Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động không phải là vấn đề mới mẻ nữa đối với các doanh nghiệp mà vấn đề này đã được đề cập đến rất nhiều, nhưng cũng không bao giờ trở thành lạc hậu đối với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Với nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường đôi khi là không thể thích ứng được. Vốn lưu động thực sự là cần thiết để các doanh nghiệp duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Muốn tồn tại và phát triển thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải có hiệu quả. Việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung, vốn lưu động nói riêng là không thể thiếu được, nó luôn là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp, đảm bảo cho doanh nghiệp đạt được các mục tiêu đề ra.
59 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.294,923
524,792
100
30,75
23,5
7,25
51,35
20
2.740,43
842,682
644,001
198,682
1.352,402
548,086
100
30,75
23,5
7,25
55,65
20
3.014,18
1.077,569
708,332
218,528
1.487,497
602,836
100
35,75
23,5
7,25
57,30
20
Nguồn số liệu: Báo cáo tình hình huy động vốn lưu động của công ty năm 2002 - 2005
Thông qua biểu ta thấy, tuy nguồn vốn lưu động sử dụng của công ty là rất lớn nhưng nguồn vốn chủ sở hữu năm 2002 của công ty chỉ chiếm 30,75% tổng nguồn VLĐ, đạt 796,425 triệu đồng. Mặt khác do đặc điểm kinh doanh của mình là nguồn hàng hàng tiêu dùng đa số phải nhập khẩu nên lượng vốn lưu động cần cho từng lần nhập là rất lớn chính vì điều này mà nguồn vốn vay của đơn vị chiếm tỉ trọng tương đối cao, năm 2002 chiếm tỉ trọng 49,35%. Sang năm 2005, nguồn vốn chủ sở hữu công ty tăng 1.077,569 triệu đồng với tốc độ tăng rất cao 97,2%, tuy nhiên do các nguồn khác cũng tăng mạnh nên xét về tỷ trọng thì tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn lưu động của công ty lại giảm 1,61%. Để đạt được những thành tích như vậy là do năm 2005 Công ty đã vận dụng tối đa nguồn vốn bổ sung từ nguồn tài chính của Ban giám đốc và nguồn vốn bổ sung từ thu nhập chưa phân phối để đầu tư cho vốn lưu động, đồng thời vận dụng tối đa mối quan hệ khách hàng lâu năm với các Ngân hàng trong việc vay vốn phục vụ cho quá trình dịch vụ kinh doanh. Tuy nhiên một điều đáng lưu ý ở đây là tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu lại giảm 1,61%, nó phản ảnh khả năng chủ động trong kinh doanh của công ty có xu hướng chưa được tốt lắm.
Một bộ phận khác cấu thành nên vốn lưu động là nguồn khác. Đây là nguồn vốn mà đơn vị đi chiếm dụng của doanh nghiệp khác hoặc những khoản phải trả nội bộ. Với việc sử dụng nguồn vốn này Công ty không phải trả bất cứ khoản lãi nào tạo điều kiện cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Thông qua số liệu bảng trên ta thấy nguồn vốn khác này năm 2005 đã đạt mức 602,683 triệu đồng, tăng 122,355 triệu đồng so với năm 2002. Tuy nhiên tỷ trọng của nguồn vốn này cũng giảm 0,91%.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, thiếu vốn để đưa vào dịch vụ kinh doanh là tình trạng khá phổ biến đối với các doanh nghiệp. Chính vì lí do này mà nguồn vốn vay đóng vai trò rất quan trọng trong kinh doanh. Năm 2002 nguồn vốn vay của công ty là 1.278,165 triệu đồng chiếm tỷ trọng 49,35% năm 2005 là 1.487,497 triệu đồng chiếm tỷ trọng 49,35%. Cách thức tài trợ này có ưu điểm là Công ty có thể chủ động vay mượn và hoàn trả phù hợp với nhu cầu dịch vụ kinh doanh của mình trong từng chu kỳ nhập xuất hàng.Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn vay này đơn vị phải trả tiền lãi vay và như vậy làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Đánh giá một cách tổng quát trong năm 2005 Công ty đã đạt được những thành tích trong việc khai thác vốn lưu động, Công ty đã cố gắng tăng nguồn vốn chủ sở hữu, song tỷ trọng nguồn vốn vay vẫn ở mức cao, do đó chi phí lãi tiền vay vẫn tăng, làm hoạt động kinh doanh của công ty thiếu tính ổn định cao.
Trong điều kiện hiện nay, muốn mở rộng dịch vụ kinh doanh cả về bề rộng lẫn chiều sâu, một vấn đề được đặt ra đối với Công ty là phải làm sao để vốn lưu động luôn được tăng trưởng, nhưng đồng thời với đó là tỷ trọng nguồn vốn vay trong tổng vốn lưu động phải giảm dần, nguồn vốn chủ sở hữu phải tăng dần. Có như vậy Công ty mới thật sự đạt được sự ổn định trong kinh doanh.
Từ sự tính toán và phân tích ở trên có thể đi đến một số nhận xét đánh giá khái quát thực trạng về vốn và nguồn vốn kinh doanh của Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H qua bốn năm như sau: Nhìn từ góc độ tài chính chúng ta thấy rằng công ty còn thiếu độc lập về mặt tài chính, hầu hết vốn lưu động đưa vào hoạt động dịch vụ kinh doanh của công ty được đảm bảo bằng nguồn vay ngắn hạn. Công ty cần tạo cho mình một nguồn vốn có tính chất ổn định hơn nữa để chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh.
2.2.4. Phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động tại Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H:
Việc xác định nhu cầu vốn lưu động cho kế hoạch kinh doanh là một trong những công tác tài chính quan trọng của các doanh nghiệp. Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động, các doanh nghiệp sẽ đủ vốn để thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình, sử dụng được các nguồn vốn với hiệu quả cao nhất, giảm chi phí tăng khả năng cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Nhu cầu vốn lưu động của Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H được xác định như sau:
Bước vào đầu năm kế hoạch, năm 2006, trên cơ sở doanh thu thực hiện năm 2005 đạt 31,2 % kế hoạch giao, bằng 43.279.866,5 nghìn đồng, Công ty lập kế hoạch doanh thu năm 2006 là 600 triệu đồng, như vậy là tăng gần 39%. Trong điều kiện ngày một hoàn thiện về công tác tổ chức, quản lý kinh doanh, Công ty hy vọng năm 2006 sẽ sử dụng các nguồn vốn lưu động một cách tốt hơn.
Ta có:
Số vòng chu chuyển vốn lưu động =
Doanh thu thuần
Vốn lưu động sử dụng bình quân trong kỳ
Số vòng chu chuyển VLĐ năm 2005 =
43.279.866,5
= 5,95 ( vòng )
7.272.359,1
Trên cơ sở doanh thu kế hoạch năm 2006 là 600 triệu đồng, đồng thời bộ phận chịu trách nhiệm lập kế hoạch vốn lưu động của công ty vẫn nhận định rằng trong năm 2006 giá hàng tiêu dùng nhập khẩu vẫn có những biến động thất thường, không theo quy luật, tăng giảm đột biến nên dự kiến số vòng quay vốn lưu động của Công ty năm 2006 là 5,5 vòng, tức là giảm 0,45 vòng so với năm 2005.
Từ công thức tính số vòng chu chuyển vốn lưu động ta suy ra được công thức:
Doanh thu thuần
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ =
Số vòng chu chuyển VLĐ
Như vậy vốn lưu động bình quân kế hoạch năm 2006 là:
600
------------------- = 109,090 ( triệu đồng )
5,5
So sánh với thực tế năm 2005, vốn lưu động sử dụng bình quân thực tế là 3.334,456 triệu đồng, như vậy vốn bình quân thực tế đã tăng 471,283 triệu đồng, tăng 50,15% so với kế hoạch năm 2005.
Dựa vào số liệu đã nêu ta thấy tuy rằng doanh thu thuần thực tế năm 2006 đạt 455,543 triệu đồng, tăng 355,806 triệu đồng, tăng gần 5% so với kế hoạch và so với năm 2005 thì tăng 45% nhưng lượng vốn lưu động thực tế sử dụng lại tăng không cao so với dự tính, đạt 3.334,456 triệu đồng, tăng 5,15% so với kế hoạch và tăng 10,24% so với năm 2006. Như vậy có thể thấy rằng công ty đang mở rộng kinh doanh bằng cách đẩy mạnh doanh thu tiêu thụ nhưng một vấn đề còn tồn tại, đáng báo động là công tác xác định nhu cầu vốn lưu động còn khá thiếu chính xác, chưa theo kịp và nắm bắt được toàn diện các biến động trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.
2.3. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ 2H .
Biểu 06: Một số chỉ tiêu đánh giá chung hiệu quả sử dụng VLĐ tại Công ty năm 2002 - 2005
Chỉ tiêu
Đ.vị tính
Tr.đồng
Năm 2002
Năm 2003
Chênh lệch
T.lệ %
Năm 2004
Năm 2005
Chênh lệch
T.lệ %
1.Tổng doanh thu
2.Doanh thu thuần
3.Giá vốn hàng bán
4.LN thuần trước thuế
5.VLĐ sử dụng BQ trong kỳ
6.Mức dự trữ hàng hoá BQ
a.Hệ số phục vụ VLĐ ( 1/5 )
b.Hệ số sinh lợi VLĐ ( 4/5 )
c.Số vòng quay VLĐ (2/5 )
d.Số ngày C.chuyển VLĐ
e. vòng quay của hàng tồn kho (3/6 )
tr.đ
tr.đ
tr.đ
tr.đ
0,01tr.đ
0,01tr.đ
vòng
vòng
vòng
ngày
vòng
3.356,273
3.120,213
2.258,123
1.400,543
5,666
2,456
5,43
0,034
5,23
54,5
13,43
4.423,56
410,172
3.518,34
2.198,23
5,786
2,543
5,687
0,0412
5,63
57,7
14,42
867,294
90,000
1.090,21
697,691
0,123
0,093
0,257
0,017
0,43
3,2
1,09
28,89
28,11
45,43
46,78
23,56
1,8
4,34
50,2
10,4
14,32
15,76
4.900,375
4.430,279
3.900,823
263,693
7,272
2,646
6,79
0,042
5,95
60,5
15,43
5.110,89
4.920,75
4.390,806
3.51,005
16,380
6,906
4,39
0,031
3,83
94
8,66
220,516
480,983
490,207
990,108
9,259
-2,4
-0,011
-2,12
33,5
6,77
7,23
45,6
45
46,5
68,26
125,24
160,93
-35,35
-26,19
-35,63
55,37
46,88
2.3.1. Chỉ tiêu hệ số phục vụ vốn lưu động:
Qua số liệu trên biểu 06 ta thấy doanh thu tiêu thụ của năm 2005 tăng 45,6% với lượng tăng tuyệt đối là 220,516 triệu đồng. Bên cạnh đó vốn lưu động sử dụng bình quân lại tăng với tốc độ khá cao 125,24% với lượng tuyệt đối là 9,108 triệu đồng. Như vậy trong năm 2005 tốc độ tăng của vốn lưu động lớn hơn tốc độ tăng doanh thu khá nhiều làm cho hệ số phục vụ vốn lưu động giảm đi đáng kể. Cụ thể hệ số này giảm từ 6,79 năm 2004 xuống còn 4,39 năm 2005, điều này chứng tỏ một đồng vốn bỏ ra năm 2005 tạo ra ít hơn 2,4 đồng doanh thu so với một đồng vốn lưu động bỏ ra năm 2004. Hệ số phục vụ vốn lưu động giảm là do lượng hàng hoá dự trữ năm 2005 tăng mạnh ( 160,93% ) so với năm 2004 do đó đòi hỏi một lượng vốn lưu động để thoả mãn cho nhu cầu này. Ngoài ra, hệ số phục vụ vốn lưu động giảm đi là do trong năm qua công ty chưa theo kịp được sự thay đổi phức tạp của thị trường hàng tiêu dùng quốc tế, chưa có được những biện pháp thật hưu hiệu nhằm giảm được vốn lưu động sử dụng mà vẫn tăng được doanh thu.
Hệ số phục vụ vốn lưu động là chỉ tiêu đánh giá khái quát nhất hiệu quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Hệ số này chỉ đưa ra những đánh giá chung nhất về tình hình sử dụng vốn lưu động, do vậy muốn đánh giá thực chất hiệu quả kinh doanh ta phải xem xét thêm các chỉ tiêu khác.
2.3.2. Chỉ tiêu hệ số sinh lợi vốn lưu động:
Hệ số sinh lợi là một chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động một cách sát thực nhất, nó cho thấy khi bỏ ra một đồng vốn lưu động đưa vào kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Như đã đề cập ở trên, trong những năm qua thị trường hàng tiêu dùng trên thế giới luôn biến động, do đó trong hoạt động kinh doanh của mình công ty cũng gặp rất nhiều khó khăn. Thông qua biểu 06, ta thấy, qua hai năm 2004 và 2005 hệ số sinh lợi của công ty giảm dần từ 0,042 năm 2004 xuống còn 0,031 năm 2003, giảm 0,011 đồng. Tức là cứ một đồng vốn lưu động bỏ ra năm 2003 thu lại lợi nhuận ít hơn 0,011 đồng so với một đồng vốn bỏ ra năm 2002.
Thị trường kinh doanh hàng tiêu dùng tiếp tục phát triển mạnh tạo ra nhiều nhà cung cấp khác nhau tham gia vào quá trình kinh doanh nên đã có những tác động không nhỏ, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và cũng khiến công ty gặp khá nhiều khó khăn. Đặc biệt trong năm qua tỷ giá ngoại tệ biến động tăng ( bình quân tăng 3,58%/năm ), giá hàng tiêu dùng nhập khẩu trong năm thất thường không theo quy luật, tăng giảm đột biến Bên cạnh đó, Chính phủ thường xuyên điều tiết thuế nhập khẩu ( có tháng điều chỉnh tăng 03 lần ) với mục tiêu sao cho chênh lệch giữa giá vốn nhập khẩu so với giá bán nội địa là không đáng kể. Các doanh nghiệp nhập khẩu hàng tiêu dùng chỉ bù đắp được một phần nhỏ chi phí nhập khẩu và chi phí bán hàng, trong năm nhiều doanh nghiệp cùng ngành bị lỗ.
Nhìn chung trong điều kiện đầy rẫy sự biến động như hiện nay, đạt được những kết quả như trên là đáng khích lệ. Nó phản ánh phần nào sự cố gắng của công ty trong quản lý và sử dụng vốn lưu động. Tuy nhiên hệ số sinh lợi của công ty vẫn ở mức thấp, ngoài ra tốc độ tăng của hệ số sinh lợi còn đang ở số âm, điều này đòi hỏi công ty phải tích cực hơn nữa trong công tác hoạch định, lựa chọn nguồn hàng, mở rộng thị trường để tăng hiệu quả kinh tế.
2.3.3. Chỉ tiêu tốc độ chu chuyển vốn lưu động:
Trong quá trình dịch vụ kinh doanh, vốn lưu động vận động không ngừng thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình tái dịch vụ. Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho công ty.
Thông qua biểu 06 ta thấy, trong năm 2005 tuy công ty vẫn đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá để tăng doanh thu ( tốc độ tăng doanh thu thuần là 45% ) nhưng do vốn lưu động sử dụng của công ty năm 2005 cũng tăng mạnh ( tăng 125,24% ) do vậy làm vòng quay vốn lưu động giảm từ 5,95 xuống 3,83, điều này có nghĩa là tốc độ chu chuyển vốn năm 2005 giảm đi, vốn luân chuyển năm bị chậm đi thời gian lưu thông hàng hoá kéo dài ra gây lãng phí vốn, chứng tỏ hiệu quả tổ chức sử dụng vốn lưu động của công ty có chiều hướng kém đi.
Là một đơn vị với chức năng kinh doanh là chính, dịch vụ là phụ mà phần vốn kinh doanh chủ yếu từ nguồn đi vay, nên vốn lưu động càng quay được nhiều vòng càng tốt. Để đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn lưu động, công ty cần áp dụng đồng bộ các biện pháp nhằm rút bớt số vốn và giảm thời gian lưu lại của vốn ở từng khâu, từng giai đoạn của quá trình dịch vụ kinh doanh.
Do giảm vòng quay vốn lưu động nên số ngày chu chuyển tăng lên. Cụ thể là năm 2004 số ngày cần thiết để vốn lưu động chu chuyển được một vòng là 60,5 ngày, nhưng sang năm 2005 số ngày tăng lên là 94 ngày. Điều này gây ra sự lãng phí nguồn vốn lưu động ở công ty. Nếu trong năm 2005 công ty có thể tăng hay giữ được số vòng quay vốn lưu động như ở năm 2006 thì để có được 62,755 triệu đồng doanh thu thuần thì lượng vốn lưu động cần dùng chỉ là 62,755/5,95 = 10,547. triệu đồng. Trong khi đó lượng vốn lưu động thực tế sử dụng năm 2005 là 3.014,18 triệu đồng.
Tóm lại nếu xét trên góc độ về chu chuyển vốn lưu động thì tình hình sử dụng vốn lưu động năm 2005 là không hiệu quả bằng năm 2004, số vòng quay vốn lưu động giảm mạnh làm số ngày chu chuyển vốn lưu động tăng lên. Điều này đòi hỏi công ty phải tìm những giải pháp nhằm tăng số vòng quay vốn lưu động tạo điều kiện cho việc giảm chi phí, tăng hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động và cụ thể là tốc độ chu chuyển vốn lưu động phụ thuộc rất nhiều vào vòng quay của hàng hoá trong kỳ. Chính vì điều này khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ta không thể bỏ qua việc phân tích chỉ tiêu hệ số vòng quay vốn hàng hoá dự trữ.
2.3.4. Chỉ tiêu hệ số vòng quay hàng tồn kho.
Hàng hoá là bộ phận quan trọng trong kinh doanh, do vậy vốn hàng hoá ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Hàng hoá dự trữ yêu cầu phải phù hợp với tình hình kinh doanh, nếu hàng hoá dự trữ ( tồn kho ) quá nhiều sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động, ngược lại hàng hoá dự trữ quá ít sẽ không đáp ứng được nhu cầu kinh doanh. Chỉ tiêu hệ số vòng quay hàng tồn kho được xác định bằng tỷ lệ giữa trị giá vốn của hàng bán và mức dự trữ hàng hoá bình quân trong kỳ của doanh nghiệp.
Số vòng quay hàng tồn kho =
Trị giá vốn hàng bán
Mức hàng hoá dự trữ bình quân
Để đánh giá được lượng hàng hoá dự trữ của đơn vị ta xem xét chỉ tiêu hệ số vòng quay hàng tồn kho thông qua Biểu 06
Thông qua biểu ta thấy mức dự trữ hàng hoá bình quân năm 2005 tăng rất nhanh, tăng 4,259 triệu đồng với tốc độ 160,93%, nhưng giá vốn hàng bán lại tăng với tốc độ nhỏ hơn nhiều ( 46,5% ) làm cho hệ số vòng quay hàng tồn kho giảm mạnh, từ 15,43 năm 2004 xuống còn 8,66 năm 2005. Đây là điều được đánh giá là chưa hợp lý vì so với tỷ lệ tăng của lượng hàng bán ra thì tỷ lệ tăng của vốn hàng hoá dự trữ là quá lớn, làm cho một bộ phận hàng hoá bị ứ đọng, chậm luân chuyển ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Đây cũng là hậu quả của sự thích nghi chưa tốt với những biến động trên thị trường hàng tiêu dùng thế giới của công ty.
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ 2H
2.4.1. Những thành tựu đã đạt được:
Qua số liệu Báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động dịch vụ kinh doanh của công ty qua các năn 2003- 2005 đã phản ánh, năm 2005 . Công ty đã thực hiện hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu theo kế hoạch được giao với tốc độ tăng trưởng cao:
Tổng doanh thu đạt gần 620 triệu đồng, tăng 180 triệu so với năm 2004
Nộp ngân sách đạt gần 50 triêu đồng, so với năm 2004 tăng gần 10 triệu đồng.
Thu nhập bình quân đầu người/tháng đạt 1.641.000 đồng, tăng 18% so với năm 2004, tăng 39% so với năm 2003.
Công ty đã thực hiện tốt chức năng nhập khẩu hàng tiêu dùng với đầy đủ các chủng loại, thị trường tiêu thụ được mở rộng, chất lượng sản phẩm hàng hoá được nâng lên rõ rệt, uy tín với khách hàng ngày càng lớn. Đời sống của người lao động được cải thiện rõ rệt.
Bên cạnh nguồn vốn nói chung, nguồn vốn lưu động nói riêng cũng tăng lên, số vốn lưu động năm 2005 tăng 90,108 triệu đồng với tỷ lệ 125,24%. Vốn lưu động tăng lên là do nhiều nguyên nhân, trong đó vốn hàng hoá chiếm vai trò chủ yếu đây cũng là khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất và tăng về tỷ trọng mạnh nhất trong tổng nguồn vốn lưu động ( năm 2004 là 20.646 triệu đồng chiếm tỷ trọng 36,39%, năm 2005 là 60,906 triệu đồng chiếm tỷ trọng 42,16% ). Vốn hàng hoá tăng và chiếm tỷ trọng cao đã chứng tỏ vốn lưu động được sử dụng vào mục đích chính.
Mặc dù có sự hạn chế về vốn, Công ty đã tích cực tranh thủ huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau như vay ngân hàng, tận dụng được nguồn vốn chiếm dụng trong kinh doanh, đáp ứng được nhu cầu dịch vụ kinh doanh, làm tăng doanh thu hàng năm. Tự bổ xung vốn lưu động nhằm tăng năng lực tài chính của công ty, điều này thể hiện sự nỗ lực của công ty trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, hoàn trả được vốn vay mượn, giữ được uy tín và vị thế tín dụng đối với bạn hàng và nhà đầu tư.
Để đạt được những thành tích như trên công ty đã có nhiều cố gắng trong khâu tổ chức kinh doanh, áp dụng nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Sau đây là một số giải pháp mà công ty đã áp dụng trong những năm vừa qua.
Trước hết phải nói đến chính sách đẩy mạnh tiêu thụ, tăng doanh thu trong những năm qua công ty đã tăng cường việc mở rộng quan hệ với các bạn hàng mới, bên cạnh đó là duy trì tốt các mối quan hệ với bạn hàng truyền thống, tích cực tìm kiếm các nguồn hàng nhằm đảm bảo chất lượng hàng hoá cũng như các dịch vụ liên quan với một chi phí thấp nhất.
Song song với chiến lược trên công ty tích cực tìm kiếm nhà phân phối, bạn hàng tin cậy, thực hiện chính sách nới rộng tín dụng cho khách hàng.
Việc tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất làm việc luôn là một vấn đề đăt ra đối với các doanh nghiệp. Do đặc điểm kinh doanh mặt hàng hàng tiêu dùng là chủ yếu nên chi phí cho khâu kho hàng bảo quản, vận chuyển, bốc dỡ là tương đối lớn. Do vậy trong năm qua, công ty đã dùng nguồn vốn kinh doanh đầu tư vào một số tài sản cố định và lưu động như xây dựng mới và sửa chữa một số kho hàng, mua sắm mới một số phương tiện vận tải, bốc dỡ, phương tiện đo lường. Bên cạnh đó công ty còn luôn chú trọng đến công tác đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên nhằm hạn chế những rủi ro và những chi phí không đúng mục đích.
Chế độ kế toán của công ty có liên quan chặt chẽ đến quá trình hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý kinh doanh. Các phòng trong công ty được tổ chức gọn nhẹ hơn, phân công đúng việc đúng vị trí, nâng cao trình độ cho CBCNV, tạo điều kiện cho mọi người tham gia các khoá học, góp phần cho sự phát triển mạnh hơn của công ty trong những năm tới.
2.4.2. Những tồn tại chủ yếu ( trong sử dụng vốn lưu động tại cty ):
Bên cạnh những thành tích đạt được qua bốn năm, Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H còn có những mặt hạn chế cần khắc phục.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng của công ty còn có những hạn chế. Công tác tiếp thị, nghiệp vụ xuất nhập khẩu bước đầu đã đi vào nề nếp nhưng chưa đáp ứng kịp thời với tình hình phát triển của Công ty, của khu vực và trên thế giới. Với nền kinh tế thị trường biến động ngày càng phức tạp, đồng thời những chính sách về xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng trong nước cũng như quốc tế luôn có những biến động khôn lường. Cụ thể là trong năm 2005, Chính phủ thường xuyên điều tiết thuế nhập khẩu với mục tiêu sao cho chênh lệch giữa giá vốn nhập khẩu so với giá bán nội địa là không đáng kể. Các doanh nghiệp nhập khẩu hàng tiêu dùng chỉ bù đắp được một phần nhỏ chi phí nhập khẩu và chi phí bán hàng, trong năm nhiều doanh nghiệp cùng ngành bị lỗ. Đây là những nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh của công ty đặc biệt là hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng tiêu dùng. Trong quá trình kinh doanh, công ty vẫn lúng túng trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn lưu động nên đã bỏ lỡ một số cơ hội kinh doanh, đồng thời khả năng tích nghi với sự thay đổi là chưa tốt. Điều này cho thấy công tác lập kế hoạch vốn lưu động vẫn chưa được chú trọng thậm chí đôi khi chỉ mang tính hình thức.
Nợ tồn đọng vẫn còn ở mức độ tương đối cao
Nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng không cao ( năm 2002 30,75% măn 2003 30,75 năm 2004 là 30,75% và năm 2005 là 35,75% ) trong tổng nguồn vốn lưu động, nên nguồn vốn đi vay của công ty là rất lớn, làm tăng chi phí lãi tiền vay. Trong năm 2005 Công ty phải thực hiện vay tín dụng Ngân hàng để thực hiện nhập khẩu hàng tiêu dùng với lãi suất từ 0,6-0,65%/ tháng. Mức dư nợ bình quân từ 1,5-2 tỷ đồng, tổng lãi suất phải trả trong 1 năm là: 86,069 triệu đồng. Điều này làm giảm tính chủ động trong kinh doanh, hạn chế phần nào đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Lượng vốn vay và vốn chiếm dụng chiếm tỷ trọng cao làm cho hệ số khả năng thanh toán so với tổng số vốn lưu động là thấp, ảnh hưởng đến uy tín kinh doanh của công ty.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty trong năm vừa qua nếu không xét đến các ảnh hưởng mang tính bất lợi do sự biến động của tình hình thị trường hàng tiêu dùng thế giới đem đến thì được xem là có chiều hướng không được tốt, nó được thể hiện thông qua một số chỉ tiêu như hệ số phục vụ vốn lưu động, hệ số sinh lợi, tốc độ chu chuyển vốn lưu động.
Bên cạnh đó, cần thấy rằng công tác xác định nhu cầu vốn lưu động vào đầu mỗi kỳ của quá trình kinh doanh ở công ty còn rất thiếu chính xác. Điều này phản ánh đội ngũ cán bộ làm công tác lập kế hoạch vốn lưu động của công ty còn chưa nắm bắt và theo kịp những biến động của thị trường, nên đã không dự báo chính xác được nhu cầu vốn lưu động cho công ty, gây nên tình trạng trong kỳ công ty thường xuyên phải đi tìm thêm nguồn tài trợ cho vốn lưu động.
Ngoài ra, trình độ và kinh nghiệm của cán bộ bị hạn chế ảnh hưởng đến việc tham gia ký kết hợp đồng, đặc biệt là những hợp đồng với đối tác nước ngoài. Đây cũng là tình trạng chung đối với các doanh nghiệp Việt Nam và nó tác động rất lớn đến kết quả kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong công ty
Số cán bộ có đủ tiêu chuẩn về trình độ để quản lý trang thiết bị máy móc chưa nhiều .
Đối với công tác quản lý sử dụng vốn công ty chưa xem trọng đến công tác lập kế hoạch .
Lượng vốn ở các khâu dự trữ , lưu thông quá lớn gây ứ đọng vốn kinh doanh . Mặt khác để bù đắp lượng vốn thiếu hụt công ty phải đi vay chịu lãi xuất .
2.4.3 Nguyên nhân của những tồn tại .
2.4.3.1 Nguyên nhân khách quan .
Công tác mua sắm thiết bị , hàng hoá dự phòng của công ty không sát với thực tế cung cầu , Công ty mua bằng nguồn vốn đi vay .
Công tác dự trù nguồn văn phòng phẩm , vật liệu chưa sát với thực tế còn thụ động với thị trường làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động
2.4.3.2 Nguyên nhân chủ quan .
Lượng vốn lưu động bị chiếm dụng nằm trong khâu lưu thông hàng hoá còn quá lớn . Do vậy làm ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển vốn lưu động , công tác quản lý vốn chưa được hợp lý .
Trình độ cán bộ quản lý cũng như nghiệp vụ phục , chăm sóc khách hàng chưa cao làm cho công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động chưa đạt hiệu quả cao .
Công ty cần có kế hoạch và biện pháp cụ thể để khắc phục kịp thời những tồng tại này để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh .
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ 2H
3.1. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH DOANH CỦA CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ 2H.
3.1.1. Mục tiêu :
Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh hướng tới các mục tiêu sau:
Bảo đảm cung ứng, sửa chữa lắp đặt trang bị, hệ thống cung ứng hàng tiêu dùng kịp thời theo nhu cầu thực tế của các bạn hàng
Mở rộng nhà kho chứa hàng tiêu dùng và kết cấu hàng hoá cho mạng lưới dự trữ, kinh doanh hàng tiêu dùng trong nước .
Xuất nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng ngành xây lắp.
Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H đã và đang thực hiện sản xuất kinh doanh với hai mũi nhọn chính, đó là:
Đảm bảo cung ứng các mặt hàng văn phòng phẩm , thiết bị văn phòng .....
Chuyển một bộ phận vốn từ kinh doanh thương mại sang sản xuất nhằm cung ứng hàng tiêu dùng bằng sản phẩm của chính công ty.
3.1.2. Phương hướng phát triển kinh doanh:
Trong bối cảnh tình hình khó khăn của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, với những thành công đã có và cả những khó khăn còn tồn tại, Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H đã tìm ra phương hướng cho vấn đề phát triền kinh doanh trong giai đoạn tới :
Tích cực, chủ động tìm kiếm nguồn hàng, tạo dựng ngày càng nhiều mối liên hệ tích cực với khách hàng. Công ty tạo được mối quan hệ trực tiếp với các nhà cung ứng ở nước ngoài, các quốc gia có thế mạnh về xuất khẩu các sản phẩm thuộc lĩnh vực hàng tiêu dùng như: Malaysia, Cộng hoà Liên bang Đức , Singapore, trung quốc, Hàn quốc, Nhật Bản...
Đẩy mạnh doanh số bán ra làm cho doanh thu thuần của công ty tăng mạnh đồng thời với việc áp dụng các biện pháp tiết kiệm trong quản lý, giảm thiểu chi phí chưa phù hợp để bảo đảm sự cân đối giữa các chỉ tiêu giá vốn - chi phí - lợi nhuận .
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ 2H.
3.2.1 Tăng nguồn vốn tự có tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động.
Điều này hiện tại chỉ có thể thực hiện bằng sự hỗ trợ từ Ngân hàng. Trong đó công ty cần đề nghị Ngân hàng cho vay vốn lưu động đảm bảo 25% nhu cầu vốn lưu động định mức. Theo kế hoạch vốn lưu động năm 2005 của công ty là 40% thì nhu cầu vốn lưu động của công ty sẽ tăng khoảng 50%, tức là nhu cầu sẽ là 24 triệu đồng. Như vậy nguồn vốn chủ sở hữu của công ty phải đạt 6 tỷ đồng, mà trong năm 2004 nguồn vốn tự bổ xung của công ty đạt gần 70 triệu vì vậy công ty cần đề nghị Ngân hàng cho vay khoảng 544 triệu đồng. Mặt khác, do trong giai đoạn hiện nay, thị trường hàng tiêu dùng quốc tế luôn trong tình trạng biến động, nên công ty ổn định và phát triển rất cần vốn. Vì thế vay vốn lưu động là hợp lý.
3.2.2. Tăng cường huy động vốn từ CBCNV trong công ty
Qua những phân tích ở trên (Biểu 05 ), chúng ta thấy hàng năm công ty phải vay ngắn hạn ngân hàng rất nhiều, tỷ trọng vốn vay ngắn hạn trong hai năm 2002 - 2005 thường xuyên chiếm 50 - 60% tổng vốn lưu động. Với khoản vay ngân hàng lớn và đang có xu hướng tăng như vậy làm cho khả năng thanh toán của công ty bị giảm sút tình trạng tài chính ở mức căng thẳng, khả năng tự chủ về vốn thấp, chịu sự kiểm soát của ngân hàng . Như chúng ta đã biết khả năng thanh toán được xác định bằng tổng TSLĐ trên nợ ngắn hạn, do đó nếu tăng vay ngắn hạn ngân hàng sẽ làm tăng nợ ngắn hạn lên và khả năng thanh toán giảm xuống. đồng thời do chi phí vốn và thời gian đáo hạn của các khoản vay này sẽ làm cho tình hình tài chính của công ty căng thẳng hơn. Mặt khác vay ngắn hạn ngân hàng sẽ làm giảm bớt khả năng huy động vốn từ các nguồn khác vì các chủ nguồn sẽ xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp trước khi cho vay. Thêm vào đó, bản thân nguồn vay ngắn hạn ngân hàng cũng chỉ có giới hạn, không thể muốn vay bao nhiêu cũng được.
Do đó vấn đề đặt ra hiện nay là bằng cách nào có thể thay thế bớt nguồn vay ngắn hạn ngân hàng nhằm cải thiện sức mạnh tài chính của công ty, tránh bị phụ thuộc quá nhiều vào ngân hàng, dẫn đến bị động trong sản xuất kinh doanh, đó chính là cơ sở thúc đẩy huy động vốn chính từ CBCNV trong công ty. Sử dụng nguồn vốn vay từ CBCNV, công ty sẽ tiết kiệm được chi phí vốn, bên cạnh đó có thể yên tâm sử dụng vốn. Hơn nữa, khi vay vốn ngân hàng luôn kèm theo nó là những điều kiện khắt khe về phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thời gian hoàn trả vốn gắt gao trong khi huy động từ CBCNV thì các điều kiện dễ dàng hơn nhiều.
Muốn huy động được nguồn vốn này thì Công ty cần phải :
- Tuyên truyền đến mọi người cho họ thấy được việc cho Công ty vay là góp phần xây dựng Công ty tiến lên hơn.
- Thực hiện xác định hợp lý lãi suất huy động vốn từ CBCNV. Để CBCNV thấy được sự quan tâm chu đáo về mọi mặt của công ty đối với họ và để họ thực sự tin tưởng khi cho công ty vay thì cần phải trả một mức lãi suất nhất định cho nguồn vốn vay này. Hiện nay công ty đang vay ngắn hạn ngân hàng với lãi suất 0,65%/ tháng, vay dài hạn 0,8%/ tháng, vay ưu đãi với lãi suất 0,55%/ tháng, vậy công ty nên chọn mức lãi suất vay là 0,65%/ tháng. Nếu CBCNV đem tiền ra gửi ngân hàng thì cũng chỉ được mức lãi suất 0,55%/ tháng cho tiền gửi có kỳ hạn 1 năm. Do đó nếu cho công ty vay với lãi suất 0,65% họ sẽ có lợi hơn, mặt khác khi cho công ty vay để sản xuất kinh doanh, công ty có vốn để làm ăn có hiệu quả, nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, sẽ làm tăng thu nhập bình quân đầu người, sẽ giúp họ có được tổng mức thu nhập cao hơn, đời sống được nâng cao
- Thủ tục phải thật gọn và nhanh , khi họ cần rút tiền là phải có ngay.
Tuy nhiên để thực hiện hình thức huy động vốn từ CBCNV có hiệu quả thì công ty cần đảm bảo những điều kiện sau:
Có một môi trường nội bộ đoàn kết, gắn bó, CBCNV tin tưởng vào Ban giám đốc, tin tưởng vào khả năng phát triển của công ty và sẵn sàng chung sức gánh vác, chia sẻ trách nhiệm. Vấn đề này hiện nay công ty có thể đảm bảo được vì nhờ có sự đồng lòng nhất trí, sự gắn bó tin tưởng, sự đóng góp sức người, sức của của toàn thể CBCNV thì công ty mới vượt qua được nhiều khó khăn thử thách để tồn tại và phát triển như ngày nay.
Công ty cần có một bộ phận chuyên trách làm nhiệm vụ huy động vốn từ CBCNV để có thể thực hiện nó một cách thực sự có hiệu quả, có ý nghĩa trong việc tạo nguồn vốn cho công ty.
Công ty phải tích cực thu thập thông tin một cách nhanh nhạy, chính xác, nghiên cứu thị trường và lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhất. Như vậy công ty sẽ cải thiện được tình hình hiện tại, điều này làm cho người lao động yên tâm, tin tưởng hơn khi bỏ đồng vốn của mình ra cho công ty vay.
Về phía CBCNV cần phải ý thức được vai trò và trách nhiệm của họ trong việc cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh của công ty, ngoài ra họ cũng nên thường xuyên tham gia góp ý kiến của mình trong các hoạt động kinh doanh cuả công ty.
Chỉ khi nào công ty đảm bảo được các điều kiện trên thì việc huy động vốn từ CBCNV mới có thể tiến hành một cách thuận lợi, mới thể hiện được vai trò tích cực của nó. Tuy nhiên về lâu dài, khi thị trường trong nước có những biến động mạnh mẽ thì huy động vốn của CBCNV tỏ ra không phù hợp. Do vậy hình thức huy động này chỉ là giải pháp tình thế cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay.
3.2.3. Tăng cường khai thác triệt để nguồn tài trợ ngắn hạn trong kinh doanh:
Nguồn tài trợ ngắn hạn trong kinh doanh thường bao gồm: tiền khách hàng ứng trước, tiền mua chịu nhà cung cấp, phải trả CNV, nợ thuế và các khoản phải trả khác. Đây là nguồn tài trợ khá quan trọng đảm bảo một phần nhu cầu vốn lưu động trong kỳ của công ty.
Nó được xem là nguồn vốn chiếm dụng, vì vậy chi phí sử dụng nó có thể bằng không hoặc rất ít, thường thấp hơn lãi suất vay ngắn hạn ngân hàng. Sự tồn tại của nguồn vốn chiếm dụng là khách quan trong nền kinh tế thi trường và nếu công ty biết cách sử dụng hợp lý thì sẽ giải quyết được sự thiếu hụt tạm thời về nhu cầu vốn lưu động trong mỗi kỳ kinh doanh.
Công ty cần xem xét để tranh thủ nguồn tín dụng thương mại từ phía nhà cung cấp nếu thấy chi phí sử dụng nhỏ hơn lãi suất vay ngắn hạn ngân hàng. Điều này cũng thường xảy ra vì nó cũng tạo ra ích lợi cho nhà cung cấp, như duy trì mối làm ăn lâu dài, bán được khối lượng hàng lớn hơn. Vì vậy công ty cần tìm kiếm và xây dựng mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp, kể cả việc sử dụng biện pháp Marketing với người bán, giữ vững uy tín trong giao dịch thanh toán. Từ đó tranh thủ được nguồn vốn cung cấp bởi người bán thông qua hình thức bán hàng trả chậm, giảm bớt được chi phí sử dụng vốn và sức ép do phải vay ngắn hạn ngân hàng.
3.2.4. Vay ngắn hạn ngân hàng:
Để đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu vốn lưu động phát huy trong quá trình kinh doanh thì nguồn vốn mà công ty huy động chủ yếu là nguồn vốn vay ngắn hạn ngân hàng. Trong những năm qua công ty đã có quan hệ trực tiếp với Ngân hàng Vietcombank .
Theo số liệu phân tích ở trên, tổng số vốn vay ngân hàng hàng năm của công ty chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng vốn lưu động. Chiếm 49,35% năm 2002 và chiếm 51,35% năm 2003 , năm 2004 chiếm 56,65% , năm 2005 chiếm 57,30% . Vốn vay ngắn hạn lớn làm cho số lãi phải trả hàng năm của công ty tăng cao. Điều này một mặt làm tăng tính bị động của doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp không tự chủ được trong các quyết đinh sản xuất kinh doanh, mặt khác nó cũng hạn chế kết quả kinh doanh chung của toàn công ty. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay thì tình trạng nguồn vốn vay ngắn hạn ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn lưu động của doanh nghiệp là rất phổ biến. Trong thời gian tới, công ty nên cố gắng giảm tỷ trọng nguồn vốn này để làm tăng tính chủ động trong kinh doanh.
Để vay được vốn của ngân hàng, thì công ty phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Tránh tình trạng sử dụng vốn sai mục đích như một số doanh nghiệp đã làm trong thời gian qua là lấy vốn vay ngắn hạn để đầu tư xây dựng cơ bản hay đầu tư dài hạn cho những dịch vụ kém hiệu quả gây thua lỗ dẫn đến mất cả vốn lưu động.
Phải hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện quy định của Chính phủ và của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài các cách huy động kể trên, công ty cũng cần xem xét các phương án tham gia liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác, có đủ điều kiện để thành lập một doanh nghiệp liên doanh hoạt động có hiệu quả hơn thông qua việc góp vốn liên doanh có thể dưới hình thức vốn tài chính hoặc vốn vật chất như: máy móc thiết bị, công nghệ, kể cả trình độ, kinh nghiệm quản lý kinh doanh. Biện pháp này vừa có thể giúp doanh nghiệp tăng được nguồn vốn vừa có thể cải thiện được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy nó cần được xem xét, lựa chọn một cách cẩn thận.
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
3.2.2.1. Dự đoán chính xác nhu cầu vốn lưu động:
Như đã phân tích ở trên, công tác xác định nhu cầu vốn lưu động của Công ty còn khá nhiều bất cập. So sánh với thực tế năm 2005, vốn lưu động sử dụng bình quân thực tế là 3.014,18 triệu đồng, nhưng bộ phận lập kế hoạch vốn lưu động lại chỉ dự báo nhu cầu vốn lưu động năm 2005 chỉ là 2.467,052 triệu đồng, như vậy vốn bình quân thực tế đã tăng 547,128 triệu đồng, tức là tăng 22,18% so với kế hoạch dự kiến cho năm 2005.
Do đó, xác định một cách chính xác nhu cầu vốn lưu động tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó đưa ra kế hoạch tổ chức huy động vốn lưu động đáp ứng cho hoạt động của doanh nghiệp hạn chế tình trạng thiếu vốn lưu động gây gián đoạn cho sản xuất kinh doanh hoặc phải đi vay ngoài kế hoạch với lãi suất cao. Nếu thừa vốn, doanh nghiệp phải có biện pháp xử lý linh hoạt như đầu tư mở rộng sản xuất cho các đơn vị khác vay ... để tránh tình trạng vốn chết không phát huy được hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
3.2.2.2. Giải pháp cho vấn đề nợ phải thu:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thường xuyên nảy sinh các khoản nợ do việc xuất bán thành phẩm cho khách hàng và sau một thời gian nhất định mới thu được tiền. Tình hình đó làm phát sinh các khoản nợ phải thu từ khách hàng. Việc tăng nợ phải thu do tăng thêm lượng hàng bán chịu sẽ kéo theo việc tăng thêm một số khoản chi phí như: chi phí thu hồi nợ, chi phí quản lý nợ... Tăng nợ phải thu đòi hỏi Công ty phải tìm thêm nguồn vay để đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình kinh doanh tiếp theo, do vậy phải trả thêm lãi vay. Tăng nợ phải thu cũng đồng nghĩa với việc tăng rủi ro đối với Công ty.
Bên cạnh đó, qua đánh giá tổng quát tình hình thanh toán công nợ của Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H qua ba năm ta thấy khoản phải thu tăng nhanh ( 98,2% ) trong khi đó khoản phải trả chỉ tăng 58,93%, như vậy khoản phải thu đang có chiều hướng tăng.
Do vậy để đảm bảo sự ổn định, lành mạnh và tự chủ về mặt tài chính, tránh ùn tắc vốn và bị chiếm dụng vốn, đẩy mạnh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, từ đó góp phần sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả, Công ty cần có những biện pháp hữu hiệu, xiết chặt kỷ luật thanh toán nhằm hạn chế tới mức tối đa tình trạng nợ dây dưa, nợ quá hạn. Để thực hiên được điều này Công ty có thể áp dụng các biện pháp sau:
Đối với các khoản nợ hiện tại :
Công ty cần tìm mọi cách thu hồi càng sớm càng tốt, tổ chức tốt công tác thu nợ, tăng chi phí cho việc thu nợ, quản lý chặt chẽ các khoản nợ đã thu được
Nhắc nhở những khách hàng sắp đến hạn trả tiền và đôn đốc những khách hàng đã quá hạn thanh toán.
Các biện pháp nhằm hạn chế các khoản nợ trong tương lai: Công ty cần chấn chỉnh lại công tác bán hàng, thanh toán tiền hàng và thu hồi công nợ.
+ Trong công tác bán hàng đối với khách hàng nợ tiền hàng, trước khi ký kết hợp đồng tiêu thu hàng hoá Công ty cần phải tìm hiểu những thông tin về khách hàng như: Uy tín của khách hàng, tình hình tài chính (khả năng thanh toán các khoản nợ của khách hàng). Cần từ chối dứt khoát đối với những khách hàng nợ nần dây dưa, hoặc phát hiện ra họ không có khả năng thanh toán.
+ Trong hợp đồng tiêu thụ sản phẩm Công ty cần quy định rõ ràng thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán...Và yêu cầu các bên thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các điều khoản quy định trong hợp đồng. Chẳng hạn nếu thanh toán chậm so với thời hạn quy định trong hợp đồng khách hàng sẽ phải chịu phạt do vi phạm hợp đồng, phạt nợ quá hạn hoặc phải chịu lãi suất nợ quá hạn với mức lãi xuất cao.
+ Sử dụng chiết khấu bán hàng, giảm giá bán hàng nhằm khuyến kích khách hàng mua hàng với khối lượng lớn, thanh toán nhanh, hạn chế nợ dây dưa. Để làm được điều này tỷ lệ chiết khấu đưa ra phải phù hợp, hấp dẫn có tính cạnh tranh. Công ty cần xác định được tỷ lệ chiết khấu hợp lý thì phải đặt nó trong mối quan hệ với lãi xuất huy động vốn vay hiện hành của ngân hàng. Bởi vì khi bán hàng trả chậm thì Công ty phải đi vay vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên liên tục. Do đó việc Công ty giảm cho khách hàng một tỷ lệ nhất định tính trên tổng số tiền hàng mà tỷ lệ đó nhỏ hơn lãi vay vốn để thu hồi được tiền hàng ngay thì Công ty vẫn có lợi. Việc áp dụng tỷ lệ chiết khấu như trên sẽ khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh hơn từ đó làm giảm các khoản nợ phải thu, thúc đẩy đồng vốn luân chuyển nhanh hơn.
3.2.2.3. Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động:
Công ty có số vòng quay chậm, do đó thời gian luân chuyển vốn lưu động lớn và tốc độ chu chuyển vốn lưu động của Công ty đang có xu hướng giảm. Điều này chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty còn thấp và có chiều hướng xút giảm. Do đó một trong những biện pháp nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động là rút ngắn thời gian 1 vòng quay vốn nhằm tăng tốc độ quay vòng của vốn.
Ta biết rằng tốc độ chu chuyển vốn lưu động phụ thuộc chính vào doanh thu hàng bán ra trong kỳ, do đó để tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động thì Công ty phải thực hiện việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường. Để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm Công ty cần chú ý một số vấn đề sau:
- Công ty cần linh hoạt tìm thêm những khách hàng có nhu cầu lớn và sử dụng có tính chất thường xuyên lâu dài để ký hợp đồng tiêu thụ.
- Cần xây dựng hình thành thêm các cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm tại những địa điểm thích hợp, đồng thời tăng cường bán hàng đại lý. Vì tuy bán hàng qua đại lý thì lãi của Công ty thu được trên một đơn vị hàng hoá sẽ giảm vì phải trừ đi phần hoa hồng trả cho các đại lý nhưng bên cạnh đó, lượng hàng tiêu thụ của Công ty sẽ tăng nhanh, Công ty có điều kiện để tận dụng cơ sở vật chất của các đại lý, không phải bỏ tiền túi ra thuê địa điểm bán hàng khi muốn mở rộng mạng lưới kinh doanh.
- Giải quyết mọi yêu cầu của khách hàng như đáp ứng phương tiện vận chuyển, điều kiện giao hàng, phương thức thanh toán theo phương châm - khách hàng là thượng đế - nhằm thúc đẩy cho việc tiêu thụ sản phẩm nhanh, nhiều, tăng doanh thu và lợi nhuận.
3.2. 2.4. Rút ngắn độ dài của thời kỳ thu tiền:
Do đặc điểm của công ty là một Doanh nghiệp thương mại nên nhu cầu vốn lưu động là rất cao để đối phó với các cơ hội thị trường, tuy nhiên công ty cũng có một đặc điểm là thường xuyên bị chiếm dụng vốn nên Công ty cần phải tìm mọi cách rút ngắn độ dài của thời kỳ thu tiền. Cần tính toán thời gian của thời kỳ thu tiền hợp lý bằng cách tỉ lệ gối hàng và tiền của mỗi cuộc giao dịch.
3.2.2.5. Giảm tỷ trọng hàng tồn kho:
Mục đích tối cao của Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại là làm sao hàng hoá bán được hết và thu tiền vốn về thật nhanh.Mối lo ngại của DNTM là hàng tồn kho có tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng hoá của Công ty. Do đó, Công ty cần giảm tỷ trọng hàng tồn kho bằng cách giảm giá hoặc thanh lý những hàng đã lỗi mốt hay hàng hoá kém chất lượng nhằm thu hồi vốn nhanh để tái đầu tư vào những mặt hàng khác.
3.2.2.6. Chủ động trong công tác mua sắm, dự trữ vốn vật tư, hàng hoá:
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt thì việc dự trữ hàng hoá là rất quan trọng. Song xác định được dự trữ hàng hoá ở mức độ nào đòi hỏi công tác lập kế hoạch phải căn cứ vào tình hình thực tế, phải dự báo chính xác nhu cầu thị trường để từ đó có được kế hoạch dự trữ hàng hoá cho phù hợp, tránh hiện tượng dự trữ hàng hoá ở mức độ quá cao sẽ làm giảm tốc độ vòng quay của vốn, đồng thời chi phí cho việc bảo quản, dự trữ hàng hoá sẽ tăng, dẫn đến lợi nhuận thu được ít, thậm chí bị lỗ làm cho hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn lưu động bị giảm sút.
Công ty phải tạo được uy tín và khả năng của mình với các cơ quan quản lý nhà nước về việc chấp hành các chính sách quản lý và xuất nhập khẩu hàng hoá, luật thương mại quốc tế, cụ thể là trong các chính sách của nhà nước về nhập khẩu hàng tiêu dùng. Xác định được tầm quan trọng sống còn của nguồn hàng hoá đầu vào công ty phải năng động tìm cho mình những đối tác, những nhà cung cấp đáng tin cậy. Song song với vệc củng cố và siết chặt các mối quan hệ cũ, công ty cũng nên không ngừng đẩy mạnh công tác tìm kiếm và phát triển các mối quan hệ cung ứng trực tiếp với các bạn hàng ở nước ngoài như xây dựng các mối quan hệ thường xuyên và tin tưởng lẫn nhau đối với các đối tác nước ngoài, có thế mạnh về ngành công nghiệp của Liên bangĐức, Malaysia, Nhật bản, Hàn Quốc v.v .
Do đó, công ty cần có những biện pháp lâu dài để tạo nguồn hàng đảm bảo cho quá trình kinh doanh của mình, phải duy trì mối quan hệ lâu dài với các đầu mối cung cấp hàng trong và ngoài nước, giữ vững mối quan hệ - Đôi bên cùng có lợi -.
Cần phải thấy rằng, một trong những vấn đề quan trọng trong việc tổ chức, đảm bảo vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh là đảm bảo sự công bằng giữa khả năng tiền tệ và nhu cầu sử dụng vốn bằng tiền trong từng kỳ kinh doanh. Công ty cần đạt được khả năng tiền tệ tối ưu nhằm đảm bảo thường xuyên khả năng chi trả và tận dụng một cách hợp lý những khả năng về tiền tệ mà bản thân công ty sử dụng. Công ty cần tính toán cho mình một quy mô kinh doanh cụ thể và phù hợp, tránh tình trạng quá tải khi mà khả năng tài chính có hạn. Điều này bắt buụoc công ty không được duy trì, dự trữ một lượng hàng hoá quá lớn, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng trong kho, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Để quản lý việc dự trữ được tốt công ty cần thực hiện các nội dung sau:
Cùng với việc kiểm kê hàng tồn kho, định kỳ hàng tháng công ty phải thường xuyên xác định mức dự trữ hợp lý của từng loại hàng hoá, tránh tình trạng dự trữ vượt định mức gây ứ đọng vốn. Giải quyết kịp thời các tình trạng ứ đọng, mất mát, hao hụt hàng hoá, vật tư nếu có, từ đó tạo ra việc sử dụng vốn lưu động một cách hợp lý, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn để có thể giảm bớt nhu cầu vay vốn, từ đó giảm được chi phí lãi tiền vay.
Đẩy mạnh công tác thu thập và xử lý các thông tin kinh tế, vì có thu thập và sử lý thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời và chính xác thì mới giúp công ty có được các cơ hôi kinh doanh mới, làm cơ sở để ra các quyết định xem có nên tăng dự trữ hay giảm dự trữ, hay bổ xung thêm các trang thiết bị hữu ích để đạt được lợi thế trong kinh doanh.
3.2.2.7. Vấn đề thuộc nhân tố con người:
Nhân tố con người tác động tới mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Sự thành công hay thất bại trong kinh doanh có phần đóng góp rất lớn của nhân tố con người. Ngày nay với môi trường kinh tế trong nước cũng như quốc tế cạnh tranh ngày càng khốc liệt, những biến động gần như diễn ra từng phút từng giờ, điều này đòi hỏi con người trong kinh doanh phải thực sự có kiến thức, kinh nghiệm và nhạy bén trước sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh tế. Là một đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng thuộc về hàng tiêu dùng, một mặt hàng trong tương lai được coi là lợi thế của đất nước, quy mô hoạt động trong tương lai sẽ không chỉ dừng lại bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà sẽ có khả năng mở rộng trên thị khu vực lẫn thế giới, với môi trường kinh doanh ấy thì đòi hỏi công tác nghiên cứu thị trường và việc quản lý phải ở trình độ cao. Mặt khác việc nâng cao trình độ lao động và phân công lao động phù hợp ở từng bộ phận có vai trò quan trọng tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh được thuận lợi và có hiệu quả. Tránh tình trạng cơ cấu chồng chéo nhau, sử dụng người không đúng vị trí như trong thời kỳ bao cấp. Công ty cần phải quan tâm đến công tác tuyển chọn những nhân viên đồng thời mở thêm những lớp học nhằm nâng cao trình độ chung trong công ty.
3.3. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP :
3.3.1.Cơ chế chính sách của nhà nước:
Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H là một công ty được thành lập và hoạt động dưới sự cho phép và quản lý của sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội. Theo nhận xét chủ quan của cá nhân em để Công ty có thể chủ động hơn nữa trong việc tạo nguồn hàng phong phú, ổn định và ít biến động nhất về giá cả cũng như chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu Tiêu dùng và tiêu thụ trong nước, Các cơ quan chức năng tạo điều kiện về cơ sở pháp lý và hành lang pháp lý để Công ty nhanh chóng huy động được các nguồn vốn vay ngắn hạn taị Ngân hàng khi cần tăng cường lượng hàng nhập phục vụ nhu cầu Tiêu dùng và tiêu thụ nội địa .Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có cơ chế xử lý thanh lý hàng tồn kho và tỷ suất lợi nhuận hợp lý trong qúa trình cho vay vốn của hệ thống Ngân hàng.
3.3.2. Đối với Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H :
Để phát huy thế mạnh là một doanh nghiệp được phép kinh doanh và cung cấp hàng tiêu dùng đáp ứng cho nhu cầu của Thị trường, Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H cần phải hoàn thiện hơn nữa những yếu tố nội lực mà doanh nghiệp có thể chủ động được để phục vụ tốt hơn nữa cho kinh doanh :
Nâng cao trình độ lao động và phân công lao động phù hợp ở từng bộ phận để có thể phát huy được năng lực cụ thể của mỗi cá nhân ở mức cao nhất. Xây dựng một môi trường nội bộ đoàn kết, gắn bó, tạo sự tin tưởng của CBCNV vào Ban giám đốc, tin tưởng vào khả năng phát triển của Công ty .
Hoàn thiện công tác hạch toán kế toán kinh tế nội bộ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, giảm thiểu tối đa những chi phát sinh chưa hợp lý .
Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động và tăng nhanh vòng quay của hàng tồn kho, chủ động trong công tác mua sắm vật tư, dự trữ hàng hoá .
Hạn chế ứ đọng vốn vào các khoản nợ phải thu, đồng thời dự đoán chính xác nhu cầu vốn lưu động để có phương án cụ thể sử dụng vốn có hiệu quả nhất tránh lãng phí và để vốn nhàn rỗi không được sử dụng vào kinh doanh .
Với những điều kiện thuận lợi cùng những khó khăn đã vượt qua và những thành tích đạt được trong thời gian qua, Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H đang dần hoàn thiện hơn nữa phương thức quản lý vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nhằm tạo ưu thế mới trong cạnh tranh để có thể đáp ứng tốt nhất yêu cầu Tiêu dùng và nhu cầu tiêu thụ trên thị trường nội địa .
KẾT LUẬN
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động không phải là vấn đề mới mẻ nữa đối với các doanh nghiệp mà vấn đề này đã được đề cập đến rất nhiều, nhưng cũng không bao giờ trở thành lạc hậu đối với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Với nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường đôi khi là không thể thích ứng được. Vốn lưu động thực sự là cần thiết để các doanh nghiệp duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Muốn tồn tại và phát triển thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải có hiệu quả. Việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung, vốn lưu động nói riêng là không thể thiếu được, nó luôn là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp, đảm bảo cho doanh nghiệp đạt được các mục tiêu đề ra.
Khi nghiên cứu đề tài này, em luôn cố gắng tiếp cận và tập hợp những cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong kinh doanh, đồng thời đi sâu vào phân tích những ưu điểm và tồn tại trong việc quản lý sử dụng vốn lưu động tại Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H. Dựa trên những kiến thức lý luận được trang bị cùng quá trình tìm hiểu tình hình thực tế , em mạnh dạn đưa ra hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty.
Với đề tài tương đối rộng và phức tạp cùng với thời gian có hạn nên em chỉ dừng lại ở mức độ đề cập và giải quyết những nét cơ bản nhất về vấn đề sử dụng vốn lưu động tại Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H. Tuy nhiên với kinh nghiệm hiểu biết của bản thân chưa nhiều, thời gian thực tập ngắn, nên việc thực hiện đề tài không khỏi gặp nhiều khó khăn và bản luận văn tốt nghiệp không thể tránh được những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa, những người có kinh nghiệm cùng toàn thể bạn đọc để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa cho em gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo thạc sĩ Mai Xuân Được , người đã trực tiếp hướng dẫn cho em trong quá trình thực hiện đề tài, các thầy cô giáo trong và ngoài bộ môn cùng tập thể các đồng chí lãnh đạo, anh chị trong Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H đã nhiệt tình đóng góp những ý kiến quý báu trong quá trình thực tập để em hoàn thiện chuyên đề tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn !
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ - PTS Nguyễn Ngọc Hùng - NXB Thống kê 2002.
Phân tích tài chính doanh nghiệp - Josette Peyrard.
Quản trị Tài chính doanh nghiệp - NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
Các báo cáo tổng quyết toán tài chính của Công ty TNHH thương mại và dịch vụ 2H qua các năm 2002 và 2005.
MỤC LỤC
trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32848.doc