DẪN LUẬN
Ngôi nhà trước hết là nơi bảo vệ con người trước những bất lợi của thiên nhiên (nắng, mưa, thú dữ ) và xã hội (trộm, cướp ), là nơi để con người nghỉ ngơi sau những ngày lao động vất vả. Ngoài ra, đó còn là nơi chứa đựng những thành tố văn hóa phản ánh dấu ấn tộc người, dấu ấn của một nền kinh tế, của thiết chế xã hội. Nhìn vào ngôi nhà, người ta không chỉ thấy trình độ phát triển kinh tế của chủ nhân ngôi nhà mà còn bắt gặp ở đó một cơ tầng văn hóa sống động thông qua vật liệu, kết cấu và kỹ thuật dựng nhà; qua cách bài trí, bố trí không gian trong nhà và những tục hèm kiêng kỵ. Những yếu tố tín ngưỡng liên quan đến ngôi nhà luôn đóng vai trò là nền tảng trong việc bảo lưu những những giá trị truyền thống. Càng nhiều nét văn hóa tín ngưỡng với những quy định chặt chẽ thì ngôi nhà càng bảo lưu được những sắc thái cổ truyền. Ngược lại, những kiêng kỵ và những nghi lễ tín ngưỡng, những không gian linh thiêng càng ít thì ngôi nhà càng nhanh biến đổi.
Ngôi nhà của người Mông ở Cát Cát thuộc phạm trù thứ nhất. Nhìn vào tổng thể không gian ngôi nhà, đâu đâu chúng ta cũng bắt gặp những không gian thiêng, với những ma nhà, ma cửa, ma buồng, ma bếp, ma sàn gác.v.v Nếu gạt bỏ đi những lớp màn huyền bí mang màu sắc mê tín, chúng ta có thể thấy được ở đó những dữ kiện “biết nói” về lịch sử, văn hóa, xã hội của họ. Theo quan niệm của người Mông ở Cát Cát, một ngôi nhà tốt không chỉ là một ngôi nhà được làm từ nguyên liệu tốt, kiểu dáng đẹp, kỹ thuật hoàn hảo mà nó còn phải được sự cho phép và phù hộ của thần linh và phải được làm theo những khuôn mẫu mà với niềm tin cổ xưa thì có làm được những điều ấy, con người sống ở trong ngôi nhà đó mới có cuộc sống tốt đẹp.
Thuộc dự án Bảo tồn Làng truyền thống dân tộc Mông, chuyên đề “Lễ dựng nhà và vào nhà mới của người Mông ở Cát Cát” nhằm tìm hiểu về không gian ngôi nhà của người Mông ở Cát Cát, quy trình dựng nhà và nghi lễ vào nhà mới của họ. Đồng thời, tìm hiểu về những biến đổi trong trong những phương diện trên. Thông qua đó để thấy được những quan niệm dân gian, những tri thức bản địa và thái độ ứng xử của người Mông nơi đây với một phương diện văn hóa vật chất truyền thống của mình Chuyên đề được thực hiện bằng các phương pháp dân tộc học truyền thống, lấy kết quả khảo sát tại thực địa làm nguồn tài liệu chính.
MỤC LỤC
Dẫn luận 2
1. Khái quát chung 3
1.1. Điều kiện tự nhiên làng Cát Cát 3
1.2. Lịch sử, dân số và phân bố dân cư 3
1.3. Văn hóa - xã hội 5
2. Phong tục làm nhà và vào nhà mới của người Mông ở Cát Cát . 6
2.1. Quá trình chuẩn bị . 6
2.1.1. Nguyên vật liệu làm nhà . 6
2.1.2. Chọn đất làm nhà 7
2.1.3. Nhân lực làm nhà 8
2.1.4. Chọn hướng nhà 9
2.2.5. San nền . 11
2.2. Quy trình dựng nhà 12
2.2.2. Dựng khung nhà . 12
2.2.3. Lợp mái .13
2.2.4. Thưng vách .14
2.2.5. Hoàn thiện .16
2.3. Bài trí không gian ngôi nhà . 17
2.3.1. Tổng thể khuôn viên . 17
2.3.2. Bài trí không gian cư trú . 18
2.3.3. Bài trí không gian tín ngưỡng . 20
2.4. Các nghi lễ cúng trong quá trình dựng nhà và bữa liên hoan vào nhà mới 24
2.4.1. Lễ cúng động thổ 24
2.4.2. Lễ cúng vào nhà mới 25
2.4.3. Bữa liên hoan vào nhà mới . 26
Kết luận
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1819 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Lễ dựng nhà và vào nhà mới của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngay từ khâu chọn đất làm nhà. Công việc này đòi hỏi người thực hiện phải có kinh nghiệm và thạo “đường lý lẽ” của tổ tiên. Đồng bào quan niệm một hướng nhà tốt nằm trên một mảnh đất lành là cơ sở tiền đề cho một cuộc sống tốt. Vì vậy, đây là công đoạn được tiến hành rất thận trọng và do đích thân gia chủ thực hiện dưới sự “cố vấn”, chỉ bảo cặn kẽ của những người già, nhiều kinh nghiệm trong làng.
Trong việc chọn hướng nhà, người Mông nơi đây có những qui định về việc tránh những hướng, những vật mà đồng bào xem là kỵ, thậm chí là tối kỵ như sau:
- Kiêng quay hướng nhà về hướng Tây vì cho rằng đó là hướng mặt trời lặn, hướng độc. Nhà làm vào hướng đó thì của cải và cả con người sống trong ngôi nhà đó cũng sẽ sớm “khuất bóng” theo mặt trời.
- Kiêng quay hướng nhà về phương Bắc vì sợ ma giặc Hán nhìn vào nhà và sẽ làm hại những người trong nhà.
- Kiêng quay hướng nhà đâm thẳng vào ngọn núi vì sợ bóng núi đè bóng người, những người sống trong nhà “làm nhiều mà cũng chẳng có ăn”.
- Kiêng quay hướng nhà đâm thẳng và sườn dốc vì sợ sườn dốc ấy sẽ cản trở đường làm ăn của gia đình.
- Kiêng quay hướng nhà vào dông núi vì sợ các ma ác ngụ ở dông núi nhìn vào nhà.
- Kiêng quay hướng nhà vào đỉnh núi võng yên ngựa vì cho rằng đó là thế bị bao vây, giặc đánh đến không có đường mà chạy.
- Kiêng quay hướng nhà vào nơi có huyệt mộ người chết vì sợ hồn ma của người chết nhòm vào nhà.
- Kiêng quay hướng nhà đâm thẳng vào cửa hang vì sợ của cải sau này thất thoát hết, gia đình sẽ không có tích lũy.
- Kiêng quay hướng nhà đâm thẳng vào đầu đốc nhà khác vì sợ sau này hay có chuyện xích mích, gây gổ.
Hướng tốt thường được người Mông ở Cát Cát chọn để làm nhà là hướng chính Nam (tốt nhất), nếu không được hướng chính Nam thì có thể chếch về hướng Tây Nam hay Đông Nam đều được vì đồng bào quan niệm phương Nam là mảnh đất lành, địa thế hiểm yếu, dễ phòng thủ, tránh được sự tấn công của giặc dã. Đó cũng là nơi sản vật trù phú, tiện cho đà phát triển. Quan niệm này bắt nguồn từ lịch sử di cư của người Mông. Đồng thời, trên thực tế, hướng Nam cũng là hướng mát mẻ, phù hợp với thuyết phong thủy theo quan niệm âm dương, ngũ hành và bát quái của nhiều dân tộc ở Á Đông.
Do cư trú ở vùng núi dốc nên hướng nhà của người Mông nơi đây cũng chịu sự qui định của điều kiện địa hình. Trường hợp mảnh đất dựng nhà không được bằng phẳng thì người ta phải chọn hướng nhà theo thế lưng tựa vào tà ly dương, mặt tiền hướng về phía dốc đổ nhưng cũng phải tránh được những điệu kỵ và tối kỵ nêu trên.
Như vậy, hướng nhà của người Mông ở Cát Cát luôn quay về hướng Nam hoặc chếch Đông Nam, Tây Nam. Hướng nhà quay xuống lung lũng hoặc khe núi. Từ vị trí cửa nhà nhìn thẳng ra phía trước là không gian thoáng, rộng, không bí bách, không có các sự vật không lành như cửa hang, ngọn núi, sườn dốc, dông núi, mộ huyệt, đầu đốc nhà khác… đâm thẳng vào cửa nhà.
2.1.5. San nền
Người Mông ở Cát Cát thường san gạt nền nhà vào những lúc nông nhàn. Công cụ san nền có cuốc, xẻng, xà beng, đầm tay và cáng vận chuyển đất. Nhân lực san nền là những anh em trong nhà, trong họ dưới sự quán quyến và chỉ bảo của một người già có nhiều kinh nghiệm.
Tác dụng của việc san gạt nền nhà nhằm để tạo ra một mặt bằng phẳng phiu, không gồ ghề và đặc biệt là không được dốc. Nền nhà cần phải chắc chắn, tránh được hiện tượng lún nền trong quá trình ở. Vì vậy, theo kinh nghiệm dân gian, người Mông nơi đây thường san nền trước khi làm nhà từ 6 tháng đến 1 năm nhằm tạo ra một khoảng thời gian vừa đủ để cho mưa, nắng giúp cho đất nền được nện chặt, vừa đỡ công, vừa đảm bảo độ bền vững.
Với những ngôi nhà làm trên những mảnh đất dốc, việc xử lý tà ly luôn được chú trọng. Theo kinh nghiệm dân gian, tà ly dương luôn được làm thẳng đứng, vuông góc với mặt đất và không được cao vượt mái nhà để tránh không cho nước mưa hay đất lở đổ thẳng xuống mái. Khoảng cách giữa tà ly dương với vách hậu ngôi nhà ít nhất cũng phải được 1 sải tay trở lên mới đảm bảo an toàn. Việc xử lý tà ly âm được chú trọng vào khâu gia cố đất nền và kè đá chống sạt lở. Để có được kết quả như mong muốn, người ta phải khai thác đá tảng dưới lòng đất trong vùng cư trú để kè chắc thành tà ly. Sau đó, lại mang đá cuội từ lòng suối chảy qua làng lên đổ đầy vào những chỗ hõm sát với bờ kè tà ly âm để lấy mặt bằng sao cho cao bằng phần đất sát tà ly dương; sau đó đổ đất lên trên, dùng đầm tay nện chặt, Khi độn đá, người ta phải tính làm sao để khu vực đó chỉ là khoảng sân trước mặt hoặc sân hai bên hồi nhà, tuyệt đối không ăn vào nền lòng nhà sẽ gây phức tạp cho việc chôn cột sau này.
Với những mảnh đất nằm trên dạng địa hình bằng phẳng thì việc san nền diễn ra thuận lợi hơn. Ở những mảnh đất này, việc san nền chỉ là bẩy và chuyển những khối đá tảng nhô đầu lên mặt đất ra xa, cào bỏ lớp dăm sạn, đất phong hóa (nếu có) rồi đổ đất sét mịn lên trên là được. Việc san nền thường được đồng bào tập trung nhân lực tiến hành khẩn trương. Thời gian cho việc san gạt mặt bằng một nền nhà thường khuôn gọn trong một ngày, thường từ khoảng 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều là hoàn tất. Tuy cũng là công đoạn đòi hỏi nhiều nhân lực và kinh nghiệm nhưng người Mông ở Cát Cát trong khâu san nền nhà không có các lễ nghi cầu cúng, không có các bài khấn tín ngưỡng và cũng không có tiệc rượu liên hoan.
* Khi đã có đủ gỗ, san xong nền nhà là coi như đã chuẩn bị xong các điều kiện cho việc dựng nhà. Dĩ nhiên, mỗi gia đình khi chuẩn bị dựng nhà cũng còn phải chuẩn bị đủ một lượng lương thực, thực phẩm để cung cấp cho các lễ nghi tín ngưỡng trong quá trình dựng nhà và bữa liên hoan vào nhà mới. Tuy nhiên, đây không phải việc khó. Ngoại trừ gà, rượu và xôi tím làm lý cúng thổ không trong lễ động thổ là bắt buộc thì lượng rượu, thịt, rau xanh trong bữa liên hoan mừng nhà mới không có qui định cụ thể về số lượng mà tùy theo điều kiện của từng gia đình. Theo tư liệu điền dã của chúng tôi tại lễ dựng nhà và vào nhà mới của gia đình ông Má A Dũng ở đội 1, làng Cát Cát thì lượng đồ ăn thức uống trong bữa liên hoan này có 100 lít rượu; 80 kg thịt lợn (2 con lợn, mỗi con 40 kg), 50 kg gạo tẻ và khoảng 1 thúng rau cải bắp, quả xu xu, củ xu hào, cà rốt… Tuy nhiên, theo ông Dũng cho biết, bữa liên hoan này là dịp để ông mời anh em bạn bè xa gần đến chung vui nên mới làm nhiều như thế. Còn theo thông lệ, các gia đình ở đây khi làm liên hoan vào nhà mới chỉ sử dụng khoảng một nửa số lượng rượu thịt nói trên.
2.2. Quy trình dựng nhà
Người Mông ở Cát Cát thường dựng nhà vào khoảng thời gian từ tháng 10 âm lịch năm trước đến tháng 2 âm lịch năm sau. Ngày được chọn để làm nhà thường trong các ngày từ mùng 1 đến ngày 19 âm lịch các tháng trên; trong đó tốt nhất là những ngày trăng tròn: 14 – 15 – 16. Cũng như nhiều dân tộc khác ở vùng cao, đồng bào kiêng làm nhà vào những ngày trùng với ngày mất của tổ tiên, ngày sinh của gia chủ. Quy trình dựng nhà trải qua các bước dựng khung nhà, lợp mái, thưng vách và hoàn thiện.
2.2.1. Dựng khung nhà
Dựng khung nhà là công đoạn đầu tiên trong toàn bộ qui trình làm nhà mới. Đây là công việc phức tạp nhất, nặng nhọc nhất và đòi hỏi sự chính xác cao. Vì vậy, trước ngày làm nhà khoảng 2 – 3 ngày, gia chủ phải đi đánh tiếng nhờ các gia đình trong họ, trong làng đến trợ giúp. Trong số những người được nhờ đến giúp, phải có 1 – 2 người có nhiều kinh nghiệm trong việc dựng nhà.
Ngày khởi công dựng nhà, những người được nhờ tập trung ở bãi đất dựng nhà từ sáng sớm (khoảng 6 giờ sáng). Sau lễ cúng động thổ, một vị cao niên giàu kinh nghiệm sẽ kiểm tra lại hướng nhà lần cuối; sau đó xác định các vị trí đặt cột cái, cửa chính và bếp lò. Từ ba điểm này, bằng kinh nghiệm của mình, ông ta dùng các bước sải chân để tính toán và đánh dấu những vị trí các cây cột còn lại trong bộ khung nhà.
Có được các vị trí đánh dấu, người ta mới bắt tay vào đào các hố chôn cột. Công việc này được tiến hành từ hố chôn cột cái. Theo phong tục truyền thống, gia chủ phải là người trực tiếp đào hố này. Trường hợp gia chủ ủy quyền đào cho người khác thì cũng phải bổ 1 – 2 nhát cuốc đầu tiên để “làm lý” rồi mới chuyển cho người được ủy quyền làm thay. Đồng bào cho rằng cột cái là nơi thờ ma lợn (Buô đangz) phù hộ cho cuộc sống và sự thịnh vượng của cả gia đình. Vì vậy, gia chủ sẽ phải là người đào cái hố ấy thì cuộc sống gia đình sau này mới được xuôn xẻ, mọi việc làm ăn mới diễn ra thuận lợi.
Khi đào xong các hố chôn cột, người ta mới bắt tay vào việc chôn cột. Cũng giống như khi đào hố chôn cột, việc chôn cột cái cũng phải có sự góp sức của gia chủ. Trong ý thức của người Mông nơi đây, gia chủ là người thực hiện chính trong việc chôn cây cột cái, những người khác chỉ là giúp sức. Sau khi đặt cột, gia chủ lấp đất vào chân cột, nện cho thật chặt rồi mọi người mới buông tay để tiếp tục thực hiện việc chôn cột ở các vị trí khác. Thứ tự các hàng cột được chôn lần lượt theo từng vì. Đầu tiên là vì cột cái, rồi đến vì cột đối diện của gian giữa (giáp gian hồi bên phải). Thứ ba là hàng vì vách hồi bên trái và cuối cùng là hàng vì vách hồi bên phải. Ở mỗi hàng vì, cây cột giữa bao giờ cũng được dựng đầu tiên, sau đó mới đến 2 cột quân.
Bộ khung nhà truyền thống của người Mông có kết cấu ở dạng vì cột với bốn hàng vì, mỗi hàng ba cột. Cột nhà truyền thống của đồng bào là cột tròn, đường kính cột thường khoảng 40 cm. Tính từ mặt đất, cây cột cái cao khoảng 3,8 – 4 m để đỡ vì nóc (câu đầu). Hai cột quân hai bên cao khoảng 2,5 m để đỡ xà vượt, xà ngang. Khoảng cách giữa cột quân đến cột cái là 2,5 m tạo ra chiều sâu lòng nhà là 5 m. Khoảng cách giữa mỗi bộ vì là 4 m; tổng 3 gian nhà rộng 12 m. Tổng diện tích lòng nhà ≈ 60 m2.
Sau khi chôn xong các cột, người ta lắp các thanh xà ngang, xà vượt, xà nóc. Kỹ thuật lắp ráp bộ khung nhà của người Mông là kỹ thuật mộng luồn. Đầu mộng được chốt bằng đinh gỗ. Những mộng hở được xử lý bằng cách chèn thêm các miếng đệm bằng gỗ mỏng. Trong việc dựng nhà theo qui cách cổ truyền, người Mông nơi đây kiêng dùng đinh kim loại đóng lên các cấu kiện gỗ. Đồng bào giải thích rằng nếu đóng đinh vào bộ phận nào trong nhà (cột, sàn, vách, lề cửa…) thì ma sẽ không dám về ở chỗ đó. Những người ở trong nhà sẽ không được phù hộ.
Sau khi các thanh xà được lắp vào các hàng cột, bộ khung nhà đã được liên kết và đã thành hình. Người ta sẽ kiểm tra xem các cột đã thẳng hàng chưa, có ngay ngắn không, các thanh xà có chắc chắn không. Việc chỉnh sửa sẽ được thực hiện ngay khi phát hiện ra những cấu kiện chưa đạt yêu cầu. Khi bộ khung nhà đã ngay ngắn, người ta mới chèn đá vào các chân cột, lấp đất và dùng đầm nện chặt cố định chân cột ở hố chôn.
2.2.2. Lợp mái
Mái nhà cổ truyền của người Mông ở Cát Cát được lợp hoàn toàn bằng ngói gỗ pơ mu, nhẹ và bền. Kích thước của viên ngói gỗ tùy thuộc vào các xúc gỗ được dùng để xẻ ngói. Yêu cầu duy nhất của việc làm ngói là các viên ngói phải dài bằng nhau; chiều rộng, độ dày và độ bằng phẳng của các viên ngói trên cùng một mái nhà có thể chênh lệnh đôi chút cũng được. Thông thường, ngói gỗ pơ mu của người Mông có chiều dài khoảng 70 cm; rộng 25 – 30 cm; dày khoảng 1 – 1,5 cm. Chính giữa đầu mỗi viên ngói phải được trổ một lỗ nhỏ cỡ bằng đầu ngón tay cái để đóng chốt gỗ gim viên ngói vào các thanh đòn để giữ cho ngói không bị tuột, không bị bay khi có gió lớn. Tuy mặt viên ngói thô ráp, gồ ghề nhưng do mật độ lợp khá dày nên nhà ở truyền thống của người Mông cũng ít khi bị dột, kể cả những khi mưa bão.
Với đặc điểm của dạng ngói gỗ nêu trên, bộ khung đỡ mái nhà của người Mông không có rui, mè mà chỉ bao gồm có đòn nóc và các đòn tay. Các thanh đòn dài bằng chiều rộng của ngôi nhà (12 m). Trong đó, các đòn nóc được làm bằng gỗ vuông tiết diện 10 x 10 cm hoặc hình tròn với đường kính cũng khoảng 10 cm. Theo quan niệm truyền thống của người Mông nơi đây, cây đòn nóc có ý nghĩa là vật chứa đựng tài lộc và vận hạn của gia đình. Vì vậy, việc đặt đòn nóc phải do một người có gia đình, vợ chồng toàn vẹn, con cháu đề huề, gia đình khỏe mạnh, sung túc đảm nhiệm. Đòn nóc phải được đặt theo hướng ngọn quay về đằng Đông (phía mặt trời mọc) và gốc quay về đằng Tây (phía mặt trời lặn). Các đòn tay đặt cách nhau khoảng 45 – 50 cm đều về hai bên mái. Trong một ngôi nhà truyền thống của người Mông nơi đây, người ta sử dụng hết 12 cây đòn tay, mỗi bên 6 đòn.
Các thanh đòn được cố định với xà nóc bằng gờ mộng, đóng chốt gỗ (những ngôi nhà tạm được cố định bằng ngoãm tự tạo và dây buộc). Sau đó, người ta chuyển ngói lên mái để lợp. Việc lợp mái được thực hiện theo 2 kíp, mỗi kíp 3 người: 1 người chuyển ngói, 1 người đón ngói, 1 người lợp ngói; mỗi kíp thực hiện việc lợp ở một bên mái nhà theo chiều dốc của mái. Mái nhà được lợp bắt đầu từ nóc ngoài cùng bên trái, dàn theo hàng ngang đến tận cùng bên phải. Lần lượt như vậy, hết hàng ngang đầu tiên mới thực hiện tiếp đến hàng ngang thứ hai rồi đến hàng ngang thứ ba… cho đến hết. Đầu ngói của các hàng ngang sau được luồn xuống dưới thân ngói của hàng ngang trước theo kiểu so le. Chốt đóng giữ đầu viên ngói ở hàng ngang sau đóng luồn qua khe rãnh giữa hai viên ngói của hàng ngang trước và đóng ghim vào đòn tay. Mỗi mái nhà ngói pơ mu cổ truyền người Mông nơi đây có 12 hàng ngói (ứng với số đòn tay) lợp đều về 2 bên – mỗi bên 6 hàng. Số lượng các viên ngói ở mỗi hàng ngang phụ thuộc vào chiều rộng của viên ngói. Khi lợp mái, người ta chèn nóc mái bằng một nửa thân bương lớn bổ dọc, bỏ mấu đốt để giữ mái. Với cách lợp mái như trên, khi trời nắng, người Mông xưa khi cần lấy ánh sáng ban ngày vào vị trí nào trong nhà thì chỉ cần lấy sào đẩy đầu viên ngói ở vị trí ấy lệch sang một bên để lấy khoảng trống cho ánh sáng lọt vào. Khi trời mưa, người ta lại dùng sào kích đẩy viên ngói về vị trí cũ, nhà sẽ không bị dột.
2.2.3. Thưng vách
Vách nhà truyền thống của người Mông ở Cát Cát sử dụng 100% ván gỗ pơ mu. Theo giải thích của ông Má A Câu, trưởng thôn Cát Cát thì người Mông ở đây trước kia chỉ có công cụ chế tác gỗ là dao rìu và cưa nên họ ưa thích sử dụng các loại gỗ thớ thẳng, nhẹ, xốp, bền để chế tác. Trong khi đó, gỗ pơ mu – loại gỗ có đầy đủ các đặc tính ưu việt nêu trên có rất nhiều trong vùng nên chúng được lựa chọn làm giải pháp ưu tiên hàng đầu.
Người Mông thường khai thác các cây gỗ pơ mu to, thẳng, đường kính gốc tối thiểu 60 cm để làm vách nhà. Sau khi chặt hạ cây gỗ, người ta chặt ngắn thân cây thành những xúc gỗ dài bằng chiều cao vách nhà, khoảng 2,4 – 2,5 m, róc bỏ phần vỏ xốp bên ngoài rồi xẻ dọc theo thân cây lấy ván. Việc xẻ ván được thực hiện bằng cưa xẻ, mỗi tấm ván dày ≈ 2 cm, rộng khoảng 35 – 50 cm. Bình quân, mỗi xúc gỗ, người ta làm ra được khoảng 16 – 18 tấm ván. Với một cây gỗ đường kính gốc 60 cm, chiều cao khoảng hơn 10 m, sau khi đã chặt bỏ phần ngọn, người ta có được 3 xúc gỗ đủ tiêu chuẩn làm ván thưng vách nhà. Một ngôi nhà có 2 vách hồi (mỗi vách hồi rộng 5 m), 1 vách tiền, 1 vách hậu (mỗi vách rộng 12 m), sau khi trừ cửa chính và cửa gách, người ta cần khoảng 50 – 60 tấm ván thưng vách.
Việc thưng vách nhà diễn ra nhanh chóng, gần như làm đồng thời với việc lợp mái nhà. Kỹ thuật thưng vách của người Mông là chốt gắn vách nhà với các thanh xà nhỏ chạy nối vòng quanh các cột quân, dùng chốt gỗ đóng cố định các ván gỗ vào các thanh xà trên (gần mái) và dưới (gần đất). Yêu cầu của việc thưng vách là các tấm ván phải khít và chắc chắn, không được để hở, không được lung lay.
Trong toàn bộ vách nhà. Nơi được chú ý cẩn thận nhất là khoảng vách hậu nối từ vì cột ma tới vì cột đối diện ở gian giữa bởi đó là bức vách được dùng để thờ ma nhà và ma tổ tiên. Vì vậy, những tấm ván tốt nhất, đẹp nhất được dành để thưng khoảng vách này. Những người thực hiện thưng khoảng vách này cũng phải là những người thạo việc làm nhà bởi người Mông rất kỵ những sự cố sảy ra ở khoảng vách này trong suốt những năm sử dụng ngôi nhà đó làm nơi ở. Do đó, việc làm vách thờ ma nhà và ma tổ tiên được tiến hành cẩn thận, kỹ lưỡng ngay từ khi làm nhà.
Ngoại trừ bức vách thờ ma nhà và ma tổ tiên, việc thưng vách ở những khoảng vách khác là một việc đơn giản trong quy trình dựng nhà. Vì vậy, ai cũng có thể tham gia vào việc này. Theo quan sát của chúng tôi tại địa điểm làm nhà của gia đình ông Má A Dũng ở đội 1, làng Cát Cát thì việc thưng vách có tới gần 20 nam giới đủ mọi lứa tuổi tham gia với thời gian từ khi bắt đầu đến khi kết thúc chỉ gần 40 phút.
Khi ngôi nhà đã được thưng ván xong thì những người làm mái cũng đã hoàn thành công việc của mình. Lúc này là coi như ngôi nhà đã được hoàn thành, lễ cúng vào nhà mới và bữa liên hoan mừng nhà mới diễn ra ngay sau đó. Việc hoàn thiện ngôi nhà sẽ được gia đình chuẩn bị dần dần về sau.
2.2.4. Hoàn thiện
Nằm trong qui trình dựng nhà, nhưng việc hoàn thiện ngôi nhà mới không được làm ngay hôm làm nhà mà tùy thuộc điều kiện của từng gia đình mà người ta có thể làm sớm hay làm muộn, làm nhanh hay làm dần trong nhiều năm.
Một ngôi nhà sau khi làm lễ vào nhà mới xong thường chỉ xong được bộ khung, mái nhà và bốn bức vách quanh nhà. Việc hoàn thiện còn lại các công đoạn như lắp cánh cửa, làm sàn gác, đặt bếp lò, bếp kiềng, quây vách buồng.v.v… Việc lập ban thờ ma nhà và ma tổ tiên thì chỉ khi nào bố của gia chủ chết thì mới được tiến hành. Việc hoàn thiện nhà chủ yếu do anh em trong gia đình thực hiện.
Trong việc hoàn thiện ngôi nhà, thì việc làm cửa và quây vách buồng thường được chú trọng đầu tiên và thường được làm sau khi dựng nhà khoảng 1 – 2 tháng. Các cánh cửa và vách buồng thường được làm từ những ván gỗ giống với ván gỗ dùng để thưng vách nhà. Cách quây vách buồng cũng dùng kỹ thuật chốt giữ đầu trên và chốt chặn đầu dưới của từng tấm ván đặt khít nhau như kỹ thuật thưng vách nhà. Kỹ thuật lắp cửa là dùng mộng tròn xuyên qua lỗ mộng ở xà vách trên – đoạn chạy qua cửa là dầm cửa; và lỗ mộng ở xà vách dưới – đoạn chạy qua cửa là ngưỡng cửa.
Với sàn gác, các tấm ván rộng cỡ khoảng 30 – 50 cm, dài 3 m được đặt lên quá giang ở một hoặc hai gian hồi tùy theo điều kiện cụ thể của từng gia đình. Tuy nhiên, theo quan niệm của người Mông nơi đây, sàn gác thiêng (có ma sàn gác trú ngụ) là ở bên gian hồi bên phải – nơi có đặt bếp lò. Khi làm sàn gác, người ta chỉ cần ghép các tấm ván khít với nhau trên quá giang là được, không cần phải đóng chốt gỗ. Bắc ván xong, người ta đặt chiếc thang gỗ được tạo tác (đẽo bậc) từ một thân gỗ nguyên để làm lối lên xuống gác.
Bếp lò được đặt ở gian hồi bên phải, gần sát vách sau. Việc đắp bếp lò do đàn ông thực hiện, phụ nữ giúp chuyển đất. Bếp thường đắp bằng đất sét nhưng tốt nhất là dùng đất tổ mối. Sau khi đã nhào đất kỹ, họ dùng bốn tấm gỗ làm khuôn hình vuông rồi đổ đất vào nện chặt. Khoảng một ngày sau, khi đất đã se khô thì tháo bỏ khuôn, khoét miệng và cửa lò rồi trát thêm lớp đất dẻo vào mặt ngoài lò. Trên bếp lò luôn luôn đặt một chiếc chảo gang. Bếp lò chủ yếu dùng để nấu hoặc đồ cơm buổi sáng và nấu cám lợn. Khi có đám cưới hay đám ma, người ta luộc thịt lợn, xào nấu ở bếp này.
Gian hồi bên trái là nơi đặt bếp kiềng. Trước kia, để làm bếp kiềng, người ta chôn bốn hòn đá cuội hình thoi (dài 0,8 – 1 m) làm khung bếp. Phần lòng bếp thấp hơn mặt nền nhà chừng 10 – 15 cm. Ông Má A Câu, trưởng thôn Cát Cát cho biết: “Nghe người già nói, xưa kia người Mông lấy ba hòn đá cuội hình thoi chôn xuống đất, đầu chụm vào nhau để làm kiềng đun nấu gọi là dê chiu. Có ma bếp trú ngụ ở đây nên không được ai đập vào ba hòn đá này, không được khạc nhổ vào bếp, nhất là khi đang nấu nướng”.
Không biết từ bao giờ, người Mông ở Cát Cát đã biết làm kiềng kim loại để dùng. Ngày nay, các gia đình đều mua kiềng bếp ở chợ huyện. Bữa sáng và bữa tối đều nấu ăn ở bếp này. Ngoài việc nấu nướng hàng ngày, bếp kiềng còn là nơi để các thành viên trong gia đình, đặc biệt là nam giới ngồi tiếp khách và sưởi lửa vào mùa đông.
Phía trên bếp có hai tầng giàn gác. Giàn dưới cất giữ những bắp ngô và các loại hạt giống: cải, vừng, bầu, bí; đặc biệt trước kia súng kíp cũng được bảo quản ở đây, trong một cái ống tre (nay súng kíp đã không còn được sử dụng). Giàn trên là chỗ phơi, sấy các loại lạt tre, dây mây và nan mới chẻ để đan lát. Cạnh bếp là nơi đặt chạn bát và các đồ gia dụng. Phía đối diện thường kê một cái giường, làm chỗ ngủ cho con trai chưa vợ hoặc cho khách.
Ngoài ra, trong công đoạn hoàn thiện nhà còn phải kể đến việc làm chuồng lợn, chuồng gà, hàng rào, cổng nhà, vườn rau, máng nước.v.v… Tất cả những việc đó thường được gia đình tranh thủ làm vào những lúc nông nhàn. Nhiều gia đình phải sau khoảng gần 10 năm làm nhà mới hoàn thiện được đầy đủ khuôn viên cho ngôi nhà của mình.
2.3. Bài trí không gian ngôi nhà
Người Mông ở Cát Cát quan niệm một ngôi nhà bình thường thì phải có ba gian. Mỗi gian giữ một chức năng riêng. Gian bếp có ma bếp lò là gian giữ lửa và là gian của vợ chồng chủ nhà. Gian có bếp kiềng là gian của vợ chồng con. Gian giữa là gian dành để cúng tổ tiên, ma nhà, là gian chung của cả nhà chuyên để làm những việc lớn của gia đình (hiếu hỉ, lễ tết…).
2.3.1. Tổng thể khuôn viên
Khuôn viên cư trú truyền thống của người Mông ở Cát Cát luôn được rào bằng tường đá chắc chắn nhằm mục đích phòng thủ, bảo vệ người, gia súc và của cải nếu có sự tấn công bằng vũ lực từ bên ngoài, phòng ngừa thú dữ. Trong khuôn viên ấy, ngôi nhà nằm ở vị trí trung tâm – chính giữa hoặc chính giữa khoảng sau của khuôn viên. Ngôi nhà được làm theo kiểu nhà trệt. Để chống gió, khí hậu lạnh, sương muối, nhà của họ thường làm thấp, vững chắc, kín đáo. Các ngôi nhà được dựng trên triền núi, phía trước có suối, phía sau có núi che chở, xung quanh có thể trồng trọt và chăn nuôi gia súc.
Quy mô nhà thường có ba gian, hoặc ba gian hai chái, kết cấu trên cơ sở bốn vì kèo, ba hàng cột. Cửa chính mở ở mặt trước của gian giữa. Sát bức vách cạnh cửa là nơi đặt cối giã. Cửa phụ mở ở gian hai bên hoặc ở vách hai bên đầu hồi nhà, thường là bên phải, nơi có gian đặt bếp lò, thông ra máng nước. Xung quanh nhà thưng ván, mái lợp ván xẻ.
Gian giữa là nơi thờ tổ tiên và để dụng cụ sản xuất. Bếp lò được đặt ở gian hồi bên phải . Buồng chủ nhà thì tùy từng dòng họ mà đặt ở bên phải hay bên trái. Hai gian bên, một bên là bếp lò và buồng ngủ, một bên là bếp khách, giường khách và có thể có thêm một buồng ngủ nếu gia đình có nhiều thế hệ cùng chung sống. Phía trên là sàn gác, nơi cất trữ lương thực. Một số gia đình còn làm kho lương thực bên ngoài nhà.
Trong ngôi nhà của người Mông ở Cát Cát, cửa chính của ngôi nhà luôn được mở ở chính giữa vách tiền của gian giữa, cửa phụ mở ở vách hồi của gian hồi bên trái. Gọi là cửa phụ nhưng nó đảm nhiệm chức năng là lối ra vào chính. Hàng ngày, bất kể chủ hay khách, đàn ông hay đàn bà, người già hay người trẻ cũng thường ra vào nhà qua cửa này nhưng khi có đại sự, việc ra vào bao giờ cũng diễn ra ở cửa chính. Phía trước nhà là chuồng trâu, ngựa, lợn, gà, tổ ong nuôi và có kho để lương thực. Ở những chỗ có địa hình tương đối bằng phẳng, đồng bào còn trồng rau sau nhà và dựng hàng rào phía trước.
Trong khuôn viên của nhiều ngôi nhà còn có lò rèn. Rèn đúc là nghề thủ công nổi tiếng của người Mông. Thôn Cát Cát hiện còn 03 lò rèn. Lò rèn (pu) đặt trong chái nhà phía sau hoặc dựng riêng ở phía trước nhà ở. Người Mông thường rèn, đúc vào mùa đông, lúc nông nhàn và trước vụ trồng trọt. Dụng cụ để rèn gồm có búa, đe, kìm, bễ ngang, lò đứng hình trụ, đốt lò bằng than củi. Từ sắt thép phế liệu, bằng kinh nghiệm và tính cần cù chịu khó, họ rèn được dao, cuốc, rìu, búa, xẻng.v.v… Những sản phẩm rèn của người Mông nơi đây được các tộc người khác trong vùng ưa chuộng. Người Mông nơi đây đúc được cả lưỡi cày. Nguyên liệu đúc là phôi sắt thép pha gang, được đun nóng chảy rồi đổ vào khuôn đúc. Đặc biệt, người Mông có kỹ thuật khoan nòng súng kíp rất tài tình, thường khoan trong nhà hay cạnh lò rèn.
Trước đây, hầu hết các ngôi nhà của người Mông ở Cát Cát đều nuôi ngựa và làm chuồng ngựa trong khuôn viên nhà. Chuồng ngựa thường dự phía trước nhà để tiện dắt ngựa ra vào và đề phòng trộm cắp. Nền chuồng hình vuông; khung chuồng, ván lát sàn và ván lợp cũng đều bằng gỗ pơ mu. Trong sản xuất, sinh hoạt truyền thống nơi đây, ngựa không chỉ được dùng để cưỡi, là phương tiện thồ hàng rất tiện lợi mà còn là tài sản, hàng hoá có giá trị cao và gắn bó sâu sắc với đời sống của từng gia đình.
2.3.2. Bài trí không gian cư trú
Việc bài trí không gian cư trú trong ngôi nhà của người Mông ở Cát Cát có 2 dạng cơ bản của 2 dòng họ có công khai phá làng. Đó là dạng bài trí của dòng họ Vàng và dòng họ Má. Các dòng họ khác có cách bài trí nhà giống một trong 2 dòng họ trên. Chúng tôi đã lựa chọn 2 ngôi nhà điển hình ở cả 2 dạng đó là ngôi nhà ông Vàng A Phay, trú tại đội 3 thôn Cát Cát và ngôi nhà ông Má A Câu, trú tại đội 2 cùng thôn để khảo tả.
- Dạng bài trí thứ nhất (nhà ông Vàng A Phay):
Trong ngôi nhà này, gian bếp lửa (kraor chuz) được chia đều từ tà ly dương bên trong nền nhà 1/3 để làm gian buồng cho vợ chồng con trai của chủ nhà. Đây vừa là nơi ngủ của vợ chồng con trai chủ nhà, vừa là nơi sinh đẻ của con dâu. 1/3 chính giữa nhà sát với cột chính làm bếp giữ lửa, 1/3 sát tà ly âm phía ngoài để làm giường khách (txangx kruô). Giường này thường dành khi có khách đến chơi có nơi nghỉ, ngủ. Trong thời gian lưu lại thôn để khảo sát, gia đình ông Vàng A Phay cũng đã bố trí cho cán bộ khảo sát nghỉ tại gian giường khách này.
. Nếu gia đình đông người, giường này dành làm nơi ngủ cho những người con trai, cháu trai chưa lập gia đình.
Gian giữa còn gọi là gian chính (hâur plangs tangs) thường để làm các việc lớn như thờ cúng tổ tiên, cúng quải trừ ma, tổ chức đám cưới, đám tang… Nó có chức năng làm gian nhà chung của cả gia đình nói riêng, họ hàng nói chung và còn là nơi chị em phụ nữ trong nhà xe lanh dệt vải…
Gian bếp lò (quangr kraor txuk) được quy định chặt chẽ đối với vị trí đặt bếp lò và hướng cửa bếp lò. Vị trí đặt bếp lò đối diện với gian buồng của chủ nhà, phía trên làm bếp lò. Cửa bếp lò đặt theo hướng Nam, kiêng không đặt quay sang bếp giữ lửa. Theo ông Vàng A Phay sở dĩ như vậy là bởi nếu quay hướng cửa bếp lò ngang sang bếp lửa thì khi mặt trời chiếu vào giữa, thần lửa sẽ chập cả ba thành một, thần lửa sẽ thịnh và hay gây ra hỏa hoạn, cháy nhà hoặc con người hay bị bỏng. Phần trước cửa bếp lò là phần nền nhà dành để xếp củi. Phần đấn nều đối diện với bếp giữ lửa là nơi người nội trợ có chỗ ngồi làm việc.
Phần thứ ba nơi gian bếp lò đối diện với phần đất làm giường khách ở gian đầu dành làm gian buồng ngủ cho con cái trong nhà.
- Dạng bài trí thứ hai (nhà ông Má A Câu):
Cũng như dạng bài trí thứ nhất, ở dạng bài trí thứ hai, gian giữa được sử dụng chung cho cả nhà, được sử dụng cho cả gia đình nói riêng, anh em họ hàng nói chung khi có việc lớn và còn là gian nhà rộng cho chị em phụ nữ đặt guồng xe lanh, khung cửi dệt vải. Điều khác biệt là cách bố trí ở hai gian hồi và hướng bếp lò.
Gian hồi bên trái cũng là gian đặt bếp kiềng (kraor chuz). Ở gian này, không gian ngôi nhà được phân thành hai phần. Nửa ở phía bên dưới làm bếp, là nơi để đàn bà con gái làm nội trợ; còn nửa phía bên trên giáp tà ly nền nhà bên trong làm buồng ngủ của vợ chồng con trai.
Gian hồi bên phải cũng là gian đặt bếp lò (kraor txuk). Vị trí đặt bếp lò được đặt ở nửa bên dưới. Hướng bếp lò được làm quay về gian giữa nhà. Bếp lò được sử dụng để nấu rượu, cám lợn, nấu thịt khi nhà có đại sự. Phần không gian bên trên, sát tà ly dương là nơi đặt buồng ngủ của vợ chồng chủ nhà.
Trong ngôi nhà, sàn gác được đặt phía trên quá giang của gian có bếp lò. Người ta dùng 4 – 6 cây gỗ tròn (đường kính 10 – 15 cm) gác lên hai quá giang rồi xếp các tấm ván xẻ hay các cây tre nhỏ hoặc trải giát tre tạo thành mặt sàn. Để lên sàn gác, người ta bắc một cái thang gỗ có số bậc lẻ, thường là năm bậc hoặc bẩy bậc, bắc dựa đầu thang vào quá giang để trèo lên. Sàn gác là nơi cất trữ ngô, thóc, các loại.
2.3.3. Bài trí không gian tín ngưỡng
Gian giữa là gian thờ cúng ma nhà (xưr caz) và ma tổ tiên. Tại gian này, chính giữa vách hậu của gian giữa (hướng bắc) là nơi đặt ban thờ ma nhà và ma tổ tiên. Chính giữa vách giáp với gian hồi bên phải (hướng đông) là nơi bố trí cột cái thờ ma lợn (Buô đangz). Chính giữa vách trước (hướng nam) là nơi mở cửa chính thờ ma cửa (đangz trôngx hay đangz kraor trôngx). Theo ông Má A Cáng, thầy cúng thôn Cát Cát thì trước đây, những người làm nghề thuốc còn đặt ban thờ thần thuốc (zuv vangx) ở trong nhà. Bàn thờ thần thuốc được đặt ở cạnh ban thờ ma nhà và ma tổ tiên. Nhìn chung, trong ngôi nhà của người Mông ở Cát Cát có 6 vị trí quan trọng, liên quan đến tín ngưỡng, phong tục tập quán và cách ứng xử của người Mông. Đó là: nơi thờ tổ tiên, cột ma nhà, sàn gác, bếp kiềng, bếp lò, buồng chủ nhà, lò rèn và chuồng ngựa.
- Nơi thờ tổ tiên trong nhà:
Người Mông ở Cát Cát không lập ban thờ tổ tiên riêng mà thờ chung với ma nhà (xưv cangz) ở vách hậu nơi gian giữa nhà. Chính giữa gian cúng, người ta đặt một cái bàn nhỏ cách mặt đất từ 0,4 – 0,5 m. Trên đó đặt ba ống hương. Gia chủ thờ tổ tiên ba đời nên khi cúng thường có ba cái chén (đựng nước chè) và một cái bát (đựng nước lã).
Cũng như người Mông ở các nơi khác, người Mông ở Cát Cát chỉ cúng tổ tiên vào dịp mừng năm mới, lễ cơm mới hoặc khi cúng chữa bệnh. Trong đó, dịp cúng tổ tiên lớn nhất là vào dịp Tết cổ truyền Mông (tháng 12 âm lịch), nay thường làm vào Tết nguyên đán.
Nơi thờ là chỗ thiêng, chỉ có chủ gia đình mới được cúng mời tổ tiên và con trai mới được đến gần. Ông Má A Câu, trưởng thôn Cát Cát cho biết: “Người Mông chúng tôi kiêng ngồi dựa lưng vào vách có chỗ thờ, kiêng ngồi chơi ở khu vực này, nhất là phụ nữ và khách lạ. Chỉ có chủ nhà mới được phép rót nước vào chén, bát để cúng”.
- Hệ thống ma nhà
Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người Mông ở Cát Cát vẫn song song tồn tại một hệ thống “ma nhà” với những lễ thức cúng bái riêng biệt.
+ Ma nhà (xưv cangz): là vị thần linh được người Mông Cát Cát coi trọng nhất với quan niệm là vị thần cai quản không để tiền bạc, của cải mất mát, phù hộ gia đình làm ăn phát đạt, giữ gìn các hồn người trong gia đình, không cho hồn chạy đi lang thang ra ngoài. Ma nhà còn được hiểu là một vị thần kiêm tính mọi chức năng của tất cả các loại ma trong nhà.
Nơi thờ ma nhà đặt ở bức vách gian giữa, đối diện với cửa ra vào. Người Mông ở Cát Cát cúng ma nhà vào dịp Tết đón mừng năm mới, lễ cơm mới, lúc gia đình có người ốm đau, khi trồng trọt hoặc chăn nuôi gặp vận hạn, cần trừ tà và cầu xin được phù hộ.
Hàng năm, cứ đến đêm tất niên, chủ nhà bắt một con gà trống ra trước bàn thờ khấn vái, sau đó cắt tiết rồi thả trong nhà. Chủ nhà quan sát xem con gà quay đầu về hướng nào thì căn cứ vào đó để đoán định việc làm ăn trong năm tới có phát đạt hay không. Người ta tin rằng, nếu lúc giẫy chết, con gà quay đầu về bức vách – nơi thờ ma nhà hoặc phía buồng gia chủ thì năm đó gia đình làm ăn phát đạt, nhưng nếu con gà quay ra phía cửa thì năm đó gia đình gặp khó khăn, hao tiền tốn của. Gặp trường hợp ấy, chủ nhà bắt con gà khác làm lễ cúng lại, nếu có biểu hiện như cũ thì cúng thêm một lần nữa, và kết quả vẫn không thay đổi thì mới đành cam chịu.
Cũng giống như việc thờ cúng tổ tiên, trong những dịp cưới xin, tang ma hay vào nhà mới… chủ nhà nhất thiết phải làm lễ cúng ma nhà để báo tin và mời thần nhà chứng giám. Lễ vật dùng để cúng ma nhà chỉ có thể là thịt lợn, thịt gà, cơm, rượu và người ta tuyệt đối kiêng dùng thịt bò, thịt trâu hay thịt chó trong nghi lễ này.
+ Ma cột chính (Cu ndêx đangz). Cây cột chính (cột ma) là cây cột giữa của vì kèo thứ hai ngăn gian đầu hồi bên trái với gian giữa. Vì đây là “cột thiêng” hay “cột chủ” nên để làm cột này, người ta phải chọn cây gỗ thẳng, đẹp, chặt đẽo cẩn thận, phải vác lên vai, không được dùng trâu kéo. Chính chủ nhà là người đào hố rồi chôn cột này. Trong cuộc sống hàng ngày, người Mông nơi đây kiêng dùng cây que đánh vào cột, kiêng buộc dây phơi quần áo, đóng đinh, sờ mó vào cột. Nếu ai vi phạm sẽ bị quở trách, có khi còn bị chủ nhà phạt vạ một con gà để cúng tạ lỗ ma nhà. Vào dịp Tết cổ truyền, cột thiêng cũng được dán giấy trắng (tượng trưng cho việc mặc áo mới), thắp hương dưới chân cột, vẩy nước lã và phun rượu để trừ tà ma.
Cột thiêng chính là nơi thờ ma lợn (Buô đangz). Nó tượng trưng cho sự hưng thịnh của gia đình, liên quan đến sức khoẻ và vận mệnh của mọi người trong nhà.
Theo quan niệm của đồng bào, việc cúng ma cột chính còn nhằm tạ ơn những người xưa kia đã giúp người Mông vượt qua hoạn nạn để tìm lại chữ viết đã mất. Vật cúng là lợn nái đã đẻ và cúng theo tập quán chung của cả dòng họ. Sau khi cúng, hàm lợn thường được treo ở cột chính. Nhiều người sau khi cúng xong lại đem xương hàm ấy đốt đi và kiêng không treo hay chôn bất cứ vật gì ở cây cột này.
+ Ma cửa (Khaor trôngx plangl) là vị thần linh được quan niệm là chuyên việc canh giữ cửa, ngăn ngừa các ma ác vào nhà, bảo vệ gia súc, bảo vê của cải, bảo vệ các linh hồn, giữ gìn không cho linh hồn của các thành viên trong gia đình bỏ đi. Khi nào gia súc, gia cầm bị bệnh tật, hoặc bị hổ vồ là do ma cửa bị ngã. Bởi vậy, bất kỳ người Mông nào khi đã có gia đình và ngôi nhà của mình đều phải làm ngay lễ “dựng” ma cửa.
Trong câu truyện lưu truyền đến ngày nay, người Mông kể rằng: “Thưở xa xưa, khi trời đất còn hỗn loạn, trong bầu trời xuất hiện 11 mặt trời, 11 mặt trăng thi nhau chiếu sáng làm cho mặt đất khô cằn, cây cối chết hết, con người khổ sở không sao kể siết. Trước tình cảnh ấy, anh em Zax Zuav và Zax Zi là những người rất giỏi bắn cung tên mới bàn nhau bắn mặt trời và mặt trăng để trừ hoạ cho mọi người. Khi tất cả mặt trời, mặt trăng xuất hiện, hai người dương cung bắn. Mặt trời, mặt trăng sợ quá bỏ trốn biệt hết, thế là mặt trời và mặt đất lại tối đen như mực, con người vẫn chưa thoát khỏi cảnh khổ cực. Không còn cách nào, người Mông đành kéo đến cầu cứu ông Sâuz - một người tài giỏi, thông hiểu mọi việc. Sâuz gọi mặt trời, mặt trăng và anh em Zax Zuav, Zax Zi đến giảng hoà và nói rằng, từ nay chỉ nên xuất hiện một mặt trời, một mặt trăng là đủ. Đồng thời, để tránh nhầm lẫn, Sâuz trao nhiệm vụ cho con gà trống làm trọng tài và quy định: khi nào gà trống gọi, mặt trời mới được ra và mặt trăng phải đi ngủ; lúc nào gà trống đi ngủ, mặt trời phải đi ngủ theo gà trống và khi ấy mặt trăng mới được ra. Sau cuộc phán xử đó, gà trống có sức mạnh phi thường, quản lý mặt trăng, mặt trời, trông coi cả âm dương”. Vì thế, người Mông đã chọn gà trống làm ma cửa của mình.
Nghi lễ dựng ma cửa của người Mông ở Cát Cát được tiến hành đơn giản nhưng rất thiêng liêng. Đồng bào dán một mảnh giấy đỏ lên dầm cửa chính, người chủ lễ bắt một con gà trống hoa khoẻ đẹp cắn vào mào cho máu chảy ra, họ quệt máu đó lên mảnh giấy đỏ. Từ đó, con gà ấy được xem là hiện thân của ma cửa, không ai được đụng đến. Người Mông nơi đây cho rằng, khi con gà hiện thân cho ma cửa gáy gở thì có nghĩa là ma cửa thông qua tiếng gáy của gà mà ngầm báo cho mọi người biết trước tai hoạ để đề phòng.
Trong ngày Tết cổ truyền của người Mông, các gia đình đều làm lễ tạ ơn ma cửa, vị thần linh giúp họ tránh được cái ác, cái xấu suốt năm qua.
Trong cưới xin, ma cửa đóng vai trò hết sức quan trọng trong nghi lễ “nhập ma” cho cô dâu. Khi cô dâu đến cửa nhà trai, đại diện của nhà trai sẽ cầm con gà ma cửa quay ba vòng trên đầu cô dâu và khấn xin ma cửa chấp nhận cô dâu là thành viên mới của gia đình. Sau lễ này, cô dâu mới được bước vào nhà và chính thức trở thành người của nhà chồng.
Trong đám tang, người ta cũng phải làm lễ cúng thần cửa để xin thần cửa cho hồn người chết về với tổ tiên. Nhiều trường hợp gia đình có người ốm hay gia súc bị dịch bệnh, chết nhiều, chủ nhà phải mổ một con lợn và tự mình làm lễ cúng. Mục đích của việc cúng ma cửa là cầu mong cho toàn thể gia đình mạnh khoẻ, con cái ngoan ngoãn; cầu mong cho đàn gia súc sinh sôi nảy nở… Thời gian tiến hành nghi lễ cúng ma cửa luôn được thực hiện vào buổi tối và cửa nhà sẽ được đóng lại trong suốt quá trình đó.
Nghi lễ cúng ma cửa không phức tạp, nhưng con lợn dùng trong cúng lễ phải là con lợn đã được cắt một nhúm lông đuôi ngay từ khi còn bé để chủ nhà đặt trên cửa chính của ngôi nhà. Trong lễ cúng ma cửa, phụ nữ tuyệt đối không được tham gia. Sau khi đã giết thịt con lợn, người ta bày thịt ra các bát để cạnh cửa chính và chủ nhà đứng ra thực hiện nghi lễ cúng, cầu xin ma cửa hãy giúp ngăn chặn những cái xấu, bảo vệ những cái tốt trong nhà.
+ Ma buồng: Trong mỗi ngôi nhà của người Mông Cát Cát thường có nhiều căn buồng, số lượng buồng tuỳ thuộc vào số thành viên đã trưởng thành trong gia đình (nam 18, nữ 16 tuổi trở lên). Tuy vậy, đồng bào quan niệm ma buồng chỉ có ở buồng ngủ của vợ chồng chủ nhà. Buồng thường làm hẹp (dài khoảng 2,5 m; rộng 1,6 m), vách thưng ván, cửa ra vào nhỏ. Trong buồng có một cái giường hẹp (rộng khoảng 1,2 m; dài 2 m), đặt trên bốn cột gỗ tròn chôn xuống đất, trải dát tre. Ông Má A Câu, trưởng thôn giải thích: “Làm giường hẹp như thế là để thể hiện sự gắn bó chung thuỷ trăm năm của vợ chồng. Tập quán quy định bố chồng và các bậc chú bác cũng như khách lạ không được vào buồng con dâu vì cho rằng như thế là có ý đồ xấu”.
Theo quan niệm của người Mông ở Cát Cát, ma buồng liên quan tới việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ trẻ thơ, phát triển đàn gia súc. Khi một đôi vợ chồng ra ở riêng có con đầu lòng và làm lễ đổi tên đệm cho người bố, gia đình đó mới có tư cách và đủ điều kiện thờ ma buồng.
Gia đình có trẻ nhỏ hàng năm đều làm lễ cúng ma buồng ít nhất một lần. Đồ cúng chỉ là một con lợn cái cỡ khoảng 6 – 10 kg. Lễ cúng diễn ra vào buổi tối hoặc lúc nửa đêm, gà gáy lần thứ nhất hay lần thứ hai (tuỳ theo từng dòng họ). Khi cúng phải đóng chặt cửa, lợn cột ở trong nhà, không cho người lạ tới. Chủ gia đình pha thịt lợn luộc đơm thành nhiều bát, mỗi bát gồm đủ các bộ phận của con lợn như đầu, tai, tim, lưỡi, lông, chân… (số lượng bát bao nhiêu là tuỳ theo từng dòng họ quy định). Nước luộc thịt cho vào trong vỏ quả bầu khô có phần cổ uốn cong theo hình dấu hỏi.
Chủ nhà kính cẩn đọc bài khấn với nội dung cầu xin ma buồng bảo vệ hồn trẻ nhỏ, phù hộ cho trẻ trong gia đình hay ăn chóng lớn, chăn nuôi được nhiều trâu, lợn… Cúng xong, rót nước thịt trong quả bầu ra các chén nhỏ bằng nứa cho trẻ nhỏ uống (số chén tương ứng với số bát và tuỳ theo tập quán của từng dòng họ). Đồng bào tin rằng, trẻ uống nước đó xong sẽ được khoẻ mạnh, sáng mắt. Số thịt cũng không mang ra ngoài nhà. Cúng xong, quả bầu cong và các chén bằng nứa được cất trên mái nhà phía giường ngủ của chủ nhà.
Một số phụ nữ muốn được khoẻ mạnh và có nhiều con còn nhờ thầy cúng làm một cái bùa bằng giấy bản bọc bên ngoài một bát nước rồi treo chính giữa buồng của vợ chồng.
+ Ma bếp lò (Khaor txul). Cũng như người Mông ở nhiều nơi khác, người Mông ở Cát Cát tin là có ma bếp lò. Vào dịp Tết cổ truyền, khi cúng ma nhà, họ thường cúng luôn cả ma bếp. Xung quanh bếp là chỗ đặt xoong, nồi, chõ đồ, thùng đựng cám lợn, thùng để nhuộm chàm. Theo quan niệm của người Mông nơi đây, ma bếp lò liên quan đến việc sinh nở của phụ nữ và luôn phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc, gia cầm. Do đó, đồng bào có tục kiêng giẫm chân lên bếp lò, kiêng làm hư hại lòng lò bằng đất, không được gõ và đánh vào bếp. Lúc lợn chửa thì kiêng không lấy tro trong bếp. Nếu muốn nhấc chảo ra khỏi bếp lò thì phải để một hòn đá vào giữa bếp. Ông Má A Câu cho biết: “Người Mông có tục kiêng người ngoài đến mượn chảo gang, vì sợ của cải sẽ mất mát, rủi ro sẽ đến. Nếu phải cho mượn chảo thì trước khi nhấc chảo ra, người ta bỏ một hòn đá cuội vào lò”. Người ta tin rằng không kiêng như vậy thì gia súc, gia cầm dễ bị dịch bệnh, dễ chết toi, phụ nữ khó đẻ hoặc đẻ ra quái thai, dị dạng, không ra hình người.
+ Ma bếp kiềng (Khaor chuz). Ma bếp kiềng được người Mông ở Cát Cát quan niệm là có tác dụng tiêu diệt các ma ác. Sau lễ gọi hồn, người ta ném vào lò lửa những con sâu, con bọ - được coi là hồn bệnh tật. Ma bếp lửa còn được tin là cũng dễ gây ra ốm đau, bệnh tật. Trong ba ngày Tết, người Mông kiêng không thổi lửa ở các bếp. Nếu bếp không cháy thì phải dùng que để châm, không được thổi, vì theo họ cứ thổi lửa là năm đó gió to sẽ làm hư hại hoa màu.
+ Sàn gác và ma bảo vệ hồn lúa, hồn ngô. đồ đựng hoặc đồ gia dụng khác. Đồng bào xem đây là nơi “sàn kiêng”, bởi nó liên quan đến truyện kể sự tích tục con dâu kiêng lên sàn gác. Truyện kể rằng: “Xưa kia, có một gia đình nọ cưới được người con dâu xinh đẹp. Nhân một lần con dâu trèo lên sàn gác lấy ngô xuống xay, bố chồng ngồi cạnh bếp lò vô tình nhìn lên thấy chỗ kín của cô con dâu. Dần dà, con dâu và bố chồng trộm yêu nhau mà trong nhà không ai hay biết. Về sau, bố chồng bị ma nhà trừng phạt làm cho đau ốm, bệnh tật. Biết không qua khỏi cái chết, nên trước lúc hấp hối, ông ta mới kể hết sự tình”. Từ đó, người Mông có tục kiêng con dâu lên sàn gác.
Người Mông ở Cát Cát tin rằng trong ngôi nhà có ma chuyên bảo vệ hồn lúa, hồn ngô. Vị thần linh này được tin là thường trú ngụ ở sàn gác. Ma này thường phù hộ cho gia chủ được mùa hoặc làm cho mất mùa, tuỳ theo lòng thành kính của gia chủ. Con dâu và các phụ nữ khác dòng họ kiêng lên sàn gác. Khi chuẩn bị thu hoạch, bao giờ người ta cũng cúng ma bảo vệ hồn lúa.
+ Trước kia, một số người có nghề thuốc chữa bệnh còn lập bàn thờ ông tổ nghề là Dủ Vang (Thangx Duy Vang). Một số gia đình có người chuyên làm nghề rèn cũng lập bàn thờ để cúng ông tổ sư của nghề là Ly Lao Chính (Thangx Chuar Kaix).
2.4. Các nghi lễ cúng trong quá trình dựng nhà và bữa liên hoan vào nhà mới
2.4.1. Lễ cúng động thổ
Lễ cúng động thổ là nghi lễ tín ngưỡng đầu tiên trong qui trình dựng nhà của người Mông được tổ chức vào sáng sớm hôm dựng nhà, trước khi mọi người bắt tay vào dựng các khung cột. Địa điểm cúng là ở chính giữa mảnh đất được chọn để dựng nhà, gia chủ hoặc bố đẻ của gia chủ là người chủ trì lễ cúng.
Đối tượng cúng trong lễ cúng động thổ là thần thổ địa (Thu tỷ). Lễ vật dâng cúng gồm có 1 bát nước, ba bát xôi tím, 3 chén rượu và 1 con gà luộc. Con gà dùng để cúng thần thổ địa trong lễ cúng động thổ không qui định là gà trống hay gà mái, gà to hay gà nhỏ nhưng nhất thiết không dùng gà trắng. Khác với các lễ cúng khác, lễ cúng thổ địa chỉ diễn ra một lần cúng đồ chín, không có lần cúng đồ sống (cúng con gà còn sống, cắt tiết tại nơi cúng rồi mới đem luộc chín) như hầu hết các lễ cúng của người Mông nơi đây. Tất cả lễ vật được bày ngăn ngắn trong một cái mẹt đặt giữa mảnh đất làm nhà.
Chủ nhà kính cẩn thắp 3 nén hương vào bát hương, rót rượu và đọc lời khấn xin phép thổ địa cho được làm nhà. Nội dung bài cúng là: “Hôm nay gia chủ tên này, họ này muốn được làm nhà ở đây. Xin cúng thổ địa cơm, rượu, thịt, xin thần thổ địa phù hộ cho việc làm nhà được thuận lợi, đừng cho đổ cột, đừng cho rơi xà, đừng cho người ngã, đừng cho tai nạn, cầu xin thổ địa phù hộ cho việc làm nhà được tốt, cột nhà đứng thẳng, khung nhà đứng vững, mọi người làm nhà được an toàn, không có sự cố gì sảy ra…”.
Lễ cúng thổ địa diễn ra chóng vánh, lời bài khấn ngắn gọn, mộc mạc. Thời gian khấn chỉ khoảng gần 2 phút. Sau khi khấn xong, gia chủ lui ra ngoài và cùng mọi người bắt đầu làm dựng nhà. Mâm cúng được để nguyên tại chỗ cho đến hết tuần hương mới được dọn đi.
Vợ gia chủ là người dọn mâm cúng. Đồ cúng được mang vào bếp, con gà được chặt miếng đem ra chia đều cho mọi người. Mọi người dừng tay để cùng nhau chia thịt gà sao cho mỗi người đều được một miếng thịt, 1 – 2 chén rượu. Bữa ăn uống này được đồng bào quan niệm là để lấy may. Người ta tin rằng, những ai đã ăn “lộc” của thổ địa thì trong khi dựng nhà sẽ bình an vô sự, không sợ bị tai nạn. Bữa ăn này không bày mâm, không mất nhiều thời gian, chỉ khoảng 5 phút. Sau đó, mọi người lại bắt tay vào việc dựng nhà.
2.4.2. Lễ cúng vào nhà mới
Theo phong tục truyền thống của người Mông ở Cát Cát, ngôi nhà sau khi được dựng xong thì người ta phải sắp một mâm lễ có cơm, có rượu, có thịt để gọi hồn của tổ tiên về ăn cơm, uống rượu thì mới được xem là đúng lý.
Thịt dùng trong lễ cúng vào nhà mới của người Mông ở Cát Cát là thịt lợn. Thông thường, một lễ cúng vào nhà mới phải thịt một con lợn ít nhất cũng khoảng 40 kg. Nhà nào có điều kiện còn thịt con lợn khoảng 1 tạ vừa để cúng tổ tiên, vừa để lấy thịt mời anh em, bạn bè về cùng chung vui mừng cho gia chủ có ngôi nhà mới.
Lễ cúng vào nhà mới diễn ra 2 lần, một lần cúng đồ sống (hiến sinh) và một lần cúng đồ chín (dâng lễ). Người ta phải tính toán làm sao để khi ngôi nhà được dựng xong là đã phải có thịt chín để cúng. Do đó, lễ cúng đồ sống thường được tiến hành trước khi ngôi nhà được dựng xong khoảng 6 – 7 giờ đồng hồ. Theo đó, lễ cúng đồ sống diễn ra vào khoảng gần trưa, để đến chiều là có thịt chín cúng lần thứ hai.
Việc cúng đồ sống diễn ra đơn giản, không thắp hương, không khấn. Lễ cúng chỉ là việc cắt tiết lợn tại nơi cúng (giữa lòng ngôi nhà đang dựng) để tổ tiên chứng giám. Một đám thanh niên giúp gia chủ khiêng lợn đặt ở nơi qui định. Con lợn bị trói chân, buộc mõm rồi một người thay mặt gia chủ cắt tiết lợn. Khi lợn chết hẳn, người ta khiêng lợn vào bếp để cho đám người lo việc hậu cần chế biến. Lễ cúng đồ sống đến đó là kết thúc.
Lễ cúng đồ chín diễn ra ngay sau khi ngôi nhà được dựng xong. Người ta bày đồ cúng lên mặt bàn (ván gỗ dài dùng thay bàn để có đủ chỗ bày rượu thịt liên hoan) ở vị trí gần sát với chính giữa vách hậu gian giữa. Tùy từng dòng họ mà cách bày đồ cúng khác nhau. Theo quan sát của chúng tôi ở đám làm nhà mới của gia đình ông Má A Dũng ở đội 1, làng Cát Cát thì đồ cũng bày lên mâm có 1 rổ cơm tẻ trắng, 1 bát thịt lợn sào, 1 bát nội tạng lợn (tim, lòng, gan, phổi), 1 bát nước sáo lợn và 1 chén rượu. Gia chủ hoặc bố đẻ của gia chủ (trường hợp gia chủ có bố đẻ còn sống và vẫn khỏe mạnh) chủ trì lễ cúng. Trong lễ cúng này, gia chủ ngồi trước mâm cúng, tay cầm thìa xúc một thìa cơm, bỏ lên đó 1 miếng thịt, 1 miếng nội tạng lợn, chan ít canh rồi cứ cầm thìa cơm canh như thế mà khấn gọi các đời tổ tiên về ăn cơm, uống rượu. Gọi đến mỗi đời, ông đều phải nêu lý do buổi làm cúng hôm nay, mời tổ tiên về hưởng lễ và phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, làm ăn thuận lợi. Sau đó, gia chủ đổ thìa cơm canh, thịt xuống mặt bàn trước mặt, lại cầm chén rượu rót vào chỗ cơm canh đó, coi như đời tổ tiên được mời về đã nhận lễ. Sau đó, gia chủ lại gọi đến đời tổ tiên tiếp theo lần lượt từ cao đến thấp với cách làm như trên.
Sau khi đã “mời” cơm, canh, rượu, thịt đủ các đời tổ tiên, gia chủ phải ăn vài thìa cơm, thịt, uống vài hớp rượu làm lý như thể đang ngồi ăn cùng và hầu rượu tổ tiên. Sau đó, mâm cúng mới được dẹp bỏ.
2.4.3. Bữa liên hoan mừng nhà mới
Bữa liên hoan mừng nhà mới được tổ chức ngay sau lễ cúng vào nhà mới. Bữa liên hoan này nhằm mục đích để gia chủ bày tỏ lòng biết ơn của mình tới những người đã tham gia giúp mình làm nhà. Cơ cấu các món ăn trong bữa liên hoan đơn giản, thường chỉ gồm có thịt lợn sào, nội tạng lợn luộc, canh sáo lợn, cơm và rượu.
Tham gia vào bữa liên hoan là toàn bộ gia đình gia chủ, gia đình các anh em ruột và những người tham gia giúp làm nhà (khoảng 40 – 50 người, có đám đông lên tới gần 100 người). Người ta kê cao các ván gỗ cách đất một khoảng vừa phải, thường cách đất 10 – 15 cm để thay bàn. Tùy theo số lượng người tham gia vào bữa liên hoan đông hay ít mà sắp đặt số lượng ván kê phù hợp.
Trên mặt “bàn”, người ta đặt các bát, đĩa thức ăn ở dãy giữa – nơi dành cho các vị cao niên và đàn ông con trai. Ở các dãy “bàn” khác, người ta rải lót lá chuối rồi đổ cơm và thức ăn lên đó. Việc phân định thứ bậc, vai vế theo vị trí trong không gian bữa liên hoan giống với cách phân vai vế trong các bữa liên hoan cộng đồng khác. Theo đó, gia chủ và các vị cao niên, khách quý ngồi ở hai bên dãy bàn giữa, gần với với vách thờ tổ tiên. Đám đàn ông con trai cũng theo thứ bậc mà ngồi ở hai bên dãy bàn đó nhưng đổ dần về phía dưới (phía cửa chính). Phụ nữ, trẻ em thì tùy thích ngồi ở các dãy bàn kê ở các gian hồi.
Bữa liên hoan mừng nhà mới của người Mông diễn ra đơn giản, không có các thủ tục lễ nghi, không có quà mừng cho gia chủ, không có đàn hát văn nghệ. Sau vài lời bộc bạch cảm ơn của gia chủ, mọi người cùng nhau nâng chén chúc mừng gia chủ đã có ngôi nhà tốt, nhà đẹp rồi cùng nhau uống cạn bát rượu đầu, sau đó, mọi người tự do ăn uống, mời mọc nhau theo tình cảm riêng. Bữa liên hoan kéo dài đến tối mới tàn.
KẾT LUẬN
Phong tục dựng nhà và vào nhà mới là một sắc thái văn hóa cổ truyền và độc đáo của nhiều dân tộc cư trú ở vùng cao nói chung, người Mông ở Cát Cát nói riêng. Nó vừa góp phần bảo lưu dạng quan hệ xã hội theo kiểu cộng đồng công xã truyền thống, vừa là một dạng sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc, một tài nguyên nhân văn cần được bảo tồn và phát huy.
Cùng với những biến đổi của môi trường sống, phong tục làm nhà và vào nhà mới của người Mông ở Cát Cát cho đến nay đã có nhiều thay đổi. Do gỗ pơ mu không còn nhiều, việc khai thác gỗ không được tự do như trước. Các gia đình chỉ được khai thác gỗ trong khu vực diện tích rừng mà mình nhận trông coi nên gỗ làm nhà hiện nay hầu hết được thay bằng các loại gỗ lim, dổi, lát thơm, xoan… Bộ mái nhà được thay bằng ngói pro-ximăng, các viên ngói được cố định với đòn nóc và đòn tay bằng đinh sắt. Kết cấu khung nhà đã chuyển từ vì cột sang vì kèo, nhiều gia đình đã dùng xi măng láng nền. Nhân lực làm nhà ngày nay đã xuất hiện việc thuê thợ mộc người Kinh hay người Giáy về làm với giá 6.000.000 đồng tiền công đục, bào và dựng nhà.
Do diện tích không gian cư trú ở làng Cát Cát hiện nay không còn nhiều, việc chọn đất bằng phương pháp bói hố thóc truyền thống đã không còn được áp dụng. Thay vào đó là các gia đình phân chia đất ở cũng như đất canh tác cho con cháu trên cơ sở quĩ đất đã được nhà nước cấp sổ đỏ. Khuôn viên chật hẹp, người ta cũng không còn làm hàng rào như trước. Các công trình phụ như kho lương thực, chuồng ngựa, chuồng trâu cũng đã vắng bóng trong hầu hết các ngôi nhà ở làng Cát Cát, nhất là những ngôi nhà dọc theo tuyến đường đá dẫn xuống thác. Thay vào đó, nhiều nhà đã làm công trình vệ sinh tự hoại đủ tiêu chuẩn, chuồng nuôi lợn đã được chuyển ra xa nhà.
Việc bài trí không gian, ngoại trừ sự xuất hiện của những đồ dùng tiện nghi của cuộc sống hiện đại thì ít có sự biến đổi. Các vị trí thiêng liêng trong ngôi nhà vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn, cùng với đó là những nghi lễ tín ngưỡng vẫn được tổ chức thường xuyên theo định kỳ hàng năm. Đó là cơ sở quan trọng để các nhà quản lý, các nhà khoa học căn cứ nhằm gạn đục, khơi trong, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống của đồng bào.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L7877 d7921ng nh v vo nh m7899i c7911a ng4327901i Mamp2.doc