Chuyên đề Mở rộng tín dụng cho DNNQD tại VCB Thành Công

Các DNNQD đang hoạt động ngày một hiệu quả hơn, thể hiện rõ vai trò chức năng của mình đối với nền kinh tế. Phạm vi hoạt động cũng như uy tín của các DNNQD sẽ ngày càng tăng trong tương lai không xa. Khi đó nhu cầu vốn của các DNNQD nhiều hơn đòi hỏi không chỉ bản thân các DN mà cả các NHTM và Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng cần nhìn nhận một cách nghiêm túc vẫn đề cung ứng vốn cho DNNQD. Tín dụng ngân hàng cho DNNQD chính là một nguồn quan trọng hỗ trợ các DNNQD phát triển, mở rộng sản xuất. Bên cạnh các NHTM cổ phần vốn vẫn quan tâm đến đói tượng khách hàng này, các NHTM quốc doanh cũng cần sớm vào cuộc.VCB Thành Công cũng như không ít Chi nhánh NHTM Quốc doanh khác đều đã nhận thức khá rõ vấn đề này.

doc60 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 838 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng tín dụng cho DNNQD tại VCB Thành Công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trưởng kinh tế khá: tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức trên 7%. Chính phủ đã từng bước có những điều chỉnh về chính sách nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế hoạt động có hiệu quả, trong đó có các Ngân hàng thương mại và các DNNQD. Mặc dù tình hình kinh tế - xã hội vẫn không tránh khỏi bộc lộ những yếu kém làm ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế, đồng thời cạnh tranh ngày càng gay gắt, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng buộc các NHTM phải tìm và mở rộng cho mình những đối tượng khách hàng mới. Các ngân hàng thương mại hiện nay đều nhận thức rằng khu vực ngoài quốc doanh là hướng ngỏ đầy tiềm năng cho việc chiếm lĩnh thị phần tín dụng. Vì vậy, VCB Thành Công cũng như một số ngân hàng khác đều tăng doanh số cho vay với DNNQD trong vài năm gần đây. Nguyên nhân chủ quan: điều kiện thuận lợi là thuận lợi nói chung, điều quan trọng là mỗi cá thể trong môi trường đó có thể tận dụng cơ hội thuận lợi đó như thế nào để phát triển bản thân và đạt được những bước tiến cho riêng mình. Trong bói cảnh nền kinh tế có nhiều thuận lợi như trên, VCB Thành Công đã kịp thời nắm lấy cơ hội, nhờ đó tín dụng với DNNQD của VCB Thành Công có nhiều khởi sắc. - Định hướng, mục tiêu rõ ràng: Trứơc tiên phải kể đến là VCB Thành Công đã xác định cho mình một hướng đi rõ ràng, xác định tư tưởng cho toàn bộ nhân viên ngân hàng trong việc chú trọng nâng cao tín dụng với DNNQD. Nhờ đó, trong quan hệ tín dụng với DNNQD, Chi nhánh luôn đáp ứng nhu cầu về vốn một cách nhanh chóng và hiệu quả, nhưng vẫn tuân theo các bước trong quy trình tín dụng. - Chính sách khách hàng đúng đắn, VCB Thành Công thực hiện nhiều chính sách ưu đãi với các DNNQD, khuyến khích họ vay vốn ngân hàng mở rộng sản xuất kinh doanh. Trước tiên, Chi nhánh có những chính sách ưu đãi với những khách hàng có uy tín và quan hệ lâu dài để giữ vững mối quan hệ, đồng thời thúc đẩy các đối tượng này sử dụng toàn bộ dịch vụ của họ tại VCB Thành Công. Mặt khác, với chủ trương chủ động tìm kiếm khách hàng, Chi nhánh tăng cường công tác Marketing đến mọi đối tượng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy, Chi nhánh ngày càng có thêm nhiều khách hàng. Hơn nữa, nhờ chủ động tìm kiếm khách hàng mà Chi nhánh có cơ hội lựa chọn khách hàng kinh doanh có lãi và tiềm năng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng - Chất lượng hoạt động ngày càng cao của VCB Thành Công đã thu hút được ngày càng nhiều khách hàng trên địa bàn tìm đến sử dụng dịch vụ ngân hàng và vay vốn. - Do công tác huy động vốn của Chi nhánh luôn đạt được kết quả cao, Ngân hàng luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng cả về quy mô, kỳ hạn và loại tiền. Mặt khác, Chi nhánh còn áp dụng chính sách ưu đãi về lãi suất cho các khách hàng vay vốn mà có số tiết kiệm thì áp dụng mức lãi suất cho vay ngắn hạn là, 65%/ tháng, trung và dài hạn là 0,6%/tháng. Còn nếu không có sổ tiết kiệm thì lãi suất tương ứng sẽ là 0,7%/tháng và 0,65%/tháng. Nhờ vậy, khách hàng đã đến lại càng muốn quay lại, khách hàng chưa đến lại càng muốn đến thử khi nghe tiếng tốt. 2.3.2. Những hạn chế Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, song hoạt động tín dụng đối với DNNQD tại VCB Thành Công vẫn còn có những hạn chế về quy mô và chất lượng tín dụng a. Về quy mô tín dụng Quy mô tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh trong nhưng năm qua có tăng với tốc độ tăng khá nhanh song quy mô còn thấp so với khu vực kinh tế quốc doanh. Mặt khác, cần phải thấy ở vị trí của Chi nhánh Thành Công, xung quanh đường Láng Hạ, Nguyễn Chí Thanh và khu vực Quận Đống Đa vốn rất tấp nập, hoạt động kinh doanh diễn ra sôi nổi và là nơi đặt trụ sở của rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi ở vị trí mà có khả năng tiếp cận với rất nhiều thành phần chủ thể thuộc khu vực này, doanh số cho vay của VCB Thành Công như vậy là vẫn ở mức thấp, chưa khai thác được các đối tượng khách hàng tiềm năng trên địa bàn của mình. Bên cạnh đó, tín dụng cho các DNNQD kinh doanh trên lĩnh vực xuất nhập khẩu còn rất ít, trong khi cho vay ngoại tệ vốn là thế mạnh của VCB Thành Công- như là một đặc trưng của các Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương. Các khoản tín dụng ngoại tệ của ngân hàng chủ yếu dành cho các DNXNK quốc doanh. Thực tế thì DNNQD kinh doanh XNK cũng rất nhiều, và họ còn có nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn phục vụ XNK cũng như thanh toán quốc tế. Họ thực sự cần đến sự hỗ trợ về vốn tín dụng cũng như tư vấn, thanh toán quốc tế, cần đến những kinh nghiệm của ngân hàng trong lĩnh vực này. Trong số các DNNQD, các DN có vốn đầu tư nước ngoài vốn là những đơn vị mạnh, làm ăn có hiệu quả hơn cả thì VCB Thành Công lại chưa tiếp cận được với đối tượng này. Đây là khách hàng tiềm năng có nhiều kỳ vọng mà VCB Thành Công nên sớm quan tâm đến. b.Về chất lượng tín dụng Nợ quá hạn có chiều hướng giảm chậm song vẫn còn rất cao. So với tỷ lệ nợ quá hạn của khu vực kinh tế Nhà nước thì tỷ lệ nợ quá hạn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh luôn cao gấp nhiều lần. Trong ba năm tỷ trọng tín dụng NQD dù có tăng nhưng vẫn chỉ ở mức dưới 25% tổng dư nợ tín dụng. Trong khi đó tỷ trọng nợ quá hạn từ khu vực kinh tế NQD trong tổng nợ quá hạn thì tăng với tốc độ cao hơn nhiều, năm 2002 chiếm gần 12%, năm 2003 đã tăng lên 24,8% và 2004 là 34,1 %. Sự mâu thuẫn này chứng tỏ tăng trưởng tín dụng NQD còn có phần ồ ạt, chạy theo doanh số, chưa phải là một sự tăng trưởng bền vững. Hơn nữa trong cơ cấu nợ quá hạn của khu vực ngoài quốc doanh thì tỷ lệ nợ khó đòi rất cao và ngày càng gia tăng. Có nghĩa là chất lượng của nợ quá hạn nói riêng cũng rất thấp. Đó là chưa tính đến việc gia hạn nợ. Nếu công tác này không được thực hiện một cách nghiêm túc, gia hạn nợ không dựa trên triển vọng thực tế của dự án thì con số nợ quá hạn còn cao hơn. Và kết luận tất nhiên là chất lượng tín dụng thực tế còn thấp hơn nữa. c. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan của tình trạng trên: - Kinh tế Mặc dù phát triển kinh tế những năm gần đây khá ổn định, tốc độ tăng trưởng cao nhưng đi đôi với nó là mức độ gay gắt của cạnh tranh tăng lên. Nền kinh tế càng phát triển, toàn cầu hoá diễn ra càng sâu sắc thì cạnh tranh trong nền kinh tế càng trở nên quyết liệt. Quá trình gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế ở Việt nam kéo theo sự có mặt ngày càng gia tăng của hàng hoá và các công ty nước ngoài, đặt ra thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp Việt nam, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với xuất phát điểm không cao và không được sự trợ giúp của Nhà nước như các doanh nghiệp nhà nước. Thực tế đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân không thể đứng vững trong cạnh tranh dẫn đến thua lỗ, trong đó có những khách hàng của VCB Thành Công, làm nợ quá hạn của khu vực ngoài quốc doanh tăng cao. Mặt khác, tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh từ trước đến nay vẫn được coi là thị trường quen thuộc của các ngân hàng cổ phần. Đặc biệt, các ngân hàng nước ngoài là nhà cung cấp tín dụng ngoại tệ chính cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của VCB Thành Công trong những năm qua lại càng trở nên khó khăn. - Cơ chế tín dụng: Trước tháng 8/2000 quy định của Ngân hàng Nhà nước về các thủ tục, chế độ cho vay đối với các chủ thể kinh tế ngoài quốc doanh quá cứng nhắc. Chỉ đến giữa tháng 10/2000 thì thể lệ tín dụng mới đi vào hoạt động, có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, phần nào “Cởi trói” cho cả ngân hàng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quan hệ tín dụng. Song ảnh hưởng của cơ chế cũ vẫn tồn tại làm cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận tín dụng ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, trước khi có cơ chế lãi suất cơ bản và mới đây (6/2002) là cơ chế lãi suất thoả thuận thì lãi suất cho vay vốn của ngân hàng đối với các doanh nghiệp tư nhân còn cao hơn doanh nghiệp nhà nước, trong một số thời điểm gấp 1,4 đến 1,5 lần lãi suất cho vay doanh nghiệp nhà nước. Lãi suất cao cũng là một nguyên nhân gây ra sự quá hạn. Bởi chi phí vốn quá cao thì hoạt động của các doanh nghiệp khó có thể bù đắp, dẫn đến không hoàn lại được cho ngân hàng đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Mặt khác, những quy định về giới hạn tín dụng đối với các doanh nghiệp cũng làm hạn chế quy mô cho vay của khu vực ngoài quốc doanh. Theo quy định, các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần khi lập dự án vay vốn ngân hàng thì phải có ít nhất 40% vốn tự có cho dự án đầu tư mới, 15% vốn tự có trong tổng chi phí của dự án mở rộng sản xuất kinh doanh. Rõ ràng không phải nhiều doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu này. - Tài sản bảo đảm: Sự phối hợp trong việc hoàn thành thủ tục để các TCTD có thể cho vay DNNQD chưa đồng bộ, đặc biệt là các thủ tục trong giao dịch cần có đảm bảo bằng tài sản. Tiến độ cấp Chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà còn chậm khiến khách hàng khó có thể sử dụng tài sản là nhà, đất làm tài sản đảm bảo hợp lệ trong quan hệ tín dụng; hoặc thủ tục, thời gian đăng ký giao dịch bảo đảm, tủ tục xác nhận tại một số cơ quan chính quyền phường, xã gặp nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian, mạng lưới đăng ký giao dịch bảo đảm còn mỏng, phân bố chưa hợp lý, quá nhiều cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm mà chưa có đầu mối thống nhất Nguyên nhân chủ quan - Nguyên nhân từ phía khách hàng Là một trong hai chủ thể trong quan hệ tín dụng, các khách hàng - chủ thể kinh tế ngoài quốc doanh - là nguyên nhân tác động trực tiếp lên quy mô và chất lượng tín dụng cho khu vực tư nhân của VCB Thành Công. Những lý do chính bao gồm: + Vốn tự có quá ít, không đáp ứng đủ tỷ lệ vốn tự có trong tổng vốn đầu tư + Uy tín của khu vực tư nhân rất thấp, bằng chứng là Nhà nước bị thất thu thuế với tỷ lệ cao nhất ở khu vực này, các vụ án bị đưa ra xét xử nhiều nhất, nhiều vụ đổ vỡ, phá sản xảy ra... Không ít trường hợp xảy ra hiện tượng chiếm dụng vốn của đối tác kinh doanh. Đến khi mất khả năng thanh toán thì lừa đảo ngân hàng, giả mạo giấy tờ xin vay vốn và lừa đảo đối tác kinh doanh rồi bỏ trốn. Mặc dù ở VCB Thành Công chưa gặp phải nhiều trường hợp này nhưng tiếng dữ đồn xa, bài học từ các NH khác cũng làm VCB Thành Công có phần chùn bước trong việc mở rộng tín dụng với khu vực ngoài quốc doanh. + Các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa đủ độ tin cậy. Hầu hết khu vực kinh tế tư nhân chưa hạch toán kế toán theo quy định, chua thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế, chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các báo cáo tài chính và cũng không coi đây là một cách để nâng cao uy tín của mình, nên việc thu thập thông tin, xem xét cho vayđối với các DN này của các TCTD còn nhiều khó khăn. Do đó, hạn chế việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp. + Điểm quan trọng nhất là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp NQD còn chưa ổn định, bấp bênh nên chưa thể gây được niềm tin với ngân hàng. Hiện nay rất nhiều Dn tư nhân được thành lập như một trào lưu, thành lập một cách ồ ạt mà chất lượng hoạt động lại không đảm bảo. Không ít Công ty TNHH được thành lập bởi những thanh niên mới ra trường, thậmc hí những sinh viên còn chưa tốt nghiệp, không kinh nghiệm và năng lực còn nhiều bất cập, chỉ hoạt động một vài năm rồi phá sản. Không những trình độ năng lực hạn chế, nhiêu fDN còn không đủ kảh năng lập các dự án kinh doanh khả thi để làm thủ tục vay các TCTD. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng không ít nhân tài, có trình độ quản lý tốt và kiến thức chuyên môn vững vàng, thực sự chí thú nghiêm túc làm ăn. Nhưng họ không được sự hỗ trợ từ Nhà nước và các cơ quan chức năng về thông tin thị truờng, về nguồn vốn và nhiều chính sách hỗ trợ khác. Vốn dĩ họ là những doanh nghiệp qui mô nhỏ, nguồn vốn sản xuất kinh doanh còn chưa đủ thì không thể tự mình nghiên cứu thị trường, hay thực hiện công tác Marketing, đầu tư lắp đặt sử dụng công nghệ mớiThiếu thông tin thì không thể phânt ích nắm bắt xu hướng thị trường, sản phẩm làm ra không được thị trường chấp nhận, doanh thu không đủ bù chi phí thì việc thất bại là không tránh khỏi. Không những thế, trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt hiện nay, vthiếu thông tin cộng với trình độ công nghệ kém, không thể thực hiện chính sách Marketing thì sản phẩm không thể đủ sức cạnh tranh trên thị truờng. Đặc biệt khi Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế, hàng ngoại tràn vào ngày càng nhiều do được miễn giảm thuế quan sẽ ngày càng rẻ và cạnh tranh mạnh với hàng nội địa. Tình thế đó là thách thức lớn cho các DNNQD. Bản thân các DNNQD còn chưa chủ động tìm hiểu các dịch vụ mà các TCTD cung ứng, cũng như các yêu cầu về thủ tục trong quan hệ tín dụng với các TCTD nên khi đến giao dịch, được cán bộ của các TCTD hướng dẫn thì không khỏi lúng túng, đôi khi còn cho rằng cán bộ gây khó khăn cho mình. - Nguyên nhân từ phía Ngân hàng Thứ nhất là do cơ chế cho vay còn quá chặt chẽ đối với các DNNQD. Các quy trình, thủ tục chất lượng phục vụ của cán bộ tín dụng vẫn chưa được nâng cao tương xứng với yêu cầu. Rất nhiều trường hợp các khách hàng có dự án kế hoạch sản xuất, kinh doanh khả thi nhưng không thể vay được vốn từ VCB Thành Công do thủ tục quá rườm rà, nếu có hoàn thành thủ tục thì cơ hội kinh doanh sẽ qua mất nên đành phải vay, huyđộng từ nguồn khác với chi phí cao hơn. Hoặc có những trường hợp, trình độ hoặc đạo đức của cán bộtín dụng không đáp ứng đựoc yêu cầu, gây rủi ro cho khoản tín dụng đã cấp (thẩm định, đánh giá sai về tínhkhả thi của dự án, hoặc cốtình cấu kết với khách hàng để lừa đảo) Trước khi cho vay, thường Ngân hàng thẩm tra và xuy xét rất lâu, mất thời gian và nhiều khi làm DN bỏ lỡ mất cơ hội làm ăn tốt. Sở dĩ lâu như vậy là vì ngân hàng không chịu chủ động thu thập và thống kê lưu giữ thông tin về các DNNQD, làm cơ sở cho việc phân tích tín dụng. Còn các nguồn thông tin khác về DNNQD như từ báo chí, internet và CIC thì cũng không nhiều và không sẵn có bởi các DNNQD có thâm niên hoạt động chưa lâu, lại hoạt động trên một địa bàn nhỏ bé, thị trưòng hẹp. Vì vậy khi phát sinh nhu cầu vay của DNNQD, thông thưòng VCB Thành Công phải tốn rất nhiều thời gian để thu thập thông tin và thẩm định khách hàng. Các ngân hàng nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh có ưu thế hơn các ngân hàng trong nước ở điểm này nên giải quyết cho vay nhanh chóng, thủ tục đơn giản là những yếu tố thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Một thực tế phản ánh điểm yếu này của Chi nhánh là việc ngân hàng có rất ít hợp đồng tín dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Công tác thông tin không tốt không những làm cho quy mô tín dụng không được mở rộng mà còn là nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn cao, chất lượng tín dụng thấp. Thật vậy, thông tin không đầy đủ, chính xác có thể làm cho việc chọn lựa khách hàng không chính xác, cho vay những doanh nghiệp kinh doanh yếu kém hoặc tư cách đạo đức thấp. Và như vậy rủi ro của món vay là rất lớn. Thiết nghĩ với vị trí là một trong những NHTM quốc doanh lớn, vốn nhiều và lãi cao thì tại sao VCB không thực sự chú tâm phát triển hệ thống thông tin riêng về các DNNQD để phát triển tín dụng cho khu vực kinh tế đầy tiềm năng này. Thứ hai, xuất phát từ một thực tế là hiện nay tài sản đảm bảo là yếu tố gần như quan trọng nhất trong quyết định cấp tín dụng cho DNNQD. điều này gây khó khăn hơn cho các DNNQD trong việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng bởi vốn dĩ các DNNQD luôn gặp khó khăn trong việc đáp ứng các điều kiện về TSĐB. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này là ở thực tế thẩm định DNNQD hiện nay tại VCB Thành Công: - Đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng Yếu tố cơ bản của tiêu chí này là mối quan hệ dài hạn, uy tín thương hiệu của khách hàng trên thị trường, năng lực và trình độ quản lý, sự am hiểu trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh... Những yếu tố này rất khó đánh giá vì Việt Nam mới chuyển sang kinh tế thị trường gần 20 năm, ý thức của đại bộ phận doanh nghiệp về việc xây dựng thương hiệu, uy tín trên thương trường với chiến lược kinh doanh dài hạn mới chỉ được tiếp cận trong một vài năm gần đây. Rất ít doanh nghiệp khẳng định được thương hiệu của mình. Mối quan hệ giữa khách hàng và các tổ chức tín dụng gần như mới được xác lập, chưa đủ độ dài thời gian để tạo ra sự tin cậy. Do đó việc đánh giá mức độ tín nhiệm để làm tiêu chí quyết định cấp tín dụng đã được đặt ra nhưng còn rất mờ nhạt. - Đánh giá năng lực tài chính của khách hàng Hầu hết các báo cáo tài chính của các DNNQD hiện nay không được kiểm toán độc lập, hệ thống thông tin, chuẩn mực kế toán chưa thực sự đủ độ tin cậy. Đó là chưa nói đến việc rất nhiều doanh nghiệp có hai hoặc nhiều hệ thống sổ sách, báo cáo kế toán. Cộng với việc thị trường chứng khoán mới hình thành, có rất ít các công ty đã niêm yết nên rất khó đánh giá giá trị công ty. Mặt khác, trình độ và khả năng phân tích đánh giá tình hình tài chính của khách hàng đối với đội ngũ trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm của VCB Thành Công còn rất hạn chế, chưa đủ sự tự tin để đưa ra kết luận một cách độc lập, chưa dám chịu trách nhiệm với các khoản vay của DNNQD Bên cạnh đó, ở các DN hiện nay công tác quản lý tài chính còn nhiều bất cập, tồn tại nhiều vi phạm chế độ hạch toán kế toán của nhà nước, hầu hết các BCTC đều chưa được kiểm toán, do vậy các BCTC của DN cung cấp cho ngân hàng phản ánh chưa đúng thực trạng tài chính và hiệu quả hoạt động của DN. Vì thế nên việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng nhiều khi không đóng vai trò quan trọng trong các quyết định cấp tín dụng của VCB Thành Công. Có chăng việc phân tích tài chính chủ yếu mang tính hình thức và thủ tục. - Thẩm định tài sản bảo đảm trở thành yếu tố quan trọng nhất, đây là kết quả tất yếu từ những hạn chế trên. Mặc dù vậy, việc định giá tài sản bảo đảm để xác định mức vốn vay lại chưa hiệu quả. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thì ngân hàng thương mại chỉ cho vay tối đa là 70% giá trị tài sản thế chấp. Công tác định giá tài sản bảo đảm tiền vay, nhất là các tài sản là đất đai, nhà xưởng được tiến hành thận trọng, thường là định giá thấp hơn giá thị trường. Do đó mức tín dụng được duyệt thường nhỏ và không đáp ứng được đủ nhu cầu của người xin vay. Như vậy một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng tín dụng đối với DNNQD tại VCB Thành Công là chất lượng thẩm định còn hạn chế, thể hiện ở các điểm sau : +Trình độ thẩm định công nghệ yếu, nhất là công nghệ tiên tiến, hiện đại, chủ yếu là dựa vào các luận chứng được duyệt, trong khi các luận chứng có xu hướng chung là tạo ra số liệu giả để tăng sức thuyết phục, làm mất đi tính thực tế cần thiết của quá trình thẩm định. +Việc tìm hiểu tư cách đạo đức, tư cách pháp nhân của giám đốc doanh nghiệp chưa được chú trọng, dẫn đến rủi ro đạo đức cao do các doanh nghiệp lừa đảo, chụp giật. +Việc thẩm định, xác định thời hạn tín dụng đôi khi còn xảy ra sai sót, không phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thường là thời hạn cho vay ngắn hơn thời gian thu hồi vốn. Hạn chế này gây khó khăn cho các doanh nghiệp để trả nợ ngân hàng đầy đủ, đúng hạn. Công tác thẩm định bộc lộ nhiều yếu kém không những làm giảm chất lượng tín dụng mà có thể còn là nguyên nhân làm cho tốc độ tăng trưởng tín dụng không cao. Vì nếu việc phân tích thị trường của cán bộ tín dụng còn hạn chế sẽ dẫn đến việc không cho vay những dự án triển vọng. Thứ ba là việc giám sát món vay của Chi nhánh cũng bộc lộ một số bất cập. Trong hoạt động tín dụng, nhất là tín dụng với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, không tránh khỏi gặp rủi ro và nợ xấu. Do đó, không thể phê phán cán bộ tín dụng về tất cả những quyết định cho vay mà họ đưa ra. Điều đáng nói chính là việc không thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát sau khi giải ngân nhằm sớm phát hiện những dấu hiệu báo động dẫn đến không có những biện pháp khắc phục kịp thời. Thứ tư, các hình thức cấp tín dụng cho khu vực này còn hạn chế, chủ yếu là tín dụng trực tiếp, cho vay từng lần. Các hình thức bảo lãnh đầu tư, bảo lãnh đấu thầu, bảo lãnh L/C đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn chưa được phát triển rộng. Mặc dù trong những năm gần đây, Chi nhánh đã chú trọng tới việc tìm kiếm khách hàng thuộc khu vực kinh tế tư nhân song công tác này chưa được triển khai tích cực. Việc bị động này không những làm giảm khả năng thu hút khách hàng mà còn có nguy cơ chất lượng tín dụng kém. Bởi lẽ, khi đó ngân hàng sẽ bị chi phối bởi những thông tin mà khách hàng đem đến sẵn, hạn chế việc tìm hiểu thêm những thông tin khác. Thực tế là thông tin khách hàng cung cấp bao giờ cũng là thông tin tốt đẹp, có lợi cho họ song tính chân thực không cao. Tóm lại: Qua phân tích, đánh giá quy mô và chất lượng hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại VCB Thành Công trong 3 năm gần đây đã khẳng vai trò hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần hỗ trợ, phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng như nỗ lực của bản thân chi nhánh trong việc mở rộng quy mô và giảm thiếu rủi ro tín dụng đối với thành phần kinh tế này. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại cần xem xét một cách nghiêm túc để có giải pháp khắc phục, nhằm không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng của quan hệ tín dụng này, đóng góp tốt hơn nữa cho quá trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh và các chủ thể thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Chương 3 Giải pháp mở rộng tín dụng đối với dnnqd tại VCb thành công 3.1 Định hướng phát triển tín dụng đối với dnnqd tại vcb thành công Nhận thức rõ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là đối tượng khách hàng tiềm năng ở hiện tại cũng như trong tương lai, năm 2005 VCB Thành Công đã xác định cho mình chiến lược rõ ràng phát trong việc phát triển tín dụng đối với DNNQD. Những mục tiêu cụ thể như sau: - Doanh số cho vay tăng 25% so với năm 2004 - Tăng tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với DNNQD chiếm 25% tổng dư nợ tín dụng - Tăng doanh số cho vay đối với DNNQD lên 200 tỷ đồng trong đó tỷ trọng tíndụng trung dài hạn đạt 22% - Giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống còn 3%, trong đó nợ quá hạn của tín dụng NQD đạt 5%, nợ quá hạn của tín dụng trung dài hạn còn 10%. VCB Thành Công cũng định hướng rõ chiến lược khách hàng: duy trì và phát triển mối quan hệ với các khách hàng cũ thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, đồng thời chủ động tìm kiếm khách hàng mới có uy tín và hiệu quả hoạt động kinh doanh cao. Một định hướng mới mẻ và quan trọng khác trong tín dụng đối với DNNQD của VCB Thành Công là thu hút các DN có vốn đầu tư nước ngoài đến vay vốn, đồng thời chú trọng tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu, tăng cường tín dụng ngoại tệ cho các DN có vốn đàu tư nước ngoài nói riêng, DNNQD nói chung. Muốn đạt được những mục tiêu trên VCB Thành Công cần thực hiện những giải pháp cụ thể để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNQD. 3.2. Giải pháp mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Vcb thành công 3.2.1 Tăng cường nguồn vốn để mở rộng cho vay đối với DNNQD, bằng cách dành nhiều vốn hơn để cho vay đối tượng này, khai thác và tiếp cận có hiệu quả các nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế. Trong những năm gần đây, các TC tài chính, ngân hàng quốc tế có nhiều chương trình hợp tác tài trợ cho các DNVVN, DNNQD như các nguồn SMEP, JBIC, NIBCác TCTD cần khai thác tốt, tuyên truyền giới thiệu cho khách hàng có đủ điều kiện được tiếp cận với nguồn vốn này. 3.2.2 Tăng cường công tác tuyên truyền, khuyếch trương, tiếp thị khách hàng bằng việc ký kết các văn bản thoả thuận hợp tác với các tổ chức trung tâm, nơi tập trung các DNNQD như Sở Kế hoạch đầu tư, Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam, Hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam, Trung tâm hỗ trợ DNVVN để giới thiệu hướng dẫn các doanh nghiệp về điều kiện, cách thức tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. 3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngoài quốc doanh Thông thường giải pháp về thẩm định thường được đề cập khi muốn nâng cao chất lượng tín dụng. Thế nhưng trong trường hợp tại VCB Thành Công, như ở trên đã trình bày, việc thiếu thông tin cho phân tích tín dụng NQD dẫn đến thời gian thẩm định quá lâu, việc đánh giá TSĐB xác định giá trị món vay kém hiệu quả là một trong những nguyên nhân làm hạn chế quy mô tín dụng. Vì thế muôn giữ chân khách hàng và thu hút khách hàng tiềm năng, trước hết ngân hàng cần có những tiến bộ trong công tác thẩm định. Bởi vì đối với DNNQD ở thời đại ngày nay, thời gian là vàng bac, nhiều khi là yếu tố quyết định sự sống còn. Trước hết cần thu thập xây dựng hệ thống thông tin về DNNQD theo các nội dung: - Thông tin về số lượng doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm trong cùng một khu vực thị trường, kể cả những doanh nghiệp sắp được thành lập. - Mức cung thực tế của sản phẩm trên thị trường. - Thông tin về giá cả, dự báo thị trường trong nước và quốc tế, kim ngạch xuất nhập khẩu trong những năm qua, triển vọng hợp tác, quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam và các nước, điều kiện, tiêu chuẩn để được xuất khẩu vào thị trường nước đó, khu vực đó... - Quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng phát triển do cán bộ, ngành xây dựng. Tuy nhiên, vấn đề thu thập thông tin cũng hết sức khó khăn do phạm vi thu thập thông tin rộng kênh cung cấp vừa thừa vừa thiếu (thiếu những kênh chính tắc). Do đó, để làm tốt công tác thông tin nhằm mở rộng một cách an toàn quan hệ tín dụng với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh cần phải tập trung đầu tư máy móc, công nghệ vi tính hiện đại, kết nối mạng nội bộ, kết nối với trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Ngoại thương Trung ương, của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, có quan hệ tốt với các bộ, ngành (Thương mại, Kế hoạch đầu tư, Thông kê, Hải quan) và các cơ quan thông tấn báo chí.... Bên cạnh đó, cần thẩm định đầy đủ các nội dung sau về khách hàng: - Năng lực trả nợ Các ngân hàng không chỉ quan tâm đến khả năng hoàn trả của người vay mà cũng còn quan tâm đến năng lực pháp lý của họ khi đi vay. Các ngân hàng ít khi cho người vị thành niên vay bởi vì họ có thể phủ nhận sau này, trừ khi tiền vay được dùng cho các mục đích khá cần thiết. Khi cho một người vị thành niên vay, cha mẹ, người giám hộ hoặc người nào khác đủ tuổi trưởng thành được yêu cầu cùng ký tên vào đơn xin vay. Khi một xí nghiệp hùn vốn xin vay nên đòi hỏi tất cả các thành viên cùng ký tên xin vay. Nếu điều đó không thực hiện được, nhân viên tín dụng nên xem xét một hội viên đại diện ký tên vay có đủ thẩm quyền thay mặt cho cả tập thể không. Một bản sao có xác nhận về sự thoả thuận của hội đồng hoặc quyền hành của luật sư có thể được dùng cho mục đích này. Khi những bằng chứng thẩm quyền như vậy không có, người cho vay có thể thu hồi nợ từ các hội viên không ký tên, nếu họ cho rằng vốn vay không được dùng vào việc kinh doanh của họ. Nói chung, mỗi hội viên đều có quyền thực hiện các phương tiện cho cả hội, nhưng nếu các hội viên không ký tên có thể chứng minh được rằng, các hội viên đã cốtình hành động cho cả hội là ngoài thẩm quyền và chứng minh được rằng, người cho vay biết được điều đó và trong một số trường hợp, họ có thể từ chối đối với khoản vay. Khi một công ty cho vay, nên xem xét điều lệ và luật địa phương để khẳng định rằng, ai có thẩm quyền thay mặt cho công ty vay. Trong nhiều trường hợp, ngân hàng đòi hỏi một bản nghị quyết tập thể, được các thành viên Hội đồng quản trị ký uỷ quyền vay vốn và chỉ định người có thẩm quyền để thượng vay hoặc thực hiện các phương tiện đi vay. Ngân hàng cũng có thể đòi hỏi phải xuát trình nghị quyết xin vay từ các hợp tác xã và các tổ chức khác như nhà thờ và các hiệp hội, không vì mục đích lợi nhuận. Đôi khi các ngân hàng nhận thấy không nên cho vay, trừ khi các chủ nợ đồng ý ưu tiên quyền đòi nợ của ngân hàng. Điều này thường xảy ra đối với các công ty nhỏ và trước đó, họ đã mượn những khoản tiền từ các cổ đông chính. Trong những trưòng hợp như vậy, ngân hàng chỉ sẵn sàng cho công ty vay, với điều kiện là các cổ đông, và có lẽ cả các chủ nợ khác nữa, đồng ý cho công ty chi trả trước cho ngân hàng, trong trường hợp kinh doanh bị phá sản. Như vậy, ngân hàng trở thành một chủ nợ và được đảm bảo có quyền đòi nợ ưu tiên trên các tích sản của hãng kinh doanh, khi người vay đã đồng ý như thế. - Uy tín của khách hàng Khái niệm về uy tín, có liên quan đến các giao dịch tín dụng, không chỉ có ý nghĩa là sự sẵn lòng trả nợ mà còn phản ánh ý muốn kiên quyết nhằm thực hiện tất cả các giao ước trong các điều khoản của hợp đồng. Một người có tư chất thường có các đức tính như thật thà, liêm chính, siêng năng và đức hạnh, nhưng uy tín là một điều khó đánh giá được. Hoàn toàn có khả năng là một người không có tất cả các phẩm chất này nhưng vẫn muốn hoàn trả các trái khoán thươngmại, thậm chí một tay cờ bạc cũng vẫn có thể trả nợ như một thoả thuận, mặc dù nói chung anh ta không được xã hội chấp nhận do những đặc điểm không phù hợp với xã hội. Uy tín quan trọng nhất của tín dụng là tính thật thà và liêm chính của một con người và cũng quan trọng khi thực hiện việc cho vay đối với hãng kinh doanh hoặc cá nhân. Hồ sơ quá khứ của một người xin vay trong việc thực hiện các hợp đồng của họ thường có giá trị khi đánh giá uy tín về tín dụng. Tuy nhiên đôi khi việc đánh giá một người chủ yếu là phán đoán chứ không thể hiện trên cơ sở các thông tín thực tế đầy đủ. - Khả năng tạo ra lợi tức. Nếu khoản vay được trả từ lợi nhuận thì điều quan trọng là phải đánh giá được khả năng của người vay trong kinh doanh nhằm kiếm đủ số lời để trả nợ. Một số khoản vay được thực hiện, với hy vọng việc hoàn trả từ việc bán các tích sản, từ các khoản vay khác, hoặc từ việc phát hành cổ phần. Tuy nhiên, nguồn chi trả chính đối với hầu hết các khoản cho vay là khả năng kiếm lợi của người vay. Khả năng tạo ra lợi tức của một cá nhân tuỳ thuộc vào các yếu tố như giáo dục, sức khoẻ và năng lực, kỹ năng, tuổi tác, nghề nghiệp ổn định và tài tháo vát. Đối với một hàng kinh doanh việc tạo ra lợi tức tuỳ thuộc vào tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến lượng hàng bán, giá bán, giá thành và chi phí. Những yếu tố này bao gồm địa điểm của hãng, chất lượng hàng hoá, tính hữu hiệu của quảng cáo, chất lượng cạnh tranh, phẩm chất của lực lượng lao động, khả năng khai thác, giá thành của nguyên liệu và chất lượng quản lý. Nhiều người coi chất lượng quản lý là yếu tố chính để có quyết định cấp tín dụng hay không. Họ nhắc đến yếu tố quản lý như là khả năng của các giám đốc, của một hãng trong việc thu hút nhân sự, nguyên liệu và quỹ vốn để sản xuất một loại hàng hoá và dịch vụ với lợi nhuận thoả đáng. Một số hãng kinh doanh phát triển trong khi đó một số khác suy sụp, và sự khác biệt đó, thường được quy lỗi cho quản lý. Nhà quản lý cần thấy và nắm lấy các cơ hội mới, thực hiện những điều chỉnh kịp thời trong sản xuất, để đáp ứng những thay đổi về nhu cầu đối với các sản phẩm của hãng, thay thế tính vô hiệu bằng tính hữu hiệu, và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ có sức lôi cuốn khách hàng mạnh, nhờ vào chất lượng và giá cả. Khó đánh giá được các giám đốc của một hãng, đặc biệt là khi họ chưa làm việc lâu năm nhưng dù sao việc đánh giá là rất quan trọng. - Quyền sở hữu các tích sản Quyền sở hữu các tích sản tương tự như vốn và vật thế chấp là một trong các tiêu chuẩn tín dụng. Các nhà sản xuất phải có máy móc và trang thiết bị hiện đại nếu họ muốn trở thành những nhà sản xuất có sức cạnh tranh. Nhà bán lẻ phải có nguồn hàng hoá, cửa tiệm và tiện nghi hấp dẫn nếu họ muốn thu hút khách hàng. Tín dụng sẽ không được cung cấp cho các hãng kinh doanh, trừ khi người chủ có vốn đảm bảo cho khoản nợ. Giá trị thực của một hãng (vốn tự có) là một tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính của chính họ, và thường là một trong những yếu tố quyết định khối lượng tín dụng mà một ngân hàng sẵn lòng thực hiện cho một doanh nghiệp vay. Khối lượng và chất lượng các tích sảncủa một hãng kinh doanh nói lên sự thận trọng và tính tháo vát của nhà quản lý. Một số hoặc tất cả các tích sản có thể đảm bảo cho khoản vay và như vậy, khẳng định rằng khoản cho vay sẽ được hoàn trả, nếu như khả năng kiếm lợi của người vay không đủ để thu hồi. Tuy nhiên, ta nên nhấn mạnh rằng, trong khi vật bảo đảm giảm bớt được rủi ro, nhưng các ngân hàng vẫn mong muốn vốn vay sẽ được hoàn trả từ lợi nhuận. Các khoản cho vay tiêu dùng thường được bảo đảm bởi các tích sản hình thành từ vốn vay, ví dụ hầu hết xe hơi được mua bằng tín dụng và xe hơi đồng thời cũng chính là vật thế chấp cho khoản vay này. Trường hợp nhà cửa, và ở mức độ thấp hơn, các trang bị và dụng cụ gia đình cũng thế. Nếu giá trị của các tích sản thế chấp không thấp hơn số nợ phải trả, người vay vẫn còn động cơ tiếp tục trả nợ. - Các điều kiện kinh tế Các điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của người vay nhưng chúng thường vượt quá sự kiểm soát của người vay lẫn người cho vay. Các điều kiện kinh tế hình thành môi trường mà trong đó, các tổ chức và cá nhân kinh doanh đang hoạt động. Người vay có thể có uy tín tốt, khả năng tạo ra lợi nhuận rõ ràng và đầy đủ các tích sản, nhưng các điều kiện kinh tế có thể dẫn đễn việc cấp tín dụng là không khôn ngoan. Chính ở điểm này,nhân vien tín dụng trở thành nhà dự đoán kinh tế. Hạn kỳ của khoản nợ càng dài thì việc dự báo kinh tế càng trở nên quan trọng do có nhiều khả năng về một sự suy thoái kinh tế, trước khi món nợ đã được trả hết. Nền kinh tế lệ thuộc vào những biến động ngắn hạn và dài hạn khác nhau về cường độ và trường độ, những biến động này không bao giờ giống nhau, không phù hợp với khuôn mẫu nhất định và có thể ảnh hưởng đến các ngành công nghiệp và các khu vực khác nhau trong nước, với những mức độ khác nhau. Nhiều người vay đã làm ăn phát đạt trong những giai đoạn thịnh vượng, nhưng trong giai đoạn suy thoái, vốn có thể bị tiêu tan, lợi nhuận giảm sút và thậm chí.uy tín cũng mất đi. Các yếu tố này đưa đến việc không hoàn trả của tín dụng. Vì vậy nhân viên ngân hàng phải được thông báo một cách liên tục về nhịp độ kinh tế của cả nước, cộng đồng và ngành công nghiệp hay các ngành công nghiệp mà anh ta sắp sửa cho vay. Để cho các nhà kinh doanh được vay tín dụng, ngân hàng quan tâm đến hoạt động kinh tế mà ngành kinh doanh ấy thực hiện và tầm quan trọng của nó trong ngành công nghiệp. Kiến thức về điều đang xảy ra trong ngành công nghiệp ấy là rất quan trọng, bao gồm những thay đổi trong các điều kiện cạnh tranh, kỹ thuật, nhu cầu về sản phẩm và các phương pháp phân chia. Nếu một người xin vay không thực hiện một chức năng hoạt độngc ơ bản nào đó của nên kinh tế, sẽ có ít khả năng được viên chức tín dụng chấp nhận cấp tín dụng và ngược lại. Nhìn chung tất cả các yếu tố trên đều quan trọng trong phân tích tín dụng, nhưng hầu hết các chủ ngân hàng đều đồng ý rằng, vật thế chấp cho một khoản vay nói chung là ít quan trọng nhất. Khoản tín dụng được cấp với hy vọng là sẽ được hoàn trả như thoả thuận chứ không phải là các tích sản thế chấp sẽ phải bán đi để trả nợ. Trong hầu hết các trường hợp, người ta giữ vật bảo đảm là để hạn chế những thiếu sót liên quan đến một hoặc nhiều yếu tố về tín dụng, chẳng hạn như khả năng tạo ra lợi nhuận. Mỗi đơn xin vay là một đơn vị. Một yếu tố tín dụng có thể quan trọng nhất trong mỗi tình huống nào đó, trong khi một yếu tố khác lại quan trọng trong tình huống thứ hai. Tuy nhiên dưới toàn bộ lăng kính phân tích tín dụng, uy tín được coi là yếu tố quan trọng nhất. Nếu một người vay không có chí khí, có khả năng thì vào một lúc nào đó, người ấy sẽ không tuân theo các điều khoản của hợp đồng tín dụng. 3.2.4. Cung cấp những sản phẩm hấp dẫn hơn cho các DNNQD. Sản phẩm đóng vai trò chủ chốt, quyết định thắng bại của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt và tín dụng là sản phẩm chính của doanh nghiệp này. Nhìn từ khía cạnh các trung tâm cung ứng vốn cho nền kinh tế mà cụ thể là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế thì phương thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nói cách khác, các sản phẩm tín dụng của ngân hàng thương mại với cơ cấu và tính năng ra sao, có phù hợp với doanh nghiệp hay không giữ vai trò lớn, quyết định đến hiệu quả sử dụng của người mua sản phẩm đó. Tuy nhiên, tín dụng là loại hình sản phẩm đặc biệt, nó chịu sự quản lý chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất, hạn mức, thời hạn... do đó các ngân hàng thương mại cũng khó khăn trong việc cải tiến sản phẩm của mình. Song cạnh tranh buộc các ngân hàng thương mại phải nỗ lực đổi mới, đa dạng hoá sản phẩm của mình trong khuôn khổ cho phép nhằm vươn lên trong cạnh tranh. Do đó, Chi nhánh với mục tiêu thâm nhập hiệu quả vào thị trường tín dụng của khu vực ngoài quốc doanh cần có những quan tâm sau trong xây dựng sản phẩm của riêng mình. a. Về lãi suất cho vay Chi nhánh nên có những ưu đãi hơn về lãi suất cho vay với các DNNQD để khuyến khích họ mạnh dạn vay vốn sản xuất kinh doanh. Hiện nay, đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh chỉ áp dụng mức lãi suất cho vay chung với tất cả đối tượng khách hàng và lãi suất áp dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thường cao hơn lãi suất áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước 0,05%/tháng. Điều này không thúc đẩy được việc mở rộng quy mô tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Do đó, Chi nhánh cần có những điều chỉnh linh hoạt hơn trong việc áp dụng lãi suất. Cụ thể là, đối với các khách hàng quen thuộc (không phân biệt ngoài quốc doanh hay quốc doanh), có uy tín trong quan hệ vay trả, thì áp dụng mức lãi suất thấp hơn. Như vậy sẽ khuyến khích khách hàng vừa tích cực kinh doanh có hiệu quả, trả nợ đúng hạn, vừa có mong muốn tăng cường mối quan hệ với Chi nhánh. Ngoài ra, đa dạng hoá các hình thức lãi suất, tạo điều kiện phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng, tạo nhiều cơ hội cho khách hàng lựa chọn khoản vay thích hợp (lãi trả trước, lãi trả một lần vào cuối kỳ, lãi trả đều...), qua đó, đảm bảo việc trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Giảm thiểu phí hoạt động để có điều kiện giảm lãi suất cho vay, vẫn đảm bảo kinh doanh có lãi. b. Về dịch vụ đi kèm sản phẩm tín dụng Các DNNQD vốn gặp khó khăn cả về vốn và thông tin thị truờng, cũng như sử dụng phương thức thanh toán quốc tế. Sự kết hợp tín dụng với các dịch vụ như tư vấn, thanh toán quốc tế sẽ tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, tiện lợi hấp dẫn hơn với các DNNQD. - Tư vấn là một dịch vụ đi kèm sản phẩm tín dụng. Với lợi thế về nguồn thông tin dồi dào, ngân hàng có thể làm dịch vụ tư vấn về thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, tư vấn quản lý... giúp khách hàng vay vốn làm ăn có hiệu quả, giảm thiểu rủi ro cho chính Ngân hàng. - Thanh toán qua ngân hàng tuy không phải là dịch vụ đi kèm tín dụng song có hiệu quả trợ giúp rất lớn cho hoạt động tín dụng. Nâng cao chất lượng các dịch vụ thanh toán, tạo sự tiện ích cao, thu hút và phục vụ khách hàng tốt nhất, thủ tục nhanh chóng, đơn giản. Trên cơ sở đó sẽ thu hút các khoản tiền gửi thanh toán , các khoản tiền thu bán hàng (đây là khoản thu chủ yếu, đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu) thông qua tài khoản thanh toán mở tại Ngân hàng. Đây là đảm bảo tài chính tốt nhất trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. c. Đa dạng hoá sản phẩm phục vụ DNNQD Chi nhánh cần áp dụng linh hoạt các phương thức cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. áp dụng phương thức cho vay theo món với những khách hàng không thường xuyên, chưa có uy tín trong quan hệ tín dụng. Còn đối với những khách hàng vay vốn thường xuyên, hoạt động kinh doanh đều đặn, hiệu quả, đáng tin cậy thì áp dụng phương thức cho vay luân chuyển. Góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của khách hàng hiệu quả hơn. Có như vậy Chi nhánh mới tiếp tục mở rộng quan hệ tín dụng với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mà vẫn đảm bảo yêu cầu chất lượng. 3.2.5.Cải tiến quy trình và điều kiện cung cấp tín dụng theo hướng khuyến khích hơn cho các DNNQD. Tín dụng là loại hình sản phẩm đặc biệt, do đó việc cung cấp tín dụng phải tuân theo trình tự quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và một điều kiện không thể thiếu là phải có bảo đảm tín dụng. Quy trình cho vay là không thể thay đổi và bỏ qua bất kỳ khâu nào, song bản thân Chi nhánh cần có những sắp xếp, tổ chức các khâu hợp lý, khoa học nhằm giảm đến mức thấp nhất thời gian và thủ tục tiến hành. Về giao dịch bảo đảm, hiện nay, hình thức bảo đảm chính trong quan hệ tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là đảm bảo bằng tài sản - nhà đất. Điều này gây cản trở cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tiếp cận vốn của ngân hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp. Đối với các doanh nghiệp này, để có được giấy phép quyền sử dụng đất cũng rất khó khăn. Do đó, Chi nhánh cần áp dụng những hình thức bảo đảm khác nhau trong cho vay như: bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, bảo đảm bằng bảo lãnh của người thứ ba (đối với các doanh nghiệp thuộc khu công nghiệp, khu chế xuất: bảo đảm của công ty mẹ). Đây cũng là những nhân tố góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng quan hệ tín dụng của VCB Thành Công với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Mặt khác, việc nhận cầm cố tài sản trong hệ thống ngân hàng hiện nay còn nhều bất cập như: trình tự và thủ tục thực hiện các hợp đồng giao dịch, vướng mắc về thẩm quyền trong chứng thức hợp đồng, việc đăng ký giao dịch bảo đảm và công chứng chưa được tập trung, vướng mắc trong xác định tư cách chủ thể khi tiến hành thủ tục công chứng và chứng thực, còn mập mờ về diện tài sản phải đăng ký quyền sở hữu. Do vậy gây khó khăn chung cho cả Ngân hàng và khách hàng nhất là đối tượng khách hàng DNNQD. Trong khâu định giá tài sản thế chấp, vì việc định giá chỉ làm cơ sở xác định mức vay, nên chăng các TCTD sẽ quy định mở, tại từng thời điểm, sau khi donah nghiệp đã trả phần lớn vốn vay, thì TCTD chỉ cần nhận lại trên hợp đồng tương ứng mức phần trăm cho vay ban đầu. Điều này sẽ tạo điều kiện cho DN giải chấp được một phần tài sản để dùng cầm cố (địa điểm giữ tài sản vẫn không thay đổi so với Hợp đồng thoả thuận ban đầu nhưng giá trị sẽ được thở thuận lại) tại các TCTD này hoặc TCTD khác để tiếp tục được vay vốn lưu động hoặc dùng để đảm bảo cho nghĩa vụ nợ khác. Ngoài ra, để việc định giá được chính xác và giá trị món vay mà khách hàng được cấp hợp lý, có thể gắn thêm nhà tư vấn hoặc cơ quan hợp tác sát sườn là các Trung tâm tư vấn, Trung tâm thẩm định giá hoặc Trung tâm thông tin của Nhà nước, khi TCTD nhận cầm cố tài sản thì hàng quý hoặc hàng năm , TCTD đó phải báo cáo lên các trung tâm này. Theo đó các trung tâm trách nhiệm tổng hợp các loại hình tài sản, phân loại định giá và báo cáo cơ quan chức năng để giúp cho TCTD trong quá trình xử lý tài sản. Nhờ vậy, TCTD , trong đó có VCB Thành Công, rút ngắn được thời gian thẩm định, giảm nhẹ gánh nặng quản lý tài sản đảm bảo, việc cấp tínd ụng cho DNNQD theo đó cũng thông thoáng, nhanh gọn hơn. 3.2.6 Chú trọng đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng Thường xuyên quán triệt cán bộ, nhân viên của VCB Thành Công về định hướng hoạt động, nhận thức về công tác phát triển khách hàng, thuộc thành phần kinh tế NQD. Tăng cường nâng cao chất lượng tuyển chọn cán bộ vào các bộ phận nghiệp vụ, trong thời gian đầu cần thiết cần tuyển dụng cả cán bộcó nghiệp vụ vững đã công tác tại các ngân hàng theo các hình thức chuyển tiếp, có chính sách tuyển chọn đãi ngộ thu hút nhân tài, cán bộ chuyên gia giỏi. Bên cạnh đó không ngừng đào tạo nâng cao trình độ đọi ngũ nhân viên hiện có về: - Kỹ năng bán hàng: cán bộ tín dụng phải có kỹ năng nhất định về Marketing để thu hút khách hàng, nắm vững nghiệp vụ tín dụng để cho vay được nhiều và đảm bảo chất lượng, tạo ấn tượng ban đầu tốt đẹp cho khách hàng. - Kỹ năng tìm hiểu điều tra: cán bộ tín dụng phải biết cách thu thập và khai thác thông tin từ khách hàng và các nguồn khác để phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ của mình. - Kỹ năng phân tích: cán bộ tín dụng trên cơ sở thông tin có được, phải nêu bật được điểm mạnh, điểm yếu của khách hàng, chỉ ra được những rủi ro có thể xảy ra khi đặt quan hệ tín dụng với khách hàng. - Kỹ năng đàm phán: cán bộ tín dụng phải biết thương lượng với khách hàng về các vấn đề có liên quan đến các điều khoản đã quy định trong chế độ, thể lệ cho vay. Đặc biệt là đối với những khách hàng hộ gia đình, công ty tư nhân, doanh nghiệp mới thành lập, chưa có những hiểu biết cơ bản về quan hệ tín dụng với ngân hàng, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải giải thích đầy đủ, hợp lý, hợp tình về việc tuân thủ những quy tắc tín dụng. Có như thế số lượng hợp đồng tín dụng được ký kết mới nhiều và tương đối an toàn. Trên cơ sở những yêu cầu, đòi hỏi trên, Chi nhánh cần rà soát lại đội ngũ cán bộ hiện có, có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại, tổ chức lại cán bộ cho phù hợp với từng người nhằm phát huy sở trường của từng cán bộ. Bên cạnh những kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ tín dụng còn cần phải thường xuyên cập nhật những kiến thức về thị trường, về những quy định của Nhà nước, có liên quan đến lĩnh vực đầu tư như: quy định về bảo vệ môi trường, quy định về quy hoạch, kiến trúc và xây dựng, quy định về chế độ tài chính đối với từng loại hình doanh nghiệp, quy định về khấu hao tài sản cố định, chế độ tiền lương, tiền thưởng và bảo hiểm xã hội, quy định về thuế đất và sử dụng đất do uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố ban hành dựa trên khung giá do Chính phủ quy định, quy định về các loại thuế, miễn giảm, ưu đãi và khuyến khích đầu tư và hệ thống các tiêu chuẩn cho phép đối với từng ngành nghề. Đồng thời, Chi nhánh cần từng bước tiến đến chuyên môn hoá sâu cán bộ tín dụng cho vay theo từng loại ngành nghề. Khi đó, cán bộ tín dụng vừa có kiến thức, trình độ nghiệp vụ cao, vừa am hiểu sâu về lĩnh vực mình phụ trách. Và như vậy, quy mô và chất lượng tín dụng được đảm bảo tốt. 3.3. Một số kiến nghị Một là, Chính phủ và các ban ngành chính quyền địa phương cần có giải pháp để nhanh chóng triển khai hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với thực trạng của các DNNQD hiện nay hầu hết là có vốn tự có nhỏ, không đủ điều kiện về tài sản uy tín để tiếp cận nguồn vốn của các TCTD, hoạt động trong môi trường pháp lý chưa thực sự đồng bộ, nhiều kẽ hở để những doanh nghiệp làm ăn không đứng đắn, lợi dụng để lừa đảo, sự thận trọng của các TCTD trong quan hệ kinh tế với thành phần này là cần thiết. Vì vậy, rất cần có sự bảo lãnh của một tổ chức có uy tín, có thực lực là Quỹ bảo lãnh tín dụng để các DNVVN tiếp cận với nguồn vốn của các TCTD dễ dàng hơn, đồng thời cũng là một giải pháp để giảm rủi ro cho các TCTD khi cho vay DNNQD. Hai là, các Cơ quan chủ quản như Bộ tài chính, chính quyền địa phương cần ban hành cơ chế quản lí có hiệu quả hoạt động của các DNNQD như chế độ báo cáo tài chính; hoàn thiện chính sách kế toán kiểm toán đối với các DNNQD, đồng thời tạo điều kiện cho các TCTD tiếp cận với thông tin này để các TCTD có cơ sở trong quan hệ tín dụng với doanh nghiệp. Ba là, Cần sửa đổi bổ sung Luật Đất Đai theo hướng: đẩy nhanh tiến độ cấp sổ đỏ, chứng nhận quyền sở hữu các loại tài sản nhằm giúp khách hàng tư nhân có thể sử dụng giấy tờ này trong quan hệ tín dụng với ngân hàng khi cần thiết. Bốn là Nhà nước cần tiếp tục xây dựng một môi trường kinh doanh bình đẳng trong đó xoá bỏ phân biệt tín dụng bởi hàng rào lãi suất hay hạn mức tín dụng. Phát triển sâu hệ thống các TCTD bao gồm : NHTM, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính nhăm cung ứng các dịch vụ tín dụng đa dạng như cho vay, bảo lãnh, cho vay thuê muahỗ trợ tín dụng trung dài hạn cho các DNNQD. Năm là, Nhà nước cần xem xét về chính sách thuế hiện tại, có thể áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp. Mở rộng diện ưư đãi đối với các DN mới thành lập, thực hiện chính sách thuế ưu đãi trong xuất khẩu, tiếp tục cải cách hành chính về thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, tạo thuận lợi cho các đơn vị ngoài quốc doanh Sáu là, về lâu dài cần thành lập Công ty tài chính hoặc Ngân hàng phục vụ riêng cho DNNQD, DNVVN mà hoạt động của các công ty này có sự hỗ trợ từ Nhà nước (như hoạt động của Ngân hàng chính sách). Tại Nhật Bản các công ty như: Công ty tài chính DNVVN, công ty tài chính nhân dân, hay Ngân hàng Shoko Chu kin có nhiệm vụ chuyên cung cấp tín dụng cho DNVVN. Bảy là, khi điều kiện Việt Nam chưa cho phép thực thi ngay những kiến nghị trên, Nhà nước nên có trợ giá cho NHTM để giảm lãi suất cho vay ở mức DN tự trang trải được mà vẫn đảm bảo nguyên tắc sử dụng vốn của NH là “ vay để cho vay”. Kết luận Các DNNQD đang hoạt động ngày một hiệu quả hơn, thể hiện rõ vai trò chức năng của mình đối với nền kinh tế. Phạm vi hoạt động cũng như uy tín của các DNNQD sẽ ngày càng tăng trong tương lai không xa. Khi đó nhu cầu vốn của các DNNQD nhiều hơn đòi hỏi không chỉ bản thân các DN mà cả các NHTM và Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng cần nhìn nhận một cách nghiêm túc vẫn đề cung ứng vốn cho DNNQD. Tín dụng ngân hàng cho DNNQD chính là một nguồn quan trọng hỗ trợ các DNNQD phát triển, mở rộng sản xuất. Bên cạnh các NHTM cổ phần vốn vẫn quan tâm đến đói tượng khách hàng này, các NHTM quốc doanh cũng cần sớm vào cuộc.VCB Thành Công cũng như không ít Chi nhánh NHTM Quốc doanh khác đều đã nhận thức khá rõ vấn đề này. Trong thời gian tới, với định hướng rõ ràng và những biện pháp cụ thể, phù hợp với thực tiễn, hoạt động tín dụng đối với các DNNQD nhất định sẽ có nhứng chuyển biến tích cực cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng tín dụng. Em xin chân thành cảm ơn Th.S Phạm Hồng Vân đã có những hướng dẫn giúp em hoàn thành chuyên đề này. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do còn non kém về kiến thức và kinh nghiệm nên Chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến Tập thể nhân viên VCB Thành Công đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại Ngân hàng. Danh mục tài liệu tham khảo 1. TS Phan Thị Thu Hà - TS Nguyễn Thị Thu Thảo, Ngân hàng thương mại Quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống kê 2002. 2. Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. 3. TS Nguyễn Văn Thanh, Quản trị tài chính quốc tế, NXB Thống kê 2003. 4. Edward W.Reed Ph.D, Edward K.Gill Ph.D, Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê. 5. Federic S.Miskin, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kỹ thuật, 1994. 6. Báo cáo thường niên Ngân hàng thương mại các DNNQD Việt Nam các năm 2001 đến 2005. 7. Tạp chí Ngân hàng thương mại, NHNN Việt Nam 8. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ 9. Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng, Học viện Ngân hàng. 10. Thời báo Kinh tế Việt Nam. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH419.doc
Tài liệu liên quan