Chuyên đề Hoàn thiện một số chính sách cơ bản nhằm phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 3 I. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 3 1. Quan niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) 3 2. Đặc điểm và tính chất của doanh nghiệp vừa và nhỏ 4 3. Vai trò của DNVVN đối với sự phát triển kinh tế 14 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển DNVVN 17 4.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị 17 4.2. Trang thiết bị kỹ thuật công nghệ 19 4.3. Trình độ đội ngũ các nhà quản trị và trang thiết bị quản trị 19 II. Chính phủ và DNVVN trong nền kinh tế 20 1. Vai trò chung của chính phủ trong nền kinh tế 20 2. Mối quan hệ giữa chính phủ và doanh nghiệp trong nền kinh tế 22 3. Cac chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ đối với DNVVN 33 3.1. Môi trường pháp lý 33 3.2. Chính sách hỗ trợ về vốn và tài chính 35 3.3. Các chính sách hỗ trợ khác 36 CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 38 I. Tổng quan về hệ thống chính sách liên quan đến phát triển DNVVN 38 II. Đánh giá tình hình thực hiện và tác động của một số chính sách chủ yếu đối với sự phát triển DNVVN 39 - Chính sách thương mại 39 - Các chính sách ngân sách, tiền tệ và tài chính 41 - Chính sách đất đai 42 - Các chính sách công nghệ và đào tạo 44 - Các chính sách trợ giúp của chính phủ 46 III. Đánh giá tổng quan 49 1. Kết quả đạt được 49 2. Những tồn tại và nguyên nhân 53 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU ĐẾN PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VIỆT NAM 64 1. Triển vọng và xu hướng phát triển các DNVVN ở Việt Nam 64 2. Một số giải pháp hữu nghị và hoàn thiện 65 2.1. Giải pháp về nội lực của bản thân DNVVN 65 2.2. Các giải pháp về chính sách điều tiết 69 KẾT LUẬN 77

doc123 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1564 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện một số chính sách cơ bản nhằm phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n nên các DNVVN bước sang giai đoạn phát triển mới. Đó là giai đoạn không chỉ có sự tăng lên về số lượng các DNVVN mà có sự cơ cấu lại DNVVN, là sự phát triển gắn liền với thị trường hơn hiệu quả sản xuất – kinh doanh được nâng cao hơn, vai trò vị trí của nó trong nền kinh tế quốc dân được nâng cao hơn. 2. Những tồn tại và nguyên nhân Do đặc điểm của các DNVVN là qui mô nhỏ, vốn ít, trình độ công nghệ thấp, năng lực quản lý hạn chế nên các doanh nghiệp này gặp rất nhiều khó khăn trở ngại trong hoạt động sản xuất – kinh doanh. Bên cạnh đó, do cơ chế cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và tình hình khủng hoảng tài chính, kinh tế của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới đã có tác động ảnh hưởng không nhỏ làm cho các DNVVN ở nước ta bộc lộ những mặt hạn chế và đã gặp không ít khó khăn nhất định. Nguyên nhân của thực tại yếu kém này, một phần là do hạn chế về năng lực của bản thân DNVVN, phần quan trọng hơn là do chưa có môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DNVVN. Biểu hiện trên các mặt: Thực hiện chính sách riêng cho DNVVN, sự hỗ trợ giúp đỡ của Nhà nước tuy đã có nhưng chưa nhiều. Loại trừ những yếu tố tác động từ bên ngoài như buôn lậu tràn lan, sự độc quyền có ảnh hưởng đến giá cả, chất lượng sảnphẩm không đáp ứng yêu cầu thị trường trong và ngoài nước của DNVVN, thì các yếu tố sau của môi trường kinh tế – xã hội và bản thân DNVVN tác động nhân quả với nhau dẫn đến yếu kếm của nó. Sau đây là 8 vấn đề ảnh hưởng trực tiếp: + Chí phí vận chuyển quá cao + Vai trò hợp đồng phụ chưa được nhận thức đúng + Thiếu thông tin về thị trường trong, ngoài nước + Khó khăn về tài chính + Công nghệ, kỹ thuật thấp + Có vấn đề khó khăn về nguyên liệu đầu vào theo nguồn nhập khẩu + Sản xuất nguyên vật liệu đầu vào chất lượng cao ở trong nước còn hạn chế. Trong 8 vấn đề trên, thì có ba vấn đề khó khăn về tài chính, công nghệ, kỹ thuật thấp và thiếu thông tin về thị trường là cấp bách, có tác động ảnh hưởng lớn nhất. Cụ thể là: - Khó khăn về tài chính : Thiếu vốn đang là một trong những khó khăn tài chính lớn nhất đối với doanh nghiệp. Nguyên nhân của tình trạng đó vừa mang tính chất chủ quan ( từ phía doanh nghiệp ) vừa do các yếu tố khách quan ( từ phía môi trương kinh doanh ) và có thể là : + Phần lớn các doanh nghiệp huy dộng vốn phi chính thức lãi suất cao, không ổn định +Các DNVVN không đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng ( về thế chấp và phương án kinh doanh ) + Khó xác định giá trị tài sản thế chấp, chuyển nhượng đất ( vật thế chấp chủ yếu ) còn phức tạp + Ngân hàng chưa sãn sàng cho các DNVVN vay vì mức độ rủi ro cao + Chưa có thị trường vốn ( đặc biệt là thị trường vốn dài hạn ) + Hiệu quả sử dụng vốn của nhiều DNVVN thấp + Chưa có sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian như tổ chức bảo lãnh tín dụng Thực tế cho thấy, phần vốn huy động của DNVVN từ nguồn phi chính thức chiếm tỷ lệ cao, mức độ rủi ro lớn. Tình trạng thiếu vốn là nghiêm trọng và đáng lo ngại. Nếu như vốn lưu động của DNVVN chỉ đạt 20% so với nhu cầu thì vốn đăng ký của hàng vạn DNVVN chỉ vỏn vẹn có 17 tỷ đồng. Đa số các DNVVN hiện nay không đủ điều kiện thế chấp theo yêu cầu của ngân hàng để vay vốn, tỷ trọng vốn vay ngân hàng của DNVVN chỉ chiếm 20% nhu cầu vốn hoạt động. Nhìn chung các DNVVN, đều dựa vào nguồn vốn tự có là chính hoặc huy động vốn từ người thân, người quen… Việc các DNVVN không chỉ sử dụng được nguồn tín dụng là hạn chế lớn nhất đối với sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này. - Năng lực cônh nghệ và kỹ thuật hạn chế, trang bị vốn thấp ( chỉ bằng 3% mức trang bị kỹ thuật trong các doanh nghiệp lớn ). Nguyên nhân là do thiếu vốn để trang bị công nghệ hiện đại, chưa quan tâm đúng mức tới phát triển công nghệ, thiếu thông tin vì công nghệ. Trinh độ công nghệ, trang thiết bị, máy móc vừa cũ, vừa lạc hậu lại không đồng bộ đã hạn chế rất lớn tới khả năng cạnh tranh của DNVVN ở nước ta. Khoảng gần 50% số doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn chỉ sử dụng công cụ cầm tay; 15,5% sử dụng công cụ nửa cơ giới; hơn 35,5% có sử dụng máy chạy điện. ở miền Bắc tỷ lệ số doanh nghiệp nhỏ dụng công cụ cầm tay cao hơn so với miền Nam. Nhìn ching, trình độ ký thuật và công nghệ sản xuất của các DNVVN còn đang ở mức thấp, phần lớn đang năm trong giai đoạn chuyển từ lao động thủ công sang sản xuất cơ khí và chủ yếu nhạan chuyển giao những thiết bị và công nghệ truyền thống hoặc thải loại của công nghiệp quốc doanh, của công nghiệp đô thị hoặc công nghệ lạc hậu của nước ngoài ( chủ yếu của Trung Quốc ); hiệu quả và trình độ sử dụng thiết bị nói chung còn thấp. - Trình độ lao động và quản trị hạn chế: theo số liệu điều tra có 74,8% lao động trong các DNVVN chưa học hết lớp 10, gần 30% chủ doanh nghiệp chưa qua trường lớp đào tạo. Như vậy, lực lượng công nhân kỹ thuật và lao động lành nghề được đào tạo còn quá ít, hạn chế cả về trình độ hiểu biết lại biến động nên việc quản lý và sử dụng lao động ở các DNVVN vô cùng khó khăn, cộng với đội ngũ cán bộ thiếu kỹ năng quản trị dẫn đến hiệu quả hoạt động của các DNVVN không cao, năng suất lao động thấp, thu nhập không ổn định. Tình trạng đó là do phần lớn đội ngũ lao động được đào tạo tốt ở Việt Nam lại đang làm việc trong khu vực Nhà nước trong các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn. Ngoài ra, hệ thống đào tạo hện nay còn nặng về đào tạo lý thuyết ( từ cao đẳng trở lên), trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp đối với công nhân kỹ thuật, lao động lành nghề rất lớn. Hệ thông đào tạo cán bộ quản lý có từ thời bao cấp chưa thay đổi kịp đòi hỏi của kinh tế thị trường. Chương trình bổ túc cho các nhà đầu tư, các nhà quản lý vừa thiếu, vừa mang nặng tính bàn lâm, không đáp ứng nhu cầu cấp thiết của các cán bộ quản lý doanh nghiệp. những người thiếu thời gian để học, mà biết họ đang cần phải học gì - Thiếu thông tin, kiến thức, thiếu mặt bằng sản xuất, sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại đang là những khó khăn trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp. Cũng do thiếu kinh phí nên các DNVVN không có điều kiện để thu thập thông tin cần thiết về thị trường trong và ngoài nước để giúp cho doanh nghiệp tìm được những thị trường trong tương lai. Hệ thống thông tin và các dịch vụ tư vấn hỗ trợ cho các nhà sản xuất kinh doanh còn đang hạn chế, chưa thoả mãn được đầy đủ nhu cầu thông tin và nhu cầu tư vấn về thị trường, công nghệ, thiết bị, luật pháp và thông lệ quốc tế trong kinh doanh. - Chi phí vận chuyển quá cao đã gây ảnh hưởng xấu đến việc cạnh tranh sản phẩm của các DNVVN. Do chi phí quá cao làm cho chi phí để sản xuất sản phẩm tăng lên dẫn đến giá bán sản phẩm của doanh nghiệp có xu hướng tăng theo. Điều này đã gây cản trở cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh giá cả với doanh nghiệp khác. Nguyên nhân của việc này là do DNVVN có ít vốn nên không đủ đầu tư phương tiện vận chuyển riêng cho mình nên phải đi thuê ngoài dẫn tới chi phí vận chuyển quá cao đối với DNVVN là điều không thể tránh khỏi. - Sản xuất nguyên liệu đầu vào chất lượng cao ở trong nước còn rất hạn chế nên ảnh hưởng đến việc mua sắm nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp khó khăn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, để có được nguyên liệu vật chất lượng cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu một khoản chi phí lớn hơn nhiều. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp sản xuất và khai thác nguyên vật liệu trong nước chú trọng để cho ra những nguyên vật liệu có chất lượng cao cạnh tranh với nguyên liệu nhập ngoại với giá cao. - Vấn đề khó khăn nguyên liệu đầu vào theo nguốn nhập khẩu: do tình trạng nguyên liệu đầu vào trong nước cón chưa đủ cung cấp và chất lượng chưa cao nên đòi hỏi các DNVVN phải đi mua sắm nguyên liệu từ nguồn nhập khẩu nước ngoài. Nhưng nguồn nguyên liệu nhập khẩu thường có giá rất cao do Nhà nước đánh thêm thuế nhập khẩu và vấn đề thủ tục xử lý nhập khẩu cũng rườm rà, phức tạp - Một vấn đề gây khó khăn cản trở lớn cho các DNVVN nữa là cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp này. Cơ cấu tổ chức của các DNVVN hiện nay còn đang rườm rà, có nhiều điểm chưa hợp lý: chưa phân định rạch ròi, trách nhiệm của các phòng ban. Các quyết định và mệnh lệnh tong quản trị còn qua nhièu cấp trung gian và thời gian chờ đợi, các quyết định của cấp trên xuống cấp dưới còn mất nhiều thời gian chờ đợi ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguyên nhân của việc hạn chế về cơ cấu tổ chức này do điều kiện trình độ quản trị nói chung, năng lực và trình độ cán bộ quản trị DNVVN còn có nhiều hạn chế. Trên đây là một số hạn chế của nội lực doanh nghiệp và nguyên nhân của nó. Bên cạnh đó còn có nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của DNVVN đó là chính sách điều tiết của Nhà nước đôí với DNVVN. Đây là nhân tố khách quan tác động đến sự phát triển DNVVN, sau đây là những hạn chế và nguyên nhân của chính sách điều tiết Nhà nước: Theo cuộc điều tra về tra về thái độ của xã hội đối với kinh doanh ( do khoa Quản lý kinh tế – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tiến hành giữa năm ), qua tổng số 3.267 phiếu trả lời, khi được hỏi “kinh doanh ở Việt Nam hiện nay yếu tố nào là trở ngại nhất”, kết quả cho thấy hai trở ngại lớn nhất đối với kinh doanh là vốn ( 35,5% số phiếu ) và chính sách 22%, ngoài ra là thủ tục hành chính 13,6% , kiến thức 15,1% , sức mua yếu 7,2% , và tâm lý 6,8% . Nếu kể cả hai yếu tố chính sách và thủ tục hành chính thì trở ngại từ phía nhà nước là 35,6%. Cũng theo kết quả cuộc điều tra nói trên, khi hỏi “ Nguyên nhân của thực trạng kinh doanh xấu ở nước ta hiện nay”, câu trả lời chung nhất là : do quản lý nhà nước 37,8% do thị trường sơ khai 27,4% , do thiếu thể chế, luật lệ 25% và do thiếu tuyên truyền giáo dục 9,2%. Đáng chú ý là nhóm cán bộ nhân viên và nhóm kinh doanh cho rằng nguyên nhân về quản lý nhà nước là cao nhất : 41,3% và 40,4%, điều này cho thấy những yếu kém của quản lý nhà nước đã tác động rất lớn đến kinh doanh của doanh nhân. Thủ tục đăng ký kinh doanh Trước đây, việc xin phép thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh của các DN, trong đó có DNVVN là rất phức tạp, tốn kém tiền bạc và thời gian. Mỗi DN thường kinh doanh nhiều loại ngành, nghề nên phải xin nhiều loại giấy phép; mỗi giấy phép phải chầu chực hàng nhiều tháng, thậm chí cả năm trời mới xin được. Đã vậy, thời hạn của giấy phép quá ngắn, có loại giấy phép chỉ có hiệu lực trong 3-6 tháng riêng việc xin gia hạn giấy phép cũng đã tốn rất nhiều thời gian. Thực tế đã chỉ rõ nhiều giấy phép chỉ là hình thức, gây phiền hà cho DN, đồng thời cũng tạo ra nhiều tiêu cực, không ít trường hợp không đủ điều kiện vẫn được cấp giấy phép. Ngày 3-2-2000, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký ban hành Nghị định số 02/2000 về đăng ký kinh doanh, Nghị định 03/2000 về bãi bỏ các loại giấy phép trái với Luật doanh nghiệp. Có thể nói đây là một bước đột phá trong việc đăng ký thành lập doanh nghiệp, giảm mạnh các thủ tục phiền hà, bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân theo pháp luật. Chính sách khuyến khích đầu tư Nhằm tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi. Quốc hội đã ban hành luật khuyến khích đầu tư nước ngoài (1998) và luật khuyến khích đầu tư trong nước (1995) tạo hành lang pháp lý để thúc đẩy hoạt động đầu tư. Những nội dung của luật khuyến khích đầu tư trong nước chưa được triển khai thực hiện đầy đủ và kịp thời. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện và các hướng dẫn đó chưa đồng bộ, thậm chí đôi khi còn có một số nội dung thiếu nhất quán với tinh thần của luật. Đồng thời, các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích lại chủ yếu chỉ là miễn, giảm thuế ở những vùng mà môi trường đầu tư rất khó khăn, thiếu cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc và những điều kiện sinh hoạt và kinh doanh tối thiểu quá thấp. Vì vậy, những khuyến khích do luật đầu tư trong nước đưa ra chưa đủ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, chưa tạo ra động lực phát triển. Mặt khác, hiện còn nhiều khó khăn đã hạn chế khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tới các nguồn tài chính chính thức. Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 1996, các cấp chính quyền mới chỉ cấp 313 giấy phép ưu đãi đầu tư cho các nhà đầu tư trong nước, trong đó, có 93 giấy phép ( tức 29,7% ) dành cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh so với số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện có thì số lượng giấy phép ưu đaĩ trên là quá ít Ngoài ra. trong chính sách đầu tư còn một số hạn chế, đó là: - Mức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tuy đã được chú ý nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu tạo được môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp đặc biệt là các DNVVN. - Đầu tư của Nhà nước chủ yếu tập trung cho các doanh nghiệp Nhà nước, mặc dù rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài. - Thiếu định hướng phát triển dài hạn cho các ngành công nghiệp, các chính sách thiếu ổn định, không nhất quán, không có cơ sở khoa học cho các nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư được thuận lợi. Nói cách khác, Nhà nước chưa có những chỉ dẫn cần thiết để nâng cao hiệu quả đầu tư chung cho toàn xã hội. Những hạn chế của chính sách kinh tế hiện hành cùng với các yếu kém của hệ thống tài chính, ngân hàng ở Vn là những yếu tố làm tiết kiệm và đầu tư nội địa chững lại trong mấy năm gần đây. Chính sách về mặt bằng kinh doanh Hiện nay, hầu hết DNVVN đều thiếu đất làm mặt bằng kinh doanh, để thành lập cơ sở hoặc mở rộng cơ sở sản xuất. Đó là do các quy định về quyền sử dụng đất thường không rõ ràng, các quyền mua bán, thế chấp, chuyển nhượng đất công nghiệp vẫn chưa được thừa nhận. Khó khăn đang còn rất lớn. Một ví dụ: năm 1997, trong cuộc điều tra 452 dự án đầu tư mới, chỉ có 17 dự án thuộc khu vực tư nhân; mặc dù các dự án này đã nộp đơn xin cấp quyền sử dụng đất hoặc thuê đất, nhưng chỉ có duy nhất một dự án được thuê đất. Do những khó khăn trong việc xin cấp quyền sử dụng đất, cho nên, nhiều DNVVN thường phải dùng ngay nơi ở của mình để làm cơ sở sản xuất, gây ô nhiễm môi trường, cũng do đó thị trường ngầm về đất đai hoạt động khs nhộn nhịp, tuy bị coi là bất hợp pháp, nhưng DNVVN không thể không tiếp nhận đề có mặt bằng cho sản xuất kinh doanh Chính sách tạo lập, huy động và sử dụng vốn Vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất – kinh doanh: đầu tư trang thiết bị công nghệ mới, đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, mở rộng qui mô doanh nghiệp … Hiện nay, 75% số DNVVN có số vốn dưới 50 triệu đồng; thiếu vốn đang là khó khăn phổ biến, nhưng số DNVVN được vay cảu ngân hàng rất ít. Theo báo cáo của Bộ kế hoạch đầu tư về việc thực hiện cấp tín dụng, hiện nay các DNVVN vẫn trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Nhiều nơi chỉ có khoản 60% số doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được với tín dụng ngân hàng ( có nơi chỉ 30 – 35% ), chỉ có 10% hộ cá thể được vay vốn của ngân hàng. Nguồn vốn vay ngân hàng chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu vốn, đặc biệt là vốn đầu tư khi thành lập doanh nghiệp. Phần vốn còn lại được trang trải bằng tự có và cac hình thức huy động vốn phi chính thức như vay bạn bè, thân nhân, mua bán chịu…Nguồn vốn này có ưu điểm là đáp ứnga linh hoạt kịp thời cho hoạt động kinh doanh, thủ tục đơn giản, nhưng khối lượng vốn vay được còn quá ít, lại không ổn định và dễ gây đổ vỡ. Tình trạng các DNVVN khó vay vốn như hiện nay có nhiều nguyên nhân: một mặc do phía các DNVVN, mặt khác từ phía Nhà nước . Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp: chủ yếu là do năng suất lao động quá thấp, hiệu quả sử dụng vốn kém, khả năng hoàn trả và bảo toàn vốn thấp, nên các ngân hàng và các tổ chức tài chính không muốn cho vay. Nhiều DNVVN ít quan hệ với hệ thông ngân hàng nên khó tiếp cận với vốn ngân hàng. Ngoài ra, do một số doanh nghiệp làm ăn theo kiểu lừa đảo, chụp giật làm mất uy tín chung. Nguyên nhân từ môi trường là nguyên nhân rất quan trọng, bao gồm: - Kinh tế vĩ mô chưa ổn định: tỷ lệ lãm phát cao nên lượng tiền gửi và cho vay trung – dài hạn chiếm tỷ lệ thấp: tỷ lệ tiết kiệm thấp (khoảng 15% GDP) là những cản trở lớn đối với việc huy động vốn. - Quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước còn yếu kém: chính sách kinh tế vĩ mô thiếu nhất quán và nhiều chính sách chưa sát thực tế. Còn nhiều trở ngại trong chính sách tài chính – tiền tệ : Nhà nước định trần mức lãi suất một cách cứng nhắc làm hạn chế tín dụng dài hạn; các quy định về tỷ lệ dữ trữ bắt buộc cao dẫn đến lượng vốn cho vay bị hạn chế; thiếu chính sách cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng…Do vậy mà dẫn đến lãi suất cao. Thiếu những giải pháp hữu hiệu giúp các DNVVN tiếp cận với nguồn vốn chính thức như bảo lãnh, thế chấp… - Hệ thốn ngân hàng còn nhiều yếu kém: Nguồn vốn cho vay của ngân hàng còn nhiều hạn chế và không ổn định do nguồn huy động chủ yếu là các khoản tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn 3 – 6 tháng của nhân dân và các doanh nghiệp, do đó chỉ đáp ứng được một phần nào nhu cầu vốn trung và dài hạn; mạng lưới các tổ chức ngân hàng còn yếu kém, cơ sở kinh doanh ngân hàng tính bình quân đầu người thấp - Chưa có thị tường vốn trung và dài hạn: hiện nay, các định chế tài chính quan trọng để huy động vốn trung và dài hạn như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, các công ty tài chính… còn yếu kém hoặc chưa có Chính sách thuế Thuế là một trong những công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô quan trọng, sắc bén và có hiệu lực Nhà nước đối với mọi cơ sở sản xuất – kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đến nay, Nhà nước đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung hệ thống thuế để phát huy vai trò to lớn của thuế: tạo nguồn thu cho ngân sách, đảm bảo bình đẳng, công bằng giữa cơ sở kinh tế, khuyến khích các dn tăng năng suất, nâng cao hiệu quả kinh tế, đảm bảo sự cạnh tranh đúng luật của các chủ thể kinh doanh. Tuy vậy, hệ thống thuế và chính sách thuế còn nhiều hạn chế, làm giảm tác dụng thuế như: - Các quy định về thuế và việc thực hiện thu – nộp thuế còn rất nhiều bất hợp lý: nặng nề cơ chế thu, chưa có cơ chế động viên, nuôi dưỡng các nguồn thu. Gần đây, tuy thuế suất giảm nhưng vẫn còn cao và còn nhiều khoản thu ngoài thuế, nhất là ở các địa phương. - Hệ thống thuế suất còn cao, phức tạp. Hơn nữa, thuế suất không ổn định, hay thay đổi, nhất là thuế xuất nhập khẩu. Điều đó vừa gây khó khăn cho các cơ quan quản lý và thực hiện chính sách thuế của Nhà nước vừa làm hạn chế quá trình sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, dẫn tới giảm sức cạnh tranh của họ trên thị trường quốc tế, gây trở ngại cho quá trình hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế. - Các quy định về thuế còn rườm rà, cơ chế thu thuế chưa khoa học, không chặt chẽ, chưa có sự độc lập người định thuế, người thu, người kiểm tra thuế. Trên thực tế vẫn áp dụng chế độ thuế khoán thu đói với một số lượng rất lớn các doanh nghiệp nhỏ và kinh tế cá thể. Điều đó vừa thiếu chính xác trong khâu định thuế, vừa dẫn đến tiêu cực và thất thoát lớn. Sự bất cập của một số cán bộ thuế đã gây ra tệ ăn hối lộ, tham nhũng lớn. - Sự phân định nghĩa vụ thuế theo hình thức tổ chức sản xuất ( công ty, DNVVN, các cơ sở đăng ký theo nghị định 66/ HĐBT…) với mức thuế suất rất khác nhau vừa khó quản lý vừa tạo ra kẻ hở cho nhiều cơ spử trốn thuế ( chỉ đăng ký theo nghị định 66/HĐBT để hưởng mức thuế thấp). Chính sách công nghệ, đào tạo Trong chính sách hỗ trợ công nghệ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có một số hạn chế: - Cho tới nay những chủ trương chính sách về công nghệ đối với khu vực DNVVN đều được vận dụng từ chủ trương chính sách chung của Nhà nước đối với tất cả các doanh nghiệp, chưa có chính sách riêng cho các doanh nghiệp này - Chưa có những tổ chức làm công tác nghiên cứu phát triển cho khu vực DNVVN. Các cơ quan, tổ chức khoa học công nghệ, đào tạo của Nhà nước, các bộ ngành, địa phương hiện có chưa tiếp cận được với các DNVVN để giúp đỡ các doanh nghiệp này trong việc ứng dụng, chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin công nghệ hợp lý. - Sự hoạt động của các trung tâm và các dự án hỗ trợ rời rạc, lẻ tẻ, thiếu sự phối hợp vơi nhau, chưa xuất phát từ nhu cầu hỗ trợ tư vấn cho các doanh nghiệp. Do vậy toàn bộ chương trình, kế hoạch hoạt động của các tổ chức đó có nhiều hạn chế và thiếu một chiến lược bền vững. - Chưa có một kế hoạch tổng thể hay một chiến lược tầm quốc gia cho việc phát triển của khu vực DNVVN Về chính sách đào tạo: tình trạng phổ biến hiện nay vẫn là các doanh nghiệp phải bỏ tiền tự đào tạo cả tay nghề cho công nhân và cho chủ doanh nghiệp. Nhà nước chưa có những chính sách và biện pháp phù hợp để khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đào tào công nhân và chủ doanh nghiệp như: miễn, giảm thuế đối với chi phí đào tạo, hỗ trợ thành lập các trung tâm đào tạo nghề cho các doanh nghiệp, khuyến khích hình thành các tổ, hội nghề của các doanh nghiệp để trao đổi thông tin kinh nghiệm – một trong những cách đào tạo tích cực và thực tế… Đánh giá chung: Các DNVVN có qui mô nhỏ, vốn ít khả năng tổ chức thị trường yếu, vẫn còn tư tưởng ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước, nếu không tổ chức và sắp xếp lại, tăng cường khả năng tích tụ và tập trung vốn, hoàn thiện cơ chế quản lý và định chế tài chính của doanh nghiệp càng rất khó khăn, đặc biệt khi ta áp dụng chế độ Đại ngộ quốc gia. Tuy nhiên đây cũng là quá trình bắt buộc các doanh nghiệp phải tích tụ và tập trung qui mô thích hợp để toòn tại và phát triển sau một thời gian chuyển tiếp. Do đó kiến nghị các giải pháp quản lý Nhà nước để phát triển loại hình DNVVN ở nước ta hiện nay, là xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2000, nhu cầu đòi hỏi về giải quyết việc làm cho người lao động, thu hút nguồn vốn trong nhân dân vào đầu tư kinh doanh, phát huy lợi thế DNVVN, trong những năm cuối thế kỷ 20 là tiền đề cơ bản đưa nền kinh tế nước ta bắt kịp các nước trong khu vực đầu thế kỷ 21 Chương III MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU ĐẾN PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VIỆT NAM I. TRIỂN VỌNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC DNVVN Ở VIỆT NAM Đa dạng hoá các DNVVN và các mặt ngành nghề kinh doanh, số lượng ngành ngề theo định hướng XHCN Nên giảm đáng kể DNVVN trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước tiến tới khu vực Nhà nước chỉ có doanh nghiệp lớn. Các DNVVN hiện có của khu vực Nhà nước có thể chuyển dịch theo hướng sau: + Sát nhập một số DNVVN thành doanh nghiệp lớn + Cổ phần hoá DNNN loại DNVVN + Một số DNVVN của Nhà nước se liên doanh với các DNVVN thuộc ngoài quốc doanh để hình thành kinh tế tư bản Nhà nước với các hình thức thích hợp như : Xí nghiệp liên doanh. Giải thể các DNVVN thuộc Nhà nước thua lỗ kéo dài, không có khả năng phát triển, không thuộc các ngành sản xuất hàng hoá và dịch vụ công cộng, không thuộc các ngành then chốt. - Áp dụng công nghệ nhiều trình độ ở khu vực DNVVN, tranh thủ công nghệ hiện đại đối với một số DNVVN có nhu cầu và khả năng, điều kiện, trước hết đó là doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, chế biến lương thực, thực phẩm. - Chú trọng phát triển DNVVN và các vùng nông thôn. Phát triển DNVVN có mối liên hệ mật thiết với doanh nghiệp ở nông thôn và phát triển nông nghiệp nông thôn, chủ trương của Việt Nam trong vài năm trước mắt, coi công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời kỳ 1996 – 2000. Hiện nay ở nông thôn Việt Nam DNVVN còn ít, lực lượng chủ yếu là các hộ gia đình sản xuất kinh doanh ngành nghề và tập trung vào các làng nghề. Để phát triển nông thôn, công nghiệp hoá nông thôn trở thành sự nghiệp của dân tộc trên cơ sở tăng năng lực nội sinh và khai thác các tiềm năng cần chủ trương phát triển DNVVN ở nônh thôn. Nó sẽ tạo nhiều việc làm, giảm nghèo khó phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. DNVVN ở nông thôn nên được phân bố thành những cụm, trung tâm công nghệ, những làng nghề. DNVVN phát triển trong quan hệ không tách rời sự phát triển Doanh nghiệp lớn. DNVVN vừa cạnh tranh vừa liên kết với các doanh nghiệp lớn. DNVVN và DN lớn cùng phát triển trong chiến lược chung, chúng có quan hệ phân công hợp tác lẫn nhau. Trong nhiều trường hợp DNVVN không thể phát triển được phát triển bền vững, có hiệu quả nếu thiếu sự liên kết kinh tế, thiếu sự hỗ trợ, giúp đỡ của DN lớn. Hiện nay, trên thế giới đang có xu hướng toàn cầu hoá thương mại, nước Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào tổ chức AFTA thì có nghĩa là đang mở ra một hướng đi mới cho các doanh nghiệp có thêm những cơ hội và thách thức mới cho mình. Nhưng để đạt được những thành công thì các doanh nghiệp cần phải nỗ lực hơn nữa mới có thể bắp kịp theo xu hướng toàn cầu hoá. Các DNVVN cần có biện pháp để phát triển hàng hoá cạnh tranh với các nước trong giao dịch buôn bán hàng hoá và dịch vụ. Mỗi DNVVN cần cố gắng để giải quyết vấn đề chất lượng hàng hóa để đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng ISO trong điều kiện hội nhập. Bên cạnh đó việc phát triển DNVVN cũng cần phải có biện pháp để bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm môi trường. 2. Một số giải pháp hữu nghị và hoàn thiện Để phát triển DNVVN trong thời gian tới thì mỗi DNVVN và Nhà nước cần phải có một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong ngắn hạn ( tức thời ) và trong dài hạn ( tương lai ). Việc cácn DNVVN củng cố và phát triển không thể tiến hành một lúc mà nó còn đòi hỏi cả một quá trình. Sau đây là một số giải pháp thiết thực để phát triển DNVVN một cách ổn định và bền vững: 2.1. Giải pháp về nội lực của bản thân DNVVN 2.1.1 Giải pháp ngắn hạn 2.1.1.1 Sửa đổi hệ thống cơ cấu tổ chức cho gọn nhẹ, dễ vận hành điều hành sao cho phù hợp với qui mô và ngành nghề kinh doanh, dịch vụ của mình. Mỗi DNVVN kinh doanh một lĩnh vực hàng hoá và dịch vụ và qui mô của các DN này cũng có khác nhau nên mỗi DNVVN phải tự tìm cho một coư cấu thích hợp để dễ dàng hoạt động và điều hành. Nhất là các doanh nghiệp nào đang làm ăn kém hiệu quả do cơ cấu tổ chức thì phải nhanh chóng sửa đổi để theo kịp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế. Chúng ta chưa thể đưa ra một mô hình cơ cấu tổ chức tối ưu nhất cho các DNVVN áp dụng mà mỗi doanh nghiệp phải tìm cho mình một mô hình thích hợp đề điều hành sao cho làm ăn có hiệu quả nhất. 2.1.1.2. Tiến hành đào tạo phát triển trình độ đội ngũ các nhà doanh nghiệp và công nhân. Các nhà doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Họ là những người trực tiếp sử dụng các nguồn lực để tạo ra của cải vật chất, trực tiếp quản lý người lao động. Do đó, nhiều nước rất chú trọng phát triển đội ngũ này. ở Việt Nam, đội ngũ kinh doanh còn nhiều vấn đề bất cập. Do đó, cần thiết phải đào tạo đội ngũ các nhà kinh doanh: cung cấp kiến thức về pháp luật, kinh tế, công nghệ, quản lý … Các hình thức đào tạo có thể là: - Mở các lớp ngắn hạn đào tạo về kinh doanh, pháp luật, kỹ thuật cơ bản, nâng cao tay nghề bậc thợ… - Tiến hành kiểm tra lại trình độ của các nhân viên và sau đó tiến hành lên lịch sắp xếp đào tạo nâng cao trình độ. Doanh nghiệp có thể mời chuyên gia về tại phân xưởng doanh nghiệp để hướng dẫn và theo dõi việc thực hiện có theo qui định hay không. 2.1.1.3. Tiến hành nghiên cứu để cải tiến mẫu mã sản phẩm đa dạng, phong phú, phù hợp với yêu cầu thực tế đòi hỏi. Nhu cầu thị trường đang ngày càng có những yêu cầu khắt khe đối với sản phẩm nên các DNVVN phải thay đổi mẫu mã liên tục để theo kịp với thị hiếu. Đồng thời nghiên cứu và nâng cao chất lượng sản lượng sản phẩm hàng hoá để tiến hành tham gia vào qúa trình hội nhập nền kinh tế. Để làm được điều này thì các DNVVN phải có chính sách thị trường đó là: - Khuyến khích các nhân viên nghiên cứu phát triển sản phẩm đa dạng phong phú mẫu mã kiểu dáng. - Khuyến khích các nhân viên tạo mối quan hệ tốt với khách hàng và tìm nhiều thị trường tiêu thụ sản phẩm. 2.1.1.4. Tiến hành in ấn các tờ rơi, áp phíc để quảng cáo về sản phẩm của mình Để phát triển được doanh nghiệp mùnh thì các doanh nghiệp phải tiến hành tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra, muốn làm được điều đó thì doanh nghiệp phải giới thiệu, quảng bá sản phẩm cho người tiêu dùng. Hình thức quảng cáo, giới thiệu có thể thực hiện dưới nhiều hình thức có thể trên đài, báo, tạp chí, áp phích, quảng cáo tuỳ thuộc vào khả năng và ngành nghề kinh doanh. Tuỳ theo điều kiện của từng vùng kinh doanh mà doanh nghiệp sử dụng hình thức nào cho đạt hiệu quả cao nhất. 2.1.2 Giải pháp trong dài hạn 2.1.2.1 Tiến hành đào tạo đội ngũ nhân viên có tay nghề cao đáp ứng yêu cầu đòi hỏi cao trong thời gian dài hạn của các doanh nghiệp. Có thể có các hình thức đào tạo sau: - Các DNVVN liên kết thành lập các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng về quản trị doanh nghiệp - Các DNVVN cử người đi sang các trường đào tạo cao trong nước và nước ngoài. Sau khi đào tạo xong thì về phục vụ cho doanh nghiệp để áp dụng kỹ thuật công nghệ cao vào sản xuất và điều hành hoạt động của doanh nghiệp. - Khi các nhân viên mới vào làm việc thì doanh nghiệp cần phải tiến hành đào tạo lại đầy đủ để đáp ứng được yêu cầu công việc. Đối với các nhân viên đang làm việc trong doanh nghiệp thì tuỳ theo trình độ để bố trí đào tạo lại và người nào có năng lực thì cho tiến hành đi học thêm để trở về giúp doanh nghiệp. Doanh nghiệp cử người đi học nước ngoài, một là để nâng cao trình độ kỷ thuật chuyên môn, hai là để học hỏi những kỹ thuật công nghệ mới và kinh nghiệm của các nước khác. Bên cạnh đó doanh nghiệp có thể sử dụng chính sách khuyến khích để thu hút nguồn lao động có trình độ cao từ nơi khác với yêu cầu là vào làm việc phải đạt được những yêu cầu mà doanh nghiệp đặt ra từ trước. Việc kiểm tra trình độ của các nhân viên thì DNVVN phải kiểm tra thường xuyên để bổ sung và đào tạo mới để luôn luôn tạo cho mình một đội ngũ lao động mạnh. Điều này củng cố góp phần không nhỏ vào việc phát triển khả năng cạnh tranh của DNVVN 2.1.2.2. Tiến hành đổi mới trang thiết bị công nghệ hiện đại để bảo đảm chất lượng sản phẩm sản xuất ra tốt nhất theo các tiêu chuẩn chất lượng qui định. DNVVN cần có biện pháp để thu hút nguồn vốn, khi có vốn thì doanh nghiệp mới có điều kiện để đổi mới trang thiết bị công nghệ hiện đại. DN cần lựa chọn cho mình một công nghệ phù hợp với năng lực sản xuất của mình để tránh lãng phí trong sản xuất kinh doanh. Trang thiết bị công nghệ này có thể DN mua sắm ở trong nước hoặc mua từ nước ngoài tuỳ thuộc vào yêu cầu và khả năng của doanh nghiệp. Khi đã mua được công nghệ mới thì DN cần bố trí đội ngũ lao động quản lý và vận hành cho phù hợp. 2.1.2.3. Tiến hành nghiên cứu để mở rộng thị trường sang các vùng trong cả nước và hướng tới thị trường thế giới trong thời gian tới. DNVN cần phải nghiên cứu kỹ thị trường ở nông thôn vì ở đây đang có một tiềm năng rất lớn. Từ đó đưa ra chính sách cải tiến sản phẩm của mình để phù hợp với thị trường nông thôn. DNVN cần phải đầu tư vốn để nghiên cứu ra nhu cầu giữa các vùng trong cả nước để nếu có thể thì doanh nghiệp tiến hành mở rộng thị trường của mình sang các vùng này. Đó là đối với loại thị trường trong nước, còn đối với thị trường nước ngoài thì đây là một khó khăn rất lớn vì thị trường nước ngoài có giá bán cao nhưng nó đòi hỏi chất lượng sản phẩm phải tốt theo đúng quy định tiêu chuẩn chất lượng. Khi tiến hành xâm nhập thị trường lớn như vậy thì bị cạnh tranh là điều không tránh khỏi do đó doanh nghiệp cần đi sâu nghiên cứu kinh doanh loại sản phẩm nào phù hợp để để thu được hiệu quả cao nhất. DNVN cần phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh trong dài hạn thì mới có thể cạnh tranh lâu dài được với các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước. DN vừa và nhỏ nên liên hệ tới các trung tâm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của nhà nước chính sách để tìm cho mình một số đơn đặt hàng xuất khẩu hàng hoá nếu DN vùng đó đủ các điều kiện thực hiện. DN vừa và nhỏ phải xây dựng cho mình một đội ngũ những người có trình độ để tiến hành nghiên cứu thị trường để tìm ra nhiều thị trường tiềm năng hơn nữa. Trên đây là các giải pháp đòi hỏi sự thực hiện của các doanh nghiệp vừa và nhỏ để có sự phát triển ổn định và lâu dài. Bên cạnh đó còn có giải pháp về phía nhà nước trong các chính sách điều tiết. 2.2. Các giải pháp về chính sách điều tiết 2.2.1. Hoàn thiện sự tiếp cận tài chính - nguồn vốn Bao gồm việc tạo lập, huy động và sử dụng vốn. Các giải pháp tháo gở về vốn có vai trò rất lớn đối với các DNVVN. Cần thiết phải có hai nhóm giải pháp tác động tới tình hình vốn của DNVVN: chính sách vốn chung ( tác động tới toàn bộ nền kinh tế, trong đó có DNVVN ) và chính sách vốn đối với DNVVN. · Chính sách vốn chung: chính sách vốn có tác động mạnh tới việc cải thiện tình hình vốn cho các DNVVN. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn an toàn, thuận lợi và có hiệu quả, cần thiết phải đổi mới theo hướng: - Đổi mới theo chính sách tài chính – tiền tệ: có chính sách chống độc quyền kinh doanh ngân hàng, giảm mức dữ trữ bắt buộc. Nhà nước chỉ nên điều tiết lãi suất bằng phương pháp thị trường mở và dữ trữ bắt buộc, điều chỉnh lãi suất trần một cách linh hoạt sát với cân bằng cung – cầu vốn trên thị trường. Việc khống chế lãi suất trần cứng nhắc như hiện nay sẽ làm cho hoạt động cho vay của ngân hàng bị hạn chế đáng kể. - Mở rộng cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng: giải pháp này nhằm thiết lập lãi suất thị trường thực sự ổn định, ổn định lãi suất, giảm bớt phiền hà cho khách hàng trong việc vay vốn. - Giảm bớt thủ tục vay vốn: mở rộng mạng lưới cho vay và các hình thức huy động, khuyến khích cạnh tranh hợp pháp. - Phát triển quỹ tín dụng nhân dân - Phát triển các định chế tài chính cung cấp vốn trung hạn và dài hạn như thị trường chứng khoán, thị trường vốn trung – dài hạn -Khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu… · Chính sách và các giải pháp về vốn đối với các DNVVN như trên đã phân tích, do yếu thế nên các DNVVN rất khó tiếp cận với các nguồn vốn. Vì vậy, ngoài chính sách vốn chung cho các doanh nghiệp, cần thiết phải có những ưu đãi vốn đối với DNVVN để hỗ trợ cho các doanh nghiệp này phát triển được phát triển bình thường. Để hỗ trợ vốn có hiệu quả cho DNVVN, cần thiết phải đổi mới chính sách vốn đối với các doanh nghiệp này theo hướng ưu đãi lãi suất và khuyến khích thành lập các trung tâm hỗ trợ vốn cho các DNVVN. - Ưu đãi lãi suất: như đã phân tích trên, lãi suất tiền vay là khá cao đối với các doanh nghiệp và nâng cao hơn nữa đối với DNVVN. Tuy nhiên, do số lượng DNVVN trong nền kinh tế khá lớn, mà nguồn tài chính để hỗ trợ thì có hạn nên không thể ưu đãi tất cả các doanh nghiệp này. Do vậy, trong chính sách ưu đãi vốn ( khác với ưu đãi về thuế ), cần chọn đúng đối tượng thì với nguồn lực ít mới có thể hỗ trợ hiệu quả. Chỉ nên ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiệu quả, các doanh nghiệp gắn với các nhiệm vụ chiến lược và hỗ trợ cho các hoạt động như đầu tư vào công nghệ mới, đào tạo nghề, các hoạt động dịch vụ tư vấn…Tuy nhiên, để có thể hỗ trợ được nhiều doanh nghiệp trong điều kiện nguồn tài chính có hạn, cần có những giải pháp đặc biệt. Một trong những giải pháp đó là trợ cấp lãi suất cho đối tượng được hỗ trợ, tức là bù chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Thành lập các quỹ hỗ trợ: cần huy động các nguồn vốn để thành lập quỹ hỗ trợ DNVVN. Các nguồn đó có thể là : từ ngân sách Nhà nước trung ương và địa phương từ các doanh nghiệp lớn, từ các tổ chức trong và ngoài nước. Quỹ này có thể do Nhà nước quản lý và cũng có thể thuê một trung tâm chuyên trách, quản lý. Việc sử dụng quỹ này do Nhà nước quản lý với sự nhất trí của người tài trợ thông qua trung gian là người chuyên trách về vốn ( thường là ngân hàng ). Quỹ này hỗ trợ cho các hoạt động như đào tạo chủ doanh nghiệp, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ các trung tâm tư vấn cho DNVVN, các hoạt động về cung cấp thông tin kinh tế, khoa học, công nghệ… cần thiết cho các DNVVN. - Thành lập trung tâm bảo lãnh: Đối với các DNVVN, một trông những khó khăn nhất là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó cần tổ chức trung gian làm cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn. Một trong hình thức đó là quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ boả lãnh tín dụng vừa tạo điều kiện cho các DNVVN vay vốn, vừa là hình thứa ràng buộc chặt chẽ giữa người vay ( doanh nghiệp ), người chon vay ( ngân hàng ), tổ chức trung gian ( các công ty bảo lãnh ) và Nhà nước, nhờ đó mà giảm bớt mức đọ rủi ro khi vay vốn. Hiện nay, ở Hà Bắc đã thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng. Do nhiều điều kiện nên quỹ này hoạt động chưa rộng. Tuy vậy, đây là mô hình cần được nghiên cứu để nhân rộng ra nhiều tỉnh trong cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh phía Nam – nơi có nền kinh tế thị trường phát triển, nhu cầu vốn lớn, quan hệ và ứng xử quen với cơ chế thị trường : vay – trả. 2.2.2 Tiếp tục theo đuổi những nổ lực quan trong của Chính phủ nhằm mở rộng thị trường quốc tế cho tất cả doanh nghiệp, kể cả DNVVN, thông qua Nghị định 57/CP ( ngày 31/7/1998 ) được ban hành để hướng dẫn việc thi hành chi tiết luật thương mại trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài. Một số giải pháp: Loại bỏ yêu cầu phải xin cấp các mã thuế hoặc đẩy nhanh quá trình cấp các mã thuế. Nhanh chóng ban hành các mã số hải quan tạm thời khi doanh nghiệp trình giấy phép thành lập của mình trong khi chờ Bộ tài chính cấp mã thuế; Bộ tài chính ban hành mã thuế tạm thời ngay sau khi nhận đơn xin đăng ký mã thuế, trên cơ sở đó người làm đơn có thể được cấp mã số hải quan; Tạm thời chưa yêu cầu phải có mã số hải quan trong một thời hạn nhất định ( có thể là 1 năm ) hoặc cho đến khi những người làm đơn hiện tại đã nhận được mã thuế và từ đó có thể có được mã số hải quan; Quy định về thời hạn cuối cùng để Bộ Tài chính và Tổng cục hải quan cấp mã thuế và mã số hải quan cho các doanh nghiệp, tương tự như quy định hiện nay đang được áp dụng cho các sở kế hoạch và đầu tư và các sở liên quan khác trong việc đăng ký các doanh nghiệp và công ty mới. Trong tương lai cũng cần phải nghiên cứu xem xét liệu việc cấp mã thuế có nên kết hợp với quá trình xin đăng ký kinh daonh của các doanh nghiệp hay không. Hoàn thiện việc tiếp cận các thị trường thế giới bằng cách hạ thấp thuế quan xuống mức thuế quan của các nước trong khu vực. Cụ thể, cần hạ thấp mức thuế nhập khẩu đối với tất cả các thiết bị sản xuất, linh kiện và nguyên vật liệu; đồng thời trong tương lai gần tiến tới loại bỏ các trường hợp giảm thuế để đơn giản hoá quản lý và chi phí hải quan; giảm bớt số lượng các mức thuế và làm rõ ràng hệ thống phân loại các mức thuế. Việc định giá của hải quan và các thủ tục khác phải được quy định đơn giản hơn, rõ ràng hơn và đồng bộ hơn trên mọi lĩnh vực. 2.2.3. Các chính sách đất đai Đất đai là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các DN. Hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh phổ biến là nhỏ bé, phân tán, diện tích mặt bằng chật hẹp, phải tận dụng nhà ở để sản xuất. Để góp phần tháo gỡ những khó khăn về đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, cần thiết phải những giải pháp tháo gỡ như: - Nghiên cứu sửa đổi những quy định hiện hành chưa phù hợp, đặc biệt là vấn đề thời hạn giao đất, việc chuyển quyền sử dụng đất. - Mở rộng quyền cho chính quyền địa phương trong việc cấp đất sử dụng vào mục đích sản xuất và cho thuê đất. - Cho thuê, đấu thầu những cơ sở sản xuất bị giải thể. - Tăng thời hạn sử dụng và miễn giảm thuế đối với phần vốn bỏ vào việc mở mang đất đai, tận dụng đất thừa, ao hồ,…để đưa vào sản xuất. - Đơn giản hoá thủ tục thuế đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp khuyến khích sử dụng đất và có hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn. - Tiến tới cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực ngoài quốc doanh được hưởng những quyền lợi về sử dụng đất như các doanh nghiệp Nhà nước : được Nhà nước giao quyền sử dụng đất; được thuê đất theo giá như doanh nghiệp nhà nước phải trả ; được hưởng đầy đủ 5 quyền lợi với người có quyền sử dụng đất như luật Đất đai (1993) đã quy định. - Hình thành các khu công nghiệp tập trung để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Khuyến khích các doanh nghiệp liên tiếp xây dựng hạ tầng để thuê mặt bằng, nhà xưởng với giá ưu đãi, đó là xây dựng “ khu công nghiệp nội địa ” mà thành phố Hà Nội đang làm. - Làm rõ và đẩy nhanh các thủ tục cấp quyền sử dụng đất đai và nhà cửa. Khuyến khích nhân dân đăng ký bằng cách loại bỏ những biện pháp tài chính nặng nề đối với việc đăng ký đất và các công trình xây dựng – tức là mức lệ phí và thuế vượt quá 25% giá trị tài sản. Quy định các thủ tục rõ ràng đơn giản và hợp lý để giải quyết vấn đề quyền sử dụng, thậm chí trong trường hợp những tài liệu cần thiết không có. 2.2.4. Xây dựng môi trường pháp lý và ổn định chính sách vĩ mô Hệ thống pháp luật của ta cần phải được tiếp tục hoàn thiện. Trong các luật, pháp lệnh và nghị định vẫn còn nhiều điều chưa rõ ràng và chưa đồng bộ dẫn đến các chính sách vẫn còn chưa ổn định gây tâm lý chưa yên tâm cho người đầu tư. Để tạo sự bình đẳng trong hoạt động kinh doanh giữa các loại hình doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới , cần phải có một luật điều chỉnh tất cả các loại hình doanh nghiệp bao gồm: DNNN, DN hoạt động theo Luật Doanh Nghiệp, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trước mắt, trong năm 2000 cần khẩn trương xây dựng Nghị định khuyến khích phát triển DNVVN. Cho phép các DNVVN: được tự do đăng ký kinh doanh, tự do thay đổi sản phẩm và kinh doanh trong phạm vi toàn quốc, được xuất khẩu, nhập khẩu tất cả các loại hàng hóa được phép xuất khẩu và nhập khẩu. Đây cũng là một nội dung trong kế hoạch hành động thực hiện chương trình khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân đã được chính phủ thông qua. Cần sớm hoàn thành trung tâm giao dịch chứng khoán, hoạt động trên cơ sở Nghị định 48/1998/CP. Về chứng khoán và giao dịch chứng khoán tạo thị trường vốn ổn định cho tất cả các khu vực kinh tế bao gồm cả DNVVN. Cần thể chế hoá và pháp quy hoá các quá trình xây dựng văn bản pháp luật và tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp được tham gia đóng góp ý kiến vào các văn bản trước khi ban hành 2.2.5. Thành lập hệ thống bảo lãnh Theo qui định của luật các tổ chức tín dụng thì người vay vốn phải có tài sản thế chấp. Các DNVVN thường gặp bất lợi và khó vay được vốn vì không đủ tài sản thế chấp, trong khi các DNVVN thường có điều kiện thuận lợi hơn trong việc vay vốn mà không cần thế chấp. Do vậy, cần khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi lại hệ thống bảo lãnh để cho phép các DNVVN có được sự tài trợ của ngân hàng cho số vốn cần thiết theo hướng: Viẹc quyết định nhận thế chấp phải do các tổ chức tín dụng tự quyết định, đồng thời, xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh về yêu cầu thế chấp; điều kiện thế chấp cần được mở rộng để cho phép các DNVVN được huy động mọi loại tài sản và các khoản phải thu mà họ phải có, dùng thế chấp. Tuy nhiên, việc định giá tài sản thế chấp cần được hoàn thiện để xác định một cách linh hoạt không chỉ gồm tài sản mà doanh nghiệp đang sở hữu mà còn bao gồm cả mọi tài sản có thể thuộc về doanh nghiệp. Có thể cho phép các tổ chức tài chính tín dụng nhận thế chấp các khoản tín dụng sẽ được đàm phán trong tương lai. Việc thế chấp bằng quyền sử dụng đất cũng cần phải sửa đổi để các tổ chức tín dụng có thể tiếp cận quyền sử dụng đất của các DNVVN theo hướng tăng cường hệ thống đấu giá, quyền sử dụng đất để các ngân hàng dễ dàng phát mọi tài sản thế chấp được dễ dàng hơn, định khung giá với quyền sử dụng đất dùng làm tài sản thế chấp sao cho phản ánh được giá cả thị trường, xoá bỏ yêu cầu trả trước tiền thuê…. 2.2.6. Mở rộng hệ thống khuyến khích xuất khẩu Để khuyến khích xuất khẩu (XK) có hiệu quả, cần phải có tài trợ đầy đủ cho các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu và cho các bên gián tiếp tham gia vào hoạt động XK. Cần tài trợ ở các giai đoạn kinh doanh XK khác nhau: ứng trước để sản xuất hàng xuất khẩu, chiết khấu hoá đơn xuất khẩu, cho tới khi toàn bộ tiền bán hàng. Các hình thức khuyến khích xuất khẩu bao gồm: - Thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu và sẽ dần chuyển thành ngân hàng XNK (Exim Bank). Những doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trực tiếp tham gia vào các hợp đồng xuất khẩu, không phân biệt mặt hàng xuất khẩu sẽ được quỹ hỗ trợ tín dụng tài trợ. Lãi suất ưu đãi có thể được áp dụng đối với một số ngành được xác định theo quy định của chính phủ. Mặt khác, trong tương lai Exim Bank không chỉ hướng vào các doanh nghiệp XK trực tiếp mà còn các doanh nghiệp gián tiếp tham gia vào hợp đồng XK, tuy nhiên danh mục được quỹ tài trợ chỉ nên giới hạn ở việc đầu tư, nhập khẩu máy móc thiết bị hàng XK, hoặc chậm thanh toán hàng XK. - Thành lập quỹ hỗ trợ để hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng khi doanh nghiệp mua hàng nông sản hoặc dự trữ hàng nông sản xuất khẩu,trong trường hợp giá cả trên thị trường có biến động ảnh hưởng đến sản xuất trong nước, hỗ trợ tài chính dưới dạng bảo hộ có thời hạn đối với một số mặt hàng XK thiếu sức cạnh tranh và dùng để thưởng cho các doanh nghiệp tìm kiếm được thị trường XK, XK với kim ngạch cao, XK hàng hoá đạt chất lượng cao. Quỹ này sẽ do Bộ tài chính quản lý. Quỹ được hình thành từ các nguồn: chênh lệch giá hàng nhập khẩu, hàng XK; các loại lệ phí cấp hạn ngạch XNK, lệ phí cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá, lệ phí cấp giấy hoạt động các văn phòng đại diện. - Mở rộng các nghiệp các nghiệp bảo hiểm XK: Khi khối lượng và thị trường XK tăng, bên nhập khẩu không thể dựa vào việc bảo hiểm thanh toán qua thư tín dụng, do bên nhập khẩu ban hành. Bên XK thường buộc phải gánh chịu rủi ro do không có bảo lãnh, trong khi đang cố gắng tham gia vào thị trường cạnh tranh quốc tê. Để đối phó với tình hình đó, hầu hết các nước của bên XK đều có hệ thống bảo hiểm do chính phủ bảo trợ mà trong đó bên XK có thể mua bảo hiểm rủi ro tín dụng chính trị của bên NK và của bên XK. Hai loại nghiệp vụ bảo hiểm cần được xem xét gồm: Bảo hiểm XK toàn diện mà trong đó bên XK có thể được bảo hiểm từ khi kí hợp đồng XK đến khi thanh toán xong; Bảo hiểm hoá đơn xuất khẩu: là nghiệp vụ khi chiết khấu hoá đơn XK, các tổ chức bảo hiểm sẽ bảo vệ quyền lợi bên XK khi bên nhập khẩu không chịu thanh toán. Rủi ro cả về chính trị và thương mại đều được bồi thường phí bảo hiểm có thể do chính phủ quy định tuỳ theo các loại bảo hiểm rủi ro được bồi thường. 2.2.7. Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN Để có vốn đầu tư và hoạt động kinh doanh các DNVVN thường sử dụng nguồn vốn tự có hay vay của gia đình và vay từ các nguồn không chính thức. Các khoản vay từ ngân hàng thương mại chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn dùng làm vốn lưu động. Quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ hoạt động trên cơ chế bảo lãnh một phần nhờ hỗ trợ cho các DNVVN tiếp cận được các khoản vay ngắn, trung và dài hạn (Bao gồm cả gốc và lãi) tại các tổ chức tín dụng thông qua việc cấp bảo lãnh, tái bảo lãnh tín dụng, khuyến khích các hoạt động tín dụng lành mạnh; đồng thời chia sẻ rủi ro giữa quỹ bảo lãnh tín dụng, tổ chức tín dụng và DNVVN. Mức bảo lãnh, thời hạn bảo lãnh, phí bảo lãnh, hệ số bảo lãnh sẽ được xác định cụ thể. 2.2.8. Chính sách thị trường - Khuyến khích phát triển nông nghiệp hàng hóa tăng thu nhập của nông dân, tăng sức mua của xã hội đối với sản phẩm của DNVVN vì thị trường nước ta phần lớn là thị trường nông thôn. - Khuyến khích tự do cạnh tranh, xu hướng hình thành các tập đoàn kinh tế lớn nếu không đi liền với đạo luật chống độc quyền sẽ gây bất lợi cho DNVVN - Khuyến khích các doanh nghiệp lớn hỗ trợ các DNVVN dưới dạng làm đại lý, vệ tinh, dưới dạng các hợp đồng phụ. - Nhà nước ( nhất là các Nhà nước địa phương ) tạo điều kiện cho các DNVVN nhận được các dự án nhỏ về xây dựng các cơ sở hạ tầng, tham gia đấu thầu xây dựng, sửa chữa, trang bị các cơ quan nhà nước, xây dựng các trường học, bệnh viện, giúp các DNVVN tham gia đấu thầu các công trình xây dựng nông thôn. - Dành một số đơn đặt hàng XK cho các DNVVN có đủ điều kiện, cho các làng, cụm công nghiệp XK trực tiếp. Hình thành trung tâm thúc đẩy XK huấn luyện cho các DNVVN có khả năng và kiến thức về thị trường thế giới những qui định buôn bán quốc tế; giới thiệu hàng hoá của DNVVN ra nước ngoài, cung cấp danh sách mặt hàng nước ngoài đang cần. KẾT LUẬN Hoàn thiện các chính sách cơ bản nhằm phát triển DNVVN ở Việt Nam là rất cần thiết. Nó tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp trong nước ngày càng từng bước đổi mới và phát triển qua từng giai đoạn của quá trình đổi mới. Vì vậy chúng ta ngày càng phải nỗ lực không ngừng để hoàn thiện những chính sách chủ yếu để nâng cao hiệu quả kinh tế của Đất nước cũng như ngày càng phát triển các DNVVN ở Việt Nam. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 3 I. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 3 1. Quan niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) 3 2. Đặc điểm và tính chất của doanh nghiệp vừa và nhỏ 4 3. Vai trò của DNVVN đối với sự phát triển kinh tế 14 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển DNVVN 17 4.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị 17 4.2. Trang thiết bị kỹ thuật công nghệ 19 4.3. Trình độ đội ngũ các nhà quản trị và trang thiết bị quản trị 19 II. Chính phủ và DNVVN trong nền kinh tế 20 1. Vai trò chung của chính phủ trong nền kinh tế 20 2. Mối quan hệ giữa chính phủ và doanh nghiệp trong nền kinh tế 22 3. Cac chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ đối với DNVVN 33 3.1. Môi trường pháp lý 33 3.2. Chính sách hỗ trợ về vốn và tài chính 35 3.3. Các chính sách hỗ trợ khác 36 CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 38 I. Tổng quan về hệ thống chính sách liên quan đến phát triển DNVVN 38 II. Đánh giá tình hình thực hiện và tác động của một số chính sách chủ yếu đối với sự phát triển DNVVN 39 - Chính sách thương mại 39 - Các chính sách ngân sách, tiền tệ và tài chính 41 - Chính sách đất đai 42 - Các chính sách công nghệ và đào tạo 44 - Các chính sách trợ giúp của chính phủ 46 III. Đánh giá tổng quan 49 1. Kết quả đạt được 49 2. Những tồn tại và nguyên nhân 53 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU ĐẾN PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VIỆT NAM 64 1. Triển vọng và xu hướng phát triển các DNVVN ở Việt Nam 64 2. Một số giải pháp hữu nghị và hoàn thiện 65 2.1. Giải pháp về nội lực của bản thân DNVVN 65 2.2. Các giải pháp về chính sách điều tiết 69 KẾT LUẬN 77 NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC2002.doc
Tài liệu liên quan