Chuyên đề Hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ: Thực trạng và một số kiến nghị

Những thành tựu trong công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước ta trong suốt thời gian qua được nhân dân trong nước và bạn bè các nước đánh giá rất cao, trong đó có sự đóng góp của các hoạt động ngoại thương, giúp cải thiện đời sống nhân dân và đem nguồn lợi về cho đất nước. Với chủ trương mở cửa nền kinh tế, hợp tác trong kinh tế và tuân theo xu hướng hội nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế khu vực và thế giới, nước ta đã có quan hệ kinh tế, thương mại với rất nhiều quốc gia và lãnh thổ. Đặc biệt, việc thiết lập lại và củng cố mối quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ mà gần đây nhất là việc hai nước đã thông qua bản Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là việc làm rất đúng đắn, khép lại quãng thời gian “đau thương” của hai nước trong quá khứ để cùng nhìn về một tương lai tươi sáng mới. Một trang mới trong quan hệ thương mại giữa hai nước đã được mở ra, bằng mọi cố gắng để khắc phục những điểm yếu và tận dụng những thế mạnh của mình, Việt Nam sẽ khẳng định vị trí của mình trong quan hệ giao thương với Mỹ. Thực trạng quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ hiện nay thực sự chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước nhưng cũng báo hiệu những điểm sáng khả quan và đầy hi vọng. Trong một tương lai không xa, chúng ta sẽ đón nhận những thay đổi lớn và tích cực trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ, và việc hàng hoá Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều trên thị trường rộng lớn nhưng khó tính này không còn là điều xa vời nữa.

doc53 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 897 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ: Thực trạng và một số kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam sang Hoa Kỳ) lên tới 304,359 triệu USD năm 2000 (chiếm 41,6%), đưa thị trường Hoa Kỳ trở thành thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai sau Nhật Bản. Sở dĩ mặt hàng thuỷ sản ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ vì một mặt Việt Nam có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để nuôi trồng thuỷ sản ( bờ biển dài, vùng biển có năng lực tái sinh học cao, tương đối sạch và nhiều cửa sông, lạch,v.v...). Mặt khác, một số mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ được miễn thuế nhập khẩu, cho dù được xuất khẩu từ một nước chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc hay hệ thống ưu đãi thuế quan chung như Việt Nam. Mặt hàng thuỷ sản được thị trường Hoa Kỳ ưa chuộng nhất là tôm sú, cá basa, cá tha, cá ngừ, cá cờ, cá kiếm. Tuy nhiên, do những hạn chế về trình độ quản lý cũng như trình độ công nghệ mà việc khai thác và nuôi trồng thuỷ sản thời gian qua đã không đạt dược những hiệu quả như mong muốn. Việc xuất khẩu hải sản sang thị trường này phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm của văn phòng hải sản thuộc cơ quan Quản lý thực phẩm và thuốc bệnh (FDA) thuộc Bộ Y tế Hoa Kỳ. Các quy định tập hợp thành bộ tài liệu HACCP và đã được Bộ hải sản Việt Nam phổ biến đến các công ty hải sản của ViệtNam áp dụng trong quá trình xin phép xuất khẩu hải sản vào Hoa Kỳ. Do đó , triển vọng tăng xuấ khẩu hải sản , nhất là tôm, vào thị trường này là khá lớn , nếu vấn đề vệ sinh thực phẩm được quan tâm Mặt hàng dầu thô. Đến năm 1996, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô sang Hoa Kỳ. Nhưng ngay trong năm này, kim ngạch xuất khẩu dầu thô đã đạt 80,6 triệu USD (chiếm 39,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ), đứng vị trí thứ hai sau cà phê trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Trong hai năm tiếp theo, do giá dầu trên thế giới giảm mạnh, xuất khẩu về dầu thô sang Hoa Kỳ giảm cả về giá trị và tỷ lệ (năm 1997 đạt 34,6 triệu USD, chiếm 12,2 %; năm 1998 đạt 79,22 triệu USD, chiếm 16,9%). Trong hai năm trở lại đây, do giá dầu thô trên thị trường thế giới tăng mạnh, trong khi các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC quyết định cắt giảm sản lượng dầu khai thác, giá trị xuất khẩu dầu thô của Việt Nam đạt tới 91,37 triệu USD năm 2000, chiếm 12,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên xuất khẩu dầu thô của Việt Nam sang Hoa Kỳ còn còn chiếm tỷ trọng quá khiêm tốn so với khả năng thăm dò khai thác dầu khí còn non trẻ và đầy triển vọng của Việt Nam, so với nhu cầu nhập khẩu dầu thô hàng năm của Mỹ (lên tới 78 tỷ USD), so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (chỉ chiếm 4,9% năm 1999). Mặt hàng dệt may. Hoa Kỳ là nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu mặt hàng may mặc. Hàng năm Hoa kỳ nhập khẩu khoảng 50-60 tỷ USD hàng may mặc và hàng dệt. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang thị trường Hoa Kỳ tăng dần lên qua các năm, tăng từ 19,74 triệu USD năm 1994 (chiếm 9,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ) lên tới 26,34 triệu USD năm 1998 (chiếm 5,6%) và đạt 49,57 triệu USD năm 2000 (chiếm 6,8%). Giá trị xuất khẩu hàng dệt may tăng đều lên trong các năm qua đã chứng tỏ hàng dệt may của Việt Nam đang được thị trường Hoa Kỳ tiếp nhận và có nhiều hứa hẹn, mặc dù còn nhỏ bé so với tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước trong khu vực như Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông (chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào thị trường Hoa Kỳ). Một trong những đặc diểm của ngành dệt may Việt Nam là trong vòng 10 năm qua là các công ty Việt Nam chủ yếu làm gia công cho các công ty nước ngoài, lấy công làm lãi , phần lớn nguyên phụ liệu là do các công ty nước ngoài đưa vào , một phần là do nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được hoặc chất lượng thấp. Còn lượng hàng các công ty may xuất khẩu vủa ViệtNam tự lo nguyên liệu, bán thành phẩm còn rất hạn chế. Đây cũng là tình hình chung của các nước như Hàn Quốc, Đầi Loan, Thái Lan Cho đến nay, kim ngạch dệt may trong tình hình xuất khẩu chung của Việt Nam vào Hoa Kỳ đã tăng nhanh hơn các mặt hàng khác. Theo dự đoán, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này có thể tăng nhanh khi Hiệp định thương mại đưa vào hoạt động . Thời gian đầu khi hiệp địnhcó hiệu lực, mặt hàng này không bị khống chế bởi hạn ngạch nên các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng cơ hội dể mở rộng thị trường . Theo nhiều chuyên gia , ngay trong một vài năm đàu tiên, nếu được chuẩn bị tốt, khim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Namvào Mỹ có thể lên toéi gần 1 tỷ USD/năm. Nhưng sau đó , Mỹ sẽ áp dụng hạn ngạch đối với mặt hàng này . Do đó , dự đoán vào năm 2005 , kinh ngạch chỉ có thể đạt mức tối đa là 1,5 tỷ USD Mặt hàng gạo Hoa Kỳ hiện đang là nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới sau Thái Lan và Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ vẫn nhập khẩu gạo để tái xuất khẩu hay để thực hiện những hợp đồng về viện trợ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tăng giảm bất thường trong hoạt động nhập khẩu gạo từ Việt Nam của Hoa Kỳ. Bên cạnh việc hạn chế về chất lượng gạo xuất khẩu: ít được chế biến, hạn chế ở các khâu sấy và bảo quản, các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường Hoa Kỳ nên chưa có được các bạn hàng tin cậy, thường phải xuất khẩu qua trung gian nên không chủ động được trong tiêu thụ. Sở dĩ giá trị xuất khẩu gạo sang Hoa Kỳ năm 1999 giảm một cách đột ngột so với năm 1998 (từ 39,03 triệu USD xuống chỉ còn 4,5 triệu USD) chủ yếu do giá gạo trên thị trường thế giới giảm mạnh gây bất lợi cho hoạt động xuất khẩu.Vì vậy, các nhà xuất khẩu hạo của ViệtNam cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và thấy rằng thị trường nhập khẩu gạo của Hoa Kỳ vẫn cón rộng mở đối với Việt Nam. Nếu muốn chiếm được thị trường này thì phải nâng cao chất lượng gạo, đặc biệt chú trọng khai thác gạo dặc sản như tám thơm, nàng hương . Hoa Kỳ cũng rất chú trọng yếu tố về thời gian giao hàng , đây cũng là yếu tố cạnh tranh trong các hợpđộng xuất khẩu gạo của Hoa Kỳ Mặt hàng rau quả. Mặc dù là nước có nền nông nghiệp lớn trên thế giới và có nhiều loại rau quả với sản lượng lớn, nhưng Hoa Kỳ cũng là nước nhập khẩu rau quả lớn nhất thế giới. Hoa Kỳ nhập khẩu hầu hết các loại rau quả tươi, bảo quản lạnh và chế biến (bình quân nhập khẩu 2 tỷ USD/năm). Trong những năm gần đây, mặc dù kim ngạch xuất khẩu hoa quả của Việt Nam sang Hoa Kỳ có xu hướng tăng lên, nhưng chưa nhiều (mới chỉ đạt 5 triệu USD năm 2000) và chưa thật ổn định. Sở dĩ kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ từ 11,6 triệu USD năm 1997 xuống còn 2,8 triệu USD năm 1998 là do ảnh hưởng một phần của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã làm cho đồng tiền của Việt Nam mất giá so với USD Mỹ. Mặt khác do khả năng cạnh tranh của hàng rau quả Việt Nam chưa cao, giá cả và chất lượng chưa thực sự phù hợp với yêu cầu của ngưòi tiêu dùng. Mặt khác, do các đối thủ cạnh tranh như Philippines, Indonesia, Thailand là những nước được hưởng quy chế tối huệ quốc của Hoa Kỳ, do đó thuế suất đánh vào mặt hàng rau quả nhập khẩu vào Hoa Kỳ của họ thấp hơn rất nhiều so với thuế suất đánh váo hàng Việt Nam. Các mặt hàng rau quả xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu là dứa (chiếm tới hơn 90% trong tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả) và một số mặt hàng khác như long nhãn, dừa đông lạnh, đu đủ.v.v... Ngoài những mặt hàng kể trên, các mặt hàng xuất khẩu quan trọng khác của Việt Nam sang Hoa Kỳ là giầy dép, tất, sản phẩm nhựa và cao su... Như vậy, kể từ khi Hoa Kỳ chính thức xoá bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, hàng hoá của Việt Nam đã được xuất khẩu sang thị trường này với tốc độ tăng trưởng khá. Các mặt hàng và các đối tác tham gia xuất khẩu cũng không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được thì xuất khẩu của ta sanh Hoa Kỳ còn nhiều hạn chế bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, yêu cầu Nhà nước và các doanh nghiệp cần phải có các giải pháp để đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu sang thị trường này trong thời gian tới. 3. Những vấn đề đặt ra từ việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ. Những thành công đạt được. Mặc dù thị trường Hoa Kỳ là thị trường tương đối mới mẻ và được đánh giá là dường như quá rộng lớn và phức tạp đối với các doanh nghiệp Việt Nam nhưng trong thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành công đáng khích lệ. Trước hết cần ghi nhận sự gia tăng nhanh chóng cả về số lượng và giá trị các mặt hàng thâm nhập được vào thị trường Mỹ. Đạt được kết quả như vậy, một mặt do phía Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu một số mặt hàng miễn thuế vào Hoa Kỳ như cà phê, chè, nông sản, hải sản và một số mặt hàng có thuế suất thấp như hàng may mặc. Mặt khác, hàng hoá Việt Nam đã được cải tiến theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh khi tham gia vào thị trường Hoa Kỳ - một thị trường có tính cạnh tranh quyết liệt nhất với sự có mặt của hàng hoá từ khắp nơi trên thế giới Kinh nghiệm thâm nhập thị trường nước ngoài nói chung và thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam đã tăng lên đáng kể biểu hiện qua kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên không ngừng. Một ưu điểm nữa là các doanh nghiệp Việt Nam đang dần dần đứng vững trên thị trường Mỹ và từng bước thâm nhập sâu hơn vào thị trường này. Nếu như trước cấm vận, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ thông qua một nước trung gian thì trong giai đoạn tiếp theo đã có nhiều hình thức như bán hàng trực tiếp cho các nhà nhập khẩu Mỹ, tiến hành liên doanh, liên kết với nước ngoài,thực hiện gia công cho các đơn đặt hàng của Mỹ, dựa vào những nhà nhập khẩu từ nước thứ ba...Các doanh nghiệp Việt nam ngày càng tham gia nhiều vào các hội chợ, triển lãm quốc tế, nhất là được tổ chức tại Mỹ, thành lập các văn phòng đại diện tại Mỹ... Việc thâm nhập thị trường Mỹ còn giúp các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, thu hút được các công nghệ tiên tiến, học tập kinh nghiệm quản lý, nâng cao uy tín và khả năng thâm nhập thị trường ở nhiều cấp độ hàng hoá khác nhau, từ phổ thông tới cao cấp. Từ đó sẽ giúp ích cho họ trong việc tăng hiệu quả kinh doanh không chỉ trên thị trường Mỹ. Những mặt hạn chế. Bên cạnh những mặt làm được, hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Mỳ thời gian qua còn có rất nhiều mặt hạn chế. Thứ nhất, mặc dù có sự gia tăng về số lưọng và giá trị mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ nhưng nhìn chung qui mô hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ còn nhỏ bé, chưa tương xứng với khả năng của Việt Nam và qui mô của thị trường Mỹ.Tuy vị trí xếp hạng có nhiều tiến bộ, nhưng Hoa Kỳ chỉ xếp thứ 6 trong các thỉtường xuất khẩu lớn nhất của Việt nam(Theo số liệu thống kê của Bộ thương mại năm 1998). Năm 200, mặc dù Việt nam đã cố gắng nâng được tổng giá trị ngoại thương với Hoa Kỳ lên trên 1,2 tỷ USD nhưng nếu so với từng nước trong khu vực thì vị trí của Việt Nam còn khiêm tốn, chỉ chiếm 5,07% tổng khả năng xuất khẩu của Việt Nam. Hàng hoá của Việt Nam chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với nhu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ. Ví dụ như hàng giầy dép , năm 2000 tỷ trọng xuất khẩu chiếm tới 28% tổng giá trị nhập khẩu nhưng chỉ chiếm 0,1% nhu cầu nhập khẩu của thị trường Hoa Kỳ. Thuỷ sản năm 1999, cũng chỉ chiếm 0,55 trên thị trường Mỹ. Trong khi đó đối với một số nước trong ASEAN thì Mỹ là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất.(bảng 4) Bảng 4: Vị trí và tỉ lệ của Hoa Kỳ trong giá trị xuất khẩu của 4 nước ASEAN năm 1999 Tên nước Tổng giá trị XK (triệu USD) Vị trí và tỷ lệ Số 1 Tỷ lệ (%) Số 2 Tỷ lệ (%) Singapore 114.723 Mỹ 19,2 Malaysia 16,6 Malaysia 84.302 Mỹ 23 Singapore 17 Indonesia 55.979 Nhật Bản 19,7 Mỹ 16,5 Philippin 32.706 Mỹ 35,3 Nhật Bản 14,3 Nguồn: ADB, trích lại từ Tạp chí Kinh tế Châu á -TBD số 4/99 Thứ hai, hàng Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là mặt hàng thô, mức độ gia công chế biến trong nước thấp, các mặt hàng sử dụng nhiều lao động, hàm lượng công nghệ, chất xám thấp. Về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm của ta lại chưa cao, trong một số trường hợp không đáp ứng được các tiêu chuẩn kiểm định ngặt nghèo của Mỹ nên đã bị tái xuất, hoặc chưa hấp dẫn được người tiêu dùng.Việc đổi mới kiếu dáng, chủng loại sản phẩm ít được các doanh nghiệp quan tâm, chú trọng. Mỹ là một thị trường đòi hỏi cao và nghiêm ngặt về chất lượng hàng hoá. Đây là một khó khăn cơ bản của các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường này.Các doanh nghiệp Việt Nam là những người đến sau so với các đối thủ khác trên thị trường, khả năng cạnh tranh còn thấp, còn chịu ảnh hưởng quá lâu của cơ ché cũ nên việc xâm nhập các thị trường mới còn lúng túng. Viẹc thành lập các chi nhánh các đại diện, sử dụng hình thức đại lý bán hàng thiết lập mạng lưới phân phối riêng cho daong nghiệp trên thị trường Mỹ còn rất hạn chế. Theo Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam thì trong 2 ngành mà Việt Nam có khả năng thâm nhập mạnh nhất vào thị trường Mỹ là dệt may và thuỷ sản thì tỷ lệ doanh nghiẹp có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất thấp. Cụ thể chỉ có khoảng 50 trong tổng số 300 thành viên của Hiệp hội dệt may và 60-70 trong tổng số hàng trăm thành viên của ngành thuỷ sản là có được năng lực này Thứ ba, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Quá trình thâm nhập vào thị trường Mỹ đã bộc lộ ra các điểm còn yếu của các doanh nghiệp Việt Nam. Đó là quy mô về vốn, năng lực sản xuất, khả năng thu gom hàng của các doanh nghiệp còn nhỏ, thấp và khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp còn kém nên khó đáp ứng được các đơn đặt hàng của các doanh nghiệp Mỹ vốn luôn lớn về số lượng lại đòi hỏi thời gian giao hàng rất ngắn. Do đó dẫn đến việc các doanh nghiệp thường bị ép giá, giao hàng không đúng thời hạn, không đúng thời điểm (mùa vụ). Thứ 4: Quan hệ kinh tế – thương mại Việt Mỹ còn chịu ảnh hưởng của những yếu tố chính trị bất lợi do một số thế lực thù địch ở Mỹ tạo ra. Dẫn chứng là gần đây đồng thời với việc phê chẩn Hiệp định thương mại Việt Mỹ, Hạ nghị viện Mỹ cũng đã thông qua cái gọi là “Đạo luật nhân quyền Việt Nam “ với mục đích gắn việc thực thi hiệp định này với những điều kiện chính trị do Mỹ áp đặt. Việc làm sai trái này đã bịViệt Nam , dư luận quốc tế và ngay cả dư luận Nỹ cực liệt lên án. Bên cạnh đó gần đây còn diễn ra một số sự kiên không có lợi cho việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa hai nước nói chung và hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ nói riêng Cuối cùng, hệ thống luật pháp của Hoa Kỳ rất phức tạp và mỗi bang lại có thể lệ riêng nên không thể chủ quan áp dụng từ thị trường này sang thị trường kia. Các sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm thường gặp phải nhiều quy định cụ thể của chính quyền các bang, trong khi đó những mặt hàng này lại là những mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam. Hiện nay, do thị trường Mỹ là thị trường mới mẻ, việc thiếu thông tin về thị trường này cũng đang là trở ngại lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam và không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng tài chính để làm việc này. Hơn nữa, theo đánh giá của Bộ Thương mại, các cơ quan Thương vụ Việt Nam hoạt động chưa hiệu quả, chưa thực sự là cầu nối thường xuyên cho các hoạt động thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp trong nước. c. Nguyên nhân. Các hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Những nguyên nhân khách quan nằm ngoài khả năng kiểm soát của chúng ta, là điều mà các doanh nghiệp phải chấp nhận và tìm cách vượt qua; còn những nguyên nhân chủ quan là cái chúng ta có thể khắc phục được. Theo cách xem xét này ta có thể chia thành nguyên nhân từ phía Nhà nước và nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp. Về phía Nhà Nước: Việt Nam chưa được hưởng Quy chế Tối huệ quốc (MFN) hay Quy chế về quan hệ buôn bán bình thường (NTR) mà Mỹ dành cho phần lớn các bạn hàng thương mại của mình. Do chưa được cấp quy chế Tối huệ quốc nên hầu hết hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ phải chịu mức thuế rất cao. ở mức thuế suất khoảng 40%, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm của Việt Nam với các sản phẩm cùng loại của các nước khác là rất khó. Hàng hoá của Việt Nam sẽ không hấp dẫn đối với các nhà kinh doanh Mỹ cho dù có thể đạt được tiêu chuẩn của thị trường Mỹ. Điều này dẫn đến sự hạn chế trong quy mô xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang thị trường Mỹ Nhà nước chưa xây dựng một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế, chưa có định hướng rõ ràng về các sản phẩm mũi nhọn và thiếu các giải pháp đồng bộ về thị trường, về công nghệ, về đầu tư,...; các đòn bẩy kinh tế và các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu chưa được thực hiện theo một kế hoạch tổng thể, do đó làm giảm đi hiệu lực và tính tương hỗ của chúng cho hoạt động thâm nhập thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp. Về phía Doanh nghiệp: Trước tiên cần khẳng định rằng hoạt động thâm nhập thị trường nước ngoài là công việc của các doanh nghiệp, Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ, điều tiết bằng các công cụ vĩ mô. Do đó những hạn chế trên phần nhiều là do khả năng về vốn, khả năng cạnh tranh, năng lực công nghệ, quản lý, kinh nghiệm kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp sau một thời gian dài hoạt động trong cơ chế bao cấp. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn ít hiểu biết về luật pháp quốc tế, kỹ thuật kinh doanh đặc biệt là hệ thống luật pháp hết sức phức tạp, rắc rối và vô cùng chi tiết của Mỹ. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào giá cả; không chỉ khả năng thâm nhập thị trường mà khả năng bảo vệ thị phần của các doanh nghiệp cũng còn thấp. Các biện pháp thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, chưa đa dạng, mang tính thụ động, phần nhiều phải thông qua trung gian nên làm giảm lợi nhuận. Việc thành lập các chi nhánh bán hàng, sử dụng các đại lý bán hàng, thiết lập mạng phân phối riêng cho doanh nghiệp tại thị trường Mỹ còn rất hạn chế. Thiết bị công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, năng suất lao động thấp, trình độ quản lý yếu kém... là những nhân tố gây cản trở việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã sản phẩm và làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong các doanh nghiệp Việt Nam. 4. Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ: Cơ hội và thách thức với việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam. Khái quát về Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ . Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ ra đời là kết quả của một quá trình đàm phán lâu dài và kiên trì của cả hai bên qua 4 năm thương lượng với 9 vòng đàm phán. Về phương diện pháp lý, Hiệp định này dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế và các nguyên tắc của tổ chức thương mại quốc tế (WTO), có tính đến thực tế Việt Nam là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và đang hội nhập nền kinh tế và khu vực thế giới. Về phương diện nội dung, Hiệp định dài gần 120 trang, gồm 7 chương với 72 điều và 9 phụ lục, đề cập đến 4 nội dung chủ yếu: Thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và quan hệ đầu tư. Như vậy, có nghĩa là bản Hiệp định này, tuy được gọi là Hiệp định thương mại nhưng không chỉ đề cập đến lĩnh vực thương mại hàng hoá. Khái niệm “thương mại” ở đây được đề cập theo ý nghĩa rộng, hiện đại, theo tiêu chuẩn của WTO và có tính đến những đặc thù phát triển kinh tế của Việt Nam. Hiệp định được xây dựng trên khái niệm “Tối huệ quốc - MFN” (đồng nghĩa với quan hệ thương mại bình thương) mang ý nghĩa hai bên cam kết đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước kia không kém phần thuận lợi so với cách đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước thứ ba (đương nhiên không kể tới các nằm trong liên minh thuế quan hoặc khu vực mậu dịch tự do mà hai bên tham gia). Trong khuôn khổ của bài viết, ta chỉ đề cập đến Chương I về Thương mại hàng hoá gồm 9 điều, cam kết Tối huệ quốc được áp dụng cho thuế, hạn ngạch, quy trình cấp phép, quy tắc hải quan, phân phối hàng hoá. Tuy nhiên chương này có điều khoản loại trừ là hạn ngạch vẫn áp dụng cho hàng dệt may. Việc loại trừ cũng được áp dụng trong những quy tắc đặc biệt cho các nước thành viên trong khối mậu dịch hoặc buôn bán qua biên giới. Đối xử quốc gia trong chương này có nghĩa là không áp dụng các biện pháp thuế hay phi thuế để bảo hộ cho hàng trong nước cạnh tranh với hàng nhập. Ngựơc lại, cũng không được sử dụng các biện pháp (như vệ sinh an toàn thực phẩm) một cách quá đáng để ngăn chặn hàng nhập của nước kia. Chương I có những phụ lục quan trọng về lộ trình Việt Nam cam kết sẽ bỏ những hạn chế nhập khẩu nông sản, sản phẩm công nghiệp, lộ trình giảm thuế nhập khẩu cho nhiều mặt hàng của Mỹ. Những loại trừ trong các phụ lục cũng nhằm mục đích nhất quán đối với danh mục hàng cấm nhập, cấm xuất của Việt Nam mà phía Mỹ phải tuân thủ. Cơ hội cho xuất khẩu hàng hoá. Trước hết, lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ sẽ tăng nhanh do ta được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ được cắt giảm đáng kể tạo điều kiện cho việc mở rộng thị trường. Theo số liệu của Bộ Thương mại, trung bình mức thuế đánh vào hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ (40 mặt hàng) khi đã được MFN sẽ giảm từ 35,3% xuống còn 4,9%.(bảng 5) Bảng 5: Thuế xuất của Hoa Kỳ đối với hàng xuất khẩu Việt Nam khi có và không có tối huệ quốc (MFN). Đơn vị: % TT Loại hàng hoá Có MFN Không có MFN TT Loại hàng hoá Có MFN Không có MFN Gạo 1,7 6,5 Sản phẩm sữa 27,8 29,9 Lúa mỳ 3,5 10 Gạo đã chế biến 5,8 23,6 Ngũ cốc 0,6 4 Đường 10,3 20 Rau, quả hạt 5,4 20,8 Thực phẩm 5,5 19,2 Hạt có dầu 8,2 35,4 Sản phẩm đồ uồng và thuốc lá 16,8 92 Mía đường, củ cải 2,1 10 Hàng dệt 10,3 55,1 Sợi thực vật 0,3 1,6 Hàng may mặc 13,4 68,9 Sản phẩm cây trồng 2,8 18,2 Sản phẩm da 5,6 33 Bò, cừu, dê, ngựa 0,7 7,8 Sản phẩm gỗ 2,1 29,4 Sản phẩm động vật 1,2 5,6 Sản phẩm giấy in ấn 1,3 22,7 Len,tơ tằm 0 0,6 Sản phẩm dầu lửa, than 1,3 8,6 Lâm sản 0 1,7 Sản phẩm hoá chất, cao su , nhựa 4,3 41,6 Hải sản 0,4 3,9 Kim loại mầu 3,7 21,5 Than 0 0 Kim loại 3 28 Dầu lửa 0,2 0,6 Sản phẩm kim loại 3,6 28,9 Ga 0 0 Xe mô tô và phụ tùng 5,2 18,9 Khoáng sản 0,7 10 Thiết bị vận tải 3 28,4 Thịt bò, dê, ngựa 3,4 23,9 Thiết bị điện tử 2,8 34 Sản phẩm thịt khác 4,7 23,1 Máy móc, thiết bị 2,9 37,6 Mỡ và dầu thực vật 3,7 12,8 Hàng chế tạo 3,8 46,7 - Tiếp đó, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội cạnh tranh bình đẳng khi thâm nhập thị trường Mỹ. Việt Nam lại có lợi thế về những hàng hoá tận dụng được giá nhân công rẻ, đặc biệt là các sản phẩm như hàng dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến, hàng nông hải sản, linh kiện điện tử, đồ thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ gia dụng.... vốn là những mặt hàng được thị trường Mỹ ưa chuộng và có nhu cầu lớn. Những thách thức phải đối mặt. Bên cạnh những cơ hội, Hiệp định Thương mại cũng đặt ra những thách thức và khó khăn cho cả các nhà hoạch định chính sách và cho bản thân các doanh nghiệp Việt Nam, đó là: Sự khác biệt trình độ phát triển giữa hai quốc gia: Trình độ phát triển kinh tế giữa hai nước rất chênh lệch, lại có những điểm rất khác nhau về thể chế chính trị - xã hội, về quan niệm, về tập quán, sở thích và thị hiếu người tiêu dùng...Nếu không tính đến đầy đủ những nhân tố này thì rất có thể dẫn đến tư tưởng nôn nóng, sốt ruột, hoặc chủ quan hay cả bi quan trong khi giải quyết các mối quan hệ phát sinh khi kinh doanh với Mỹ. Yêu cầu cải cách hành chính và cải cách hệ thống luật pháp: Hệ thống luật pháp và chính sách của Việt Nam còn thiếu đồng bộ, thiếu ổn định, đôi khi còn chồng chéo và mâu thuẫn lẫn nhau có nhiều điểm không phù hợp với thông lệ quốc tế. Tính minh bạch và khả năng lường trước được của các văn bản pháp luật của Việt Nam còn thấp. Việc cải cách hệ thống luật pháp là một thách thức rất lớn đối với chúng ta vì quy mô và tính chất phức tạp của nó. Mỹ là nước có bề dày và kinh nghiệm kinh tế thị trường, trong khi Việt Nam mới chỉ có 15 năm, phong cách làm việc, quản lý trong kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn còn mang ảnh hưởng của cơ chế cũ cản trở việc làm ăn với một đối tác như Mỹ. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ và tại thị trường nội địa: Hiệp định thương mại Việt - Mỹ tạo điều kiện cho sản phẩm của Việt Nam có cơ hội cạnh tranh một cách công bằng và có hiệu quả trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, đây cũng là lúc các doanh nghiệp Việt Nam phải tham gia vào cuộc chơi chung với nền kinh tế toàn cầu, có nghĩa là phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt với các hàng hoá được xuất khẩu từ các quốc gia khác vào thị trường Mỹ, đặc biệt là với những chủng loại hàng hoá tưong tự của Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, các nước ASEAN và nhiều nước khác cũng đang được hưởng quy chế tối huệ quốc trên thị trường Mỹ và vốn đã có mặt tại thị trường này trước hàng Việt Nam vài chục năm. Phải nhìn nhận rằng, tính cạnh tranh về giá cả và chất lượng của sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam còn thấp, cộng thêm thời gian vận chuyển hàng hoá sang Mỹ dài ngày, chi phí lớn, sẽ làm giảm thêm khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Ngay tại thị trường nội địa, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với tâm lý thích tiêu dùng hàng ngoại của người tiêu dùng Việt Nam khi trên thị trường ngập tràn những sản phẩm có mẫu mã đẹp và chất lượng cao, đầy tính hấp dẫn của hàng hoá nhập khẩu từ Mỹ. Các doanh nghiệp cần suy tính thật kĩ, nếu không sẽ bị loại khỏi “cuộc chơi” - một cuộc chơi không dành chỗ cho các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Hoa Kỳ là một thị trường rất khó tính: Mỹ là một thị trường đầy tiềm năng, có nhiều điều kiện để phát triển song cũng rất khó tính. Hàng hoá đòi hỏi phải đáp ứng được cả nhu cầu về chất lượng và giá cả. Hơn nữa, Mỹ áp dụng rất nhiều quy định ngặt nghèo cho hàng nhập khẩu. Đó là những trở ngại phi thuế quan mà hàng hoá Việt Nam không dễ vượt qua. Nếu Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc mà chất lượng hàng hoá không tăng và giá cả không hạ hoặc phía Mỹ vẫn áp dụng các quy định nhập khẩu truyền thống thì việc tăng kim ngạch và cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường Mỹ là nan giải. Hệ thống luật pháp của Hoa Kỳ phức tạp, rắc rối: Trước hết luật pháp của Mỹ rất chặt chẽ, mọi vấn đề đều được luật hoá, trong đó, bộ luật về thuế rất chi tiết và tinh vi, ít ai có thể né tránh được dù dưới bất cứ hình thức nào. Hơn nữa, mỗi bang lại có những luật lệ và quy định riêng nên rất phức tạp, đòi hỏi nhà xuất khẩu phải tìm hiểu thật kĩ tất cả những vấn đề có liên quan để tránh những đáng tiếc xảy ra do không nắm vững luật. Trình độ phát triển công nghệ thông tin của Việt Nam còn thấp: Mỹ là quốc gia phát triển mạnh nhất thế giới về công nghệ thông tin. Do đó khi tham gia vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải làm việc với những đối tác có thể hiểu rõ về mình nhờ thông tin bằng nhiều nguồn, nhất là trên mạng. Trong khi đó, việc không nắm bắt được những thông tin về thị trường Mỹ vẫn đang là trở ngại lớn cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam. Điều đó cho thấy, như một thứ quyền lực đang trỗi dậy với tốc độ nhanh chóng, phát triển công nghệ thông tin - một tất yếu để bước vào kinh tế tri thức - đang là thách thức to lớn đối với Việt Nam. Gian lận thương mại: Vấn đề gian lận thương mại giữa các nước cũng được coi như là một thách thức đối với Việt Nam khi được hưởng quy chế tối huệ quốc. Khi đó nếu được Mỹ áp dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) đối với hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ thì sẽ xảy ra tình trạng hàng hoá một số nước mạo danh là hàng của Việt Nam để được hưởng ưu đãi. Trong khi giá thành sản xuất của những nước này thấp hơn nhiều so với hàng của Việt Nam nên có khả năng chiếm lĩnh thị trường Mỹ hơn. Hơn nữa nếu hàng sản xuất đó chất lượng không đảm bảo sẽ gây mất uy tín của hàng hoá Việt Nam đối với thị trường Mỹ, gây tác hại nghiêm trọng ảnh hưởng đến ngoại thương giữa Việt Nam - Hoa Kỳ. Để chống gian lận thương mại, hai bên phải tìm ra các biện pháp hữu hiệu như các hoạt động kiểm tra trên cơ sở giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Phần III : Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Những kiến nghị đối với Nhà nước: a. Tiếp tục củng cố mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đóng một vai trò quan trọng đối với nền thương mại của Việt Nam nên việc bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò tích cực vào việc tăng cường vị thế của Việt Nam trên thế giới, tạo thế thuận lợi cho Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết để hàng hoá Việt Nam có thể xâm nhập được vào Mỹ và thị trường thế giới. Trong thời đại hiện nay, chính trị và kinh tế luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Các quan hệ tốt đẹp về chính trị là tiền đề cho các mối quan hệ về kinh tế phát triển. Vì vậy, việc Nhà nước Việt Nam tiếp tục phát triển mối quan hệ như thế nào với Mỹ có ảnh hưởng trực tiếp và rõ nét đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ. b. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại giữa hai quốc gia. Thường xuyên cung cấp các thông tin cập nhật về thị trường Mỹ cho các doanh nghiệp Việt Nam và ngược lại. Các thông tin ở đây bao gồm các thông tin về hệ thống luật pháp, về thị trường, về giá cả, cạnh tranh, những biến đổi trong nhu cầu tiêu dùng...đặc biệt là cho các doanh nghiệp Việt Nam lần đầu tiên kinh doanh ở thị trường Mỹ. Để làm tốt điều này đòi hỏi phải có sự nỗ lực của các cơ quan tham tán thương mại. Các cơ quan này cần chú trọng tìm hiểu và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, đảm bảo tính nhanh nhạy và chính xác, giúp cho các doanh nghiệp có thể đáp ứng kịp thời những thay đổi của thị trường và nắm bắt được những nhu cầu mới phát sinh. Mặt khác, Nhà nước có thể xem xét cho phép các doanh nghiệp Việt Nam thành lập các văn phòng đại diện theo từng khu vực địa lý lớn ở Mỹ đẻ củng cố và phát triển thị trường, hoặc các hiệp hội của mỗi ngành phải thực sự hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các thông tin mới. c. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, các chính sách và công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu. Về mặt pháp lý thì công việc trung tâm sẽ công tác soạn thảo, ban hành mới và sửa đổi , bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật nhằm phù hợp và đẩy nhanh quá trình thực thi hiệp định. Việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu phải ngày càng được cải tiến và hoàn thiện theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Nhà nước cũng cần sắp xếp thành lập và đổi mới hoạt động của các bộ phận thương vụ, đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài, cụ thể là ở Mỹ nhằm xúc tiến được các cơ hội làm ăn cho các doanh nghiệp Việt Nam, gắn với nhu cầu tiếp thị và hiệu quả của các doanh nghiệp. d. Hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Mặc dù nước ta đã có nhiều thành công trong việc xây dựng hệ thống tín dụng, tuy vậy mới chỉ đáp ứng được khoảng hơn 60% nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất khẩu, trong khi đó, tại các ngân hàng tình trạng ứ đọng vốn vẫn diễn ra. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp nói chung vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi khắt khe về tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn nên khó tiếp cận được nguồn vốn này.Vốn tín dụng không chỉ cần cho khâu sản xuất, mà còn rất quan trọng đối với lưu thông và phân phối, đặc biệt là đối với hoạt động xuất khẩu nông sản. Những người thu mua, đại lý, đầu mối tiêu thụ nông sản khi vào vụ mùa thu hoạch cần có một lượng vốn lớn để thu mua và thanh toán kịp thời sản phẩm của người sản xuất. Với hệ thống tín dụng nông thôn như hiện nay, chúng ta khó có thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn lớn đến vài trăm triệu trong thời gian ngắn vào mùa vụ. Do vậy, nhiều hộ nông dân, hộ kinh doanh vẫn chưa tiếp cận được nguồn vay của các tổ chức tín dụng chính thức, phải vay ở thị trường không chính thức với lãi suất cao. Muốn tránh được tình trạng này, cần phải tăng vốn cho khu vực nông thôn, tăng tỷ trọng vốn cho vay trung hạn và dài hạn (tối thiểu phải từ 5 đến 10 năm), không phân biệt tín dụng giữa các khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh để hộ nông dân có thể vay vốn từ các tổ chức tín dụng chính thức. Đơn giản hoá các thủ tục cho vay và giảm bớt các giấy tờ cần kiểm tra khi cho vay, nhất là đối với người nông dân. Nông sản là một hàng hoá có giá trị rất không ổn định, lên xuống thất thường trên thị trường thế giới. Việc lập các Quỹ phòng ngừa rủi ro riêng cho từng ngành hàng nông sản để hỗ trợ giá cả, hạn chế bớt các rủi ro cho hàng hoá này là thực sự cần thiết, nhất là một số nông sản chủ lực có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê... sang các nước nói chung, Hoa Kỳ nói riêng. Nhưng ngoài sự hỗ trợ giá của quỹ này, cũng nên có sự hỗ trợ về vốn cho các nhà sản xuất và chế biến hàng nông sản thông qua Quỹ tài trợ xuất khẩu được xây dựng bằng các nguồn vốn khác nhau từ ngân sách Nhà nước và đóng góp của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản. Quỹ này cần hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng khác, để tránh tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp . e. áp dụng các biện pháp khuyến khích bằng vật chất đối với hoạt động xuất khẩu. Đặc biệt là đối với những mặt hàng có tỷ trọng chế biến cao, tránh xuất khẩu hàng hoá nguyên vật liệu thô hoặc chưa qua chế biến. Thời gian qua, do không có công nghệ chế biến và bảo quản nên chúng ta chủ yếu xuất khẩu sản phẩm ở dạng thô. Điều này gây không ít thiệt hại cho các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Từ thực tế xuất khẩu hàng Việt Nam sang thị trường Mỹ trong thời gian qua, Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ và đồng bộ cho các doanh nghiệp đầu tư công nghệ, thiết bị để có thể nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Tiếp tục áp dụng chính sách thưởng xuất khẩu cho những mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn và những mặt hàng có xu hướng thị hiếu tăng mạnh trong tương lai. f. Thành lập Ngân hàng dữ liệu công nghệ và áp dụng chế độ đăng kí kiểm tra chất lượng bắt buộc đôí với hàng xuất khẩu. Để giải quyết các khó khăn về chất lượng của hàng hoá Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ thì nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ thông qua cung cấp các thông tin về công nghệ và áp dụng chế độ đăng ký, kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng xuất khẩu. Việc áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng xuất khẩu sẽ vừa thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề nghệ (đặc biệt là công nghệ sạch), vừa nâng cao uy tín cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ nói riêng và thị trường thế giơí nói chung. Chất lượng hàng hoá xuất khẩu có thể được nâng cao, từ đó tạo ra sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam bằng cách áp dụng chế độ kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như dệt may, thủy hải sản. 2. Những kiến nghị đối với các doanh nghiệp. a. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu luật pháp, thị trường và thị hiếu tiêu dùng của người Mĩ. Như đã trình bày ở phần trên, một trong những nguyên nhân hạn chế hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ là do thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trường này. Do đó để vào được thị trường Mỹ, các doanh nghiệp cần nắm chắc hệ thống luật pháp và hệ thống quản lý xuất nhập khẩu của Mỹ. Các doanh nghiệp Việt Nam nên sử dụng luật sư và các dịch vụ tư vấn về pháp luật để tránh những sai lầm do ít am hiểu về luật. Họ sẽ đưa ra những lời khuyên, những hướng dẫn bổ ích giúp doanh nghiệp có được những cân nhắc và đưa ra các quyết định đúng đắn để không những tránh được các rủi ro về pháp luật mà còn có thể lợi dụng được những ưu đãi trong luật pháp của Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp cần tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác thông tin thường xuyên, trực tiếp tiếp xúc với thị trường Hoa Kỳ thông qua các cuộc hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế ở cả trong nước và ở Hoa Kỳ, nắm bắt được những thông tin về nhu cầu, thị hiếu và thu nhập của khách hàng. b. Chuẩn bị tốt về chiến lược mặt hàng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Trước mắt, trên cơ sở tận dụng lợi thế về nguyên liệu, về lao động, chúng ta nên tập trung vào các ngành phù hợp với khả năng đầu tư hiện nay của Việt Nam. Khi đã tích lũy đủ điều kiện về vốn, công nghệ thì chúng ta chuyển hướng sang các ngành có hàm lượng cao về công nghệ và vốn. Các doanh nghiệp Việt Nam phải xác định những mặt hàng có thể xuất khẩu sang thị trường Mỹ, đặc biệt lưu ý đến 3 nhóm hàng mà ta có khả năng sản xuất và xuất khẩu nhất. Nhóm 1: Là thực phẩm, thức ăn gia súc và đồ uống gồm thủy sản, trái cây tươi, nước quả cô đặc, rau, cà phê nhân,...(hàng năm Mỹ nhập khẩu từ 41 đến 45 tỷ USD nhóm hàng này). Nhóm 2 : Là hàng tiêu dùng gồm đồ gỗ gia đình, hàng dệt may, giày dép...(hàng năm Mỹ nhập khẩu khoảng 220 tỷ USD nhóm hàng này). Nhóm 3 : Là nguyên liệu, vật liệu công nghiệp gồm ...(hàng năm Mỹ nhập khẩu khoảng 200 đến 250 tỷ USD nhóm hàng này). Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng cần lưu ý vì những mặt hàng nhập khẩu vào nước Mỹ còn được chia thành 2 nhóm dễ nhập khẩu và khó nhập khẩu. Việc quan tâm đến sự phân chia này giúp các doanh nghiệp xác định được đúng đắn chiến lược hàng xuất khẩu của doanh nghiệp mình và có những bước chuẩn bị cần thiết và cẩn thận khi tiến hành xuất khẩu. Nhóm hàng dễ nhập khẩu: những sản phẩm này nhập khẩu vào Mỹ có thủ tục đơn giản, ít phụ thuộc quy định hạn chế, cấm cản liên quan đến giấy phép, thủ tục hải quan: đồ gia dụng, đồ dùng nấu ăn, tác phẩm nghệ thuật (nguyên gốc), dao kéo, hoa nhân tạo, lông thú nhân tạo, đá chạm và đá quý, kính và các sản phẩm kính, đồ trang sức, các sản phẩm da thuộc (không phải là da lấy từ loài thú quý hiếm), dụng cụ thắp sáng đặt cố định, nhạc cụ, cao su và các sản phẩm chế từ cao su, các sản phẩm thể thao, ô che. Nhóm hàng khó nhập khẩu: dược phẩm, gia cầm và sản phẩm gia cầm, thịt gia súc và các sản phẩm của nó, động vật sống, thực phẩm chế biến, đồ chơi, hàng dệt may và các sản phẩm dệt may. Các mặt hàng này chịu nhiều thủ tục hải quan phức tạp, cần có xác nhận, có nhãn hiệu minh bạch, chịu sự kiểm tra nghiêm ngặt của luật bảo vệ và an toàn. c. Chủ động tìm kiếm nguồn hàng, bạn hàng, đối tác. Trên cơ sở xác định đoạn thị trường mục tiêu và mặt hàng xuất khẩu, doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm nguồn hàng, bạn hàng, tìm kiếm đối tác song song với việc tìm kiếm phương thức tiếp thị có hiệu quả. Các nhà nhập khẩu Mỹ thường có đơn đặt hàng lớn, lâu dài, nhiều khi họ mua luôn sản phẩm tại nguồn với hợp đồng vài năm trong khi đó quy mô của các doanh nghiệp Việt Nam thường là nhỏ vò thế các doanh nghiệp cần chú ý đến việc tìm kiếm, thu gom hàng trước khi ký kết hợp đồng. d. Không ngừng cải tiến mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm. Hàng Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu là lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng mà tiêu chuẩn của Hoa Kỳ đối với các mặt hàng này là rất cao, đòi hỏi phải đáp ứng những yêu cầu hết sức khắt khe về chất lượng. Để nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu đòi hỏi phải đầu tư đồng bộ, xây dựng mới và nâng cấp thiết bị cho các cơ sở sản xuất, hệ thống sơ chế, chế biến thành phẩm và kho bảo quản chuyên dùng. Do vậy, các doanh nghiệp phải huy động vốn từ các nguồn có thể như phát hành cổ phiếu hay trái phiếu, vay ngân hàng, huy động trong nội bộ doanh nghiệp...Kêu gọi đầu tư nước ngoài, liên doanh hoặc đầu tư tư nhân, cấp tín dụng trung và dài hạn để đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất, chế biến xuất khẩu sản phẩm chất lượng cao, bao bì đẹp và hấp dẫn. Các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm chỉnh khâu kiểm tra chất lượng hàng trước khi giao, đảm bảo hàng xuất đúng với yêu cầu đã ký kết trong hợp đồng. e. Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, khuếch trương sản phẩm, hàng hoá Việt Nam. Các biện pháp này có thể được thực hiện thông qua các hội chợ, triển lãm và đặc biệt qua mạng internet. Hiện nay thương mại điện tử tuy mới xuất hiện nhưng đang được phát triển rất nhanh chóng và đang trở thành một công cụ hỗ trợ kinh doanh rất đắc lực. Vì vậy, muốn hợp tác với Mỹ một cách nhanh chóng và hiệu quả, các doanh nghiệp Việt Nam không còn một con đường nào khác là phải tiếp cận một cách hợp lý, tạo môi trường kinh doanh thực sự, hình thành thương mại điện tử ở Việt Nam để hội nhập với thương mại điện tử thế giới. Để có thể hoạt động tốt trong thương mại điện tử, các doanh nghiệp cần xác định bước đi thích hợp trong sử dụng internet, cụ thể là: chuẩn bị làm việc trong môi trường tiếng Anh là chủ yếu, nhanh chóng làm quen và sử dụng các dịch vụ Internet như thư điện tử (email). Thông qua email, doanh nghiệp có thể truyền tải văn bản, hình ảnh và tương lai là cả video và âm thanh để giới thiệu về doanh nghiệp và sản phẩm cũng như tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng thông qua mạng. Tham gia trao đổi tin tức trên mạng internet, các doanh nghiệp có thể tham gia trao đổi theo một nhóm chuyên ngành hoặc theo chủ đề doanh nghiệp quan tâm. Bằng cách này, doanh nghiệp có thể tiến hành nghiên cứu thị trường, nghiên cứu sản phẩm, tiếp xúc với khách hàng. f. Tiến hành mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu. ở Mỹ, người tiêu dùng rất hay kiện cáo và có một đạo luật mà các nhà kinh doanh không thể bỏ qua, đó là Luật trách nhiệm sản phẩm. Theo đạo luật đó, nếu người sản xuất mà thua kiện liên quan đến chất lượng sản phẩm sẽ bị tịch biên tất cả tài sản ở thị trường Mỹ và không bao giờ có thể quay lại kinh doanh ở thị trường này. Vì vậy, biện pháp thiết thực và khôn ngoan nhất mà các nhà xuất khẩu Việt Nam nên làm trước khi bước vào thị trường Mỹ là mua bảo hiểm cho các thiệt hại về trách nhiệm sản phẩm. Loại bảo hiểm này không những bảo hiểm các rủi ro về trách nhiệm sản phẩm mà còn bảo hiểm các rủi ro khi quá cảnh qua biển và các loại rủi ro khác có liên quan. Hình thức bảo hiểm này là một loại chi phí khi tiến hành xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ. g. Tăng cường tham gia liên doanh liên kết, gia nhập các hiệp hội ngành hàng để hạn chế tình trạng hàng hoá Việt Nam bị ép giá trên thị trường Mỹ. Với 300-400 USD/năm, các công ty Việt Nam có thể tiếp xúc được với tất cả các thành viên của hiệp hội qua mạng, thư từ và họp mặt, thường xuyên được thông báo số liệu, tình hình kinh doanh, xu hướng giá cả, giúp giải đáp các vướng mắc về thủ tục kinh doanh. h. Sử dụng và phát huy lực lượng Việt kiều tại Mỹ. Việc thâm nhập vào thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thuận lợi hơn khi các doanh nghiệp biết tranh thủ lực lượng này. Hiện nay tại Mỹ, lực lượng người Việt Nam đang sống và làm việc khác đông đảo. Một số lớn trong họ là những người có trình độ khoa học cao do được tiếp xúc với nền công nghệ hiện đại, có sự am hiểu về luật pháp Mỹ và có tâm huyết, có năng lực. Đây sẽ là nguồn lực đáng kể cho các doanh nghiệp Việt Nam thu hút và khai thác triệt để trong việc hợp tác kinh doanh hoặc sử dụng làm môi giới, trung gian với các công ty Mỹ. Đồng thời với số lượng trên 2 triệu người đang sinh sống, làm việc tại Mỹ, lực lượng Việt kiều tại Mỹ cũng là một thị trường tiêu thụ đáng kể hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ và qua đó quảng bá hàng Việt Nam tới các cộng đồng người khác ở Mỹ. i. Tiếp thu và thích ứng với tác phong làm việc của người Mỹ. Đặc điểm nổi bật trong phong cách đàm phán của người Mỹ là đi thẳng vào vấn đề, bỏ qua các lời lẽ rườm rà để nhanh chóng định đoạt thương vụ. Vì vậy, khi đàm phán với các doanh nhân Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý những điểm sau đây: + Các doanh nghiệp Mỹ đều có bộ phận thu thập thông tin riêng và hoạt động quảng cáo bao giờ cũng đi trước khi định xâm nhập một thị trường mới. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị chu đáo, đầy đủ thông tin và kèm theo sản phẩm tốt của hãng mình khi đàm phán với Mỹ. + Người Mỹ làm việc rất đúng giờ, đặc biệt rất chính xác trong các cuộc hẹn , nên vì bất cứ lí do gì phải chậm trễ, phải tìm cách thông báo cho phía đối tác biết. Thời gian đối với họ là một công cụ, một nguồn lực để sử dụng vì vậy họ không muốn tiêu tốn thời gian cho những thứ chẳng liên quan gì đến công việc của họ, họ luôn mong muốn kết thúc đàm phán càng sớm càng tốt với một kết quả cụ thể. + Người Mỹ ưa sử dụng những câu từ đơn giản để đối tác có thể dễ dàng hiểu được những gì mà họ đang nói. Họ cố gắng đi thẳng vào vấn đề, không thích nói loanh quanh vòng vèo và luôn luôn nói cho đối tác biết cái họ cần ở thời điểm bắt đầu đàm phán. Họ luôn đưa ra một thông điệp rõ ràng “có” hoặc là “không”. Nói tóm lại, do chịu sự ảnh hưởng của văn hoá phương Tây, các doanh nhân Mỹ thường coi trọng các thành quả và khích lệ cá nhân, chủ nghĩa cá nhân được đánh giá rất cao ở Mỹ. Họ thường có xu hướng tối thiểu hoá sự khác biệt về địa vị và giai cấp trong xã hội. Họ thích hành động một cách tự do, thoải mái, không bị gò ép bởi các nghi thức kiểu cách hay những ràng buộc mang tính chất mô phạm. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu để nắm rõ sự khác biệt trong văn hoá đàm phán kinh doanh của người Mỹ, từ đó có sự điều chỉnh thích hợp nhằm thích ứng và thu được kết quả tốt nhất trong làm ăn với đối tác là các doanh nghiệp Mỹ. Kết luận Những thành tựu trong công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước ta trong suốt thời gian qua được nhân dân trong nước và bạn bè các nước đánh giá rất cao, trong đó có sự đóng góp của các hoạt động ngoại thương, giúp cải thiện đời sống nhân dân và đem nguồn lợi về cho đất nước. Với chủ trương mở cửa nền kinh tế, hợp tác trong kinh tế và tuân theo xu hướng hội nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế khu vực và thế giới, nước ta đã có quan hệ kinh tế, thương mại với rất nhiều quốc gia và lãnh thổ. Đặc biệt, việc thiết lập lại và củng cố mối quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ mà gần đây nhất là việc hai nước đã thông qua bản Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là việc làm rất đúng đắn, khép lại quãng thời gian “đau thương” của hai nước trong quá khứ để cùng nhìn về một tương lai tươi sáng mới. Một trang mới trong quan hệ thương mại giữa hai nước đã được mở ra, bằng mọi cố gắng để khắc phục những điểm yếu và tận dụng những thế mạnh của mình, Việt Nam sẽ khẳng định vị trí của mình trong quan hệ giao thương với Mỹ. Thực trạng quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ hiện nay thực sự chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước nhưng cũng báo hiệu những điểm sáng khả quan và đầy hi vọng. Trong một tương lai không xa, chúng ta sẽ đón nhận những thay đổi lớn và tích cực trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ, và việc hàng hoá Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều trên thị trường rộng lớn nhưng khó tính này không còn là điều xa vời nữa. Tuy nhiên để đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ nói riêng và thị trường thế giới nói chung thì còn rất nhiều những khó khăn vướng mắc. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực bản thân các doanh nghiệp động thời Nhà nước phải có những chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Nhà nước hay các bộ , các ngành , các cơ quan có liên quan phải cùng với doanh nghiệp cùng nhau bàn bạc tìm cách tháo gỡ khó khăn để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ và các nước khác , khai thác thị trường thế giới góp phần vào sự tăng trưởng bền vững của Việt Nam Do trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế , đồng thời bài viết chưa đưa ra được mô hình để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ vì số liệu không đầy đủ vì thế bài viết này chỉ nêu một số nét khái quát về quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và đặc biệt là hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ và những khó khăn tồn tại để đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Mỹ Bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót vì vậy em rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của thầy. Em xin chân thành cám ơn ! Hà nội ngày 30 tháng 4 năm 2002 Sinh Viên Bùi Việt Thái Tài liệu tham khảo Tạp chí Châu Mỹ ngày nay: số 3, số 6-1999; số 4, số 5-2000 Tạp chí Ngoại thương: 21-27/7/2000; 15-21/8/2000; 1-14/9/2000; 29/9-12/10/2000; 3-9/11/2000; 8-14/12/2000; 22-28/12/2000; 1-10/11/2001 Thời báo Kinh tế Việt Nam: số 121; số 125; số 126; số 128; số 130 năm 2000 Báo Thương mại: số 15; 18; 21; 22; 25; 26; 27 Báo Hải quan: số 81; số 86 năm 2001 Thời báo Kinh tế Sài gòn: số 44; số 46; số 49; số 51; số 52 năm 2000 Báo Thị trường: số 276-7/10/2001 Tạp chí Phát triển kinh tế: số 106/99; số 120/2000; số 126/2001 Tạp chí Kinh tế Châu á -TBD: số 3/2000; số 4/1999 Tạp chí Thông tin thương mại: 12/11/2001 Niên giám thống kê năm 2000, Bộ Thương mại Khái quát về nền kinh tế Mỹ, R. Mc Can, M. Perlman, United Stales Information Agency Hiệp định thương mại Việt Mỹ , tháng 7/2000 Đôi điều cần biết về nước Mỹ- tác giả: Lê Quang Huy, NXB. TPHCM Báo cáo kinh tế Việt Nam 1999,2000, viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW tháng 3/2001 Và nhiều nguồn thông tin khác . Mục lục Lời nói đầu tr 2 Phần I : Cơ sở lí luận Tầm quan trọng của xuất khẩu đối với quá trình phát triển Kinh tế A) Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế tr.3 B) Nhiệm vụ của xuất khẩu tr.5 C).Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu tr.6 2. Nội dung hoạt động xuất khẩu tr.10 A) Lập phương án kinh doanh tr.10 B) Tổ chức nghiên cứu thị trường tr.11 3. Sự cần thiết của việc thiết lập và phát triển mối quan hệ thương mại với Hoa Kì của Việt Nam. tr.15 A) Vai trò của thị trường Hoa Kỳ trong thương mại toàn cầu tr.16 B) Sự cần thiết của việc thiết lập và phát triển mối quan hệ thương mại với Hoa Kỳ của Việt Nam tr.17 PhầnII :Thực trạng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường hoa Kì. tr.21 1. Động thái thương mại Việt Nam Hoa Kỳ. tr.21 a) Giai đoạn cấm vận kinh tế tr.21 b) Giai đoạn sau cấm vận kinh tế tr.21 2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ. tr.23 a) Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ tr.23 b) Cơ cấu mặt hàng chủ yếu xuất khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ tr.25 3. Những vấn đề đặt ra từ việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ. tr.29 a) Những thành tựu đạt được tr.29 b) Những hạn chế tr.31 c) Nguyên nhân tr.33 4. Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ: Cơ hội và thách thức với việc xuất hàng hoá Việt Nam. tr.34 a) Khái quát về Hiệp Định thương mại Việt Nam –Hoa Kỳ tr.34 b) Cơ hội cho xuất khẩu hàng hoá tr.36 c) Những thách thức phải đối mặt tr.37 Phần III : Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. 1. Những kiến nghị đối với Nhà nước. tr.40 2 . Những kiến nghị đối với các doanh nghiệp. tr.43 Kết luận. tr.48 Tài liệu tham khảo. tr.50 Mục lục. tr.51

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV587.doc
Tài liệu liên quan