là rất cần thiết song do sự phát triển về công nghệ còn hạn chế cộng thêm nguồn vốn đầu tư chưa nhiều với một ngân hàng mới nên việc thiếu thốn công nghệ là điều không tránh khỏi.
CHƯƠNG 3:
CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI MB
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VIỆC ÁP DỤNG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI MB
3.1.1. Chiến lược hoạt động của MB đến năm 2012
Tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới mở rộng cơ hội phát triển kinh tế của nước ta hiện nay, đồng thời cũng tạo ra những thách thức mới cho các DN Việt Nam nói chung và cho toàn hệ thống ngân hàng nói riêng. Hội nhập và cạnh tranh mãnh liệt giữa các định chế tài chính buộc các NHTM nói chung và MB nói riêng phải luôn luôn thay đổi chiến lược và phát triển các nguồn lực để tăng sức cạnh tranh và phát triển trên thị trường. Bên cạnh đó sức ép của các cơ quan quản lý như Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính và các cổ đông đòi hỏi MB phải phấn đấu không ngừng để phát triển bền vững.
Tầm nhìn của MB là trở thành ngân hàng cổ phần hàng đầu ở Việt Nam trong các mảng thị trường đã lựa chọn tại các khu vực đô thị lớn và tập trung vào: Các khách hàng doanh nghiệp truyền thống, các tập đoàn kinh tế và các doanh nghiệp lớn; tập trung có chọn lọc doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các dịch vụ khách hàng cá nhân, mở rộng họat động kinh doanh trên thị trường vốn, phát triển hoạt động ngân hàng đầu tư, liên kết chặt chẽ Ngân hàng và các thành viên để hướng tới một tập đoàn tài chính mạnh.
Với tốc độ tăng trưởng cao hơn rất nhiều so với trung bình ngành, MB đang bước những bước trên con đường tới mục tiêu là một trong những tập đoàn Tài chính – Ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam.
Bên cạnh yếu tố tăng trưởng, MB đã chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động, đảm bảo an toàn và hiệu quả. MB sẽ tiếp tục tái cơ cấu, hoàn thiện mô hình tổ chức hướng tới khách hàng và quản trị rủi ro. Đồng thời, MB cũng không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng mạng lưới hoạt động, nâng cao năng lực quản trị điều hành, nâng cao năng lực quản trị rủi ro.
Trong năm, MB cũng thực hiện cơ cấu lại cổ đông, chú trọng xây dựng nhóm cổ đông chiến lược đồng thời củng cố tổ chức bộ máy Hội đồng quản trị, Ban điều hành và chuẩn bị các điều kiện để có thể niêm yết cổ phiếu vào cuối năm 2009, đầu 2010. Năm nay MB dự kiến nâng quy mô vốn điều lệ lên 7.300 tỷ đồng.
Về trung và dài hạn, MB thực hiện kế hoạch chiến lược giai đoạn 2009 –2013 với các mục tiêu chủ yếu sau:
Là một tập đoàn tài chính – ngân hàng đầu mạnh có quy mô lớn có tên tuổi.
Có đội ngũ lãnh đạo và nhân viên năng động, có trình độ và đạo đức kinh doanh dưới một hội đồng quản trị và hội đồng thành viên mạnh
Hoạt động trên các thị trường khách hàng mục tiêu khác nhau khách hàng tổ chức lớn, ngân hàng cho các doanh nghiệp ngân hang dành cho cá nhân. Đặc biệt mỗi thị trường đã được xây dựng một chiến lược riêng để thâm nhập và khai thác hiệu quả.
Cung cấp các dịch vụ đa dạng, được đóng gói dưới dạng các giải pháp tài chính tổng thể được cá thể hóa cho mỗi khách hàng, bao gồm: ngân hàng thương mại, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, ngân hàng tư nhân, bảo hiểm, tín dụng tiêu dùng bất động sản, cho thuê tài chính.
MB đang tích cực phát triển mạng lưới với thị trường mục tiêu là các khu vực thành thị trên toàn quốc. Đồng thời MB cũng đẩy mạnh nghiên cứu phát triển các sản phẩm dịch vụ NH mới và hiện đại để đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của KH. Mục tiêu của MB là trở thành một tập đoàn lớn có khả năng cung cấp các sản phẩm trọn gói cho KH. Bên cạnh các Công ty con là Công ty chứng khoán Thăng Long, Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, Công ty Quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Hà Nội , MB đang chuẩn bị thành lập Công ty Cho thuê tài chính. Đồng thời MB còn tham gia góp vốn và là cổ đông sáng lập các công ty MB Land, Công ty Bảo hiểm Quân đội, Đông Dương Thương Tín Ngân hàng… Với hệ thống các công ty thành viên và các công ty góp vốn, liên doanh, MB hoàn toàn có thể cung cấp dịch vụ Ngân hàng - Tài chính - Bảo hiểm toàn diện, đa năng cho các khách hàng, đa dạng hóa hoạt động, phân tán rủi ro, tiến tới một mô hình tập đoàn MB.
Để có thể phát triển trong nền kinh tế cạnh tranh ngày càng gay gắt, MB xác định việc xây dựng mối quan hệ với các đối tác chiến lược là bước đi quan trọng và cần thiết. Bên cạnh việc xây dựng những mối quan hệ hợp tác gắn bó lâu dài và hiệu quả với những đối tác chiến lược như Tổng công ty Bay dịch vụ, Công ty Tân Cảng, Tổng công ty viễn thông Quân đội (Viettel), Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)… MB sẽ không ngừng củng cố mối quan hệ với các tổ chức, định chế khác như các công ty bảo hiểm, các đại lý chấp nhận thẻ…
Bên cạnh đó MB cũng sẽ tiếp tục ký kết và triển khai nhiều thỏa thuận hợp tác với các đối tác để trao đổi các lợi thế, chia sẻ các cơ hội, hợp tác cùng phát triển. Như một kết quả tất yếu, MB cùng với các công ty thành viên, hoặc cả tập đoàn, tùy thuộc theo mô hình tổ chức, sẽ tiến hành các thủ tục cần thiết để niêm yết chứng khoán trên thị trường trong và ngoài nước. Việc niêm yết sẽ được tiến hành vào thời điểm thích hợp khi MB đã hội đủ các điều kiện, đặc biệt sau khi việc lựa chọn đối tác chiến lược đã được hoàn tất.
Đối với hoạt động thanh toán XNK, MB sẽ hoàn thiện các sản phẩm hiện có, phát triển các sản phẩm mới, hợp lý hóa quá trình tác nghiệp, nâng cấp và ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại. MB tiến hành mở rộng danh mục sản phẩm bằng việc hoàn thiện và phát triển các sản phẩm hiện có, đặc biệt là các dịch vụ về thanh toán XNK, hoạt động tín dụng và mua bán ngoại tệ…
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ
Thứ nhất: Đồng nhất áp dụng UCP trong các giao dịch tín dụng chứng từ để phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế.
Thứ hai: Tăng khối lượng thanh toán NK bằng phương thức tín dụng chứng từ đặc biệt chú trọng tăng tỷ trọng L/C XK trong tổng doanh số L/C, tập trung phát triển vào khối DN vừa và nhỏ với những L/C trị giá nhỏ để phân tán rủi ro.
Thứ ba: Phấn đấu tăng tỷ lệ thu dịch vụ phí từ phương thức tín dụng chứng từ trong tổng phí dịch vụ của NH.
Thứ tư: Nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, chất lượng rào chắn rủi ro của nghiệp vụ TTQT nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng.
Thứ năm: Quản lý chặt chẽ việc mở L/C trả chậm và giải quyết dứt điểm các L/C quá hạn chưa xử lý, tránh ảnh hưởng đến uy tín của NHQĐ trên trường quốc tế. Giữ chữ tín trong thanh toán, thực hiện các nghĩa vụ mà NHQĐ đã cam kết với nước ngoài.
Thứ sáu: Nghiên cứu hoàn thiện quy trình nghiệp vụ TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ, đặc biệt phát triển mở rộng các loại hình chiết khấu để đáp ứng nhu cầu của KH.
Thứ bảy: Tiếp tục hoàn thiện và nâng cấp hệ thống phần mềm TTQT để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nghiệp vụ này.
Để để thực hiện mục tiêu của chiến lược phát triển NH trong giai đoạn 2008 - 2012: “Phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả” và đạt được yêu cầu phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu của nghiệp vụ TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ, NHQĐ cần phải có những giải pháp hữu hiệu nhằm hạn chế rủi ro trong phương thức này.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI MB
3.2.1. Chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Trong kinh doanh tiền tệ thì vốn là một yếu tố quan trọng, song yếu tố quyết định là phải biết sử dụng nguồn vốn đó một cách thông minh, sáng tạo nhằm giảm thiểu rủi ro, giành thắng lợi cao nhất trong cạnh tranh. Công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ của MB cần tập trung vào những vấn đề sau:
Đào tạo chung
Thường xuyên xây dựng khối đại đoàn kết toàn ngành từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo đến nhân viên, từ HS chính đến các CN. Đoàn kết để tạo nên sức mạnh tổng hợp, thường xuyên có sự trao đổi để nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn. Những CN hoạt động hiệu quả chưa cao sẽ nhận được sự hỗ trợ của các CN khác.
Có sự động viên và khen thưởng kịp thời đối với những cán bộ có trình độ nghiệp vụ tốt, có nhiều thành tích trong công tác. Đồng thời, cũng cần đưa ra quy định phạt đối với cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm trong công việc.
Xây dựng văn hóa lành mạnh làm việc chuyên nghiệp, nhiệt tình, sáng tạo để mỗi cán bộ nhân viên MB gắn tương lai và sự nghiệp chung của mình vào tương lai và sự nghiệp chung của NH, coi mỗi thành tựu, tồn tại của NH là của chính mình. Từ đó mỗi cán bộ phải cố gắng hết mình nhằm hoàn thiện hơn nữa công việc mà mình phụ trách, luôn suy nghĩ và hành động vì sự phát triển không ngừng của NH.
Đào tạo nghiệp vụ ( phương thức tín dụng chứng từ)
Trong công tác tuyển dụng cán bộ TTQT, nên ưu tiên các ứng viên đã được đào tạo đúng chuyên ngành. Để giảm thiểu rủi ro do thiếu kiến thức và kinh nghiệm, sau khi tuyển dụng, cần có chương trình đào tạo nghiệp vụ chi tiết về cách thức kiểm tra cụ thể từng loại chứng từ theo UCP600, cách thức đánh giá rủi ro theo L/C và các biện pháp phòng chống. Sau khoá đào tạo cần có bài kiểm tra để đánh giá chất lượng và chỉ nhân viên đạt yêu cầu mới được giao việc cụ thể.
Xây dựng một chiến lược đào tạo phù hợp, đào tạo cần tập trung theo các khâu xung yếu và đúng đối tượng, không chỉ tiến hành đào tạo TTV mà cần có kế hoạch đào tạo kết hợp cán bộ các phòng ban liên quan như: Cán bộ Quan hệ khách hàng, quản lý tín dụng, kiểm soát nội bộ,… nhằm trang bị những kiến thức cơ bản về tín dụng chứng từ, UCP600… NHQĐ cần xây dựng chiến lược đào tạo từ HS đến CN để đạt đuợc chất lượng nhân viên đồng đều và vận hành tốt cơ chế hoạt động một cửa.
Nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ của TTV. Trong giai đoạn này, cần tập trung đào tạo về những thay đổi của UCP600 so với UCP500 để có cách thức vận dụng UCP600 hiệu quả. Không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, tính trung thực và tinh thần trách nhiệm của cán bộ nhân viên nhằm phòng ngừa rủi ro đạo đức.
Bên cạnh việc đào tạo cho cán bộ của mình, MB nên quan tâm đến việc đào tạo nghiệp vụ TTQT cho các doanh nghiệp là khách hàng của MB. Trên thực tế sự thiếu hiểu biết về nghiệp vụ TTQT của các doanh nghiệp không những gây ra khó khăn cho DN khi làm hợp đồng ngoại thương và L/C mà còn gây rủi ro đối với DN, với NH. Việc tư vấn hướng dẫn cho từng DN sẽ mất nhiều thời gian hơn rất nhiều so với buổi đào tạo tập trung. Hơn nữa, tổ chức những buổi đào tạo, hội thảo thể hiện tính chuyên nghiệp, tính tận tâm với khách hàng của MB.
3.2.2 Nâng cao chất lượng các hoạt động nghiệp vụ
Thứ nhất: Thay đổi mô hình tổ chức hoạt động nghiệp vụ TTQT sang mô hình Trung Tâm TTQT tại hội sở, xử lý toàn bộ hoạt động TTQT của toàn hệ thống.
Hiện nay, hoạt động TTQT của NH Quân đội được xử lý tại 4 Phòng TTQT: Phòng TTQT – HS Phụ trách hoạt động TTQT của các CN cấp 1 và cấp 2 trực thuộc chưa có phòng TTQT chuyên biệt, Phòng TTQT – CN Điện Biên Phủ phụ trách các CN trên địa bàn Hà Nội, Phòng TTQT – CN Hồ Chí Minh phụ trách các CN khu vực miền Nam và Phòng TTQT – CN Đà Nẵng phụ trách các CN khu vực miền Trung.
Thứ hai: Thay đổi mô hình quản lý hoạt động TTQT theo khách hàng và chi nhánh thành mô hình tổ chức quản lý theo nghiệp vụ XK và NK. Mô hình hiện tại có ưu điểm là các TTV sẽ hiểu rõ được KH, nắm được nhu cầu cũng như thói quen, tập quán kinh doanh trong hoạt động thương mại của KH, tuy nhiên có một số hạn chế, trong đó hạn chế lớn nhất là tính chuyên nghiệp hóa không cao.
Thứ ba: Tăng cường hơn nữa công tác kiểm soát chéo, tái thẩm định giao dịch:
Phòng TTQT trên mô hình trung tâm xử lý tập trung thực chất là bộ phận hỗ trợ của Khối quan hệ khách hàng. Khối quan hệ khách hàng có nhiệm vụ đi tìm kiếm KH, bán sản phẩm và thẩm định tình hình tài chính của KH, sau đó chuyển hồ sơ liên quan đến TTQT cho Trung tâm xử lý TTQT. Chính vì vậy TTQT phải có nhiệm vụ kiểm tra chéo, thẩm định lại hồ sơ, chứng từ của KH, giảm thiểu tối đa mọi rủi ro có thể xảy ra.
Hơn nữa cán bộ tín dụng là người trực tiếp quan hệ khách hàng nên việc truyền đạt thông tin tới TTQT cần đảm bảo tính đầy đủ, chính xác và thông suốt. Cán bộ tín dụng còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong tư vấn KH về những thay đổi của UCP600 và đánh giá chất lượng KH để kiểm soát rủi ro liên quan đến KH. Đây cũng là một nguồn cung cấp thông tin phản hồi từ phía khách hàng để NHQĐ hoàn thiện các sản phẩm TTQT phù hợp với UCP600 và các tập quán thương mại. Chính vì thế vai trò trung gian của cán bộ tín dụng cần phải được nâng cao và có các quy trình quy chế cụ thể liên quan.
Thưỡng xuyên tăng cường công tác kiểm soát của Phòng kiểm soát nội bộ và Phòng Quản lý tín dụng trong nghiệp tín dụng chứng từ. Hai bộ phận này cần có kế hoạch kiểm tra việc tuân thủ quy trình, quy chế của các phòng ban, CN theo định kỳ và tiến hành kiểm tra đột xuất khi cần thiết.
Tăng cường công tác kiểm soát chéo giao dịch ngay tại Phòng TTQT. Mọi giao dịch từ kiểm tra hồ sơ, kiểm tra chứng từ, lập điện, lập thông báo lỗi chứng từ… đều phải qua 3 khâu: TTV– Kiểm soát viên – Lãnh đạo phòng để phòng ngừa tối đa rủi ro.
Thứ tư: Hoàn thiện quy trình, quy chế TTQT phù hợp với UCP600
NHQĐ cần nhanh chóng hoàn thiện quy trình TTQT mới áp dụng cho mô hình trung tâm xử lý TTQT. Quy trình cần cụ thể, chi tiết về trách nhiệm, các bước tác nghiệp giữa các phòng ban Phòng TTQT, Phòng Các định chế tài chính, Quan hệ khách hàng, Quản lý tín dụng… trong quy trình tín dụng chứng từ cũng như phải chi tiết về nhiệm vụ của mỗi TTV trong từng bước thực hiện phương thức tín dụng chứng từ.
Tư vấn và khuyến khích các DN áp dụng UCP600 thay vì UCP500 cho phù hợp với tập quán quốc tế.
Tránh sự nhầm lẫn trong việc xử lý các giao dịch theo thói quen vì áp dụng theo UCP500 và các giao dịch áp dụng UCP600.
Ví dụ như: Các L/C áp dụng UCP600 thì NHPH chỉ có 5 ngày làm việc NH để xử lý chứng từ thay vì 7 ngày làm việc NH theo UCP500. Trường hợp tồn tại các L/C sử dụng 2 phiên bản của UCP như vậy sẽ rất dễ gây rủi ro tác nghiệp, nhầm lẫn nên khâu kiểm soát lại của Kiểm soát viên và Lãnh đạo phòng là rất quan trọng.
Tuân thủ đúng quy định của UCP600 mà NH đã dẫn chiếu và tiến hành hoàn thiện mẫu biểu để phù hợp với UCP600 đơn xin mở L/C, các bức điện.
Chú trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá khách hàng. Với vai trò là NHPH L/C, NHCK, MB cần phải coi đây là một biện pháp quan trọng mang lại hiệu quả cao nhất trong công tác phòng ngừa rủi ro theo phương thức tín dụng chứng từ. Trong công tác thẩm định, NHQĐ không chỉ tiến hành phân tích một cách kỹ lưỡng năng lực tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh của KH cũng như phương án kinh doanh, tính khả thi của lô hàng NK như giá cả… mà còn phải đặc biệt quan tâm tới tư cách, uy tín, khả năng quản lý của KH mở L/C cũng như đối tác nước ngoài của KH.
Định mức ký quỹ hợp lý dựa trên những tính toán hợp lý và thực hiện nghiêm túc các biện pháp bảo đảm tiền vay, quản lý tài sản thế chấp, quản lý tiền bán hàng nhằm phòng ngừa rủi ro tỷ giá, rủi ro tín dụng của KH. Định mức ký quỹ cần dựa vào những yếu tố sau:
Tình hình tài chính, uy tín và khả năng TT của nhà NK
Tỷ lệ trượt giá của đồng tiền
Khả năng tiêu thụ của hàng hóa
Hiệu quả kinh tế của lô hàng NK
Quy định KH phải mua bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm loại cao nhất điều kiện A cho người thụ hưởng là NHQĐ trong trường hợp mở L/C cho các hợp đồng theo điều kiện cơ sở giao hàng mà nhà XK không có nghĩa vụ cung cấp bảo hiểm hàng hóa theo giá: FCA, FOB, CFR…
Quy định chỉ phát hành bảo lãnh nhận hàng cho các KH loại A để phòng ngừa rủi ro lừa đảo.
Ví dụ như: NHQĐ sẽ ký phát hành bảo lãnh khi KH nộp đủ 100% trị giá hóa đơn do KH xuất trình. Điều này rất dễ bị KH lợi dụng thông đồng với người XK để đòi tiền cao hơn số tiền đã nộp cho NH.
3.2.3. Hoàn thiện công tác xây dựng hệ thống quản trị rủi ro
Thường xuyên củng cố và hoàn thiện các chiến lược phong chống rủi ro
Chiến lược rủi ro:
Một chiến lược rõ ràng sẽ tạo cơ sở cho quản lý rủi ro. Chiến lược của NHQĐ là trở thành một trong những ngân hàng TMCP hàng đầu của Việt Nam cần tập trung vào các DN truyền thống và các DN vừa và nhỏ. NHQĐ phải thông báo các kế hoạch kinh doanh, phân tích môi trường kinh doanh và những rủi ro của ngân hàng đến từng nhân viên để nhân viên có định hướng cho hoạt động của mình.
Thực thi và quản lý rủi ro:
Cần phân quyền cho lãnh đạo các cấp về phê duyệt hạn mức, phê duyệt các giao dịch. Việc phân quyền sẽ tạo điều kiện cho người quản lý có thời gian để xem xét kỹ các giao dịch trong phạm vi được phân quyền.
Cần xây dựng hệ thống chế độ báo cáo rủi ro theo từng bậc trong cơ cấu tổ chức , mức độ chi tiết và tính thường xuyên của báo cáo.
Hạ tầng quản lý rủi ro: Thành lập khối quản trị rủi ro. Khối này có nhiệm vụ:
Xây dựng hệ thống phân loại cho điểm theo độ rủi ro
Đối với hàng hóa: Các loại hàng hóa khác nhau có mức độ rủi ro khác nhau do đặc tính của từng loại hàng.
Đối với NHPH : Xây dựng hệ thống các ngân hàng, phân loại theo độ rủi ro :
Các ngân hàng thuộc các nước thứ 3, các khu vực có khủng hoảng tài chính thì hệ số rủi ro cao.
Các ngân hàng nằm trong danh sách 100 ngân hàng hàng đầu thế giới của tạp chí ADAMAS thì hệ số rủi ro gần như bằng không.
Xây dựng qui định về các biện pháp rào chắn rủi ro
Quy định về bảo hiểm: Cần qui định bắt buộc phải mua bảo hiểm trước khi mở L/C với những hàng hóa có điều kiện cơ sở giao hàng mà bảo hiểm không bao gồm trong trị giá hàng hóa.
Quy định về trách nhiệm trong quá trình tác nghiệp :
Đối với những cá nhân mang lại hiệu quả : Được phần trăm nhất định trong tổng thu nhập mà các cá nhân đó mang lại.
Đối với những thiệt hại : Qui định tỷ lệ bồi thường thiệt hại đối với TTV, kiểm soát viên và lãnh đạo.
Có vậy tinh thần trách nhiệm của các cá nhân trong quá trình thực hiện nghiệp vụ TTQT mới đạt hiệu quả.
- Đưa ra các yêu cầu đối với Trung tâm công nghệ thông tin của MB
Để xây dựng các phần mền hỗ trợ việc quản lý rủi như phần mền chấm điểm tín dụng, thiết kế được các báo cáo rủi ro, bảng tính điểm, phân loại khách hàng…
3.2.4 Giải pháp về nguồn ngoại tệ
Thực tế những năm qua cho thấy, tại thời điểm căng thẳng về nguồn ngoại tệ do tỷ giá tăng đột ngột, MB cũng giống như một số ngân hàng TM khác đã không mua được ngoại tệ cho khách hàng để thanh toán L/C. Nhiều trường hợp MB phải tạm ứng bán sau đó mua lại khi giá đã tăng và chịu rủi ro hối đoái. Vì vậy để chủ động nguồn ngại tệ thanh toán, giảm rủi ro tỷ giá, NHQĐ cần phải nhanh chóng thu hút các khách hàng có nguồn thu ngoại tệ lớn từ XK, đồng thời tăng cường thu hút nguồn kiều hối, thu đổi ngoại tệ, thanh toán séc du lịch…
Qua đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHQĐ thì nguồn ngoại tệ mua được từ khách hàng chiếm tỷ lệ rất nhỏ do đó nguồn ngoại tệ không đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ thanh toán L/C và nhu cầu trả nợ vay. Vì vậy giải pháp thu hút khách hàng XK là một giải pháp mang tính chiến lược. Để thực hiện giải pháp này, NHQĐ cần có những chính sách ưu đãi đối với hàng XK như ưu đãi về lãi suất, cho vay ngoại tệ thu mua hàng XK, áp dụng biểu phí ưu đãi, có thể miễn phí thông báo của NHQĐ nếu L/C đã được thông báo qua một ngân hàng Việt Nam, cung cấp dịch vụ tư vấn miễn phí, lập chứng từ hộ khách hàng… Kết hợp với khách hàng từ khâu ký kết hợp đồng cho đến khi hàng hóa được XK để đảm bảo bộ chứng từ hoàn hảo có thể nhanh chóng đòi tiền nước ngoài, tăng uy tín của NHQĐ. Cần có bộ phận chuyên đi tiếp thị, để mở rộng thị trường, tìm kiếm các khách hàng XK.
Phát triển các nghiệp vụ phái sinh như giao dịch ngoại tệ có kỳ hạn, quyền chọn.
Hiện nay các nghiệp vụ phái sinh còn tương đối mới mẻ với các DN Việt Nam. Do vậy để phát triển nghiệp vụ này, NHQĐ phải tăng cường công tác tuyên truyền, tư vấn về nghiệp vụ, phải đưa ra được các dự báo chính xác về sự biến động và xu hướng biến động của các loại ngoại tệ. Thường xuyên cung cấp thông tin này cho bộ phận tiếp thị và bộ phận giao dịch khách hàng để các bộ phận này cung cấp cho khách hàng các phương tiện rào chắn rủi ro.
Trong thời điểm này chênh lệch về tỷ giá giữa VND và USD, EUR là khá lớn do vậy giao dịch có kỳ hạn giữa VND và các loại ngoại tệ này rất khó được khách hàng chấp nhận. Tuy nhiên, đối với những khách hàng vay USD, thanh toán L/C bằng EUR thì khả năng thực hiện nghiệp vụ phái sinh là rất lớn. NHQĐ cần phát triển nghiệp vụ phái sinh giữa các đồng tiền. Bên cạnh đó cần làm tốt công tác dự báo về sự biến động của các loại ngoại tệ. Có như vậy mới hạn chế rủi ro ngoại hối cho khách hàng và ngân hàng.
3.2.5. Hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng
Trong thời kỳ thông tin cập nhật ngày nay, hiện đại hoá công nghệ thông tin của hệ thống NHQĐ có một ý nghĩa rất quan trọng, giúp NH có thể cạnh tranh được với các NH khác và hạn chế được rủi ro trong TTQT. Nếu NHQĐ không quan tâm đúng mực đến vấn đề đổi mới công nghệ thì sẽ dễ dàng bị đào thải hoặc bị nhấn chìm bởi những các Ngân Hàng có thế mạnh về công nghệ.
Phát huy hơn nữa thế mạnh của phần mềm mới T24, tìm tòi, đào tạo để mọi cán bộ nhân viên trong NH đều có thể làm chủ công nghệ này, phục vụ hiệu quả cho công việc, giao dịch thường ngày.
Cần thực hiện phần mềm lưu trữ, tra cứu thông tin nội bộ về KH, NH… Phần mềm này sẽ giúp TTV nhanh chóng nắm bắt tình hình tài chính của DN, uy tín của NHPH, phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn và hạn chế được rủi ro do thiếu thông tin.
Hoàn thiện chương trình mạng nội bộ đáp ứng việc truyền điện thông suốt từ CN đến HS và ngược lại. Bổ sung chức năng phát hiện lỗi tự động cho phần mềm soạn thảo điện MT707, MT202…
Trang bị thêm máy tính và các thiết bị khác cho Phòng TTQT, thuê đường truyền riêng cho việc truyền tin TTQT. Có như vậy mới đẩy nhanh giao dịch, tăng tính bảo mật, loại trừ rủi ro, sai sót của đường truyền mà NHQĐ phải gánh chịu. Bổ sung máy chủ dự phòng tránh tình ách tăc rất dễ dẫn đến rủi ro mất dữ liệu hay không phát được điện đi nước ngoài do máy chủ hỏng.
Hiện nay, NHQĐ đã nối mạng với phần mềm của Trung tâm phòng ngừa rủi ro CIC, tuy nhiên Phòng TTQT vẫn chưa được truy cập vào mạng này. NHQĐ cần cho phép Phòng TTQT truy cập để lấy thông tin từ phần mềm này phục vụ cho công tác thẩm định.
Cần liên tục cập nhật Website NH để tạo ra một kênh phân phối mới, tiếp cận KH trong và ngoài nước, cung cấp dịch vụ hỗ trợ KH, từng bước giúp họ làm quen với dịch vụ NH trực tuyến. Về lâu dài Website sẽ là công cụ đắc lực thực hiện hoạt động thanh toán phục vụ cho hoạt động thương mại điện tử.
3.2.6. Tăng cường công tác thu thập, lưu trữ thông tin
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh. MB cần xây dựng các quy định về lưu trữ thông tin, thành lập bộ phận quản lý rủi ro thanh toán chuyên trách lưu giữ, khai thác, cung cấp, cập nhật thông tin về những vụ lừa đảo, tranh chấp xảy ra ở Việt Nam cũng như trên thế giới liên quan đến lĩnh vực TTQT. Việc này trước hết là phục vụ cho hoạt động nội bộ NH, sau đó là các DN kinh doanh XNK. Khi cung cấp dịch vụ này cho các DN, NHQĐ đã giúp DN trong việc lựa chọn bạn hàng, tránh được những rủi ro do bạn hàng làm ăn không uy tín, là những công ty ma hay những đối tượng lừa đảo…
Để có được lượng thông tin đầy đủ, chuẩn xác, bộ phận này cần có sự phối hợp chặt chẽ với mạng lưới các ngân hàng nước ngoài, các NHTM Việt Nam, Bộ Thương mại và các DN kinh doanh XNK… Bằng con đường xin hoặc mua thông tin trực tiếp, hoặc thông qua trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Nhà nước.
Khi có thông tin phong phú, chính xác, bộ phận này có thể thực hiện nghiệp vụ hướng dẫn, tư vấn trong lĩnh vực thanh toán. Việc cung cấp thông tin, tư vấn trong nội bộ cũng như cho DN, cho các ngân hàng với nhau, ngoài việc giúp hạn chế rủi ro trong thanh toán mà còn đem lại cho NHQĐ một nguồn thu dịch vụ mới, góp phần đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, thu hút khách hàng cũng như khẳng định thêm vị thế của mình trên thương trường.
3.3. KIẾN NGHỊ
3.3.1. Kiến nghị đối với các DN XNK
Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế một phần do nguyên nhân chủ quan từ phía các DN XNK của Việt Nam. Chính sự yếu kém về nghiệp vụ, đạo đức trong kinh doanh hay những nguyên nhân khách quan như thiếu thông tin về đối tác nước ngoài, thị trường nước ngoài… mà các DN phải chịu rủi ro trong hoạt động thanh toán hoặc trực tiếp gây nên rủi ro cho chính các NH. Bởi vậy để góp phần giảm thiểu rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế thì nhất thiết phải đề ra các biện pháp đối với các DN XNK của Việt Nam.
Thứ nhất: Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác XNK. Các DN khi tham gia XNK phải có cán bộ chuyên trách về XNK. Các cán bộ này phải qua đào tạo nghiệp vụ, am hiểu luật pháp trong thương mại quốc tế, có năng lực trong công tác và phẩm chất đạo đức trung thực trong kinh doanh. Đặc biệt khi hoạt động kinh doanh của các DN không còn bó hẹp tại một số thị trường truyền thống mà đang mở rộng tới nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật, liên minh Châu Âu… Đây là các quốc gia có hệ thống luật pháp trong kinh doanh phức tạp, tinh vi nên trình độ am hiểu về thông lệ, pháp luật quốc tế là yêu cầu tất yếu đối với các cán bộ XNK.
Khi soạn thảo hợp đồng cần phải tìm hiểu kỹ càng về thủ tục, cân nhắc các điều khoản trước khi ký kết. Hợp đồng phải sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, chính xác. Các DN phải đọc kỹ hợp đồng để phát hiện những điểm bất lợi. Khâu soạn thảo hợp đồng đóng vai trò hết sức quan trọng cho quá trình thực hiện sau này.
Hợp đồng càng chặt chẽ thì việc thanh toán theo L/C càng thuận lợi. Nếu có tranh chấp giữa các bên tham gia thì hợp đồng là cơ sở để giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, hợp đồng càng chặt chẽ thì càng tạo điều kiện cho DN khả năng chiến thắng trong các vụ tranh chấp.
Đối với các DN tham gia XK, khi lập bộ chứng từ thanh toán cần phải chú ý đến đặc điểm của từng loại chứng từ, nhất là những chi tiết dễ bị sai sót và xuất trình bộ chứng từ theo đúng thoả thuận. Đối với DN NK, cần yêu cầu về nội dung và hình thức chứng từ phải rất chặt chẽ, không yêu cầu chung chung. Chứng từ phải do những cơ quan đáng tin cậy cấp, vận đơn do hãng tàu đích danh cấp. Khi xếp hàng hoá phải có sự giám sát của đại diện phía nhà NK để kịp thời đối chiếu sự thật giả của vận đơn và lịch trình tàu. Giấy chứng nhận chất lượng phải do cơ quan có uy tín ở nước XK hoặc quốc tế cấp hoặc có sự giám sát kiểm tra và ký xác nhận vào giấy chứng nhận của đại diện phía nhà NK…
DN cần phải hiểu bản chất của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là ngân hàng chỉ căn cứ trên chứng từ để quyết định có thanh toán hay không. Hợp đồng là căn cứ để mở L/C nhưng sau khi mở, L/C lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Khách hàng không thể trông đợi vào L/C và ngân hàng để bảo vệ quyền lợi của mình, mà cần cung cấp cho ngân hàng những thông tin về rủi ro có thể xảy ra và phối hợp chặt chẽ với ngân hàng để phòng ngừa, giải quyết những rủi ro đó đúng theo UCP600 và thông lệ quốc tế, chứ không nên tự ý hành động theo ý kiến chủ quan của mình.
Các DN cần chú ý tuyển dụng và đào tạo cán bộ nghiệp vụ kinh doanh XNK vững vàng, nắm vững quy chế, pháp luật và thông lệ kinh tế, có khả năng nắm bắt thị trường nhanh nhạy để tận dụng các cơ hội trong kinh doanh. Cán bộ nghiệp vụ XNK tại các DN phải thường xuyên học hỏi, trao đổi thông tin thanh toán để nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cũng như trình độ ngoại ngữ để có thể giải quyết các vấn đề một cách hợp lý, hợp pháp, không bị đối tác nước ngoài lừa đảo.
Thứ hai: Tìm hiểu kỹ và lựa chọn đúng đối tác nước ngoài
Nếu DN Việt Nam chỉ thận trọng khi ký kết hợp đồng mà không tìm hiểu kỹ đối tác nước ngoài thì dù hợp đồng có chặt chẽ đến đâu vẫn có thể gặp rủi ro nếu phía nước ngoài cố tình lừa đảo. Đa số các vụ tranh chấp xảy ra là do DN chưa chọn đúng đối tác trong kinh doanh, việc tìm hiểu thực lực và uy tín của công ty nước ngoài là hết sức cần thiết. đã có nhiều trường hợp, do chỉ tin vào lời giới thiệu hay quảng cáo, các DN đã bắt tay vào làm ăn, đến khi bị lừa, phát hiện ra đó là công ty ma thì đã muộn. Để tránh rủi ro, các DN nên mua hàng của những nhà cung cấp lớn, có tên tuổi. Trong trường hợp có quan hệ thương mại lần đầu, cần có sự điều tra rõ ràng. Các DN có thể yêu cầu ngân hàng phục vụ mình tìm hiểu đối tác kinh doanh thông qua hệ thống ngân hàng đại lý của họ tại nước ngoài hoặc có thể thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC)…
NHQĐ có hệ thống các ngân hàng đại lý rộng khắp trên thế giới nên các DN có thể tranh thủ sự giúp đỡ, tư vấn của NH.
Các DN cần hết sức cảnh giác với các thỏa thuận có những điều kiện khác thường, nhất là những chào hàng với mức giá cực rẻ, trị giá lớn, tưởng chừng rất có lợi cho nhà NK như hứa chuyển tiền đặt trước… Vì chất lượng hàng hoá của những chào hàng đó có thể không được đảm bảo, hay có thể là chào hàng của các công ty ma, chuyên lừa đảo.
Không chỉ có đối tác trong hợp đồng mua bán ngoại thương có khả năng lừa đảo mà các DN Việt Nam còn có nguy cơ bị người chuyên chở lừa đảo. DN cần yêu cầu người chuyên chở xác định rõ tầu đó là của họ hay đi thuê lại, đồng thời phải xác định được địa chỉ cụ thể của người chuyên chở và xem tình trạng tài chính và nợ nần của họ ra sao. DN cần yêu cầu người chuyên chở cho địa chỉ Hội bảo trợ chủ tầu của họ để có thể tìm hiểu khả năng tài chính của người chuyên chở. Trong trường hợp quyền thuê tàu thuộc phía đối tác, DN cần quy định chặt chẽ các điều khoản về thuê tàu trong hợp đồng ngoại thương, đặc biệt về tuổi tàu, số đăng ký quốc tế và các giấy tờ đăng ký tàu.
Thứ b: Giữ chữ tín trong hoạt động kinh doanh
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các DN phải cố gắng hoàn thành các nghĩa vụ của mình, không nên có tư tưởng làm ăn kiểu chụp giựt, lừa đảo. Trong kinh doanh, uy tín là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo duy trì quan hệ làm ăn lâu dài với các bạn hàng và đó cũng chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của DN trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của xu hướng toàn cầu hoá ngày nay.
Nếu là người mở L/C, DN mở đúng hạn, đúng nội dung theo yêu cầu của hợp đồng và quy định về chứng từ cho việc thanh toán một cách đầy đủ, hợp lý, rõ ràng. Người hưởng lợi một khi đã chấp nhận L/C thì phải thực hiện các yêu cầu của L/C đó, lập đúng, đủ bộ chứng từ và gửi tới ngân hàng đúng thời hạn, tạo điều kiện cho việc thanh toán diễn ra thuận lợi. Các DN cần luôn nhớ rằng, phương thức tín dụng chứng từ mà cụ thể là việc mở L/C được áp dụng là nhằm thực hiện việc thanh toán chứ không phải nhằm mục đích từ chối thanh toán, từ chối nhận hàng.
Trong quan hệ thanh toán với NH, các DN cần giữ vững chữ tín, thực hiện đúng cam kết và luôn giữ quan hệ chặt chẽ với NH. Khi có thiệt hại xảy ra, các DN không được trốn tránh, đổ trách nhiệm cho phía ngân hàng mà phải tìm cách phối hợp để giải quyết khó khăn.
Thứ tư: Chú trọng công tác theo dõi và cập nhật thông tin
Để có thể nắm rõ thông tin về thị trường, về đối tác, các DN cần tổ chức riêng một bộ phận làm nhiệm vụ thu thập và phân tích thông tin, bộ phận này phải thiết lập mối quan hệ với các tổ chức như NH, Công an kinh tế, các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, của nước ngoài tại Việt Nam...
Để tìm hiểu biến động môi trường kinh doanh ở các nước đối tác, nhờ họ giúp đỡ trong việc kiểm tra uy tín, năng lực tài chính của đối tác, cũng như trong việc xác định tính chân thực của chứng từ. Đó là biện pháp tốt nhất để lựa chọn đối tác và đối phó với vấn đề lừa đảo trong thương mại quốc tế.
Thứ năm: Việc cần làm khi tranh chấp phát sinh
Khi tranh chấp phát sinh, biện pháp đầu tiên nên sử dụng là thương lượng bằng khiếu nại hoặc đàm phán trực tiếp và nên chú ý đến mục tiêu hàng đầu của việc giải quyết tranh chấp là lợi ích kinh tế chứ không phải việc thắng hay thua. DN cần đặt hiệu quả giải quyết tranh chấp lên trên hết, không có nghĩa là sử dụng mọi thủ đoạn mà là luôn sử dụng các biện pháp mang tính thiện chí, gìn giữ và xây dựng quan hệ với các đối tác. Thêm nữa, các DN cần lường trước được những bất lợi khi có tranh chấp xảy ra và bị khởi kiện ở nước ngoài. Trong trường hợp bị khởi kiện ở nước ngoài, do khả năng về tài chính và nghiệp vụ có hạn nên phía Việt Nam ít thành công trong các phiên toà quốc tế. Do vậy, khi được quyền chọn toà án khi có tranh chấp nên chọn Trọng tài xét xử trong nước Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam để tránh những rủi ro trên.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Thứ nhấ: Cần có cơ chế điều hành tỷ giá cần linh hoạt, phù hợp với thực tế. Tỷ giá hối đoái là yếu tố rất nhạy cảm, không những ảnh hưởng đến hoạt động XNK mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Trước mắt, trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng chưa ổn định, thị trường hối đoái chưa hoàn thiện thì việc Ngân hàng Nhà nước duy trì chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước là một chính sách hợp lý.
Nâng cao dự trữ ngoại tệ tương xứng với kim ngạch XNK. Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính, tiền tệ Châu Á, Việt Nam đã không điều tiết được tỷ giá phù hợp với nền kinh tế có nguyên nhân của việc dự trữ ngoại tệ quá ít, quá mỏng manh so với sức ép tăng giá của nền thị trường. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục đưa thêm tiền ra lưu thông để thu gom ngoại tệ làm dồi dào quỹ dự trữ ngoại hối bên cạnh đó thì NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính trong việc quản lý dự trữ ngoại hối và sử dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ quốc gia, tăng cường các biện pháp kinh tế khuyến khích các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ cho các NHTM.
Xác định một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hoá rổ ngoại tệ mạnh, không nên quá tập trung vào một đồng tiền. Cần có chính sách khuyến khích các DN XNK đa dạng hoá cơ cấu tiền tệ trong giao dịch.
Có các tiêu chuẩn đánh giá chính xác các chỉ số như lạm phát, lãi suất cơ bản, thực trạng cán cân thanh toán, nợ nước ngoài để giúp Nhà nước lựa chọn phương án điều chỉnh tỷ giá có hiệu quả.
Thứ hai: Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên NH, thị trường hối đoái Việt Nam. Hiện nay, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức, giám sát và điều hành nhằm hình thành một thị trường mua bán ngoại tệ giữa các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước tham gia thị trường với tư cách là người mua bán cuối cùng, thực hiện can thiệp cần thiết vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Nhưng trên thực tế, hiện nay hoạt động của thị trường ngoại tệ liên NH chưa được sôi động do mất cân đối cung cầu, chỉ có người mua mà không có người bán. Ngân hàng Nhà nước chưa thực sự nắm được trạng thái ngoại hối của các NHTM nên không điều tiết kịp thời hoạt động của thị trường, hoặc có thời gian dài các NHTM ở trạng thái thiếu hụt ngoại tệ trầm trọng thì Ngân hàng Nhà nước cũng chưa kịp thời hỗ trợ họ cải thiện tình trạng đó. Vì vậy, việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên NH là vô cùng cần thiết.
Để phát triển và hoàn thiện thị trường này, Ngân hàng Nhà nước cần:
Mở rộng đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ liên NH. Hiện nay chỉ có HS chính của các NHTM mới là thành viên của thị trường. Nhưng trên thực tế, các CN có doanh số hoạt động TTQT lớn cũng có nhu cầu kinh doanh ngoại tệ nhằm mục đích phục vụ cho khách hàng của chính mình. Các DN XNK có khối lượng giao dịch lớn cũng mong muốn tham gia thị trường để tăng hiệu quả kinh doanh. Vì vậy, cần mở rộng thành viên tham gia thị trường ngoại tệ liên NH.
Giám sát trạng thái ngoại hối cuối ngày của các NH, buộc các NHTM xử lý trạng thái ngoại hối của mình bằng việc mua hay bán ngoại tệ trên thị trường liên NH. Qua đó, thị trường này sẽ hoạt động sôi nổi hơn.
Phát triển các nghiệp vụ vay mượn ngoại tệ, nghiệp vụ đầu cơ, nghiệp vụ tiền gửi và các hình thức mua bán ngoại tệ như: Mua bán kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hoán đổi ngoại tệ, quyền chọn.
Cần phải tăng cường hơn nữa vai trò của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường liên NH. Trong trường hợp thị trường không có đủ khả năng thì Ngân hàng Nhà nước với vai trò là người mua, bán cuối cùng phải tham gia và tác động kịp thời để giúp các NHTM duy trì được trạng thái ngoại hối an toàn.
Thứ ba: Cần tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC).
Thông tin là trung tâm của nền kinh tế tri thức, đóng vai trò to lớn trong hoạt động tiền tệ, tín dụng, NH. Bởi vậy, hệ thống thông tin tín dụng Việt Nam phải phát triển hơn nữa, định ra đường hướng trung dài hạn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta, sớm hội nhập thông tin khu vực.
Hiện nay, hoạt động của trung tâm CIC tuy đã đạt được những kết quả nhất định như: Cung cấp cho các ngân hàng tình hình dư nợ của các DN… nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế như chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế vì lượng thông tin còn quá ít, chưa kịp thời, thiếu chính xác…
Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động và hiện đại hóa Trung tâm CIC, đây không những là nơi cung cấp thông tin tín dụng mà còn là một trong những công cụ của hệ thống giám sát từ xa của Ngân hàng Nhà nước. Việc hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng sẽ là một bước tiến quan trọng trong việc giảm thiểu những rủi ro trong hoạt động của các NHTM, trong đó có hoạt động TTQT.
Những việc NHNN cần thực hiện trong thời gian tới bao gồm:
Hiện đại hóa các quy trình nghiệp vụ, tăng cường trang thiết bị thông tin hiện đại, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và Internet để CIC có điều kiện thu thập thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời. Hiện đại hóa quy trình quản lý rủi ro, phân tích dự báo, xếp loại tín dụng tại các CIC và các tổ chức tín dụng là điều kiện phát triển lâu dài để đáp ứng yêu cầu thông tin quản lý, kinh doanh của mỗi NH. Hệ thống máy, thiết bị tin học sẵng sàng đảm bảo khả năng hoạt động liên tục, dự phòng sự cố tự khôi phục.
Ngoài hệ thống hoạt động chính còn có một hệ thống dự phòng sự cố, thảm họa luôn sẵn sàng. Bên cạnh đó, hệ thống bảo mật phần cứng, mạng, phần mềm phải chặt chẽ, nghiêm ngặt. Mạng thông tin qua Internet kết nối qua các đường truyền thông có tốc độ đảm bảo, thông suốt và an toàn.
Cần có những quy định khuyến khích và bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng về việc cung cấp thường xuyên thông tin về tình hình dư nợ của các DN tại tổ chức tín dụng đó. Cần có những biện pháp xử phạt đối với các ngân hàng cung cấp thông tin không đầy đủ, chính xác về tình hình dư nợ.
Thường xuyên bổ sung nguồn thông tin cho trung tâm thông tin tín dụng. Thông tin tín dụng hiện nay của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở thông tin của các DN và chỉ tổng hợp thông tin trong phạm vi ngành NH. Do vậy trong thời gian tới, phạm vi hoạt động của thông tin tín dụng phải được mở rộng khi đó mới khắc phục được tình trạng thiếu thông tin chính xác như hiện nay.
Hệ thống thông tin thị trường: Bao gồm các thông tin hoạt động của các ngành kinh tế quốc dân, hệ thống giá cả hàng hóa thị trường trong và ngoài nước, các hoạt động chung của ngành kinh tế, những dự báo kinh tế…
Ngoài ra thông tin tín dụng còn rất cần các nhóm thông tin khác có tác dụng giúp các ngân hàng tìm hiểu về khách hàng trong và ngoài nước.
Hệ thống các đạo luật kinh tế và cơ chế nghiệp vụ như Luật ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, pháp lệnh hợp đồng kinh tế, luật DN, luật đất đai và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam… Ngoài hệ thống luật kinh tế còn có một số các đạo luật khác như Bộ luật dân sự, Luật hành chính, Luật quốc tịch, các hiệp định thương mại quốc tế… là những luật trong hoạt động ngân hàng thường áp dụng.
Ngoài ra, hệ thống thông tin rất quan trọng khác bao gồm các văn bản dưới luật có tính chất hướng dẫn luật và các nghiệp vụ như Nghị định của chính phủ, các thông tin liên ngành và hệ thống cơ chế nghiệp vụ chuyên ngành…
Hệ thống thông tin về khoa học công nghệ chuyên ngành: Là hệ thống thông tin về các căn cứ khoa học, kỹ thuật chuyên ngành như tập hợp các định mức kinh tế, kỹ thuật, các tiêu chí quy định mặt bằng giá cả, công nghệ của các chuyên ngành do Nhà nước hoặc các trung tâm tư vấn cung cấp.
3.3.3. Kiến nghị đối với Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan
Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi tổ chức, cá nhân trong nước, đặc biệt là trong lĩnh vực XNK, từ đó tác động mạnh mẽ đến hoạt động TTQT của các NH. Do đó XNK nói chung, tín dụng chứng từ nói riêng rất cần đến những chính sách phù hợp với mục tiêu của từng thời kỳ để hoạt động ngày càng được mở rộng và ngày càng phát triển, đồng thời phòng tránh được rủi ro có thể xảy ra cho các đơn vị kinh doanh XNK và NH.
Thứ nhất: Cần tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thanh tín dụng chứng từ trong hệ thống các NHTM.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro pháp lý trong giao dịch tín dụng chứng từ là sự thiếu vắng các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các bên trong quy trình thanh toán.
Ở Việt Nam hiện nay, ngoài UCP và một số thông lệ quốc tế khác, ta không có một luật hay văn bản dưới luật nào điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại thương với giao dịch tín dụng chứng từ. Nhiều vụ tranh chấp xảy ra không thể giải quyết nếu chỉ căn cứ vào UCP do UCP không phải là luật và không thể thay thế luật pháp quốc gia. Hơn nữa UCP600 vẫn có những tồn tại nhất định do không bao quát tất cả các giao dịch vô cùng phong phú trong thực tiễn. Bởi vậy Chính phủ cần sớm ban hành những văn bản pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa hợp đồng ngoại thương và hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, nêu lên nghĩa vụ, quyền hạn của các bên tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ.
Chính phủ cần ban hành văn bản liên ngành nhằm phối hợp chặt chẽ hoạt động của ngân hàng với hoạt động của các bộ ngành liên quan. Trong nghiệp vụ tín dụng chứng từ, các NH Việt Nam đã phải vận dụng các thông lệ quốc tế cả trong lĩnh vực bảo hiểm, vận tải… nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Tuy nhiên, các biện pháp tự bảo vệ này có hiệu quả hay không phụ thuộc vào quy định của luật pháp Việt Nam. Ví dụ như, theo thông lệ quốc tế, khi vận đơn lập theo lệnh của NH, nếu khách hàng không có khả năng thanh toán L/C thì NH có quyền nhận hàng theo vận đơn. Nhưng trên thực tế, ở Việt Nam, việc NH nhận hàng hoá theo vận đơn rất khó khăn vì theo quy định của hải quan, NH không có giấy phép nhập khẩu, không phải người mua nên không được nhận hàng.
Ngoài ra, giao dịch giữa NH và KH trong quan hệ tín dụng chứng từ cũng cần có các quy định cụ thể để tạo sự thống nhất về pháp lý, góp phần giảm thiểu rủi ro trong quan hệ thanh toán giữa KH và NH. Thực tế cho đến nay, hầu hết các KH đến NH yêu cầu mở L/C chỉ thông qua các loại giấy tờ như: Đơn yêu cầu mở L/C, giấy cam kết TT, đơn xin bảo lãnh nhận hàng và ký hậu vận đơn, thông báo L/C, đơn xin chiết khấu chứng từ ... Nhà nước cần quy định cụ thể tính chất pháp lý của các chứng từ này và ràng buộc trách nhiệm giữa hai bên, tránh gây khó khăn cho toà án khi xét xử tranh chấp.
Ngoài ra Chính phủ cần ban hành những văn bản quy định trách nhiệm kiểm tra các chứng từ khi DN xin mở L/C. Hiện nay, trong phương thức tín dụng chứng từ các NHTM không được hướng dẫn cụ thể về việc kiểm tra giấy phép NK hợp lệ của KH khi phát hành L/C, dẫn đến việc chấp hành quy định này ở mỗi ngân hàng một khác. KH có thể lợi dụng một giấy phép hay một hạn ngạch NK để mở L/C ở nhiều NH khác nhau, nhằm mục đích thiếu trung thực trong kinh doanh. Hay trong trường hợp KH sử dụng một hợp đồng để mở nhiều L/C thanh toán ra nước ngoài nhằm mục đích rửa tiền hoặc thanh toán tiền hàng nhập lậu thì các cơ quan pháp luật có yêu cầu NH chịu trách nhiệm không là cả một vấn đề.
Vì vậy, cần nhất thiết phải có quy chế, thông tư, văn bản hướng dẫn các NHTM trong việc kiểm tra các giấy phép, hợp đồng ngoại thương của DN khi mở L/C và quy định rõ trách nhiệm của NH, của DN trong việc mở L/C.
Thứ hai: Hoàn thiện chính sách thương mại nhằm tạo thuận lợi cho công tác XNK.
Phải có những quy chế bắt buộc đối với các điều kiện về tài chính, về trình độ cán bộ, phương hướng phát triển kinh doanh... thì mới cấp giấy phép XNK trực tiếp, không nên cấp ồ ạt, tránh những rủi ro không đáng có do trình độ thiếu hiểu biết của người làm công tác XNK. Chủ trương cấp quota XNK có thể tạo lợi thế cho DN này mà gây ra bất lợi cho DN khác làm mất cân đối giữa cung và cầu khiến nhiều loại vật tư, nguyên liệu như thép, xi măng, đường... tồn đọng gây tổn hại cho nền kinh tế và khó khăn cho các NH.
Tình trạng NK tràn lan các mặt hàng tiêu dùng đã làm cho sản xuất và tiêu dùng trong nước bị đình trệ, nhiều DN thua lỗ.
Về thuế XNK: Nhà nước cần ban hành luật thuế XNK phù hợp. Biểu thuế của Nhà nước luôn thay đổi làm cho các đơn vị XNK không chủ động trước các diễn biến trong tương lai, gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh, ảnh hưởng đến lợi nhuận. Mỗi khi sửa đổi luật thuế XNK, Nhà nước ta mới chỉ quy định ngày hiệu lực của luật mà không quy định biểu thuế ưu đãi đối với các hợp đồng đã ký trước ngày thực hiện luật thuế đó. Điều này sẽ gây khó khăn cho các DN kinh doanh XNK.
Về thông tin giá cả: Nhà nước cần có những thông tin về giá cả trên thị trường thế giới kịp thời để thông tin cho các DN kinh doanh XNK. Đây là một trong những vấn đề hết sức quan trọng, nếu thiếu hiểu biết thông tin sẽ làm cho các DN bị thua lỗ khi giá cả thay đổi hay việc kiểm soát giá cả không chặt chẽ của hàng hoá trong nước dễ dẫn đến những khó khăn cho công tác XNK và gián tiếp ảnh hưởng đến quy trình thanh toán.
KẾT LUẬN
Trong hoạt động TTQT của NHTM nói chung và MB nói riêng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường và do nhiều nguyên nhân gây nên, có thể là do nguyên nhân khách quan từ những chính xác vĩ mô của nhà nước, sự thiếu hiểu biết về thương mại quốc tế hay hành vi cố tình lừa đảo của khách hàng hoặc có thể do nguyên nhân chủ quan từ phía các Ngân hàng như sự thiếu hụt và không đồng bộ của cơ chế, chính sách, các quy trình nghiệp vụ cho hoạt động TTQT, những rủi ro về đạo đức của cán bộ Ngân hàng hoặc các bên tham gia giao dịch hay sự thiếu hiểu biết của cán bộ làm TTQT…Hậu quả của nó sẽ làm xấu đi tình hình tài chính của NH và ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu NH. Do vậy quản lý rủi ro tốt sẽ đảm bảo hoạt động TTQT của MB được an toàn, hiệu quả hơn và việc nâng cao năng lực quản trị rủi ro của NH là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và có ý nghĩa sống còn đối với Ngân hàng.
Kiểm soát, phòng ngừa và hạn chế rủi ro nói chung, rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ nói riêng luôn là vấn đề thu hút được sự quan tâm của Ban lãnh đạo Ngân hàng Quân đội. Tuy là ngân hàng thương mại chưa có bề dày lịch sử, chỉ với 15 năm hoạt động, nắm chắc được điều đó Ngân hàng Quân đội đã không ngừng phấn đấu đi lên để trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam, luôn sẵn sàng nắm bắt thời cơ và vượt qua thách thức để phát triển vững mạnh và làm tròn sứ mạng “MB dành mọi nỗ lực gây dựng một đội ngũ nhân lực tinh thông về nghiệp vụ, tận tâm trong phục vụ nhằm mang lại cho các doanh nghiệp, các cá nhân những giải pháp Tài chính - Ngân hàng khôn ngoan với chi phí tối ưu và sự hài lòng mỹ mãn”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Thị Thu Thảo, Giáo trình thanh toán quốc tế - ĐH KTQD
Ng©n hµng Nhµ níc ViÖt Nam (2003), Mét sè kinh nghiÖm vÒ phßng chèng c¸c thñ ®o¹n lõa ®¶o, vay vèn ng©n hµng vµ c¸c biÖn ph¸p phßng chèng tiÒn gi¶, phßng chèng téi ph¹m trong ho¹t ®éng NH.
Ng©n hµng Qu©n ®éi(2003-2008), B¸o c¸o tæng hîp ho¹t ®éng TTQT.
Ng©n hµng Qu©n ®éi (2003-2008), B¸o c¸o thêng niªn
Ng©n hµng Qu©n ®éi (2007-2008), Qu¶n lý rñi ro trong ng©n hµng
Ng©n hµng Qu©n ®éi (2007), Quy chÕ ho¹t ®éng Thanh to¸n quèc tÕ.
NguyÔn V¨n TiÕn (2008), Gi¸o tr×nh Thanh to¸n quèc tÕ- CËp nhËt UCP 600, NXB Thèng kª.
NguyÔn V¨n TiÕn (2005), Thanh to¸n quèc tÕ tµi trî ngo¹i th¬ng, NXB Thèng kª
NguyÔn V¨n TiÕn (2003), §¸nh gi¸ vµ phßng ngõa rñi ro trong kinh doanh ng©n hµng, NXB Thèng kª
NguyÔn V¨n TiÕn (2007), Qu¶n trÞ rñi ro trong kinh doanh ng©n hµng, NXB Thèng kª.
DANH MỤC VIẾT TẮT
MB: Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội
L/C: Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
XNK: Xuất nhập khẩu
XK: Xuất khẩu
NK: Nhập khẩu
DN: Doanh nghiệp
NH: Ngân hàng
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTB: Ngân hàng thông báo
NHPH: Ngân hàng phát hành
NHXN: Ngân hàng xác nhận
TTQT: Thanh toán quốc tế
KH: Khách hàng
CN: Chi nhánh
UCP – Quy tắc thực hành và thống nhất về tín dụng chứng từ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25576.doc