Chuyên đề Huy động vốn ở xí nghiệp xây lắp điện – Công ty Điện lực I

Tầm quan trọng và ý nghĩa của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì bất kỳ Doanh nghiệp nào hoặc các tổ chức kinh tế xã hội nào cũng nắm được: Vốn là đầu vào của quá trình kinh doanh và cũng là yếu tố không thể thiếu được trong công tác đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Vì vậy, tìm cách huy động vốn một cách hợp lý: hợp lý về cả lượng và hiệu quả cảu từng nguồn bao giờ cũng là một bài toán mà một Doanh nghiệp muốn phát triển ổn định bền vững cần phải quan tâm. Bên cạnh sự quan tâm chú trọng của Doanh nghiệp thì việc huy động vốn còn liên quan đến nhiều đối tượng khác như các đối tác, các tổ chức tín dụng trung gian, Nhà nước, người lao động,. Hay nói cách khác, là để giải quyết vấn đề huy động vốn, không chỉ là bản thân Doanh nghiệp mà còn yêu cầu đến sự chú trọng của các đối tượng hữu quan. Nó vừa là vấn đề vi mô, vừa là vấn đề vĩ mô. Đặc biệt trong tình hình hiện nay viẹc kinh doanh ngày càng sôi động, thì các Doanh nghiệp cần phải quan tâm hơn nữa đến công tác huy động vốn.

doc67 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1617 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Huy động vốn ở xí nghiệp xây lắp điện – Công ty Điện lực I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể hiện tiến độ cấp tiền và vật tư như sau: STT Nội dung công việc Giá trị tiền xin ứng Thời gian cấp tiền/vật tư Ghi chú 1 Thực hiện đào đúc móng 83.000.000 25/7/04 2 Thực hiện trồng cột 358.000.000 05/8/2004 Việc vận chuyển cột vào chân công trình do ĐTC đảm nhiệm 3 Thực hiện lắp xà, sứ 63.000.000 25/8/04 Xí nghiệp cấp sứ, đội thi công ứng tiền làm xà, lắp xà và sứ. 4 Thực hiện kéo rải dây lấy độ võng 380.000.000 30/8/04 Xí nghiệp cấp vật tư 5 Thực hiện Lắp đặt hòm công tơ 72.000.000 10/9/04 Xí nghiệp cấp vật tư 6 Thực hiện lắp đặt các thiết bị trạm 80.000.000 17/9/04 Xí nghiệp cấp vật tư 7 Thực hiện thí nghiệm hiệu chỉnh thiết bị 56.000.000 22/9/04 Thuê điện lực Thanh hoá làm 8 Tiến hành đóng điện, bàn giao công trình cho chủ đầu tư 25/9/04 Thực tế, các khâu và giai đoạn trên đã được tiến hành với tiến độ như sau: STT Nội dung công việc Giá trị tiền được ứng Thời gian cấp tiền/vật tư Số tiền bị thiếu so với yêu cầu Thời gian bị chậm so với hợp đồng( ngày) 1 Thực hiện đào đúc móng 83.000.000 30/7/04 5 2 Thực hiện trồng cột 250.000.000 15/8/04 108.000.000 10 3 Thực hiện lắp xà, sứ 32.000.000 7/9/04 31.000.000 12 4 Thực hiện kéo rải dây lấy độ võng 240.000.000 15/9/04 130.000.000 15 5 Thực hiện Lắp đặt hòm công tơ 22.000.000 30/9/04 40.000.000 20 6 Thực hiện lắp đặt các thiết bị trạm 53.000.000 7/10/04 17.000.000 14 7 Thực hiện thí nghiệm hiệu chỉnh thiết bị 46.000.000 22/10/04 0 30 8 Tiến hành đóng điện, bàn giao công trình cho chủ đầu tư 25/10/04 30 Theo điều khoản hợp đồng ký kết giữa 2 bên quy định: + Chậm trễ 10 ngày đầu phạt 2% giá trị hợp đồng kinh tế bị vi phạm +Chậm mỗi ngày tiếp theo phạt tiếp 0.8% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Phạt về chất lượng: +10% giá trị phần Hợp đồng kinh tế bị vi phạm về chất lượng Theo điều khoản này, tổng cộng số tiền Xí nghiệp phải nộp đền A là: 250.000.000*2%+32.000.000*(2%+0,8%*2)+240.000.000*(2%+0,8%*5)+22.000.000*(2%+0,8%*10)+53.000.000*(2%+0,8%*4) + 46.000.000*(2%+0,8%*20) = 33.788.000 đồng Mặt khác, do xí nghiệp không cung ứng vốn kịp thời cho đơn vị thi công nên đội phải đi tạm ứng vốn để thi công tiếp tục, với lãi suất 0.7%/ tháng, tổng số tiền lãi vay phải trả là: 356.000.000*0,7%= 2.492.000 đồng Vậy tổng cộng số tiền thiệt hại do không huy động vốn kịp thời làm chậm tiến độ thi công và phảI vay ngân hàng: 33.788.000+2.492.000= 36.280.000 đồng Trong khi, với tổng giá trị hợp đồng là 1.092.044.000 đồng, dự kiến tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu để đem lại lãi cho Xí nghiệp tối thiểu là 3% : 3%*1.092.044.000= 32.761.320 đồng. Vậy, sau khi thực hiện công trình này, Xí nghiệp đã bị lỗ: 36.280.000-32.761.320=3.518.680 đồng. Một phân tích nữa về công tác huy động vốn của Xí nghiệp: Phân tích về công tác huy động vốn cho công trình: Đường dây 110kV Tiên Yên Móng Cái ( Gói thầu số 6) Ta có bảng tiến độ thi công công trình này như sau: ( T. 67) Thực tế tiến độ thi công đã diễn ra như sau: STT Nội dung công việc Giá trị tiền được ứng Thời gian thực hiện ( ngày) Số tiền bị thiếu so với yêu cầu Thời gian bị chậm so với hợp đồng ( ngày) 1 Tổ chức lán trại, tập kết vật tư, giải phóng mặt bằng, bóc lớp thực vật ngăn lộ mở rộng 25 2 Thực hiện đào đúc móng, làm tiếp địa, lấp đất móng cột 250 (Tr,đ) 45 200 ( Tt.đ). 10 3 Vận chuyển cột vào vị trí, phát quang tuyến 120 ( Tt.đ). 45 30 ( Tt.đ). 0 4 Dựng cột sắt, dựng cột bê tông và lắp xà 110 ( Tt.đ). 45 0 15 5 Rải căng dây lấy độ võng dây dẫn dây chống sét tuyến ĐZK 400( Tt.đ). 30 120 ( Tt.đ). 15 6 Đổ nền, kè đá taluy, san nền, đầm nền trạm 170( Tt.đ). 50 0 10 7 Xây tường rào, xây mương cáp, làm đường, đào đúc móng cột, móng trụ 375( Tt.đ). 32 75 ( Tt.đ). 7 8 Dựng cột, lắp xà sắt, dựng trụ bê tông, kéo rải cáp điều khiển, lắp tủ điều khiển bảo vệ 1.550 ( Tt.đ). 15 400 ( Tt.đ). 10 9 Lắp đặt thiết bị ngăn lộ mở rộng 336. ( Tt.đ). 10 0 0 10 Thí nghiệm thiết bị hoàn thiện 150( Tt.đ). 15 54 ( Tt.đ). 10 11 Nghiệm thu, đấu nối, đóng điện, bàn giao 5 0 Giá trị Hợp đồng kinh tế ký kết giữa hai bên : 4.390.000.000 đồng. Theo điều khoản hợp đồng ký kết giữa 2 bên quy định: + Chậm trễ 10 ngày đầu phạt 2% giá trị hợp đồng kinh tế bị vi phạm +Chậm mỗi ngày tiếp theo phạt tiếp 0.8% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Phạt về chất lượng: +10% giá trị phần Hợp đồng kinh tế bị vi phạm về chất lượng Theo điều khoản này, tổng cộng số tiền Xí nghiệp phải nộp đền A là: 450.000.000*2%+40.000.000*(2%+ 0,8%*5)+570.000.000*(2%+0,8%*5)+170.000.000*2%+1.950.000.000*2% + 204.000.000*2% = 92.080.000 đồng Mặt khác, do xí nghiệp không cung ứng vốn kịp thời cho đơn vị thi công nên đội phải đi tạm ứng vốn để thi công tiếp tục, với lãi suất 0.7%/ tháng, tổng số tiền lãi vay phải trả là: 879.000.000*0,7%= 6.153.000 đồng Vậy tổng cộng số tiền thiệt hại do không huy động vốn kịp thời làm chậm tiến độ thi công và phảI vay ngân hàng: 92.080.000+6.153.000= 98.233.000 đồng Trong khi, với tổng giá trị hợp đồng là 4.390.000.000 đồng, dự kiến tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu để đem lại lãI cho Xí nghiệp tối thiểu là 3% : 3%*4.390.000.000= 131.700.000 đồng Vậy, sau khi thực hiện công trình này, số tiền lãi thu được thực tế là: 131.700.000-98.233.000=33.467.000 đồng. Đây là một điều hết sức đáng tiếc trong kinh doanh của đơn vị. Nó càng cho thấy Xí nghiệp có những bất cập rõ nét trong công tác huy động vốn của mình. Hai là hình thức huy động vốn chưa đa dạng, phong phú Mặc dù Xí nghiệp đã rất nỗ lực trong việc tìm kiếm nguồn vốn như đã nêu trên nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Ngoài các hình thức huy động truyền thống như sử dụng nguồn vốn tái đầu tư, vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác còn có những hình thức huy động vốn phù hợp khá hiệu quả mà Xí nghiệp chưa áp dụng chẳng hạn có thể vay qua phát hành trái phiếu hay vay công nhân viên chức, thuê mua…Trong đó vốn tái đầu tư và vốn vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vay. Tuy nhiên số vốn tái đầu tư thì phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tỷ lệ khấu hao, tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ trích lập quỹ đầu tư phát triển… nên không thể gia tăng một cách nhanh chóng. Mặc dù hiện nay vốn chủ sở hữu của Xí nghiệp đang tăng trưởng và sử dụng nguồn vốn này có đem lại hiệu quả nhưng xét về lâu dài nhu cầu vốn của Xí nghiệp rất lớn, vốn tự có không thể đáp ứng đủ nhu cầu phát triển đòi hỏi Xí nghiệp phải huy động từ những nguồn mới . Xí nghiệp hiện đang sử dụng các nguồn vay ưu đãi để đáp ứng số vốn thiếu song nếu chỉ dựa vào các nguồn này thì vẫn chưa đủ và còn chịu lệ thuộc. Sự đa dạng hoá đối với các hình thức huy động vốn sẽ giúp Xí nghiệp chủ động hơn trong hoạt động của mình. Đây cũng là mục tiêu phấn đấu của Xí nghiệp nói riêng và của ngành điện nói chung. b, Nguyên nhân + Nguyên nhân chủ quan - Nhiệm vụ, lĩnh vực kinh doanh của Xí nghiệp . Như trên đã nói, là loại hình Xí nghiệp xây lắp nên sản phẩm của Xí nghiệp không giống nhiều ngành nghề khác. Thứ nhất, nó là sản phẩm mang tính chất liên nghành. Thứ hai, nó được sản xuất trong một thời gian dài và thứ ba, giá thành của sản phẩm rất cao. Nhưng không vì thế mà Xí nghiệp chỉ làm ít sản phẩm, mà Xí nghiệp liên tục mở rộng thị trường bằng phương pháp đấu thầu. Bên cạnh đó, là phải cố gắng đảm bảo hoàn thành kế hoạch trên giao. Tuy nhiên, giới hạn về vốn chủ sở hữu là quá nhỏ bé và không thể đảm bảo được nhu cầu về vốn. Do vậy, giữa Xí nghiệp và bạn hàng cũng như vốn nhà cung ứng đã tiến hành phương thức tín dụng thương mại. Vì giá thành một công trình xây lắp thường rất cao và công tác nghiệm thu quyết toán chậm, nên nợ phải trả và khoản người mua đặt trước chiếm một tỉ trọng lớn trong nguồn vốn và cũng là phương thức huy động vốn chủ yếu của Xí nghiệp hiện nay. - Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao và chưa được chú trọng. Như đã đề cập ở trên, mặc dù doanh thu của Xí nghiệp có tăng nhưng chi phí tương ứng cũng tăng lên với tốc độ cao hơn làm cho lợi nhuận giảm. Lợi nhuận giảm 45% so với năm 2003 làm cho vốn tự bổ sung giảm theo. Đây là một nguyên nhân rất quan trọng ảnh hưởng đến nguồn vốn của Xí nghê, đặc biệt là vốn tái đầu tư. Một trong những nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, thể hiện: Bảng 2.15: một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Chỉ tiêu N 2003 N 2004 N 2005 1. Vòng quay tồn kho = Doanh thu/giá trị tồn kho 1 2 1,5 2. Hiệu suất sử dụng TSCĐ=DT/VCĐ 13,36 17,78 9,95 3. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản=DT/tổngTS 0,58 0,85 0,67 4. Kỳ thu tiền bình quân=Các KPT/DT *360 ngày 122 162 170 Năm 2005, tất cả các chỉ số đều giảm so với năm 2004, nguyên nhân là doa doanh thu bị giảm sút trong khi đó tỷ lệ dự trữ và kỳ thu tiền bình quân đều tăng lên, trong khi đó hiệu suất sử dụng tổng tài sản lại giảm sút so với năm 2004 : - Tình hình quản lý sử dụng tài sản cố định: Cuối năm 2003 nguyên giá TSCĐ là: 4.377 trđ tăng so với năm 2003 là: 556 trđ. Trong đó số TSCĐ chưa cần dùng, không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý của Công ty là : nguyên giá 450 trđ, giá trị còn lại là 215 trđ. Công ty cần có biện pháp quản lý TSCĐ để hạn chế số TSCĐ chưa cần dùng, không cần dùng. - Công nợ phải thu và phải trả: Các khoản phải thu của Công ty tăng lên chủ yếu là khoản phải thu khách hàng làm ứ đọng vốn. Công ty cần có biện pháp tích cực thu hồi và xử lý công nợ để giảm số dư nợ đến hạn, quá hạn và khó đòi. + Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, phải kể đến rằng Xí nghiệp là một đơn vị hạch toán phụ thuộc trực thuộc Công ty Điện lực 1, do vậy, công ty với tư cách là cơ quan chủ quản đã tiến hành đầu tư hoạt động của Xí nghiệp , trong công tác huy động vốn. Công ty đã đầu tư bằng việc khống chế mức vay ngân hàng ở hạn mức 1 tỷ đồng. Chính vì thế mà nguồn vay ngắn hạn ngân hàng của Xí nghiệp rất thấp. Thứ hai, là khi xét chi phí vốn bỏ ra để tiến hành vay dài hạn, thì tính hiệu quả lại không có vì lãi suất vay dài hạn rất cao và khi vay, đòi hỏi phải có tài sản thế chấp. Mà thực tế, thì Xí nghiệp không có đủ tài sản thế chấp nếu như vay dài hạn. Hơn thế nữa, ngoài những sự rườm rà về mặt thủ tục pháp lý thì Xí nghiệp sẽ còn phải chấp nhận để ngân hàng tham gia vào kiểm soát nguồn vốn đó là điều mà không có bất kỳ Doanh nghiệp nào muốn. Thứ ba, là sự phát triển chậm của thị trường tài chính. Nói chung, ở Việt Nam, sự ra đời của thị trường chứng khoán còn là mới mẻ và xa lạ với hầu hết các Doanh nghiệp. Sự phát triển của thị trường tài chính hay kinh tế các tổ chức trung gian tài chính, làm hạn chế bớt cơ hội huy động vốn của Xí nghiệp . Nếu như thị trường tài chính phát triển mạnh, tất yếu Xí nghiệp sẽ dễ dàng tham gia phát hành trái phiếu hoặc tín dụng thuê mua. Tóm lại, trên cơ sở phân tích khái quát về diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, phân tích cơ cấu nguồn vốn, phân tích các chỉ tiêu tài chính chúng ta có thể đi đến những kết luận tổng quát như sau: Xí nghiệp đảm bảo lợi nhuận luôn dương trong 3 năm liên tiếp, tăng dần nguồn vốn chủ sở hữu, điều tiết dần cơ cấu nợ phải trả và tìm cách sử dụng tài sản hợp lý hơn, đầu tư Tài sản cố định bằng nguồn vốn chủ sở hữu,.. tuy nhiên, những bất cập trong công tác huy động vốn vẫn là một vấn đề kìm hãm tốc độ phát triển của Xí nghiệp . Thứ nhất, lượng vốn bằng tiền quá nhỏ, không đáp ứng được nhu cầu về vốn lưu động của Xí nghiệp . Thứ hai, có sự chênh lệch rất khác biệt giữa các nguồn huy động, vay ngắn hạn rất ít, nợ dài hạn thì hoàn toàn không có. Nguồn huy động tập trung chủ yếu vào tín dụng thương mại làm cho hệ số nợ lên rất cao, dẫn đến Xí nghiệp khó lòng có thể tiếp tục huy động vốn bằng cách vay nợ, và nếu vay được thì mức độ rủi ro rất cao và có thể mất quyền tự chủ về tài chính. Thứ ba, tỷ lệ vốn bị chiếm dụng vẫn cao, khoản phải thu của Xí nghiệp tăng lên là do Xí nghiệp chưa có kế hoạch giám sát chung một cách chặt chẽ, chưa có kế hoạch phân bố trả nợ đều trong năm và giữa các năm. Nhưng thực ra là do Xí nghiệp ngày càng mở rộng quan hệ với khách hàng nên cũng không thể tránh khỏi, Xí nghiệp cũng chưa xác định được chính xác và đầy đủ các nhu cầu vốn và khâu quản lý vốn cũng chưa thật hoàn chỉnh do đó, làm vốn bị ứ đọng ở một số khâu quá lớn ( hàng tồn kho) kế hoạch phân bổ vốn mới chỉ dừng ở cả năm, chứ chưa lên một chương trình kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn.Ngoài ra, Xí nghiệp còn chịu sự quản lý điều tiết của cơ quan chủ quản là Công ty điện lực 1, nên lượng vốn huy động cũng còn gặp nhiều khó khăn. Bảng 1.16 Tổng kết về các nguồn huy động vốn tại Xí nghiệp Stt Nguồn Thuận lợi Khó khăn Nguyên nhân 1 Tín dụng thương mại - Chi phí huy động thấp - Khó lòng huy động thêm -ảnh hưởng mạnh đến các chỉ số tài chính -Tỉ lệ TDTM chiếm quá cao trong tổng N.V - Do đặc điểm của nhiệm vụ, ngành nghề K.D của X.N 2 Nợ Ngân sách Nhà nước và công nhân viên - Chi phí huy động bằng 0 -Đảm bảo quyền tự chủ của X.N -Nếu nợ lương quá lâu sẽ ảnh hưởng không tốt đến tâm lý người lao động,tác động xấu đến hiệu quả K.D - Do những quy định của Bộ Tài chính về việc Nợ Ngân sách Nhà nước và công nhân viên. 3 Vay ngắn hạn ngân hàng - Khá an toàn vì được C.Ty ĐL1 bảo lãnh -Lượng huy động quá nhỏ bé - Do quy định của Cty ĐL1 về hạn mức tín dụng với X.N - Chưa có phương án K.D đạt hiệu quả cao. 4 Nguồn vốn chủ sở hữu - Đảm bảo tài trợ vững chắc cho Tài sản cố định. Đảm bảo quyền tự chủ của Xí nghiệp - Qúa nhỏ bé - ảnh hưởng của luật VAT từ năm 2003. - Các Công trình Dở dang còn quá nhiều - Công tác thanh quyết toán chậm. Từ những phân tích trên đây với mục tiêu phát triển Xí nghiệp trở thành một doanh nghiệp thanh viên của Tổng Công ty ĐL VN làm ăn có hiệu quả đồng thời thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao, cần thiết phải áp dụng các biện pháp hữu hiệu nhằm tạo đủ vốn đầu tư cho Xí nghiệp phát huy các thế mạnh sẵn có và khắc phục được những hạn chế hiện nay. PHần II. Giải pháp đẩy mạnh hiệu quả công tác Huy động vốn. 2.1 Nhu cầu vốn của Xí nghiệp xây lắp điện trong thời gian tới. Căn cứ vào mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của nước ta và những nguyên tắc cơ bản của chính sách định hướng phát triển kinh tế. Thì công nghiệp điện là một trong những ngành ưu tiên phát triển để phục vụ cho CNH- HĐH đất nước. Để đảm bảo xây Dựng thắng lợi CNXH. Xí nghiệp xây lắp điện tuy chỉ là một đơn vị trực thuộc Công ty điện lực 1, mặc dù thời gian thành lập và hoạt động chưa lâu nhưng Xí nghiệp đã xác định rất rõ nhiệm vụ và mục tiêu phát triển của Xí nghiệp phải gắn liền với định hướng chung của Đảng và của Nhà nước. Trước tình hình đó, việc huy động vốn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh và sản xuất phát triển có hiệu quả là tối quan trọng. 2.1.1. Căn cứ vào nhu cầu phát triển lưới điện Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ở mức toàn diện. Với mục tiêu này xây dựng kết cấu hạ tầng về giao thông, viễn thông, du lịch và phát triển các vùng lãnh thổ đã tạo ra nhu cầu lớn hơn, thị trường lớn hơn cho công nghiệp Điện lực. Chính sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đã đem lại cơ hội phát triển cho Ngành Điện lực Việt Nam về cả quy mô và phạm vi. Nhu cầu điện tăng trưởng bình quân từ năm 1990 đến 1999 là 13,5%. Riêng hai năm 2001 và 2002 tăng trưởng 15%. Nhiều địa phương có mức độ tăng trưởng vượt bậc. Ví dụ: tỉnh Bắc Ninh năm 2000 và 2001 tăng 20%, tỉnh Đồng Nai năm 2001 và 2002 tăng 26%, tỉnh Bình Dương năm 2002 tăng hơn 40%. Sự xuất hiện các khu công nghiệp, khu chế xuất, các làng nghề và công nghiệp hoá nông nghiệp sẽ mở ra cho công nghiệp điện lực một thị trường rộng lớn. Với sự tăng trưởng GDP năm 2002 của nước ta là hơn 7%, chỉ đứng sau Trung Quốc ở khu vực Châu á và ổn định trong nhiều năm cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của chúng ta là ổn định và tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền với công nghiệp Điện lực trong thời kỳ công nghiệp hoá. Nhằm tăng cường sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trong những năm qua lưới truyền tải và phân phối điện đã được xây dựng, cải tạo với một khối lượng đáng kể. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của phụ tải điện, trong thời gian tới hệ thống truyền tải và phân phối điện cần được phát triển đồng bộ cả về khối lượng và chất lượng trên phạm vi toàn quốc. Theo kế hoạch cải tạo và phát triển lưới điện của Ngành điện Việt Nam (EVN) trong những năm tới, khối lượng xây dựng đường dây và trạm biến áp được dự kiến như sau: - Về lưới truyền tải: Phát triển lưới truyền tải 220kV-500kV nhằm nâng cao độ tin cậy cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng trong lưới truyền tải, bảo đảm huy động thuận lợi các nguồn điện trong hai chế độ vận hành khác biệt: mùa khô, mùa nước; phát triển mạng lưới 110kV thành mạng lưới điện khu vực và cung cấp trực tiếp cho phụ tải. Trong giai đoạn sắp tới nhu cầu đầu tư phát triển trên 15.000 km đường dây và trên 50.000 MVA dung lượng các trạm biến áp của lưới truyền tải. - Đặc biệt việc phát triển lưới điện cung cấp cho Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các thành phố, các khu đô thị, các khu vực kinh tế trong cả nước; đặc biệt các tam giác kinh tế Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh; Thành phố Hồ Chí Minh -Đồng Nai- Vũng Tàu; Thành phố Hồ Chí Minh - Bình Dương... là một đòi hỏi bức thiết, điều kiện cần thiết cho việc phát triển kinh tế cho khu vực này. - Về chương trình phát triển lưới điện phân phối: Nhu cầu xây dựng 300.000 km đường dây trung thế và hạ thế; 200.000 MVA dung lượng các trạm biến áp phụ tải. Bảng 2.1: Khối lượng xây dựng đường dây và trạm biến áp đến năm 2010 Giai đoạn Đường dây tải điện ( km ) Trạm biến áp ( MVA ) 110kV Trung áp Hạ áp 110kV Trung áp 2002-2006 2.831 28.000 60.000 10.210 5.000 2007-2011 6.193 40.000 93.000 10.000 1.000 Như ở phần II đã phân tích, trong những năm 2003, 2004, 2005 tình hình tài chính ở Xí nghiệp đã có những tiến bộ đáng ghi nhận, nhưng bên cạch đó, vẫn còn nhiều yếu kém, nhược điểm về công tác tài chính làm cho hiệu quả kinh doanh còn nhiều biến động và chưa cao. Thể hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính còn rất thấp, sự mất cân đối giữa các nguồn vốn huy động,… Vì vậy Xí nghiệp đã xác định việc huy động vốn cho quá trình hoạt động trong thời gian tới là hết sức quan trọng. Song mức nhu cầu vốn cho từng năm cần thiết để hoạt động là bao nhiêu? Một khi đã trả lời được câu hỏi đó thì Xí nghiệp có những biện pháp, phương pháp để huy động đủ vốn cho mình. Để tiến hành xác định được lượng vốn cần thiết và hợp lý cho năm 2006, ta phải dự đoán được nhu cầu vốn cho năm đó, áp dụng phương pháp xác định dự đoán nhu cầu vốn theo tỷ lệ % trên doanh thu cho Xí nghiệp , ta có: Bảng 2.2 : Số dư bình quân các khoản trong BCĐKINH Tế năm 2005 Tài sản nguồn vốn Chỉ tiêu Giá trị Chỉ tiêu Giá trị 1. TSLĐ 79.583 1. Nợ phải trả 75.069 - Tiền mặt 955 - Vay ngắn hạn 8.061 -Các khoản phải thu 26.877 - Nợ NSNN và CNV 3.183 -Hàng tồn kho 36.403 -Các khoản phải trả 63.825 - TSLĐ khác 15.348 2. Nguồn vốn chủ sở hữu 9.710 2.TSC.Đ 5.713 -Vốn NSNN 9.386 -Các quỹ 296 -Tự bổ xung 28 Tổng số 84.779 Tổng số 84.779 Doanh thu năm 2004 là 56.856 tr.đ, dự kiến doanh thu năm 2006 là 81.000 trđ. Bảng 2.3: Tỉ lệ % trên doanh thu của các khoản chủ yếu trên BCĐKT Tài sản Nguồn vốn Chỉ tiêu Số tiền (Tr.đ) % trên DT Chỉ tiêu Số tiền (Tr.đ) % trên DT 1. Tiền 955 1,68 1. Nợ NSNN%CNV. 3.183 5,6 2. Phải thu 26.877 47,27 2. Các khoản phải trả khác. 63.825 112,26 3. Hàng tồn kho 36.403 64,03 4.TSLĐ khác 15.348 26,99 5. TSC.Đ 5.713 10,05 Tổng số 150,02 117,86 Các khoản bên tài sản tính theo doanh thu là 150,02% và được tài trợ bằng 117,86% các khoản nợ, vậy nhu cầu vốn của Xí nghiệp cần là: 150,02%- 117,86% = 32,17%. Nghĩa là cứ 100 đồng doanh thu tăng lên thì cần đến 32,17 đồng vốn bổ xung để tài trợ. Vậy nhu cầu vốn cần bổ xung năm 2006 là: (81.000-56.856)*32,17% = 7.853 triệu đồng. 2.1.2 Phương hướng của Xí nghiệp đối với vấn đề huy động vốn Chú trọng rút kinh nghiệm, phát huy những kết quả đã đạt được để tiếp tục thực hiện việc mở rộng khả năng và các hình thức, phương thức hợp tác mới nhằm tranh thủ ngày càng nhiều hơn nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, vốn vay và viện trợ của các nước, các tổ chức quốc tế, đáp ứng nhu cầu vốn và thiết bị công nghệ cho sự phát triển của Xí nghiệp. Quán triệt quan điểm “Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng’. - Vay tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân hàng đầu tư và phát triển theo hạn mức kế hoạch. - Nguồn tự bổ sung hàng năm, trong đó huy động 100% vốn khấu hao vào đầu tư, thực hiện tính đúng, tính đủ khấu hao theo quy định của nhà nước. 2.2 Giải pháp đẩy mạnh Công tác huy động vốn 2.2.1 Đối với Xí nghiệp 2.2.1.1. áp dụng hình thức tín dụng thuê mua a, Mục đích Hiện tại ở xí nghiệp , hầu hết tài sản cố định của Xí nghiệp vừa ít, vừa lạc hậu, chủ yếu do Công ty điện lực 1 cấp phát, nhưng vay ngắn hạn để tài trợ thì quá nguy hiểm và rất khó vay, còn vay trung và dài hạn thì lại không có hiệu quả. Do vậy, để giải quyết vấn đề trước mắt, áp dụng thuê tài chính đối với một số Tài sản cố định cần thiết là quan trọng, nó vừa giúp xí nghiệp có được máy móc phương tiện thi công hiện đại và lại giải quyết được lý do thiếu vốn đầu tư. Mặt khác, thuê tài chính xí nghiệp không phải thế chấp, và trực tiếp quan hệ với công ty cho thuê mà không phải thông qua Công ty Điện lực 1 vì Xí nghiệp có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng của đơn vị. b, Nội dung thực hiện Đối với hình thức này người cho thuê (hãng leasing) mua thiết bị của một nhà sản xuất hay phân phối và cho người sử dụng (doanh nghiệp ) thuê nó trong một thời gian nhất định trên cơ sở hợp đồng đã ký kết. Thời hạn cho thuê đủ để hoàn trả toàn bộ giá trị thiết bị mà hãng leasing phải xuất chi , đồng thời đem lại cho họ một tỷ suất lợi nhuận mỗi năm. Đây là một biện pháp tìm kiếm nguồn tài trợ được rất nhiều doanh nghiệp ưa thích bởi một số ưu điểm sau: - Thứ nhất: Hình thức này trợ giúp cho những công ty gặp khó khăn về vốn và không có khả năng một lúc bỏ ra một lượng tiền lớn để trang bị máy móc thiết bị. - Thứ hai: Thực ra đây cũng là hình thức vay vốn trung dài hạn nhưng không đòi hỏi tài sản thế chấp. Đây có thể nói là ưu việt lớn nhất của tín dụng thuê mua so với tín dụng thông thường. Nó giải quyết một phần khó khăn lớn mà doanh nghiệp gặp phải khi vay tín dụng các ngân hàng như đã nêu trên. - Thứ ba: Một số doanh nghiệp cân đối giữa việc đầu tư mua sắm mới trang thiết bị với việc thuê mua và sử dụng vốn để đầu tư vào dự án khác. Tín dụng thuê mua có hình thức thuê khác nhau rất linh hoạt. Doanh nghiệp có thể chọn hình thức tín dụng cho thuê tài chính hay cho thuê vận hành tuỳ theo yêu cầu của mình. Đối với thuê vận hành, người thuê không dự kiến là quyền sở hữu tài sản sẽ được chuyển giao khi hết thời hạn thuê và thông thường người thuê chỉ sử dụng tài sản. Còn trong trường hợp thuê tài chính người cho thuê đồng ý tài trợ để người thuê sử dụng thiết bị (tài sản) trong một khoảng thời gian thông thường bằng thời gian khấu hao của tài sản cho thuê. Nếu như thuê vận hành là phương pháp huy động vốn ngắn hạn ( Thường chỉ trong từ 3-6 tháng) thì thuê tài chính là hình thức huy động vốn trung và dài hạn. ở Xí nghiệp , lựa chọn hình thức nào cũng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng mục đích sử dụng của tài sản đi thuê. Hiện tại, Xí nghiệp có 18 đội điện, 3 đội xây dựng, và phân xưởng cơ khí. Mỗi đơn vị đều chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình trước Giám đốc ngoài nguồn vốn được Xí nghiệp cấp cho từng công tình thì đội phải tự lựa chọn cách thức hoạt động. Nên khi tiến hành sản xuất kinh doanh , các đội có thể áp dụng phương thức thuê vận hành, một cách mà các đội chỉ phải trả duy nhất chi phí thuê tài sản theo hợp đồng chứ không phải chịu trách nhiệm bảo lãnh tài sản đi thuê. Mặt khác, bản chất thuê vận hành là huy động ngắn hạn nên phù hợp với hoạt động của bản thân từng đội, chính vì mỗi công trình được xây dựng ở các nơi khác nhau và mỗi công trình có những đặc trưng riêng về kỹ thuật, nên khi xác định được vị trí địa điểm xây lắp, tiến hành tính toán chi phí vận chuyển máy móc thiết bị có thể áp dụng bài toán vận tải hoặc tính độ chênh lệch về mối tương quan giữa quãng đường vận chuyển và giá thành . Còn đối với Xí nghiệp , thực hiện thuê tài chính để cải thiện tình trạng lạc hậu của tài sản cố định nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng uy tín với khách hàng là điều nên làm. Hiện tại hoạt động của các công ty thuê mua tài chính chưa phát triển, tuy nhiên, Tổng công ty điện lực Việt Nam đang xem xét thành lập. Điều kiện cơ bản để Xí nghiệp thực hiện thuê mua là Báo cáo luân chuyển tiền tệ của Xí nghiệp phải khoa học để nhờ đó mà công ty cho thuê tài chính sẽ nghiên cứu và lựa chọn phương pháp cơ cấu thanh toán hợp lý nhất đối với Xí nghiệp . Tuy nhiên, chi phí cho hoạt động thuê mua hiện tại vẫn cao, nhưng lợi ích thì lại hơn hẳn so với vay ngân hàng vì Xí nghiệp có thể áp dụng phương pháp khấu hao nhanh với tài sản thuê tài chính, và toàn bộ lãi vay lẫn tiền gốc ( tiền phải trả cho giá trị tài sản thuê) đều được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Do đó, Xí nghiệp sẽ được lợi về thuế. c, Kiến nghị về giải pháp Trong tất cả các hồ sơ mời tham dự thầu thi công xây lắp, đều yêu cẩu xí nghiệp phải thông báo về danh sách các loại máy móc, phương tiện thi công phục vụ cho hoạt động của mình, ở xí nghiệp hiện tại có một số các loại thiết bị như sau: Mô tả thiết bị nhãn hiệu Trọng tải công suất Số lượng Năm sản xuất Phục vụ vận chuyển - Ô tô tảI FORD 5Tấn 01 1998 - Ô tô MA3 08 tấn 01 1995 Phục vụ thi công bê tông - Máy trộn bê tông 350Lít 02 1995 - Máy đầm dùi 1500W 02 1997 Phục vụ lắp đặt + nâng hạ - Cẩu tự hành TADANO 3 tấn 01 1995 Phục vụ thi công đường dây - Máy ép thuỷ lực 100 tấn 01 1998 - Máy ép đầu cốt chuyên dụng 70 tấn 02 1998 - Puly nhôm F400 5 Tấn 100 1998 ... và một số máy móc dụng cụ khác Tuy nhiên, đa số các đội thi công vẫn phải đi thuê ngoài nhiều máy móc thiết bị chuyên dụng khác, để giảm bớt những chi phí không cần thiết và giảm áp lực tài chính với các đội, Xí nghiệp nên đứng ra thuê tài chính đối với một số thiết bị sau: Mô tả thiết bị nhãn hiệu Trọng tải công suất Số lượng Số tiền mua mới Chi phí thuê/ năm Số năm thuê - Máy dò khí 01 280.000.000 15.000.000 5 - Palăng xích 5 tấn 01 320.000.000 35.000.000 4 - Máy xúc lật 10 tấn 01 350.000.000 37.000.000 5 - Cần trục bánh xích 16 tấn 01 512.000.000 53.000.000 5 Số thiết bị đi thuê này sẽ được giao cho từng đội sử dụng theo đúng yêu cầu của công trình đặt ra, số tiền thuê tài chính này sẽ được tính vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh, chứ không nhất thiết phải tính khấu hao như tài sản cố định hiện có. Nhờ vậy, sẽ giải quyết được rất lớn yêu cầu máy móc chuyên dụng đồng thời không gây áp lực nặng nề về nhu cầu vốn cho công tác này mà vẫn giới thiệu về năng lực thi công của đơn vị như một nhà thầu có sức mạnh về công nghệ thi công để nâng cao khả năng thắng lợi trong đấu thầu. Theo em ,đây là phương pháp rất tích cực đối với tình hình Xí nghiệp hiện nay. 2.2.1.2. Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp a, Mục đích Xí nghiệp là một đơn vị trực thuộc Công ty điện lực, bị khống chế về hạn mức tín dụng ngân hàng, nên không phải lúc nào cũng có thể huy động vốn từ nguồn này được. Mặt khác, vay ngân hàng đòi hỏi phải có tài sản thế chấp, chứng minh tài chính, và phải thông qua nhiều thủ tục giấy tờ khác nữa. áp dụng vay trực tiếp từ cán bộ công nhân viên trong cơ quan sẽ có thể giải quyết được những nhược điểm trên b, Nội dung thực hiện Là một Xí nghiệp với hơn 500 cán bộ công nhân viên có truyền thống yêu nghề và gắn bó với Xí nghiệp, khả năng huy động từ nguồn này tuy không lớn song cũng không phải là nhỏ. Đây là một phương thức huy động nội lực mà Xí nghiệp có thể áp dụng và có tính khả thi. Xí nghiệp có thể bán trái phiếu cho các nhân viên hoặc khi cần thiết có thể giảm phần trích vào các quỹ khen thưởng và phúc lợi để sử dụng cho hoạt động của Xí nghiệp. Đổi mới phương thức vay cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp theo hướng khuyến khích lợi ích thông qua trả lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng cùng thời điểm, thực hiện chi trả kịp thời khi người gửi có nhu cầu hoặc khi đến hạn. Hình thức này mang tính chất ngắn hạn, tức là Xí nghiệp chỉ nên áp dụng khi có nhu cầu vốn cho từng công trình cụ thể chứ không thể áp dụng cho như cầu vốn trong trung và dài hạn được. Để áp dụng hình thức này, đồi hỏi phải có sự kết hợp giữa các bộ phận, phòng ban sau: - Công đoàn Xí nghiệp: Đại diện của người lao động trong cơ quan, tiến hành phát động kêu gọi sự hưởng ứng của người lao động. - Phòng Kế hoạch : Căn cứ vào tình hình thi công các công trình, nắm tiến độ thi công theo hợp đồng, xác định các công trình đang là “ điểm nóng” về tiến độ, về nhu cầu vốn trong thời điểm trước mắt, Báo cáo ban lãnh đạo và thông báo cho phòng tài chính kế toán biết. - Phòng tài chính: Thực hiện lựa chọn nguồn huy động vốn, nếu áp dụng hình thức huy động từ cán bộ công nhân viên thì phải căn cứ vào thu nhập của người lao động để tiến hành phân bổ mức tiền vay, tính toán chi phí vay, thời hạn vay và làm thủ tục vay vốn. Tất cả các chi phí liên quan đến việc huy động vốn từ nguồn này đều được phân bổ vào chi phí chung của chính công trình được huy động. c, Kiến nghị về giải pháp Không phải bất kỳ công trình nào khi thiếu vốn đền áp dụng hình thức trên, vì thứ nhất, không phải lúc nào người lao động cũng có tiền để cho xí nghiệp vay, thứ hai họ có thể không cho vay vì nhiều lý do khác nhau, thứ ba, bản thân xí nghiệp phải tính toán chi phí vay vốn từ nguồn này so với lợi ích mang lại ( Chi phí cơ hội cho hoạt động vay vốn), nếu đem lại lợi nhuận cao hơn là so với chậm tiến độ thi công bị phạt theo điều khoản của Hợp đồng hoặc là có những lý do về yêu cầu cấp thiết của công trình, về việc cần phải đảm bảo uy tín của xí nghiệp với chủ đầu tư thì trong những trường hợp này có lỗ cũng vẫn phải tính toán và huy động. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi Xí nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, được toàn thể cán bộ CNV đồng tình ủng hộ, được thông qua trong thoả ước lao động tập thể và phải chứng minh được lợi ích tương lai mà Xí nghiệp đạt được trong đó có lợi ích của từng thành viên trong Xí nghiệp. 2.2.1.3 Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hiện có và tiết kiệm chi phí a, Mục đích ở Xí nghiệp , mức độ hiệu quả hoạt động còn rất thấp. chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn của Xí nghiệp qua các năm vẫn còn rất nhỏ bé so với nguồn vốn bỏ ra. Tính cụ thể ta có: Lợi nhuận trước thuế/ Tổng vốn : LN/TV: Chỉ tiêu 2003 2004 2005 LN/TV 2,89% 4,64% 3,66% LN/DT thuần 5% 5,47% 5,46% DT thuần/Tổng vốn 57,83% 84,85% 67,06% Chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn là một chỉ tiêu tài chính quan trọng, nó cho thấy mức độ sử dụng hiệu quả nguồn vốn hiện có và chi phí bỏ ra thực tế sử dụng vốn Tác động chủ yếu của chỉ tiêu này đến Xí nghiệp đó là khi tài sản dự trữ, sản phẩm dở dang và các khoản phải thu quá lớn, còn vốn bằng tiền quá nhỏ, làm cho tổng nguồn vốn cao nhưng mất cân đối làm cho Doanh thu bị biến động và lợi nhuận đạt không được cao. Do vậy đây là một giải pháp mang tính chất sát thực nhất tại Xí nghiệp hiện nay. b, Nội dung thực hiện Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cần tăng cường khả năng kinh doanh, tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh. Đây chính là nguyên tắc chung cần được quán triệt. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, trong hoạt động của mình Xí nghiệp cần tiến hành phân tích định kỳ tài chính sẽ giúp Xí nghiệp tìm ra được nguyên nhân của tình trạng tài chính hiện thời, từ đó có biện pháp cụ thể kịp thời phát huy lợi thế hay khắc phục yếu kém. Phòng Tài chính kế toán sẽ là đầu mối thực hiện nghiệp vụ này, khi phân tích tài chính cần tiến hành phân tích những nội dung sau: + Phân tích khái quát tình hình vốn và nguồn vốn, tình hình thu chi trong doanh nghiệp. + Diễn biến nguồn vốn, sử dụng vốn, luồng tiền vào ra trong doanh nghiệp. + Tình hình vốn lưu động và nhu cầu vốn lưu động. + Kết cấu nguồn vốn và kết cấu tài sản. + Phân tích các nhóm chỉ tiêu đặc trưng tài chính doanh nghiệp. Hoạt động phân tích tài chính nếu thường xuyên được cập nhật sẽ cho thấy sự vận động của tốc độ chu chuyển vốn một cách tổng quát. Xí nghiệp phải tìm cách tăng tốc độ chu chuyển vốn gồm cả vòng quay hàng tồn kho và vòng quay toàn bộ vốn. Vì lượng hàng tồn kho của Xí nghiệp luôn cao và lại có xu hướng gia tăng. Điều này, một mặt chứng tỏ Xí nghiệp đang có nhiều việc làm cho người lao động, nhưng mặt khác, nó lại thể hiện sự kém hiệu quả trong quá trình xây dựng, khi mà lượng hàng tồn kho tăng tập trung vào chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Rõ ràng làm cho chi phí sử dụng vốn tăng lên, nguồn vốn tồn đọng lớn. Trong khi nhu cầu vốn lưu động cho kinh doanh lại thiếu trầm trọng. Phải nói ràng với đặc điểm nhiệm vụ kinh doanh của Xí nghiệp thì việc tăng hai chỉ tiêu trên là rất khó. Để tăng được hai chỉ tiêu này đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa tất cả các phòng ban chức năng và cả đơn vị thi công. - Phòng kế hoạch – là phòng đầu mối trong việc nắm giữ thông tin giữa chủ đầu tư và Xí nghiệp, bộ phận này phải có trách nhiệm bám sát công trình ngay từ lúc thực hiện thương thảo hợp đồng, để thoả thuận với chủ đầu tư về thời gian thực hiện hợp đồng, tiến độ thi công theo yêu cầu, công tác tạm ứng vốn của chủ đầu tư cho công trình. Sau đó thông báo cho đơn vị thi công về nội dung thực hiện, tiến hành xác nhận các yêu cầu về thời gian cung ứng vật tư, tiền tạm ứng cho công trình để giao cho phòng tài chính giải quyết. - Phòng kỹ thuật, là bộ phận có trách nhiệm thực hiện giám sát việc thi công công trình của đội, kiểm tra về mặt chất lượng, kỹ thuật, an toàn, tiến độ thực hiện bằng các báo cáo giám sát, nhật ký thi công, kết hợp với giám sát của chủ đầu tư để thống nhất trình tự thực hiện. - Phòng tài chính kế toán, có trách nhiệm đảm bảo cung ứng tiền vốn theo giai đoạn, đây là công tác nghiệp vụ rất khó vì cùng một lúc, có rất nhiều công trình được thi công và hầu hết công trình nào cũng muốn được ứng vốn, vì vậy bộ phận này phải tiến hành kiểm tra tổng quát diễn biến dòng tiền của các công trình, cân nhắc cấp phát theo tỷ lệ phù hợp với từng công trình, nếu thiếu phải tiến hành huy động vốn bằng các nguồn khác ( như đi vay, thuê mua, thực hiện tín dụng thương mại..). - Phòng Quyết toán là bộ phận chịu trách nhiệm lập hồ sơ thanh quyết toán công trình và bảo vệ quyết toán đó với chủ đầu tư, Cán bộ ở lĩnh vực này đòi hỏi nhiều tố chất, thứ nhất là phải bám công trình được giao một cách sát sao, căn cứ vào tiến độ thực hiện và kế hoạch vốn được cung ứng của công trình để lập bảng thanh toán trên cơ sở các định mức chế độ của nhà nước, đơn giá các loại vật tư vật liệu hiện hành để đảm bảo giá trị thanh toán có lợi cho Xí nghiệp. Thứ hại là phải có chuyên môn nghiệp vụ cao về cả mặt kỹ thuật để bóc tách khối lượng thi công áp đơn giá định mức chính xác, cuối cùng cán bộ quyết toán phải phát huy hơn nữa năng lực sẵn có, bám công việc được giao một cách cụ thể, chặt chẽ để phát hiện những vướng mắc trong khâu lập hồ sơ thanh quyết toán và tập trung ý chí giải quyết dứt điểm các tồn tại làm dây dưa quyết toán, ảnh hưởng đến việc thu hồi vốn mở rộng sản xuất của Xí nghiệp . Cũng cần có những hình thức thưởng phạt đối với bộ phận này để phát huy tính năng động, sáng tạo cũng như dùng đòn bẩy kinh tế kích thích sự hăng hái của từng cán bộ. c, Kiến nghị về giải pháp Như đã phân tích ở phần trên, ta thấy rằng để áp dụng được hình thức này thì yếu tố quan trọng nhất đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận phòng ban và đội thi công. Một vấn đề quan trọng không kém đó là trình độ chuyên môn của cán bộ các phòng ban, để ra được quyết định cuối cùng về nguồn huy động vốn về phân bổ vốn cho công trình nào số lượng bao nhiêu đòi hỏi từng cá nhân phát huy hết năng lực có trách nhiệm tới cung với công việc mình được phân công và lãnh đạo Xí nghiệp cũng cần tìm biện pháp tạo điều kiện để mỗi cá nhân nhận thấy được sự cống hiến của mình tới thành quả của Xí nghiệp và từ đó kích thích được nhiệt tình công tác của họ. Bên cạnh các vấn đề chủ chốt trên, một số biện pháp sau đây cũng được coi là hữu hiệu ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh: - Tập trung ý chí tập thể, tìm biện pháp giải quyết ngay những công trình còn bị chủ đầu tư nợ từ những năm để thu hồi công nợ. Kể cả những công trình đã đưa vào sử dụng nhưng chưa được phê duyệt quyết toán. - Lựa chọn nhà cung cấp vật tư, thiết bị đảm bảo chất lượng, yêu cầu và giá cả hợp lý. - Tận dụng các mối quan hệ với các bạn hàng truyền thống để được mua trả chậm vật tư, thiết bị phục vụ thi công. - Khuyến khích các đội thi công tích cực làm khối lượng giai đoạn hoàn thành để được ứng vốn tiếp tục đầu tư cho công trình bằng cách ưu tiên ứng vốn thi công tối đa cho đội nào có giải ngân đúng tiến độ. - Tranh thủ tín nhiệm với Công ty Điện lực 1 để đề nghị công ty cho vay thường xuyên một lượng vốn nhất định, hoặc cho vay đột xuất cho từng dự án có quy mô lớn. Đây là biện pháp hữu hiệu mà Xí nghiệp cần áp dụng bởi hai lý do: Thứ nhất: Giúp tăng hiệu quả đầu tư thu được nhiều lợi nhuận từ đó tăng vốn tự bổ sung hàng năm. Thứ hai: Đây là điều kiện tiên quyết mà Xí nghiệp cần phải có khi muốn thu hút vốn từ bên ngoài. Không một nhà đầu tư nào muốn bỏ vốn của mình vào doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả hay dự án có khả năng thu lợi nhuận thấp. Trong Luật doanh nghiệp cũng quy định rõ: Công ty chỉ được cấp giấy phép phát hành cổ phiếu mới hay trái phiếu khi thoả mãn một số điều kiện nhất định trong đó có: "Chứng minh được hoạt động kinh doanh của Công ty đang được quản lý tốt và có hiệu quả". 2.2.1.4. Liên doanh với các đối tác nước ngoài thực hiện một số dự án đòi hỏi vốn lớn Xu hướng sẽ có rất nhiều Công ty nước ngoài đầu tư vào Việt nam. Hiện nay nhà nước ta cũng đang khuyến khích đầu tư nước ngoài thông qua hình thức liên doanh. Liên doanh giải quyết khó khăn về vốn khi Xí nghiệp không có khả năng vay hay tài trợ bằng vốn chủ sở hữu. Việc tìm kiếm và ký kết hợp đồng liên doanh liên kết cần đảm bảo nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Để tránh tình trạng bên nước ngoài nhiều vốn nắm quyền kiểm soát và có những ảnh hưởng tiêu cực , trong thời gian đầu Công ty điện lực 1 có thể hỗ trợ thêm cho Xí nghiệp. Công ty cũng có thể được hưởng một phần lợi ích nào đó. Việc trợ giúp ban đầu của Công ty sẽ là một cú hích tạo đà rất quan trọng. 2.2.1.5. Cổ phần hoá Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nhu cầu tập trung vốn cao dẫn đến sự hình thành tất yếu các công ty, xí nghiệp cổ phần. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nên sự ra đời của các doanh nghiệp cổ phần là một xu hướng tất yếu. Quá trình cổ phần hoá đã chuyển một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước cho các thành phần kinh tế khác, từ đó thay thế hình thức sở hữu đơn nhất thành hình thức sở hữu hỗn hợp. Cổ phần hoá một số đơn vị trực thuộc sau đó huy động vốn đầu tư qua phát hành cổ phiếu được coi là một giải pháp huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư ngày càng cao . Huy động vốn do phát hành cổ phiếu thông qua việc cổ phần hoá doanh nghiệp còn được xem là tạo môi trường và nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh. Tiến hành thí điểm cổ phần hoá một số đơn vị thành viên như Xí nghiệp xây lắp điện, hay một số điện lực để huy động vốn cho đầu tư máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, tạo động lực mới cho cán bộ công nhân viên làm việc một cách hiệu quả hơn. Tuy nhiên cổ phần hoá các điện lực đòi hỏi phải có sự xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng vì trong điều kiện hiện nay ở nước ta điện năng cung cấp vẫn cần một sự kiểm soát chặt chẽ bởi điện vẫn còn thiếu chưa đủ so với nhu cầu ngày càng cao của đời sống và nền kinh tế hiện đại, đặc biệt chúng ta còn phải đảm bảo những nhiệm vụ kinh tế chính trị quan trọng của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy khi cổ phần hóa điện lực cần để Nhà nước nắm giữ tỷ lệ cổ phần cao ( trước mắt có thể tỷ lệ này là 50-60% tổng số cổ phần). 2.2.1.6. Tăng cường công tác dự đoán chính xác nhu cầu vốn và tính toán chi phí vốn, cơ cấu vốn hợp lý Các nhà lập chính sách và kế hoạch của Xí nghiệp khi xác định cách tạo vốn cần thiết phải xem xét chi phí vốn và nhu cầu vốn trong mối quan hệ với khả năng của Xí nghiệp. Dự đoán được nhu cầu vốn càng chính xác bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nếu dự đoán thừa thì lãng phí mà thiếu thì ảnh hưởng tới hoạt động của Xí nghiệp. a, Dự đoán nhu cầu vốn * Xí nghiệp có thể dự đoán nhu cầu tài chính theo phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu. Đây là phương pháp dự đoán tài chính ngắn hạn gồm các bước sau: - Bước 1: Tính số dư của các chỉ tiêu trên bảng CĐKT năm báo cáo. - Bước 2: Chọn những khoản mục chịu sự biến động trực tiếp và có quan hệ chặt chẽ với doanh thu. Tính tỷ lệ % của các khoản đó so với doanh thu. - Bước 3: Dùng tỷ lệ % đã tính được ở bước 2 để ước tính vốn kinh doanh dựa vào chỉ tiêu doanh thu dự tính cần đạt được ở năm sau. - Bước 4: Định hướng các nguồn trang trải nhu cầu tăng kinh doanh trên cơ sở kết quả kinh doanh thực tế. * Đồng thời Xí nghiệp dự tính nhu cầu vốn lưu động thường xuyên qua công thức: NCVLĐTX = Tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn + Nếu NC>0 đ Doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn tài trợ vào phần chênh lệch giữa sử dụng ngắn hạn và nguồn vốn ngắn hạn. + Nếu NC<0 đ Các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ sử dụng ngắn hạn. b, Tính toán chi phí vốn Để tính chi phí vốn trung bình cần phải tính chi phí của lợi nhuận giữ lại và chi phí của phát hành cổ phiếu thường và cổ phiấu ưu tiên. Tuy nhiên do Xí nghiệp chưa phát hành cổ phiếu thì có thể ước lượng chi phí vốn của lợi nhuận giữ lại bằng cách tính ra tỷ lệ doanh lợi của vốn chủ sở hữu năm gần nhất. Điều này là do giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư cũng phải mang lại tỷ lệ sinh lợi bằng hoặc hơn năm trước. LN sau thuế Vốn CSH Doanh lợi vốn CSH = Cách khác Xí nghiệp có thể xác định bằng cách lấy lãi suất của trái phiếu Xí nghiệp cộng với phần thưởng rủi ro khoảng 3%-5%. Nếu Xí nghiệp không phát hành trái phiếu Xí nghiệp thì có thể chọn lãi suất trái phiếu kho bạc (lãi suất không có rủi ro) cộng với phần thưởng rủi ro (3%-5%). Cách thứ ba là chi phí lợi nhuận giữ lại có thể được đo bằng lãi suất cho vay dài hạn trên thị trường tiền tệ. c, Sử dụng cơ cấu vốn mục tiêu sát với cơ cấu vốn tối ưu Trước khi đưa ra các quyết định lựa chọn phương thức huy động Xí nghiệp cần xác định cơ cấu vốn tối ưu: cơ cấu vốn của Xí nghiệp sẽ đạt mức tối ưu khi doanh lợi vốn của Xí nghiệp đạt mức cao nhất (tối đa hoá doanh lợi vốn). Việc áp dụng cơ cấu vốn mục tiêu như thế nào phụ thuộc vào quyết định cụ thể của ban lãnh đạo Xí nghiệp: - Tại mức doanh thu thấp, Xí nghiệp sẽ thu được doanh lợi vốn cao hơn nếu sử dụng nhiều vốn tự có hơn nợ. Nếu doanh thu tăng lên thì Xí nghiệp nên tăng sử dụng nợ. 2.2.2 Về phía nhà nước 2.2.2.1. Tạo các điều kiện cho các Doanh nghiệp hoạt động Trước hết, cần nâng cao công tác đánh giá hệ thống ngân hàng trong việc huy động và tạo kênh dẫn vốn cho các Doanh nghiệp. Hệ thống ngân hàng ở nước ta đã được cải cách đáng kể trong thời gian vừa qua, Số lượng và tỷ trọng của các ngân hàng không phải là quốc doanh trong các NHTM đã tăng lên đáng kể, trong khi các ngân hàng thương mại quốc doanh hầu như không thay đổi về số lượng. Dù vậy, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đa số các Doanh nghiệp vẫn cho rằng trong tương lai nên phát triển các ngân hàng thương mại quốc doanh trong khi sự tín nhiệm với các hình thức tổ chức tín dụng khác chỉ dừng lại ở mức trung bình và thấp. Dù là hệ thống ngân hàng và các tổ chức phi tín dụng ngân hàng ở Việt Nam đã được cải tổ, hoàn thiện một cách tích cực trong những năm gần đây, theo đánh giá của WB, trong suốt những năm 90, mức độ phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam là tương đối thấp so với các nước khấc. Tỷ trọng tín dụng của khu vực DNNN giảm từ 90% xuống còn 48%. Hoạt động của các ngân hàng chưa thực sự hiệu quả. Chính vì vậy để tăng cường vai trò là kênh dẫn vốn cho Doanh nghiệp, cần tạo quan hệ tài chính lành mạnh và tích cực giữa các Doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác, trong đó, đặc biệt quan trọng là sự phối hợp hoạt động bằng nhiều hình thức, nhằm tạo cơ hội tăng cường tác dụng của hệ thống tài chính chính thức và giám sát hiệu quả sử dụng vốn của Doanh nghiệp để xoá bỏ nghịch lý " Đóng băng vốn" và giảm rủi ro cho các tổ chức tài chính. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính đất nước. Chính vì yêu cầu trên, các ngân hàng cần được tăng cường hoàn thiện theo hướng tạo thuận lợi cho các Doanh nghiệp, coi Doanh nghiệp là khách hàng, nghĩa là đối tượng cần được quan tâm của ngân hàng để làm được điều đó cần chú ý một số vấn đề chính: - Tăng cường năng lực của cán bộ ngân hàng trong việc xem xét và ra các quyết định một cách khoa học dựa vào hoạt động đặc thù của ngân hàng. Người làm nhiệm vụ cho vay cũng giống như người bán hàng, cần làm cho khách hàng hiểu được đặc điểm hàng hoá của mình, nhưng quan trọng hơn cả là cần hiểu được nhu cầu của khách hàng để đáp ứng nhu cầu đó một cách tốt nhất. - Tăng cường công tác thông tin và hệ thống cung cấp thông tin nhằm tạo điều kiện giảm bớt tình trạng thông tin không hoàn hảo, một trong những phương thức tích cực, chủ động để đáp ứng yều cầu đó là các ngân hàng nên chuyển sang phương thức đa năng, nghĩa là bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống nên thực hiện các nghiệp vụ khác như mau cổ phiếu của các Doanh nghiệp nhằm nắm bắt thông tin của các Doanh nghiệp chính xác hơn. - Cần thay đổi phong cách làm việc trong quan hệ với các Doanh nghiệp tạo lập quan hệ dài hạn nhằm xây dựng mạng lưới khách hàng ổn định đồng đảm bảo hơn mức độ an toàn trong hoạt động tín dụng. Điều này cũng tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp giảm chi phí giao dịch trong huy động vốn. 2.2.2.2 Tăng cường sự trợ giúp của Nhà nước đối với các Doanh nghiệp. Các Doanh nghiệp công nghiệp thường gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn so với các Doanh nghiệp thương mại. dịch vụ vì những đặc thù trong hoạt động sản xuất kinh doanh: Chu kỳ sản xuất dài hơn, rủi ro hơn, nhu cầu vốn lớn hơn,.. Chính vì vậy, bên cạnh sự nỗ lực của các Doanh nghiệp và cải tổ của hệ thống ngân hàng rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo thuận lợi lớn cho các Doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn nữa các hình thức huy động vốn. Sự trợ giúp đó nên tập trung vào một số khía cạnh sau: - Tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng cho các Doanh nghiệp trên thị trường tín dụng. - Hỗ trợ Doanh nghiệp tiếp cận thông tin về các hình thức huy động vốn. - Tư vấn và xây dựng mạng lưới tư vấn cho các Doanh nghiệp về các lĩnh vực liên quan đến huy động vốn. - Xây dựng quy chế bảo lãnh tín dụng, quy chế quản lý tài sản thế chấp, quy chế đánh giá tài sản thế chấp đảm bảo quyền lợi cho các Doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng. - Hỗ trợ Doanh nghiệp trong công tác đào tạo, nâng cao năng lực xây dựng và đánh giá các dự án vay vốn tạo điều kiện tốt hơn tới các tổ chức tín dụng ngân hàng và phi ngân hàng. kết luận Tầm quan trọng và ý nghĩa của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì bất kỳ Doanh nghiệp nào hoặc các tổ chức kinh tế xã hội nào cũng nắm được: Vốn là đầu vào của quá trình kinh doanh và cũng là yếu tố không thể thiếu được trong công tác đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Vì vậy, tìm cách huy động vốn một cách hợp lý: hợp lý về cả lượng và hiệu quả cảu từng nguồn bao giờ cũng là một bài toán mà một Doanh nghiệp muốn phát triển ổn định bền vững cần phải quan tâm. Bên cạnh sự quan tâm chú trọng của Doanh nghiệp thì việc huy động vốn còn liên quan đến nhiều đối tượng khác như các đối tác, các tổ chức tín dụng trung gian, Nhà nước, người lao động,.. Hay nói cách khác, là để giải quyết vấn đề huy động vốn, không chỉ là bản thân Doanh nghiệp mà còn yêu cầu đến sự chú trọng của các đối tượng hữu quan. Nó vừa là vấn đề vi mô, vừa là vấn đề vĩ mô. Đặc biệt trong tình hình hiện nay viẹc kinh doanh ngày càng sôi động, thì các Doanh nghiệp cần phải quan tâm hơn nữa đến công tác huy động vốn. Trong khuôn khổ của luận văn về công tác huy động vốn cho Xí nghiệp xây lắp Điện. Tuy chưa được sâu sắc và sát thực lắm nhưng với việc phân tích thực trạng huy động vốn, đánh giá tính hiệu quả của từng nguồn huy động và những giải pháp kiến nghị chung, thì vấn đề huy động vốn của Xí nghiệp xây lắp Điện sẽ được quan tâm hơn để đạt được hiệu quả huy động tốt nhất. Tuy nhiên vì kiến thức về lý luận và thực tiễn còn hạn chế nên trong bài viến không thể không có những thiếu sót, em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô. Một lần nữa, em xin trân trọng cảm ơn Phó Giáo sư – Tiến sỹ Lê Văn Tâm đã hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. NXB Chính trị quốc gia, 1999, Luật Doanh nghiệp Nhà nước. 2. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, 2003. 3. Nghị định 27 về quản lý tài chính. 4. Bộ Tài chính: Quyết định số 166/QĐ- Bộ Tài chính ngày 30/12/1999 về ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ. 5. Bộ Tài chính: Quyết định số 206/QĐ- Bộ Tài chính ngày 30/12/1999 về ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ. 6. Bộ Tài chính: Tạp chí tài chính các số năm 2001-2004. 4. PGS.TS Nguyễn Văn Nam (chủ biên): Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB tài Chính, 2002. 5. TS. Lưu Thị Hương (chủ biên): Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục, 2002. 78. David Begg: Kinh tế học, NXB Giáo dục, 1992. 9. Frederic S. Mishkin: Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kỹ thuật. 11. Uỷ ban khoa học nhà nước - Huy động vốn và sử dụng các nguồn vốn trong nước, tập 2: Những giải pháp huy động và sử dụng vốn có hiệu quả các nguồn vốn (1991). 12. Xí nghiệp xây lắp Điện: Báo cáo quyết toán tài chính hợp nhất sxkd và XDCB đã được kiểm toán 3 năm 2002-2003-2004. 13 Xí nghiệp xây lắp Điện: Báo cáo đầu tư xây dựng đã được kiểm toán 3 năm 2002-2003-2004. 14. Xí nghiệp xây lắp Điện: Báo cáo công tác sản xuất kinh doanh 3 năm 2002-2003-2004. 17. Tạp chí điện lực và đời sống- Hội Điện lực Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32801.doc
Tài liệu liên quan