- Áp dụng thuế suất 0% đối với nguyên vật liệu nhập khẩu như bông, vải, sợi . và áp dụng thuế suất ưu đãi đối với nguyên phụ liệu khác. (Hiện nay, nhà nước ta đang áp dụng trong biểu thuế nhập khẩu là : Bông, sợi ở dạng thô, chưa chải sạch mới là 0%, còn nếu với cũng sản phẩm ấy đã chải sạch và ở dạng phế liệu là 5%, ở dạng sợi có tỷ trọng bông 85% trở lên là 20%, ở dạng sợi có tỷ bông dưới 85% là 15%; thuế cao nhất là các loại vải dệt từ bông hay sợi thuế nhập khẩu lên tới 40%, tiếp theo là các loại chỉ khâu từ bông hay sợi là 20%.).
- Xây dựng mức thuế nhập khẩu chi tiết cho các nguyên phụ liệu nhập khẩu. Xoá bỏ tình trạng một loại nguyên vật liệu với các thông số kỹ thuật khác nhau, định mức tiêu hao và nhiều chức năng khác nhau cùng được áp dụng cùng một loại thuế suất. Điều này gây nhiều thiệt thòi cho các doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp may mặc sử dụng lợi tức để tái đầu tư thì được miễn giảm thuế lợi tức với phần đầu tư đó.
- áp dụng thuế suất VAT 5% cho các sản phẩm sợi và vải trong vòng các năm 2002-2005 (đa số các sản phẩm đó hiện nay đang chịu thuế suất VAT 10%) Miễn thuế VAT với phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm.
105 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1738 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU ở Công ty may Chiến Thắng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể đáp ứng đòi hỏi chất lượng của thị trường thế giới, ngoài ra hàng dệt Việt Nam còn chưa đáp ứng được tiêu chuẩn về độ đồng đều về màu sắc, tính đa dạng về chủng loại và tính thời trang.
Đây là một khó khăn cho Công ty trong quá trình cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Muốn gia tăng giá trị các hợp đồng xuất khẩu trực tiếp, Công ty phải chủ động tạo nguồn hàng, tìm một số mặt hàng có ưu thế cạnh tranh để đưa ra giới thiệu với bạn hàng quốc tế. Nhưng sự hạn chế của ngành dệt trong nước đã khiến Công ty gặp nhiều khó khăn trong việc giành hợp đồng xuất khẩu trực tiếp.
3.2.2.3. Trình độ công nghệ của Công ty còn lạc hậu
Hiện nay, trình độ công nghệ của Việt Nam nói chung còn lạc hậu từ 10 đến 20 năm so với các nước trong khu vực. Với Công ty, mặc dù xuất khẩu theo phương thức gia công sẽ được tiếp cận với những thiết bị hiện đại hơn, song so với thiết bị công nghệ của các đối thủ cạnh tranh lớn trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, ...thì trình độ công nghệ của Công ty còn lạc hậu hơn rất nhiều, điều này làm cho khả năng cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã hàng may mặc của Công ty kém hơn so với các nước sản xuất cùng sản phẩm khác. Ngoài ra, máy móc thiết bị lạc hậu còn khiến cho năng suất lao động không cao, theo đó số lượng hàng xuất khẩu thấp.
3.2.2.4. Việc thực hiện SA 8000 đang đặt ra những thách thức lớn cho Công ty trong tiến trình hội nhập
SA8000 là hệ thống tiêu chuẩn về quản trị trách nhiệm xã hội, trong đó đưa ra các yêu cầu về điều kiện làm việc và các điều kiện khác có liên quan đến người lao động do một tổ chức phi chính phủ ban hành năm 1997, nên SA8000 không có giá trị pháp ký bắt buộc phải thi hành. Song, SA8000 lại được ủng hộ của đông đảo các doanh nhân, nhất là ở các nước EU, Mỹ; họ coi đó như là một bằng chứng khẳng định giá trị đạo đức gắn với sản xuất sản phẩm. Việc triển khai thực hiện SA8000 ở các doanh nghiệp Nhà nước thuận lợi hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vì các doanh nghiệp Nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc và điều kiện lao động gần với các quy định của Luật lao động quốc tế mà SA8000 lấy làm nền tảng.
Với lợi thế là một doanh nghiệp Nhà nước, may Chiến Thắng cũng như các doanh nghiệp trực thuộc khác của Tổng Công ty dệt may Việt Nam, hiện nay đang nỗ lực triển khai thực hiện hệ thống tiêu chuẩn này. Mục tiêu trước mắt của Công ty vẫn là phát triển xuất khẩu sang EU và Mỹ, vì vậy việc triển khai thực hiện SA8000 lại càng trở nên cần thiết hơn. Có thể nói, đây là một nhân tố cần phải có để nâng cao sức cạnh tranh về hàng may mặc của Công ty khi hội nhập với nền thương mại thế giới.
Tuy nhiên để thực hiện được điều này đối với Công ty cũng như các doanh nghiệp may mặc khác là rất khó khăn, vì hàng may mặc có tính thời vụ cao, nên khi vào thời vụ, công nhân thường phải làm việc với cường độ cao hơn so với quy định 5 ngày/tuần của SA8000. Mặt khác, để thực hiện SA8000 cần phải có nhiều vốn để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, nâng cao tay nghề cho công nhân,...Vì vậy, để thực hiện được SA8000, ngoài việc huy động nội lực của Công ty thì cũng cần sự hỗ trợ rất lớn từ phía Nhà nước về vốn.
3.3.2.5. Những thách thức mang lại từ EU – 25
EU mở rộng tạo ra khá nhiều những thuận lợi cho xuất khẩu của Việt Nam nói chung và may Chiến Thắng nói riêng, nhưng bên cạnh những thuận lợi đó, có không ít những thách thức mà EU – 25 mang lại cho Việt Nam, đó là:
Trước đây, hàng may mặc của Việt Nam có thể tự do xuất khẩu sang 10 nước thành viên mới của EU, nhưng kể từ sau ngày 1/5/2004, hàng may mặc của nước ta xuất sang 10 nước này sẽ bị quy định bằng hạn ngạch. Điều này sẽ hạn chế rất nhiều khả năng xuất khẩu hàng may mặc của nước ta sang thị trường này.
Hơn nữa, trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc Việt Nam còn nhiều bỡ ngỡ, thiếu kinh nghiện thương trường, thiếu hiểu biết luật chơi, thiếu thông tin về các đối tác kinh doanh và thị hiếu tiêu dùng của người dân EU, do vậy trong quá trình đàm phán thương mại thường bị thua thiệt.
Thêm vào đó, trước đây hàng may mặc Việt Nam vào các nước Đông Âu không bị đòi hỏi cao về chất lượng, các tiêu chuẩn kỹ thuật thì đến nay, việc xuất khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc nước ta vào thị trường này phải tuân theo các luật của một EU-25 thống nhất với những đòi hỏi rất cao về mọi mặt.
3.3. giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Công ty may Chiến Thắng sang thị trường eu
3.3.1. Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty sang thị trường EU và EU+10
Đối với Công ty may Chiến Thắng, EU là một thị trường truyền thống từ lâu đời, song những năm gần đây việc xuất khẩu sản phẩm sang thị trường này của Công ty lại có xu hướng giảm, do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Tuy nhiên, EU vẫn được xác định là thị trường mục tiêu của Công ty, đặc biệt là khi EU mở rộng đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho Công ty khi xuất khẩu sang thị trường rất rộng lớn này. Vì vậy, để tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này trong thời gian tới, Công ty cần thực hiện các giải pháp sau:
3.3.1.1. Đầu tư chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu sang EU
Để làm chủ được nguồn nguyên vật liệu, chủ động trong sản xuất kinh doanh, từng bước chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp, Công ty cần chú trọng đến đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, thay thế máy móc thiết bị lạc hậu để nâng cao năng lực sản xuất và tăng chất lượng sản phẩm.
Muốn thực hiện được điều này, phương pháp tối ưu cho Công ty là xuất khẩu sang thị trường EU và nhập khẩu máy móc, công nghệ nguồn từ EU. Phía EU vẫn thường tỏ ra không hài lòng trong cán cân thương mại giữa Việt Nam với EU, vì vậy việc nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU không chỉ giải quyết vấn đề về phương tiện sản xuất hiện đại mà còn giải quyết phần nào những khó khăn do yêu cầu khắt khe về chất lượng từ phía EU và giúp cho cán cân thương mại Việt Nam – EU được cân bằng hơn.
Với điều kiện hiện nay của Công ty là rất thiếu vốn và trình độ hiểu biết còn hạn chế, nên việc nhập khẩu máy móc công nghệ nguồn từ EU tốt nhất là nên thông qua việc thu hút các nhà đầu tư EU tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam.
Trên cơ sở được đầu tư về máy móc thiết bị, Công ty cần phát huy lợi thế này nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm để hàng hoá của Công ty ngày càng chiếm được thị phần lớn hơn và đứng vững trên thị trường EU.
Với thị trường 10 nước mới gia nhập EU, tuy trước đây đòi hỏi về chất lượng sản phẩm không quá cao, song kể từ khi gia nhập EU thì chất lượng sản phẩm lại đòi hỏi cao hơn để phù hợp với quy chế chung của thị trường này. Hơn nữa, các nước này có thu nhập thấp hơn rất nhiều so với các nước thành viên cũ nên giá cả sản phẩm lại có vai trò khá quan trọng khi xâm nhập vào thị trường các nước này. Chính vì vậy, việc nỗ lực nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm cũng là một biện pháp quan trọng hàng đầu của Công ty để xâm nhập vào thị trường của 10 nước này.
Các giải pháp mà Công ty có thể sử dụng để nâng cao chất lượng sản phẩm gồm:
Thứ nhất, kiểm tra chặt chẽ chất lượng của nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất, tạo dựng và giữ vững mối quan hệ với các bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, chất lượng và có biện pháp bảo quản tốt các nguyên phụ liệu này.
Hiện nay, các nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất sản phẩm của Công ty hầu hết là nhập khẩu với giá cao, chỉ có một số ít được mua trong nước, nhưng các nguồn cung cấp này lại có tính chất ổn định không cao, thời hạn giao hàng đôi khi còn chậm, dẫn đến việc làm chậm tiến độ sản xuất. Vì vậy, việc tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu có uy tín là biện pháp cần thiết để nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty.
Thứ hai, tuân thủ đúng các quy định của bên đặt hàng về chất lượng, số lượng, mẫu mã, bao bì, nguyên vật liệu, nhãn mác,...Làm được điều này không những khiến cho chất lượng sản phẩm được ổn định và nâng cao mà còn làm cho uy tín của Công ty đối với các bạn hàng được nâng lên đáng kể, khiến cho việc đẩy mạnh xuất khẩu trở nên thuận lợi hơn.
Thứ ba, thực hiện nghiêm ngặt quy trình kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất khẩu.
Kiểm tra chất lượng sản phẩm một cách nghiêm ngặt là một việc làm hết sức cần thiết, là biện pháp hữu hiệu để bảo đảm chất lượng cũng như các tiêu chuẩn khác của sản phẩm, khắc phục những thiếu sót của lô hàng tại nơi sản xuất, tiết kiệm chi phí và thời gian thông quan tại cảng đến.
Về việc hạ giá thành sản phẩm:
Kinh doanh trên thị trường EU, giá cả không phải là yếu tố quyết định đến việc bán được hàng của doanh nghiệp, nhưng nó lại là một trong những công cụ quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh.
Như đã nói ở trên, hiện nay hàng may mặc của Công ty xuất khẩu sang thị trường EU theo phương thức gia công chiếm tới trên 90%; các bên đặt gia công không chỉ có các nước thuộc EU mà còn có cả các nước thứ ba. Việc xuất khẩu theo hình thức này mang lại lợi nhuận không cao, nhưng nó lại góp phần giải quyết việc làm cho người lao động và là cơ sở để đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp.
Công ty có thể hạ giá thành sản phẩm bằng cách hợp lý hoá quá trình sản xuất, tận dụng các nguyên liệu sẵn có trong nước, bố trí lao động một cách khoa học, điều chỉnh giá nhân công sao cho phù hợp mà vẫn bảo đảm cuộc sống cho người lao động.
3.3.1.2. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, thiết lập hệ thống chuyên nghiên cứu thị trường và xúc tiến Marketing
Như đã nói ở trên, hiện tại Công ty chưa có bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường, các đơn hàng được ký kết hầu hết do khách hàng chủ động tìm đến Công ty, do đó tính ổn định của các nguồn hàng xuất khẩu chưa cao. Hơn nữa, những đơn hàng được ký kết kiểu này thường là các đơn hàng xuất khẩu theo phương thức gia công nên hiệu quả kinh doanh mang lại chưa cao. Vì vậy, để thúc đẩy việc chuyển đổi xuất khẩu từ phương thức gia công sang xuất khẩu trực tiếp, Công ty cần tăng cường công tác nghiên cứu thị trường và khách hàng để nắm bắt được những đặc điểm của thị trường, nghiên cứu thị hiếu người tiêu dùng để lựa chọn kênh phân phối thích hợp vào thị trường EU.
Kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm kiếm khách hàng, chủ động mở rộng thị trường. Muốn vậy, công tác nghiên cứu thị trường và xúc tiến Marketing càng trở nên quan trọng.
Thị trường EU đang là một thị trường đầy tiềm năng kể từ khi kết nạp thêm 10 nước thành viên mới, khiến cho thị trường EU-25 có sự phân khúc rất lớn; vì vậy công tác nghiên cứu thị trường để nắm bắt các cơ hội xuất khẩu càng trở nên quan trọng để tạo ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu của các đối tượng tiêu dùng.
Tuy Việt Nam đã có quan hệ lâu đời với 10 nước thành viên mới của EU, song mối quan hệ này đã có sự gián đoạn một thời gian khá lâu và chỉ được thiết lập lại trong một vài năm trở lại đây, nhưng mức độ quan hệ chưa thật sự gắn bó. Vì vậy, những thông tin về thị trường của 10 nước này không được thường xuyên cập nhật. Do đó, để có thể thiết lập mối quan hệ buôn bán với 10 nước thành viên mới này, Công ty cần đẩy mạnh việc thu thập thông tin về thị trường và khách hàng ở thị trường các nước này. Có thể nói, chất lượng và giá cả các mặt hàng của Công ty hiện nay khá phù hợp với thu nhập của người dân trên các nước này, do vậy việc thúc đẩy quan hệ với các nước này phụ thuộc rất lớn vào khả năng thu thập thông tin về thị trường của các nước này.
Mặc dù EU là thị trường truyền thống của Công ty, nhưng giá trị xuất khẩu hàng may mặc của Công ty vào thị trường này còn khá nhỏ bé so với tiềm năng nhập khẩu của thị trường này. Nguyên nhân là do Công ty chưa nắm bắt kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng, chưa chủ động tạo được nguồn hàng xuất khẩu thích hợp và việc áp dụng các kênh phân phối để xâm nhập vào thị trường này còn nhiều hạn chế.
Trong thời gian tới, để thực hiện được những định hướng xuất khẩu của Công ty sang thị trường EU thì việc đầu tư cho nghiên cứu thị trường là một việc làm rất cần thiết song khá tốn kém và khó khăn, vì vậy Công ty cần nhiều đến sự hỗ trợ về thông tin của Nhà nước.
Để việc nghiên cứu thị trường có hiệu quả, Công ty cần ứng dụng các nghiệp vụ Marketing để phát hiện những biến đổi về thị hiếu, nhu cầu tiêu dùng, tăng cường đầu tư cho các mặt hàng mang lại lợi nhuận cao.
3.3.1.3. Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư
Công ty may Chiến Thắng cũng như các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang cần một lượng vốn rất lớn để phát triển, trong khi thực tế vốn lại là một vấn đề rất khó khăn với hầu hết các doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hạn hẹp để phục vụ những yêu cầu của sản xuất và xuất khẩu. Có rất nhiều các biện pháp để huy động vốn, song đối với Công ty có thể áp dụng một số biện pháp sau:
- Huy động từ nguồn vốn tự có, như nguồn vốn khấu hao cơ bản, nguồn vốn có được do bán, cho thuê các tài sản không dùng đến do thanh lý hàng tồn kho.
- Cổ phần hoá là một trong những biện pháp hữu hiệu để huy động vốn từ các cán bộ công nhân viên trong Công ty và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích, kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn vốn từ bên ngoài và mọi thành phần kinh tế.
- Công ty cũng có thể vay vốn từ ngân hàng để phát triển sản xuất.
Huy động được nguồn vốn mới chỉ là điều kiện cần để mở rộng đầu tư phát triển sản xuất và xuất khẩu; sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả mới là điều kiện đủ để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Các biện pháp mà Công ty có thể áp dụng để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn là:
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị để tăng chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động.
- Xin phép sử dụng vốn ngân sách để đào tạo lao động, đầu tư cho các trường đào tạo, viện nghiên cứu chuyên ngành để có được những cán bộ chuyên ngành trong tương lai, như: các trường đào tạo công nhân may, viện tạo mẫu,..
- Tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng khả năng thu hồi vốn, rút ngắn thời gian khấu hao của máy móc mà vẫn đảm bảo sản xuất có hiệu quả
- Xin phép được sử dụng nguồn vốn ODA hoặc đặc biệt ưu đãi...
3.3.1.4. Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực
Con người là nhân tố quan trọng nhất cần phải có để tiến hành bất cứ một hoạt động nào. Trong kinh doanh quốc tế, vai trò của con người lại càng được nhân lên gấp bội. Năng lực của người quản lý cũng như trình độ tay nghề của người lao động có vai trò quyết định nhất đến việc thành công hay thất bại trên thương trường.
Để thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của người tiêu dùng, ngoài việc đầu tư trang thiết bị máy móc thì việc đào tạo và bồi dưỡng tay nghề cho người lao động cũng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng.
Tình trạng chung của Công ty may Chiến Thắng nói riêng và các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng may mặc Việt Nam nói chung là rất thiếu các cán bộ kỹ thuật có tay nghề cao nên hàng hoá sản xuất ra thường bị hạn chế về chất lượng, kiểu dáng, năng suất lao động, sự sáng tạo,...do vậy khả năng cạnh tranh về hàng hoá còn rất thấp.
Ngay từ khi thành lập, Công ty đã chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực thông qua các lớp đào tạo tay nghề cho người lao động. Các lớp đào tạo này hiện nay vẫn được duy trì, song mới chỉ dừng lại ở việc đào tạo những công nhân biết làm việc mà chưa chú ý đến đào tạo chuyên sâu cho công nhân. Hơn nữa, để phát triển sản phẩm trên thị trường EU, Công ty cũng cần có đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực và đội ngũ cán bộ thương mại giỏi để giúp cho Công ty hoạt động có hiệu quả.
Do đặc thù của ngành, việc đào tạo và nâng cao năng lực của các cán bộ, công nhân viên là việc làm hết sức cần thiết. Công tác đào tạo đòi hỏi phải có sự phối hợp của các doanh nghiệp với Nhà nước. Nâng cao năng lực cán bộ, công nhân phải bắt đầu từ nâng cao năng lực chuyên môn, đó là:
- Đào tạo đội ngũ công nhân thạo về kỹ thuật, nghiệp vụ nhằm nâng cao năng suất lao động và đảm bảo chất lượng sản phẩm.
- Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật để tạo ra được những sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng tốt thị hiếu của người tiêu dùng. Đồng thời, cũng cần nâng cao năng lực của các cán bộ thương mại để đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng EU.
- Đào tạo đội ngũ chuyên thiết kế, tạo mẫu thời trang phù hợp với thị hiếu và nhu cầu tiêu dùng của EU, đồng thời tạo nên nét đặc trưng riêng cho hàng may mặc của Công ty để từ đó tìm được chỗ đứng trên thị trường EU.
Bên cạnh các khoá huấn luyện đào tạo chuyên môn, cũng phải chú ý đến vấn đề nâng cao trình độ ngoại ngữ. Đối với các cán bộ kỹ thuật, công nhân, trình độ ngoại ngữ được nâng cao sẽ góp phần tích cực trong việc vận hành máy móc thiết bị hiện đại, áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Với cán bộ thương mại, ngoại ngữ là phương tiện quan trọng trong giao dịch, đàm phán, và xúc tiến xuất khẩu.
Theo đó, Công ty cần phải thường xuyên kiểm tra trình độ cán bộ để có kế hoạch đào tạo lại, với cán bộ trẻ có năng lực thì đào tạo chuyên sâu... Công ty phải luôn nâng cao trình độ cán bộ, phát huy tính năng động, nhạy bén, sáng tạo. Công ty cũng cần phải dành khoản kinh phí nhất định cho hoạt động này, và phải biết tận dụng các chương trình đào tạo cán bộ của Chính phủ để cử cán bộ của mình tham gia.
3.3.1.5. Phát triển thương hiệu nhằm nâng cao uy tín của Công ty trên thị trường EU
Như chúng ta đã biết, đặc điểm tiêu dùng của khách hàng trên thị trường EU là thích mua hàng hoá có nhãn hiệu nổi tiếng; thị trường EU là một thị trường có tính bảo hộ cao, vì vậy để việc xuất khẩu hàng hoá có hiệu quả, Công ty cần đẩy mạnh việc quảng bá thương hiệu và nâng cao uy tín trên thị trường này.
Việc phát triển thương hiệu trên thị trường EU là một vấn để rất khó, đòi hỏi phải có chiến lược lâu dài. Công ty có thể áp dụng chiến lược mà người Nhật đã dùng và khi thâm nhập thị trường này và tỏ ra rất có hiệu quả, đó là thời gian đầu phải bỏ chi phí để mua nhãn hiệu của một hãng nổi tiếng trên thị trường EU đã được khách hàng chấp nhận và tin tưởng để gắn vào sản phẩm của mình, nhưng bán với giá rẻ hơn. Sau một thời gian, tiến hành gắn nhãn hiệu của mình ngay bên cạnh nhãn hiệu của hãng nổi tiếng đó. Khi đã chiếm được niềm tin của khách hàng về chất lượng và giá cả sản phẩm mới tiến hành bỏ hoàn toàn nhãn hiệu của hãng nổi tiếng mà chỉ giữ lại nhãn hiệu của mình.
Bằng cách đó, thương hiệu về hàng may mặc của Nhật đã vào được thị trường EU và tỏ ra rất được khách hàng ưa chuộng vì giá rẻ mà chất lượng lại khá cao.
Song song với việc mua nhãn hiệu và các bằng sáng chế đó, Công ty cần đẩy mạnh công tác quảng cáo cho sản phẩm để kích thích người mua mua hàng của mình.
Uy tín cũng là một vũ khí cạnh tranh quan trọng không kém thương hiệu của sản phẩm khi kinh doanh trên thị trường EU. Thị trường EU rất coi trọng chữ tín trong kinh doanh, vì vậy Công ty cần phải xây dựng được uy tín của mình thông qua việc thực hiện đúng những điều khoản ghi trong hợp đồng dã ký kết về chủng loại, giá cả, thời hạn giao hàng…trong đó thời hạn giao hàng là yếu tố đặc biệt quan trọng, bởi lẽ hàng may mặc có tính thời vụ cao và việc phù hợp với thời trang là yếu tố quyết định tính cạnh tranh của mặt hàng này.
Thương hiệu là một công cụ cạnh tranh rất lớn đồng thời là công cụ quan trọng để khẳng định sự có mặt của sản phẩm trên thị trường. Phát triển được thương hiệu cũng là một công cụ hữu hiệu để đưa sản phẩm của Công ty đến được tay người tiêu dùng thuộc 10 nước thành viên mới của EU.
Có thể nói rằng, người tiêu dùng thuộc 10 nước thành viên mới này chưa biết đến tên gọi cũng như chất lượng sản phẩm của Công ty. Vì vậy, việc phát triển thương hiệu, nâng cao uy tín của Công ty trên thị trường EU là một phương tiện có hiệu quả nhằm quảng bá sản phẩm của Công ty trên thị trường 10 nước thành viên mới này.
Mục tiêu xuất khẩu của Công ty sang EU trong thời gian tới là giảm tỷ trọng gia công xuất khẩu, từng bước chuyển sang xuất khẩu trực tiếp. Vì vậy, nâng cao uy tín của Công ty, khẳng định thương hiệu may Chiến Thắng là biện pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu này.
3.3.1.6. Đẩy mạnh công tác xúc tiến để xâm nhập thị trường 10 nước thành viên mới của EU
Như đã nói ở trên, công tác xúc tiến xuất khẩu của Công ty hiện nay còn khá yếu; do đó, ngay cả ở thị trường 15 nước thành viên cũ của EU thì sản phẩm của Công ty cũng ít được biết đến. Chính vì vậy, để xâm nhập vào thị trường 10 nước thành viên mới của EU thì việc đẩy mạnh công tác xúc tiến càng trở nên quan trọng.
Công ty có thể đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu bằng cách quảng cáo trên mạng, trên báo chí hay trên đài truyền hình của các nước EU. Công ty cũng cần đẩy mạnh việc tham gia vào các hội chợ, triển lãm hay trưng bày hàng hoá ở kho ngoại quan của Việt Nam tại EU.
Những hoạt động này tuy tốn kém nhưng hiệu quả mà chúng mang lại rất cao, đó sẽ là các trung tâm thu hút và cung cấp các thông tin kịp thời về thị trường và khách hàng cho Công ty, khắc phục tình trạng thiếu thông tin như hiện nay, từ đó góp phần thúc đẩy phương thức xuất khẩu trực tiếp phát triển nhanh chóng và có hiệu quả.
3.3.1.7.. Các giải pháp khác
Ngoài những giải pháp nêu trên, Công ty có thể áp dụng một số giải pháp khác để tăng hiệu quả xuất khẩu sang thị trường EU như:
* Đẩy mạnh áp dụng ISO 9000, ISO 14000, và hệ thống tiêu chuẩn SA8000
Kinh doanh trên thị trường EU, các doanh nghiệp sẽ gặp phải những yêu cầu khắt khe của hệ thống quản lý chất lượng; hàng hóa từ bên ngoài muốn vào được thị trường này cần vượt qua được các rào cản kỹ thuật, đó là những quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng của EU.
Hàng hoá xuất khẩu vào EU phải tuân thủ các tiêu chuẩn của sản phẩm như: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng và tiêu chuẩn bảo vệ môi trường. Với hàng may mặc, cần phải đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng, bảo vệ môi trường và an toàn cho người lao động.
- Đối với tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là bắt buộc với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU. ISO 9000 do tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế đặt ra nhằm giúp các đơn vị đạt được các mục tiêu tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm lãng phí và tỷ lệ phế phẩm, để duy trì một dạng sản phẩm có chất lượng đồng nhất, phù hợp với giá thành. Vì vậy khi xuất khẩu vào EU, những doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập dễ hơn nhiều so với những hàng hóa của doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này.
- Đối với tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, ký mã hiệu hàng hóa trở nên quan trọng số một trong lưu thông hàng hoá trên thị trường EU. Vì vậy, Công ty cần phải chú ý tới vấn đề gắn ký mã hiệu cho hàng hoá . Đây cũng là yếu tố bắt buộc đối với hàng hoá nhập khẩu vào EU.
- Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 ngày càng trở nên quan trọng với các doanh nghiệp may mặc Việt Nam khi muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU. Chứng chỉ ISO 14000 sẽ là phương tiện, là thước đo để khách hàng EU có thể an tâm về phương diện bảo vệ môi trường của sản phẩm và là tiêu chí để duy trì khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường EU.
- SA 8000, như đã nói ở trên, là hệ thống tiêu chuẩn về quản trị trách nhiệm xã hội, nó không mang tính pháp lý bắt buộc nhưng lại được ủng hộ của đông đảo các doanh nhân; coi đó như là một bằng chứng khẳng định giá trị đạo đức gắn với các doanh nghiệp nước ta khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU.
Như vậy, có thể nói ISO 9000, ISO 14000, SA 8000 chính là chìa khoá để Công ty may Chiến Thắng và các doanh nghiệp may mặc Việt Nam khác mở rộng cánh cửa cho hàng xuất khẩu sang thị trường EU.
Để thực hiện được các giải pháp đó, trong thời gian tới Công ty cần làm những việc cụ thể sau:
- Đầu tư tài chính và nhân lực cho phòng Kinh doanh tiếp thị trong công tác nghiên cứu, tiếp cận thị trường và khách hàng
Phòng Kinh doanh tiếp thị của Công ty đảm nhận trách nhiệm chính là tìm kiếm và ký kết các đơn hàng, kể cả gia công và xuất khẩu, do vậy có điều kiện để tiếp xúc với khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay phòng chỉ có 4 cán bộ, nên việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu thị trường là rất khó khăn. Hầu hết các đơn hàng được ký kết của Công ty là do khách hàng tự tìm đến, do vậy trên thực tế phòng vẫn chưa hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ của mình. Sở dĩ như vậy cũng một phần lớn là do nguồn vốn mà Công ty cấp cho phòng để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ chưa nhiều, nên trong thời gian tới, để có thể thực hiện được mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp thì trước hết, Công ty nên đầu tư cho phòng về tài chính và nhân lực để hoạt động nghiên cứu thị trường được đẩy mạnh, dần dần hình thành một bộ phận riêng biệt chuyên nghiên cứu thị trường và thực hiện các hoạt động Marketing.
- Chủ động tiếp cận với những thành tựu mới về khoa học kỹ thuật
Trong kinh doanh, một trong những công cụ cạnh tranh hữu hiệu là trình độ của máy móc thiết bị mà doanh nghiệp sử dụng. Với ngành may mặc, máy móc thiết bị hiện đại sẽ góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, từ đó tăng khả năng cạnh tranh về giá.
Vì vậy, để đẩy mạnh phương thức xuất khẩu trực tiếp, ngoài việc đầu tư cho nghiên cứu thị trường thì việc đầu tư cho trang thiết bị để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm cũng đóng góp một phần không nhỏ cho Công ty. Muốn vậy, Công ty cần chủ động tiếp cận với các máy móc thiết bị tiên tiến, thông qua việc sử dụng máy móc của bên đặt gia công cung cấp, thông qua đầu tư mua máy móc thiết bị của các nước bạn.
- Sử dụng các khuyến khích vật chất và tinh thần đối với người lao động
Muốn người lao động cống hiến hết mình trong công việc để sản xuất ra những sản phẩm tốt, giảm tỷ lệ phế phẩm...thì trước hết đời sống vật chất và tinh thần của họ phải được quan tâm chăm sóc đầy đủ. Để làm được điều này, Công ty nên đưa ra một quy chế thưởng, phạt rõ ràng để khuyến khích người lao động sáng tạo trong công việc và loại bỏ dần các thói quen xấu của người lao động.
Công ty nên khuyến khích sự sáng tạo của cán bộ cũng như Công nhân bằng cách trao phần thưởng định kỳ cho những người có sáng kiến hay, thiết thực cho công việc. Làm được điều này sẽ khích lệ rất lớn cho người lao động hoàn thành và sáng tạo trong công việc.
Để khuyến khích đời sống tinh thần cho người lao động, Công ty có thể tổ chức những hội thi văn nghệ, hội thi tay nghề giỏi, hay trao phần thưởng cho con em cán bộ, công nhân viên có thành tích cao trong học tập.
Làm được những điều đó, chắc chắn rằng người lao động sẽ phấn khởi hơn rất nhiều, nhờ đó làm việc có hiệu quả hơn, kết quả và hiệu quả kinh doanh của Công ty nhờ đó cũng tăng cao.
Ngoài những cách nói trên, để thực hiện mục tiêu cơ bản là đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp thì Công ty cũng nên rà soát lại phòng kinh doanh nội địa, bộ phận thiết kế, sáng tác mẫu để tiến tới chủ động hơn trong việc thiết kế mẫu phục vụ nhu cầu xuất khẩu trực tiếp.
3.3.2. Những kiến nghị đối với Nhà nước nhằm tạo tiền đề để thực hiện các giải pháp của Công ty
Đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới là quy luật tất yếu của xu hướng quốc tế hoá hiện nay. Đặc biệt với một nước đang phát triển như Việt Nam, xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ chủ yếu, là yếu tố thúc đẩy Công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã không ngừng đưa ra các biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng may mặc nói riêng. Các biện pháp đó cần được tiếp tục duy trì, cải tiến và phát triển trong tương lai.
Như chúng ta đã biết, nhu cầu nhập khẩu hàng may mặc của Việt Nam trên thị trường EU là rất lớn, đặc biệt khi EU kết nạp thêm 10 quốc gia mới vào khối liên minh thống nhất của mình thì nhu cầu về mặt hàng này lại càng trở nên đa dạng hơn rất nhiều.Vì vậy trong thời gian tới, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường này, Nhà nước ta cần tiếp tục hoàn thiện các giải pháp sau:
a. Cải thiện môi trường đầu tư và môi trường thương mại
* Về chính sách đầu tư:
Có thể nói, đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng nhất để phát triển bất kỳ một ngành nào. Việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam cần có sự đầu tư đồng bộ từ khâu nguyên liệu, sản xuất, tìm kiếm thị trường và xuất khẩu hàng hóa. Do vậy, vấn đề đầu tư càng trở nên quan trọng.
Ngành dệt may Việt Nam hiện có sự phát triển không đều giữa ngành dệt và ngành may, chính vì vậy một mặt nó đã khiến cho hiệu quả xuất khẩu hàng may mặc giảm đi đáng kể, mặt khác nó khiến cho các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc Việt Nam kém chủ động về nguồn hàng, phải phụ thuộc lớn vào nước ngoài.
Do đó, quan điểm chung của việc đầu tư cho ngành dệt may là phải tính trên phạm vi toàn ngành, trong đó tập trung vào ngành dệt và phụ liệu may mặc để ngành này có thể phát triển theo kịp ngành may. Tiếp theo đó, tập trung đầu tư chọn lọc theo mặt hàng có thế mạnh nhằm tạo khả năng liên kết, hợp tác và khai thác tốt hơn năng lực thiết bị; khuyến khích đầu tư nước ngoài, nhất là cho ngành dệt; ưu tiên các dự án sản xuất các mặt hàng trong nước chưa sản xuất được và các sản phẩm không bị áp dụng hạn ngạch.
Muốn làm được như vậy, cần thu hút các nguồn đầu tư thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư và môi trường thương mại.
- Về môi trường đầu tư: Cần hoàn thiện các văn bản luật và dưới luật, đồng thời xem xét lại hệ thống luật để điều chỉnh các quy luật không còn phù hợp hoặc chưa được rõ.
Với luật thương mại, cần bổ xung rõ ràng về các biện pháp quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu.
Với luật đầu tư nước ngoài, cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia về đầu tư trong lĩnh vực thương mại và chế độ cấp phép đầu tư.
Hiện nay, việc thu hút được các nguồn vốn đầu tư đang là biện pháp cần thiết đối với may Chiến Thắng nói riêng và các doanh nghiệp may mặc Việt Nam nói chung để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Vốn đầu tư có thể khai thác từ các nguồn ở trong và ngoài nước.
Để tăng cường khai thác các nguồn vốn đầu tư này, Nhà nước cần hoàn thiện việc quản lý các chính sách đầu tư:
+ Với chính sách đầu tư trong nước, Nhà nước nên tập trung vào một số doanh nghiệp Nhà nước có năng lực, có khách hàng, làm ăn có hiệu quả. Tiến hành cổ phần hóa, tư nhân hoá các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Cổ phần hóa, tư nhân hoá các doanh nghiệp may không chỉ là giải pháp quan trọng nhằm thu hút đầu tư trong nước mà còn góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp may.
+ Với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, cần khuyến khích đầu tư dưới mọi hình thức: Liên doanh, cổ phần hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Tập trung đầu tư sản xuất những mặt hàng mới, phức tạp mà doanh nghiệp chưa có khả năng sản xuất. Ưu tiên hạn ngạch cho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm thị trường phi hạn ngạch.
Thu hút sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, tăng cường khai thác quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Liên minh châu Âu để phát triển doanh nghiệp may mặc. Đặc biệt, cần tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trường thế giới cho “sản phẩm công nghiệp xanh và sạch”, vì hiện nay các doanh nghiệp đang rất khó khăn trong tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ dệt – nhuộm theo các quy định ISO 9000 và ISO 14000.
Muốn thu hút được đầu tư nước ngoài cần nâng cấp cơ sở hạ tầng, giữ vững ổn định chính trị. Một nhà đầu tư không thể mạo hiểm đầu tư vào một nước luôn có sự biến động về chính trị, vì vậy sự ổn định về chính trị của một nước là điều kiện đầu tiên tối quan trọng trong quyết định đầu tư.
- Về môi trường thương mại: Trước hết, cần cải cách các thủ tục hành chính, nhất là thủ tục Hải quan; áp dụng công nghệ thông tin vào kê khai và tính thuế hàng hoá xuất nhập khẩu. Thay đổi về căn bản phương thức nhập khẩu, giảm dần tỷ trọng thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân sách; sửa đổi biểu thuế và cải cách việc thu thuế theo giá tối thiểu.
Với phương thức quản lý nhập khẩu hợp lý, chúng ta có thể đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU, từ đó mở rộng hợp tác với EU, góp phần thúc đẩy xuất khẩu vào EU.
Việc cải thiện môi trường thương mại là giải pháp hết sức cơ bản nhưng lại mang tính chất tổng hợp cao, vì vậy cần có sự phối hợp của chính phủ, các bộ, ngành chức năng và các định chế xã hội, văn hoá...
b. Chính sách về nguyên vật liệu và phát triển sản phẩm
Hiện nay, phần lớn các nguyên phụ liệu của ngành may mặc Việt Nam như bông, xơ, sợi tổng hợp, hoá chất, thuốc nhuộm, vải chất lượng cao phục vụ cho may xuất khẩu vẫn phải nhập khẩu. Khuyến khích sản xuất các mặt hàng nói trên là việc làm cần thiết vừa để giảm bớt sự phụ thuộc của ngành may vào nguồn nguyên phụ liệu nhập ngoại, chủ động trong sản xuất kinh doanh, vừa để nâng cao lợi nhuận, hiệu quả xuất khẩu.
Quy hoạch vùng trồng bông trên cơ sở bố trí lại cơ cấu cây trồng thích hợp để tăng diện tích trồng bông. Muốn vậy, Nhà nước phải có những biện pháp quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, đẩy mạnh phát triển vùng nguyên liệu tự nhiên, đồng thời đặt cơ sở cho hình thành và sản xuất sợi hoá học.
- Về sản xuất sợi tự nhiên: Hiện nay, hầu hết các khu vực có thể trồng bông đang trồng các loại câu khác nên lượng bông cung cấp cho ngành dệt là khá ít ỏi (chỉ đáp ứng khoảng 10% nhu cầu). Quy hoạch khu vực trồng bông và hỗ trợ người trồng bông là giải pháp cần thiết trước mắt. Vì vậy, cần đẩy mạnh triển khai chương trình phát triển cây bông vải của Chính phủ, cụ thể là:
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như: thuỷ lợi, giao thông cho các vùng trồng bông để tăng diện tích trồng bông và hiệu quả trồng bông.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, khuyến nông áp dụng kỹ thuật mới, các giống bông cho chất lượng cao, đổi mới kỹ thuật chế biến bông.
- Về sản xuất sợi hoá học: khi công nghiệp lọc dầu phát triển sẽ là cơ sở để ta đầu tư cây dựng một số nhà máy sản xuất tơ sợi tổng hợp, sản xuất hoá chất thuốc nhuộm...để thay thế một phần các nguyên phụ liệu mà ta đang phải nhập khẩu để phục vụ may xuất khẩu.
Khuyến khích các cá nhân, các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất nguyên phụ liệu thông qua việc đầu tư vốn, thiết bị kỹ thuật và công nghệ. Đồng thời, cũng phải xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở may mặc sử dụng nguồn nguyên phụ liệu sản xuất trong nước, cụ thể là: chính sách thuế, thưởng hạn ngạch...
- Đối với vấn đề phát triển sản phẩm: Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích trong khâu thiết kế và sản xuất hàng mẫu, tổ chức đào tạo đội ngũ thiết kế mẫu mã. Thành lập trung tâm tạo mốt Việt Nam, gắn trung tâm này với các trung tâm tạo mẫu của EU và trung tâm khác. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam trong việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, đưa hàng may mặc Việt Nam ra thị trường thế giới với tên hiệu của mình.
c. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU và EU+10
Cơ hội để hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU là rất lớn, song hiện nay may Chiến Thắng cũng như các doanh nghiệp may mặc khác của Việt Nam đều chưa khai thác được hết những cơ hội này do còn một số hạn chế về chất lượng sản phẩm, mẫu mã, nhãn mác, chủng loại...chưa phong phú và chưa đáp ứng được những yêu cầu khắt khe từ phía thị trường EU. Do vậy, muốn cho việc xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam vào thị trường EU được phát triển suôn sẻ, cần có những biện pháp để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang EU.
Hiện nay, việc xúc tiến xuất khẩu chưa được các doanh nghiệp coi trọng một cách đúng mức. Một số doanh nghiệp cũng đã chú ý tới hoạt động này, song do hạn chế về tài chính và thiếu những nguồn thông tin cần thiết về thị trường và thiếu kinh nghiệm nên hiệu quả thu được chưa cao.Việc xúc tiến xuất khẩu là một hoạt động khá khó khăn, phức tạp, vì vậy cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
Khi thị trường EU được mở rộng thì việc xúc tiến xuất khẩu càng trở nên quan trọng hơn rất nhiều, vì các nước thành viên mới này hầu như chưa biết đến sản phẩm may mặc của Việt Nam.
Trong thời gian tới, để hỗ trợ cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam thâm nhập dễ dàng và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU và EU+10, Nhà nước cần có các chính sách hôc trợ và nên thưc hiện một số hoạt động để trợ giúp các doanh nghiệp:
* Về chính sách tín dụng:
Đại bộ phận các doanh nghiệp may mặc Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU đều có quy mô vừa và nhỏ, nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu không cao. Vì vậy, để mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường này, Nhà nước cần phải hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp thông qua một số biện pháp:
- Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp, giải quyết những khó khăn về vốn lưu động và vốn đầu tư để đổi mới trang thiết bị.
- Đảm bảo quan hệ tín dụng thật sự bình đẳng trên cơ sở pháp luật giữa các thành phần kinh tế. Đơn giản hoá thủ tục vay vốn và yêu cầu thế chấp tài sản của ngân hàng và tổ chức tín dụng.
- Mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng. Mục đích của quỹ này là giúp đỡ các doanh nghiệp có khả năng phát triển, cần vay vốn nhưng không có đủ tài sản thế chấp.
- Thực hiện lãi suất ưu đãi với các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh xuất khẩu sang EU có hiệu quả.
- Mở rộng hình thức tín dụng thuê mua nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp giải quyết vấn đề khó khăn về vốn trung và dài hạn. Phát triển mạnh hình thức thuê mua tài chính với các thiết bị dây truyền sản xuất.
- Thông qua ngân hàng, linh hoạt mức lãi suất chiết khấu để đẩy mạnh xuất khẩu sang EU. Ngân hàng thực hiện chiết khấu các kỳ phiếu, hối phiếu chưa đến hạn thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thiếu vốn. Hạ lãi suất chiết khấu kéo theo giá hàng hoá hạ, khả năng cạnh tranh và khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu nhờ đó sẽ tăng lên.
- Chính phủ nên bảo lãnh các doanh nghiệp Nhà nước được mua trả chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc các tổ chức tài chính nước ngoài.
- Doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh phát triển nhanh cần được cấp vốn lưu động phù hợp với tốc độ phát triển.
Tóm lại, mục tiêu cơ bản của chính sách tín dụng là giúp đỡ cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam có vốn cần thiết để đầu tư cho sản xuất, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, từ đó đạt được mục đích là đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU.
* Về chính sách thuế :
May mặc là một ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam, nhưng có đặc thù là hầu hết các nguyên vật liệu phục vụ cho việc sản xuất và xuất khẩu đều phải nhập khẩu và chủ yếu là may gia công xuất khẩu. Vì vậy việc được ưu đãi về thuế sẽ là một trong những công cụ hữu hiệu giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trưòng. Những ưu đãi về thuế mà chính phủ áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam là :
- áp dụng thuế suất 0% đối với nguyên vật liệu nhập khẩu như bông, vải, sợi ... và áp dụng thuế suất ưu đãi đối với nguyên phụ liệu khác. (Hiện nay, nhà nước ta đang áp dụng trong biểu thuế nhập khẩu là : Bông, sợi ở dạng thô, chưa chải sạch mới là 0%, còn nếu với cũng sản phẩm ấy đã chải sạch và ở dạng phế liệu là 5%, ở dạng sợi có tỷ trọng bông 85% trở lên là 20%, ở dạng sợi có tỷ bông dưới 85% là 15%; thuế cao nhất là các loại vải dệt từ bông hay sợi thuế nhập khẩu lên tới 40%, tiếp theo là các loại chỉ khâu từ bông hay sợi là 20%...).
- Xây dựng mức thuế nhập khẩu chi tiết cho các nguyên phụ liệu nhập khẩu. Xoá bỏ tình trạng một loại nguyên vật liệu với các thông số kỹ thuật khác nhau, định mức tiêu hao và nhiều chức năng khác nhau cùng được áp dụng cùng một loại thuế suất. Điều này gây nhiều thiệt thòi cho các doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp may mặc sử dụng lợi tức để tái đầu tư thì được miễn giảm thuế lợi tức với phần đầu tư đó.
- áp dụng thuế suất VAT 5% cho các sản phẩm sợi và vải trong vòng các năm 2002-2005 (đa số các sản phẩm đó hiện nay đang chịu thuế suất VAT 10%) Miễn thuế VAT với phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm.
* Các hoạt động cụ thể hỗ trợ công tác xúc tiến xuất khẩu sang EU và EU+10 :
- Đẩy mạnh chiến lược phát triển thị trường EU thông qua việc đàm phán ký kết các hiệp định, thoả thuận thương mại đa phương và song phương, nhằm tạo các tiền đề, hành lang pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc xúc tiến và tiếp cận thị trường. Khó khăn đối với các doanh nghiệp may mặc Việt Nam hiện nay là tìm đối tác, nhất là đối tác tin cậy. Vì vậy, cần nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc giúp các doanh nghiệp tìm được bạn hàng tin cậy. Đồng thời, do điều kiện không gian và nguồn kinh phí eo hẹp, các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong vấn đề nghiên cứu thị trường. Nhà nước phải có những biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc khảo sát có hiệu quả tránh chi phí tốn kém.
- Cho phép thành lập một trung tâm xúc tiến thương mại của Việt Nam tại EU để hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Việc làm này có thể thu hút các doanh nghiệp và cộng đồng Việt Nam thuê diện tích tại trung tâm để giới thiệu sản phẩm bán hàng, mua hàng của EU, tạo đầu mối, triển khai quan hệ buôn bán với bạn hàng EU.
- Nhà nước cùng các doanh nghiệp kết hợp trong việc mở các kho ngoại quan tại Châu Âu. Kho ngoại quan có tác dụng rất lớn cho hàng hoá Việt Nam xâm nhập vào EU, đặc biệt là xâm nhập vào thị trường 10 nước thành viên mới. Thông qua các kho ngoại quan này, hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng may mặc nói riêng sẽ có mặt thường xuyên trên thị trường này; mặt khác nó còn hỗ trợ trong công tác thu thập thông tin về thị trường và khách hàng, tăng tính chủ động trong công tác xúc tiến xuất khẩu. Các kho này cũng giúp cho hàng Việt Nam vượt qua các rào cản chất lượng và kiểm tra hàng hoá để tiện buôn bán và giao hàng chắc chắn hơn, tăng độ tin cậy ở các bạn hàng nhập khẩu. Ngoài ra, hệ thống kho này còn cung ứng cho các kênh phân phối mới với các phân khúc thị trường theo chùm khách hàng, theo chuỗi giá trị. Các phân khúc thị trường có thể cung ứng nhanh để nắm bắt các cơ hội, cung ứng với giá tốt hơn khi cầu vượt cung. Thêm vào đó, các kho này cũng giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận thêm các khách hàng tiềm năng phong phú.
- Đẩy mạnh công tác khuyến khích xuất khẩu, thưởng hạn ngạch đối với doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc với tỷ lệ nội địa hoá cao, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc theo hình thức trực tiếp với khối lượng lớn...
d. Tổ chức tốt hệ thống thông tin về thị trường và khách hàng
Thông tin là một yếu tố rất quan trọng đối với quyết định kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất khẩu như Công ty may Chiến Thắng. Trước khi bước vào kinh doanh trên một thị trường mới, việc đầu tiên mà doanh nghiệp cần làm là nghiên cứu thị trường và những đặc điểm của khách hàng trên thị trường mà mình định kinh doanh.
Với những thị trường truyền thống như EU, việc cập nhật thông tin về những nhu cầu luôn biến đổi rất nhanh và những đòi hỏi khắt khe của thị trường này là việc cực kỳ quan trọng giúp đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp, giảm bớt việc xuất khẩu theo phương thức gia công mà từ trước đến nay chúng ta đã sử dụng rất phổ biến.
Chính vì việc nắm bắt thông tin của chúng ta còn yếu mà sức cạnh tranh trên thị trường EU giảm đi đáng kể. Vì vậy trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường EU, Nhà nước cùng các doanh nghiệp cần tập chung hoàn thiện hệ thống thông tin. Việc thu thập thông tin cần phải đảm bảo nguyên tắc : Chính xác, rõ ràng, đầy đủ, thường xuyên, thống nhất về tiêu chí, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đặc biệt, khi EU kết nạp thêm 10 nước thành viên mới thì việc hỗ trợ thông tin của Nhà nước về các thị trường này càng trở nên quan trọng giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trườn mới này.
Các biện pháp sử dụng để hoàn thiện hệ thống thông tin gồm :
- Về tổ chức thông tin : thiết lập mạng lưới thông tin cơ bản giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế, nhất là các cơ quan liên quan trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu như: Tổng cục hải quan, bộ thương mại, ngân hàng ngoại thương, uỷ bạn vật giá....Hoàn thiện hệ thông thông tin giữa các cơ quan trung ương và địa phương . Thành lập trung tâm thông tin may mặc với các chức năng: Thu thập, phân tích và thông tin cho các doanh nghiệp về xu thế mới, kiểu dáng chất liệu, các thông tin về mẫu mốt, kỹ thuật công nghệ mới, dự báo tình hình thế giới, tổ chức hội thảo định kỳ, xuất bản các ấn phẩm chuyên môn và các dịch vụ tua vấn. Đồng thời, phải tổ chức thông tin thị truờng về tình hình sản xuất kinh doanh và xuất khẩu của các doanh nghiệp may mặc để có các biện pháp kịp thời như : điều chỉnh cơ cấu, cân đối giữa các mặt hnàg, giữa các yếu tố sản xuất nhằm tạo nên sự đồng bộ trong sản xuất kinh doanh và tận dụng tối đa khả năng sản xuất và cơ hội có được.
- Về nội dung thông tin: để đảm bảo đầy đủ thông tin phải nêu được các vấn đề:
- Thông tin về thị trường, thể hiện qua nhu cầu của thị trường, khả năng sản xuất, khả năng tiêu thụ của thị trường, các đòi hỏi kỹ thuật, chất lượng...
- Thông tin về sản xuất trong nước
- Thông tin về tình hình xuất khẩu và khả năng xuất khẩu của từng doanh nghiệp và toàn ngành
- Thông tin về các đối thủ cạnh tranh
- Thông tin về các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc thế giới, cũng như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, và sự tăng giảm tỷ giá hối đoái.
e. Một số giải pháp khác
Ngoài những giải pháp cụ thể đã nêu trên, Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp khác để thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường EU, đó là:
* Đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, nhanh chóng trở thành thành viên của WTO để tiến tới được xoá bỏ hạn ngạch.
Như chúng ta đã biết, theo kế hoạch đến năm 2005, EU sẽ xoá bỏ hoàn toàn hạn ngạch nhập khẩu hàng may mặc đối với các nước là thành viên của WTO. Vì vậy, việc nỗ lực đàm phán và thực hiện các điều kiện để trở thành thành viên của WTO đang là điều hết sức cần thiết đối với chúng ta hiện nay.
Muốn đạt được điều này, Việt Nam cần phải đẩy nhanh hơn nữa CNH – HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, xoá bỏ những sự phân biệt đối xử, các hạn chế số lượng và các hình thức bảo hộ không phù hợp với thỏa thuận chung của WTO..
Việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ giúp chho khả năng cạnh tranh về hàng may mặc với Trung Quốc được ngang bằng hơn, vì hiện nay, ngoài những ưu thế về nguyên vật liệu, máy móc thiết bị,.. Trung Quốc đã là thành viên của WTO, nên những ưu đãi về hạn ngạch trên thị trương EU hiện nay Trung Quốc đã được hưởng.
* Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng các nhà thiết kế mẫu theo hướng mở các lớp tập huấn, mời các chuyên gia trong và ngoài nước giảng dạy và gửi đi đào tạo chính quy ở nước ngoài để có các nhà thiết kế mẫu chuyên nghiệp có trình độ, đủ năng lực đáp ứng cho nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời tăng cường đầu tư cho các trường đào tạo công nhân ngành may, chú trọng đào tạo theo hướng tiêu chuẩn hoá các thao tác để nâng cao kỹ năng và hiệu suất sử dụng thiết bị của công nhân để công nhân may Việt Nam có trình độ và năng suất lao động ngang tầm với các nước trong khu vực.
Hiện nay, số lượng những nhà thiết kế chuyên nghiệp có trình độ tay nghề ở nước ta đã tăng khá nhanh so với các năm về trước nhưng số lượng các nhà thiế kế này chưa nhiều; thiết kế mẫu thời trang đã được coi là một nghề, song những nhà thiết kế mẫu này cũng chưa thực sự có “đất” để thể hiện và hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực may mặc đều chưa có bộ phận chuyên thiết kế mẫu, do vậy việc đào tạo, bồi dưỡng các nhà thiết kế mẫu trong thời gian tới là việc làm rất cần thiết. Đặc biệt, EU là thị trường có nhu cầu về hàng may mặc rất lớn, họ thích tiêu dùng sản phẩm có mẫu mốt phong phú và luôn được cải tiến, đổi mới nên việc đào tạo và phát triển các nhà tạo mẫu là giải pháp quan trọng để thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của nước ta sang thị trường này.
mục lục
Kết luận
Hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU ở Công ty may Chiến Thắng hiện nay thực sự đang là một vấn đề cần thiết. Việc đẩy mạnh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng may mặc nói riêng cần phải có những giải pháp đồng bộ từ Nhà nước tới các doanh nghiệp.
Mặc dù thời gian thực tập tại Công ty ngắn và trình độ hiểu biết có hạn, nhưng dưới sự hướng dẫn tận tình của cô Nguyễn Thị Xuân Hương, đề tài này cũng đóng góp một phần nhỏ bé vào việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty, đó là:
Đề tài đã hệ thống hoá được hệ thống lý luận về xuất khẩu hàng may mặc. Hơn nữa, thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu và xuất khẩu sang thị trường EU, em đã đưa ra được những điểm mạnh, điểm yếu của Công ty khi tham gia vào thị trường quốc tế. Nhờ đó, những giải pháp đã nêu trong đề tài mang tính sát thực và phù hợp với tình hình hiện nay của Công ty.
Với những giải pháp nêu trên, em hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Công ty sang thị trường EU trong thời gian tới.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Sách:
- Thúc đẩy quan hệ Thương mại Đầu tư giữa Liên hiệp Châu Âu và Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI - Bùi Huy Khoát - NXB KHXH HN năm 2001.
- Giao dịch và thanh toán TMQT - PGS.TS. Nguyễn Duy Bột
- Quản trị DNTM - PGS.PTS. Hoàng Minh Đường, PTS. Nguyễn Thừa Lộc - NXB GD.
- Quản trị KD XNK - PGS. TS. Trần Chí Thành - NXB Thống kê HN 2002
- Thị trường EU và khả năng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam - PGS.TS. Trần Chí Thành.
- Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - PGS.Vũ Hữu Tửu - NXB GD
- Niên giám TK 2002 - NXB TKHN
2. Sách báo, Tạp chí:
- Tạp chí Kinh tế và phát triển các số 58/2002, 2/03
- Kinh tế và dự báo 2/01, 2/02
- Nghiên cứu Châu Âu số 3, 5, 6/2001; 1,2,4,6/2002, 6/2003, 1/2004
- Những vấn đề kinh tế thế giới 1,10,12/2003; 1/2004
- Tạp chí Ngoại thương 8,18/2003; 2/2004
- Tạp chí Phát triển Kinh tế 1,2,4/2004
- Thời báo Kinh tế Việt Nam 75/2002; 10,176,182/2003; 29, 48,72,79/2004
- Tài chính Doanh nghiệp 4/2003, 5/2004
- Thương mại 3+4/2002; 7/2002; 3+4+5/2004; 8,42/2004
- Thương nghiệp Thị trường Việt Nam 10/2002; 2,6,10/2003; 3/2004
3. Báo cáo của các phòng, ban thuộc Công ty may Chiến Thắng
4. Internet
www. vn economy.com.vn
www. mot.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29284.doc