Càng có nhiều loại chứng khoán thì khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư càng dễ dàng, sự lựa chọn không hạn chế nếu công ty, nhà đầu tư nào có đủ khả năng về mặt tài chính.
Như đã nêu ở trên thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh có những đặc tính cực kỳ hấp dẫn. Nhưng thị trường Việt Nam chưa thấy xuất hiện. Để chuẩn bị cho sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh chính phủ cần nghiên cứu, điều chỉnh để thị trường chứng khoán Việt Nam chấp nhận được loại chứng khoán này.
Đồng thời cũng nên tạo ra một thị trường trái phiếu chuyên biệt đảm bảo cho việc đầu tư dễ dàng hơn. Nhà đầu tư cũng như chuyên viên chứng khoán nhìn thấy được sự giao dịch dễ dàng, mở rộng danh mục đầu tư ra các công cụ chứng khoán khác, giảm thiểu rủi ro hệ thống.
Ngoài ra, phải quản lý thị trường OTC để tránh sự hoạt động không kiểm soát như hiện nay gây ra những tác động xấu đến thị trường.
Tóm lại những kiến nghị đưa ra là đều nhằm mục tiêu ổn định thị trường chứng khoán trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn thông qua việc tác động vào nhà đầu tư, vào trực tiếp thị trường, các công ty chứng khoán.
74 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1701 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty cổ phần chứng khoán An Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông hiểu.
Giải trình với cơ quan kiểm toán, cơ quan thuế nhà nước về những khoản chi tiêu, thu được trong hoạt động kinh doanh của công ty thời gian qua.
Bảo mật hồ sơ, tài liệu thông tin liên quan đến công tác kiểm tra, thanh tra vụ việc theo quy định; thực hiện quản lý thông tin và lập các báo cáo về kiểm tra nội bộ theo quy định.
Tham gia đóng góp ý kiến và có những kiến nghị về mặt luật pháp đến Tổng giám đốc công ty, giải quyết khiếu nại trong phạm vi công ty.
Phòng kiểm soát nội bộ giám sát hoạt động HDQT, tổng giám đốc trong quá trình quản lý điều hành. Có văn bản thông báo cho HDQT những hành vi vi phạm và yêu cầu phải chấm dứt.
* Phòng Kế toán tài chính.
Kiểm tra các khoản tiền đi, khoản tiền về của công ty từng ngày một. Thông báo nhu cầu về tiền với phòng tự doanh để phòng này cân đối trước khi mang đi gửi, tránh tình trạng mất khả năng thanh toán.
Kiểm tra, kiểm soát tính hợp lệ của các chứng từ, hóa đơn phát sinh trong ngày, tháng, năm.
Tổng hợp và lưu trữ hồ sơ tài liệu về hạch toán, kế toán, quyết toán và các báo cáo theo quy định.
Chấp hành các chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề, những quy định về an toàn, định mức tồn quỹ.
Xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu, chi tài chính, quỹ lương cho các phòng ban, và các chi nhánh của công ty.
2.1.4. Tình hình hoạt động của Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình.
2.1.4.1. Hoạt động tài chính của công ty.
Khi mà nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ và cũng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO thì thị trường chứng khoán ngày càng có những bước phát triển mới. Rất nhiều công ty chứng khoán ra đời và cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt. Trong số những công ty đó có Công ty cổ phần chứng khoán An Bình. Mặc dù mới thành lập trong thời gian gần đây (tháng 11 - 2006) cũng đã có sự phát triển ở một vài điểm. Trước hết hãy xem xét về vấn đề tài chính công ty, về doanh thu đạt được.
Chỉ trong vòng 4 tháng kể từ ngày thành lập công ty đã tăng được vốn lên 330 tỷ đồng gấp hơn 6 lần so với vốn điều lệ ban đầu (50 tỷ đồng). Đây có thể nói là sự thành công của công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình. Có được sự tăng trưởng này là do thị trường chứng khoán Việt Nam vào thời điểm đó đang phát triển khá mạnh, nhiều nhà đầu tư tham gia làm cho số lượng người giao dịch tại sàn lớn. Việc tăng vốn điều lệ cũng là cách để công ty có thể phục vụ khách hàng tốt hơn nữa, tiềm lực vốn cho phát triển hoạt động của công ty cũng tăng lên.
Theo như báo cáo kết quả kinh doanh phía dưới đây thì có một điều đó là Công ty chưa phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp vì đang trong thời gian được miễn giảm. Lợi nhuận sau thuế của công ty chiếm 43.47% doanh thu từ hoạt động kinh doanh. Đây chính là tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của công ty, chỉ tiêu này phản ánh việc để kiếm được một đồng lợi nhuận thì mức doanh thu phải đạt được là bao nhiêu. So với SSI một công ty chứng khoán lâu đời có tỷ suất này là 66% thì hoạt động của Công ty An Bình tạm ổn, có nghĩa các khoản trừ đi với mỗi đồng doanh thu chiếm hơn 50%.
Bảng 3: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán An Bình năm 2007
Đơn vị: đồng
STT
Chỉ tiêu
Lượng
Tỷ lệ
1
Doanh thu thuần
136,979,772,715
99.15%
2
Thu lãi đầu tư
1,179,746,000
0.85%
3
Doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán và lãi đầu tư
138,159,518,715
100.00%
4
Chi phí hoạt động kinh doanh chứng khoán
45,113,716,555
32.65%
5
Lợi nhuận gộp
93,045,802,160
67.35%
6
Chi phí quản lý doanh nghiệp
33,017,673,294
23.90%
7
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chứng khoán
60,028,128,866
43.45%
8
Lợi nhuận ngoài hoạt động kinh doanh
35,458,318
0.03%
9
Tổng lợi nhuận trước thuế
60,063,587,184
43.47%
10
Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
-
0.00%
11
Lợi nhuận sau thuế
60,063,587,184
43.47%
(Nguồn: báo cáo tài chính năm 2007 của công ty Chứng khoán An Bình)
Chi phí hoạt động khá cao, có thể thấy một đồng doanh thu được tạo ra thì cần 0.33 đồng chi phí, tức chi phí xấp xỉ 1/3 doanh thu, hơi nhiều vì không phải công ty chỉ mất chi phí này mà còn có chi phí vận hành và quản lý doanh nghiệp, hai khoản này chiếm hơn 1 nửa doanh thu của công ty trong một năm. Nếu phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp thì thật sự công ty không hoạt động hiệu quả chút nào.
Chỉ tiêu đáng quan tâm hơn cả là ROE đo lường mức lợi nhuận trên một đồng vốn cổ đông. Tính sơ qua ta có:
ROE = lợi nhuận kinh doanh sau thuế/bình quân vốn chủ sở hữu trong năm =27.36% , chỉ số này lớn hơn 15% là đạt, công ty có ROE càng cao hoạt động càng hiệu quả, đây là chỉ tiêu khá quan trọng khi đánh giá khả năng sinh lời của một công ty.
2.1.4.2. Tình hình các hoạt động khác của công ty.
Mặc dù mới thành lập không lâu song công ty đã có mạng lưới rộng khắp trong cả nước với số lượng nhân viên ngày càng tăng mạnh. Tính đến thời điểm 24/12/2007 công ty có khoảng gần 200 nhân viên đều có hiểu biết cơ bản về chứng khoán. Có khoảng 22 nhân viên chiếm 16% tổng số nhân viên công ty đã từng đi du học ở các nước phát triển như: Pháp, Hà Lan, Anh, Mỹ… Cả công ty có 1 người có bằng tiến sĩ, 16 người có bằng thạc sĩ, còn lại đều là cử nhân kinh tế hoặc các ngành quản trị kinh doanh, luật kinh tế, tài chính ngân hàng, kế toán. Các nhân viên có một số người đã từng giữ các chức cao trong các công ty khác như Citibank, techcombank, Habubank, Công ty chứng khoán Đại Việt…
Tại trụ sở chính của Công ty Cổ phần Chứng khoán An bình hiện có 12 phòng ban với 130 nhân viên phân bố tại các tầng 23, 22, 4, 1 của toà nhà 101 Láng Hạ - Hà Nội; các phòng thuộc 3 khối: nghiệp vụ, môi giới kinh doanh và khối hỗ trợ. Phòng môi giới và giao dịch chứng khoán hiện có nhiều nhân viên nhất công ty với hơn 12 người. còn lại trung bình mỗi phòng có từ 6 - 7 nhân viên.
Công ty đang muốn mở rộng phạm vi hoạt động nên thành lập rất nhiều chi nhánh nên cần một đội ngũ nhân viên có chuyên môn. Vì thế bộ phận nhân sự của công ty đang gấp rút tuyển chọn nhân viên cho các vị trí còn thiếu. Cơ chế tuyển người trong công ty là: phải trải qua một bài kiểm tra dịch tiếng Anh - tiếng Việt, một bài kiểm tra về hiểu biết chứng khoán, và một bài phỏng vấn với người có trách nhiệm. Nhưng để được vào vòng này bạn cần phải qua bước sơ tuyển ban đầu bằng việc gửi hồ sơ.
Công ty cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình tuyển người. Vì một thị trường chứng khoán mới bước đầu phát triển như hiện nay thì đội ngũ nhân viên mà có kinh nghiệm trước đó là khan hiếm. Khi tuyển nhân viên về thì công ty phải đào tạo từ đầu rất tốn kém chi phí. Sự tranh giành nhân tài giữa các công ty cũng rất gay gắt.
Thiếu người nên công ty có chính sách đó là tuyển sinh viên vào thực tập đào tạo qua để làm việc, tạm thời giải quyết vấn đề thiếu hụt trong thời gian ngắn. Sinh viên trở thành nhân viên tạm thời của công ty trong thời gian này, từ đó có thể học hỏi được chút ít kinh nghiệm trong khi làm việc ở đây. Đây là một đóng góp đáng kể và rất có ích cho sinh viên sau này.
Hoạt động quan hệ công chúng của công ty không có nhiều điểm đáng chú ý lắm. Công ty chỉ có một vài quảng cáo trên báo chí, trang web thì chưa được cập nhập thường xuyên và chưa hoàn thiện, một vài thông tin của công ty chưa được đưa ra như hệ thống phòng ban, từng bước tiến trong thời gian qua, những thành tựu. Chưa quảng cáo rộng rãi, kế hoạch phát triển thương hiệu chưa thực sự có hiệu quả. Số lượng người đến giao dịch tại sàn chưa cao. Mặc dù cũng có tổ chức một số chương trình như phát thưởng cho khách hàng lâu năm, khách hàng lớn của công ty vào dịp năm mới, kỷ niệm thành lập…
Công ty có quan hệ kinh doanh với một số tổ chức lớn như: ngân hàng quốc tế, Ngân hàng TMCP Quân Đội, Ngân hàng Sài gòn - Hà nội… Hiện công ty có 100 000 tài khoản khách hàng, đã tổ chức thành công nhiều đợt phát hành cho các doanh nghiệp và công ty khác như: phát hành thành công thêm 1000 cổ phiếu cho công ty EVN.
Công ty trang bị hệ thống thiết bị hiện đại. Mọi nhân viên trong công ty đều có máy điện thoại bàn riêng, tùy theo tính chất công việc mỗi người hoặc có máy tính xách tay hoặc máy tính bàn. Cả công ty nối mạng internet, wifi. Công ty còn đầu tư hệ thống phân tích Reuters, là hệ thống phân tích chất lượng cao, nhưng bù lại chi phí vận hành thì cũng khá cao. Có 3 bảng điện tử phục vụ nhà đầu tư đến giao dịch và 2 bảng dùng cho nhà đầu tư đến tham gia dịch vụ tư vấn.
Có thể nói trong năm qua công ty chứng khoán An Bình đã từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường, đã thu được một số thành tựu đáng kể. Công ty sẽ còn tiến xa hơn nữa trong lĩnh vực mới này, kế hoạch đến năm 2008 công ty cố gắng tăng vốn điều lệ lên là 1200 tỷ đồng, trở thành một công ty đi đầu trong làng chứng khoán hiện nay, trong tương lai. Công ty cũng đang cố gắng phát triển mảng môi giới chứng khoán vì nó là nơi kiếm ra nhiều lợi nhuận trong thời gian lâu dài, ổn định.
2.2. Hoạt động tự doanh của Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình.
2.2.1. Kết quả đạt được.
Trong thời gian đầu mới thành lập công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh, chưa có kinh nghiệm nhiều trong mảng môi giới, tư vấn thì hoạt động tự doanh là hoạt động có đóng góp quan trọng. Nhưng phải hiểu là đây không thể là hoạt động chủ đạo lâu dài được vì nó phụ thuộc nhiều vào biến động thị trường nên chứa đầy rủi ro có thể dẫn đến phá sản.
Trong tổng doanh thu của công ty vào năm 2007 do các hoạt động của công ty mang lại có sự cách biệt khá lớn. Nhiều nhất phải nói đó là mảng tự doanh của công ty với hơn 98 tỷ đồng chiếm gần 72 % tổng doanh thu. Ta có:
Bảng 4: Bảng tỷ lệ % doanh thu các bộ phận của công ty trong năm 2007
STT
Chỉ tiêu
Lượng
Tỷ lệ
1
Môi giới chứng khoán
21,004,779,126
15.334%
2
Tự doanh chứng khoán
98,236,240,213
71.716%
3
Bảo lãnh phát hành chứng khoán
6,740,617,752
4.921%
4
Tư vấn tài chính doanh nghiệp
318,000,000
0.232%
5
Lưu ký chứng khoán
168,000,000
0.123%
6
Doanh thu về vốn kinh doanh
10,512,135,624
7.674%
Bảng 5: Bảng tỷ lệ doanh thu
Ta thấy rằng tự doanh là nghiệp vụ nuôi sống các công ty chứng khoán trong thời điểm hiện nay. Điều này chứng tỏ hoạt động tự doanh của công ty này phát triển mạnh hơn các mảng khác rất nhiều. Một cái bánh khổng lồ mà tự doanh đã chiếm một phần lớn.
Hiện công ty cổ phần Chứng khoán An Bình tiến hành hoạt động tự doanh ở hai mảng chủ yếu là kinh doanh chứng khoán ngắn hạn, dài hạn và hoạt động giao dịch Repo chứng khoán. Hoạt động kinh doanh chứng khoán cũng giống như là đầu tư chứng khoán. Các thành viên phòng tự doanh tiến hành mua bán chứng khoán trên thị trường như những nhà đầu tư thật sự.
Hoạt động Repo là mua bán lại các chứng khoán có kỳ hạn trên thị trường tài chính. Ở Việt Nam hiện nay đây là hình thức giao dịch mà nhà đầu tư có thể tiến hành mua bán chứng khoán của mình trong khoảng thời gian thỏa thuận nhất định với công ty chứng khoán. Hoạt động này rất khác với hoạt động cầm cố chứng khoán vì người đầu tư có thể mua lại chứng khoán của mình khi trả đủ tiền mua và lãi suất vào thời điểm hết hạn “Hợp đồng mua bán và mua bán lại chứng khoán”. Trong thời gian Repo người đầu tư vẫn được nhận quyền liên quan đến chứng khoán đã chuyển nhượng của mình nhưng nó do công ty chứng khoán giữ cho đến lúc tất toán hợp đồng Repo.
Do hoạt động Repo có những ưu điểm riêng nên nhà đầu tư rất thích hình thức giao dịch này. Từ năm 2007, Công ty cổ phần chứng khoán An Bình đã ký kết nhiều hợp đồng Repo với khách hàng. Danh mục chứng khoán Repo của công ty cũng khá đa dạng và phong phú. Công ty đã nhận cầm cố những cổ phiếu của các công ty sau như: Cổ phiếu ABB, công ty bia Thanh Hóa, GELEXIMCO, S.P.M, CTCP Dầu thực vật An Giang, TCB, HBB, CTCP Đường Ninh Hòa, CTCP Sân Gôn Ngôi sao Chí Linh, HDB, HSC, Ngân hàng TMCP Kỹ Thương…
Trong năm 2007, công ty đã thực hiện khoảng 30 hợp đồng Repo cho khách hàng, thời hạn của Hợp đồng thường là từ 6 tháng trở xuống, với giá trị hợp đồng từ 100 triệu đến hàng chục tỷ đồng tùy vào số lượng chứng khoán đem Repo của khách hàng và đánh giá của phòng Phân tích về giá trị thị trường của cổ phiếu Repo trong thời điểm đó. Tổng giá trị Repo lên đến con số hơn 200 tỷ đồng. Nhiều khách hàng còn tiếp tục Repo khi hết thời hạn, doanh thu thu được từ hoạt động giao dịch này cũng đạt hơn chục tỷ đồng.
Vào thời điểm hiện nay, công ty đã tất toán hơn chục bộ hồ sơ với giá trị khoảng chục tỷ đồng. Các khoản phải thu chứng khoán Repo cho đến cuối năm 2007 là gần 187 tỷ đồng. Hoạt động Repo là hoạt động nâng cao tính thanh khoản cho chứng khoán và do thời hạn hợp đồng ngắn, đảm bảo an toàn cho Công ty chứng khoán. Vì thế hoạt động này trong công ty được tập trung đầu tư. Thêm vào đó cũng do hạn chế trong việc vay vốn đối với nhà đầu tư nên nhà đầu tư cần tiền thì chỉ có cách này là có lợi nhất.
Mặt khác hoạt động kinh doanh chứng khoán cũng tạo ra nhiều doanh thu trong năm 2007. Trong năm này, thị trường chứng khoán có những diễn biến có lợi là cơ hội cho công ty kiếm được doanh thu khá. Với sự biến động giá của chứng khoán trên thị trường theo chiều hướng có lợi, cộng thêm việc tiếp cận với thông tin thay đổi của nhà đầu tư nước ngoài, xu hướng của thị trường, công ty đã có lợi hơn nhà đầu tư rất nhiều khi tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán.
Công ty đã tham gia đấu giá mua cổ phiếu chưa niêm yết của một số công ty như công ty Sông Đà số 2, công ty cổ phần Sông Đà 505 rất thành công, đã mua được với giá rẻ. Do quá trình hoạt động tự doanh công ty đã nắm giữ một số lượng cổ phiếu niêm yết có giá trị gần 190 tỷ đồng gồm có khoảng 20 mã chứng khoán, 40 tỷ đồng cổ phiếu chưa niêm yết gồm An Bình Bank, CTCP Du lịch Việt Nam, VINACONEX, và 61 tỷ đồng quyền mua cổ phiếu trong quyền này có cả quyền của những cổ phiếu nhận Repo được thống kê trong bảng sau:
Bảng 6: Tỷ lệ đầu tư của công ty trong năm 2007
Giá trị (đồng)
Đầu tư chứng khoán ngắn hạn
188,826,091,355
1. Cổ phiếu công ty niêm yết
87,112,048,900
2. Cổ phiếu chưa niêm yết
40,524,979,342
3. Quyền mua
61,189,063,113
Đầu tư dài hạn vào công ty CP Giấy An Hòa
60,000,000,000
Tổng số đầu tư chứng khoán
248,826,091,355
(nguồn báo cáo tài chính của công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình năm 2007)
Ngoài ra công ty còn tham gia góp vốn vào công ty CP Giấy An Hòa với tổng giá trị góp vốn là 60 tỷ đồng. Vào cuối năm 2007 công ty đã sử dụng hơn 200 tỷ đồng vốn đầu tư vào chứng khoán của bộ phận tự doanh.
Bảng 7: Các mã chứng khoán niêm yết đang nắm giữ
Chứng khoán niêm yết
Số lượng
Chứng khoán niêm yết
Số lượng
ALP
10,000
PNC
204,750
ALT
9,000
PVC
17,800
CAN
840
PVI
30,000
DCC
15,000
SJE
5,000
DXP
173,580
SSI
13,380
FPT
10,980
SSS
2,000
HAI
37,100
STB
144,600
HAP
29,650
TSC
25,900
HAS
206,174
VC2
31,000
KMF
25,000
(nguồn thuyết minh báo cáo tài chính của công ty cổ phần chứng khoán An bình năm 2007)
Với chi phí bỏ ra cho hoạt động tự doanh chứng khoán là 40 tỷ đồng, công ty đã thu được doanh thu từ hoạt động tự doanh là 98 tỷ đồng, với con số này thì có thể coi là hoạt động tạm ổn. Hoạt động này không phải là chiến lược dài hạn của công ty, nhưng hiện nó vẫn là trọng tâm tại các Công ty chứng khoán.
2.2.2. Mặt hạn chế của công ty.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong năm 2007, công ty còn tồn tại những hạn chế nhất định. Thứ nhất là số lượng khách hàng giao dịch Repo ít hơn nếu so với các doanh nghiệp lâu đời khác. Và giá trị tiến hành Repo thường là nhỏ, có ít những hợp đồng lớn tính bằng tiền tỷ. Chi phí đầu tư của công ty bị đội lên, và doanh thu không cao do thị phần ngày càng giảm.
Giá thực hiện giao dịch Repo không cao. Thường thì giá thực hiện Repo bằng ½ giá thị trường của cổ phiếu đó, có công ty sẽ đặt hơn. Vì là cổ phiếu không niêm yết, giá này sẽ do phòng Phân tích của công ty đánh giá. Mỗi công ty có sự đánh giá khác nhau và giá nhận Repo do đó cũng khác nhau. Giá thực hiện của An Bình có cao hơn giá trung bình nhưng cũng vẫn thấp hơn so với một vài công ty chứng khoán khác nên nhiều khách hàng đến đặt vấn đề nhưng rồi lại không thực hiện.
Chất lượng hoạt động tự doanh chưa cao. Hoạt động tự doanh chưa mang lại hiệu quả như mong đợi. Việc xác định và tìm kiếm, tiếp cận với khách hàng còn chưa phát huy được hết. Công ty trong nhiều trường hợp chưa nắm được đúng thời điểm tốt cho việc đầu tư gây ra những khoản lỗ, mặc dù không lớn lắm. Cộng thêm sự e dè trong việc đầu tư khiến công ty đánh mất nhiều cơ hội kiếm lời. Đáng chú ý là trong giai đoạn này nhiều nhà lãnh đạo các công ty lớn cho rằng là thời điểm rất tốt để giải ngân.
Danh mục chứng khoán đầu tư kém đa dạng. Công ty tập trung vào một số mã chứng khoán phổ biến và mạnh trên thị trường, chưa có nhiều thay đổi trong giai đoạn thị trường nhiều biến động như hiện nay. Lúc này việc đầu tư ngắn hạn trong vài ngày có khả năng kiếm được khá nhiều từ khoản chênh lệch mua và bán. Đồng thời đa dạng hóa danh mục đầu tư sẽ giúp công ty giảm thiểu được những tác động tiêu cực từ việc thị trường hay mã chứng khoán nào đó biến động không tốt.
Thị trường diễn ra không như mong đợi cộng với sự mua vào không đúng thời điểm làm cho công ty bị găm vốn làm giảm khả năng quay vòng tái đầu tư. Hầu hết các mã chứng khoán niêm yết công ty đang nắm giữ vào thời điểm này đều giảm giá khoảng 20 -30% so với thời điểm trước. Nhận thấy việc bán chứng khoán vào sẽ tạo ra những khoản lỗ lớn nên công ty vẫn giữ khối lượng cổ phiếu niêm yết khá lớn với tổng giá trị là 83 tỷ đồng.
2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế.
2.1.3.1. Nguyên nhân khách quan.
Có thể tóm lại nguyên nhân chính ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình là sự biến động của thị trường chứng khoán và sự biến động của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2007.
Điều đầu tiên ta thấy là thị trường chứng khoán Việt Nam đang trên đà sụt giảm. Tình hình suy giảm này chưa có dấu hiệu phục hồi. Vào lúc công ty thành lập cuối năm 2006 chỉ số VN-INDEX hơn 1200 điểm nhưng cuối năm 2007 chỉ số này chỉ còn khoảng 900 điểm. Lại vào chính thời điểm biến động này công ty bắt đầu đưa hoạt động tự doanh vào. Danh mục chứng khoán được thiết lập. Những khoản đầu tư dài hạn vào năm 2007 đã không hiệu quả thì đến nay càng không hiệu quả do chỉ số VN-INDEX trên thị trường còn rớt xuống thảm hại còn hơn 500 điểm. Điều này đồng nghĩa với việc các mã chứng khoán trên thị trường cũng rớt xuống làm công ty đang bị mất khá nhiều so với khoản đầu tư mà mình bỏ ra vào đầu năm.
Cuối năm 2007 nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng lạm phát nguyên nhân chủ yếu là do luồng tiền nước ngoài khối lượng lớn chảy vào. Đầu năm 2008 lạm phát đã lên đến hai con số 14,1%. Tỷ trọng chi phí cuộc sống trong thu nhập của người dân tăng cao, tiết kiệm để đầu tư không còn nhiều. Với tỷ lệ lạm phát cao như thế chính phủ tìm mọi cách thắt chặt chính sách tiền tệ làm cho lượng tiền trong lưu thông giảm, lãi suất tăng cao nhà đầu tư mất niềm tin vào sự tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới. Thị trường chứng khoán trở nên ảm đạm, giá trị thị trường của chứng khoán giảm làm cho tự doanh lỗ nặng.
Khi Việt Nam tham gia vào WTO một cơ hội nữa lại mở ra, thị trường chứng khoán từng bước phát triển do có nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài. Các công ty chứng khoán đua nhau xin phép thành lập để nắm bắt cơ hội này từ 23 công ty đầu năm 2007 lên 78 công ty vào cuối năm 2007, 85 công ty vào thời điểm này. Với số lượng công ty lớn như thế cộng thêm việc có vài công ty chứng khoán lâu đời lại chiếm đến 80% thị phần khiến cho việc cạnh tranh ngày càng gay gắt, thị trường bị chia nhỏ thêm. Khách hàng có nhu cầu giao dịch Repo có nhiều lựa chọn, họ sẽ lựa chọn công ty chứng khoán có giá thực hiện cao nhất. Khiến cho các công ty đã phải cạnh tranh về khách hàng lại còn phải cạnh tranh về chất lượng và chi phí thực hiện.
Chính phủ có ra chỉ thị 03 về việc cho vay đối với nhà đầu tư chứng khoán, việc cho vay phải đảm bảo 3% trên tổng dư nợ tín dụng. Chỉ thị 03 thắt chặt quy định với việc cho vay đầu tư chứng khoán làm nhà đầu tư khó vay tiền với số lượng lớn để đầu tư vào chứng khoán. Số lượng nhà đầu tư trên sàn giao dịch giảm, khối lượng giao dịch giảm, giá trị chứng khoán trên thị trường giảm. Làm cho giá trị danh mục đầu tư của bộ phận tự doanh cũng theo đó mà giảm theo. Nhưng chỉ thị 03 cũng là cơ hội cho công ty thu nhiều lợi trong mảng Repo. Khi mà việc vay tiền trở lên khó khăn, nhà đầu tư muốn có tiền đầu tư họ lại tìm đến công ty chứng khoán Repo cổ phiếu hiện có của họ. Làm cho số lượng khách hàng tăng lên.
2.1.3.2. Nguyên nhân chủ quan.
Ngày càng nhiều các công ty chứng khoán mới ra đời đòi hỏi số lượng chuyên viên làm việc rất lớn. Nhưng vì mới nổi trong khoảng 2 năm trở lại đây nên những người có hiểu biết về chứng khoán còn hạn chế chứ chưa nói đến là có kinh nghiệm, lành nghề. Hai nguyên nhân trên làm cho nhân lực thiếu trầm trọng. Sự cạnh tranh nhân lực giữa các công ty chứng khoán rất căng thẳng. Việc tuyển dụng vô cùng khó khăn. Vì thế đội ngũ nhân viên tự doanh của công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình quá ít và còn thiếu kinh nghiệm. Các chuyên viên phải làm việc ở nhiều vị trí khác nhau. Áp lực công việc thì lớn.
Đội ngũ chuyên viên phân tích có trình độ chưa sâu. Trong thời gian qua ta có thể nhận thấy rằng nhiều nhận định của các công ty chứng khoán về thị trường còn chung chung, mang nặng tính lý thuyết. Đó là do chuyên viên phân tích của công ty chưa áp dụng được lý thuyết vào thực tiến. Bên cạnh đó những chuyên viên có kinh nghiệm, làm việc có hiệu quả thì lại có xu hướng chuyển công tác do các công ty chứng khoán khác cũng kế hoạch thu hút nhân tài hấp dẫn hơn. Trung bình các chuyên viên chỉ làm trong khoảng một năm là thôi việc, chuyển sang công ty khác làm việc.
Công ty chưa có chiến lược đầu tư cụ thể có hiệu quả trong dài hạn. Việc khai thác tìm kiếm khách hàng chưa có, hầu hết là do khách hàng tự tìm đến đề nghị thực hiện đầu tư. Có hiện tượng này là do đội ngũ phân tích thị trường của công ty chưa đủ khả năng đánh giá những cơ hội, đánh giá sự biến động của thị trường, và cũng do là thị trường gần đây biến đổi thất thường nên công ty khó xoay sở.
Còn do dự trong việc đầu tư chứng khoán. Trong những thời điểm có thể nói là mua vào tốt thì ban lãnh đạo công ty không dám đầu tư thêm vốn cho hoạt động tự doanh do lo sợ không rút vốn ra được. Mà biến động thị trường là không lường hết nên việc đầu tư đòi hỏi dựa trên cơ sở nghiên cứu từng mã cổ phiếu điều này là rất khó khăn, không thể đầu tư ồ ạt. Sự chần chừ trong việc đầu tư đã bỏ lỡ nhiều cơ hội lớn.
Thiếu sự phối hợp trong hoạt động, chưa có chuyên gia nước ngoài dày dạn kinh nghiệm góp sức trong hoạt động tự doanh. Họ có thể là những nhà đào tạo giỏi cho đội ngũ nhân viên tự doanh của công ty. Bởi nước họ hoạt động trong lĩnh vực này lâu đời, kinh nghiệm phân tích nghiên cứu có hệ thống và rất hiệu quả.
Ngoài ra do sinh sau đẻ muộn nên công ty có cơ hội học hỏi kinh nghiệm học tập của một số công ty chứng khoán đi trước về cách thức tổ chức hoạt động tự doanh và tham khảo chiến lược phát triển hoạt động tự doanh của một vài công ty hàng đầu. Nếu có cơ chế thu hút nhân tài hấp dẫn thì công ty chứng khoán An Bình cũng sẽ thu hút được chuyên viên có kinh nghiệm của các công ty chứng khoán khác.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN AN BÌNH
3.1. Phương hướng hoạt động của công ty cổ phần chứng khoán An Bình trong thời gian tới.
Trong thời điểm hiện tại, các công ty chứng khoán đang hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam phải tìm kiếm cho mình cơ hội để phát triển và tăng trưởng trong dài hạn. Với một chiến lược kinh doanh ngắn hạn thì mức độ rủi ro là vô cùng lớn. Thị trường đang biến động khó lường, theo như đánh giá thì đây là quá trình thị trường đào thải những công ty làm ăn không hiệu quả, chất lượng hoạt động kém.
Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình cũng chịu sự tác động của quá trình đào thải này, nếu không khẳng định được mình thì khó có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Tóm tắt qua về hoàn cảnh ra đời của Công ty Cổ phần chứng khoán An Bình, ta thấy Công ty đã hoạt động được khoảng hơn một năm nay, cũng là công ty thành lập trong thời điểm mà thị trường chứng khoán phát triển “nóng”. Nhiều công ty chứng khoán mới cũng ra đời trong hoàn cảnh này, cạnh tranh về thị phần gay gắt đồng thời là sự biến động tiêu cực của nền kinh tế làm các công ty làm ăn không hiệu quả, chất lượng các hoạt động kinh doanh còn hạn chế. Trong hơn một năm hoạt động, Công ty Cổ phần Chứng khán An Bình đã có thành công đáng kể, là công ty đầu tiên có đại lý nhập lệnh trên toàn quốc.
Năm 2007 công ty đạt lợi nhuận 60 tỷ đồng và công ty hy vọng trong năm 2008 công ty đạt lợi nhuận 180 tỷ đồng gấp 3 lần so với năm 2007. Công ty mong muốn mang đến nghiệp vụ chuyên nghiệp cho khách hàng của công ty. Tăng uy tín, từng bước khẳng định thương hiệu đến nhà đầu tư. Tăng số lượng tài khoản giao dịch từ 100.000 tài khoản lên 300.000 tài khoản giao dịch, tăng số lượng hợp đồng sử dụng dịch vụ tư vấn, môi giới của công ty. Trở thành công ty có thể “Kết nối thành công” như công ty đã khẳng định khi mới thành lập.
Khó khăn trước mắt còn rất lớn, những hoạt động trong dài hạn như: môi giới, tư vấn phải cần có thời gian để hoàn thiện, phát triển. Vì với kinh nghiệm tổ chức còn non trẻ, đội ngũ cán bộ môi giới tư vấn chưa có khả năng, thị phần thì bị các Công ty chứng khoán sừng sỏ nắm giữ hầu hết. Hoạt động thích hợp nhất trong thời điểm này là hoạt động tự doanh, mặc dù điều này mang lại rủi ro rất cao vì nó chịu sự tác động quá lớn từ phía thị trường. Khẳng định một lần nữa hoạt động tự doanh là trụ cột của công ty, là mục tiêu trong tương lai gần tại công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình.
Năm 2007 công ty có doanh thu từ hoạt động tự doanh là 98 tỷ đồng. Công ty mong rằng năm 2008 công ty sẽ đạt doanh thu cao hơn nữa, gấp đôi năm trước. Trở thành một công ty có hoạt động tự doanh chuyên nghiệp nhất trong các công ty chứng khoán trên thị trường. Có đội ngũ chuyên viên phân tích giàu kinh nghiệm, chuyên nghiệp. Trong mắt nhà đầu tư thì hoạt động Repo tại công ty có uy tín và thủ tục tiến hành nhanh chóng, vấn đề giải ngân không chậm trễ, tăng số lượng hợp đồng thực hiện Repo năm 2008 nên gấp 2 lần năm trước.
Dự kiến trong năm 2008 công ty muốn đội ngũ chuyên viên tự doanh của công ty tăng lên về cả số lượng lẫn chất lượng. Hầu hết những chuyên viên làm ở bộ phận phân tích sẽ có chứng chỉ CFA, một chứng chỉ quốc tế có giá trị cao về phân tích chứng khoán.
Với mong muốn đưa hoạt động tự doanh là hoạt động tạm thời nuôi sống công ty nên công ty rất tập trung vào mảng tự doanh. Trong thời gian gần đây công ty tích cực tuyển thêm người có trình độ, kinh nghiệm, hoặc có thời gian làm việc ở nước ngoài trong lĩnh vực có liên quan bổ trợ cho hoạt động này của công ty.
Tóm lại chiến lược dài hạn của công ty là phát triển hoạt động tư vấn đầu tư, môi giới thành hoạt động chính như ở các nước phát triển trên thế giới, còn hoạt động tự doanh là hoạt động cùng song hành với hoạt động trên của công ty. Phải làm thế bởi về thị trường không ổn định sẽ rất là nguy hiểm nếu chỉ tập trung đầu tư vào một hoạt động chính, phải làm phong phú loại hình hoạt động.
3.2.Giải pháp về phía Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình
3.2.1. Đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Trong thời điểm hiện tại, có một danh mục đầu tư phong phú sẽ làm giảm nguy cơ thua lỗ nặng cho công ty chứng khoán vì từ trước đến nay ta vẫn hay nghe câu ngạn ngữ như này: “Không nên để trứng vào cùng một giỏ”. Trứng mà cho cùng vào một giỏ thì khi rủi ro là mất hết vì thế chứng khoán cũng như thế, nếu chỉ đổ hết tiền vào đầu tư một cổ phiếu công ty thì nếu công ty đó làm ăn không tốt, phá sản thì không có gì để bù đắp rủi ro mất mát do cổ phiếu đó tạo ra.
Danh mục chứng khoán hiện giờ của công ty gồm có cổ phiếu chưa niêm yết, cổ phiếu niêm yết, quyền mua mà không có trái phiếu. Và điều này làm cho công ty gặp khó khăn khi thị trường đi xuống, giá chứng khoán trong danh mục đầu tư giảm liên tục với tốc độ nhanh làm công ty lỗ một khoản lớn. Bởi theo như phân tích của các chuyên gia thì trái phiếu sẽ mất giá chậm hơn cổ phiếu khi thị trường chứng khoán giảm.
Mỗi loại chứng khoán có những đặc điểm riêng và sẽ thích hợp trong những hoàn cảnh nhất định. Trái phiếu là công cụ nợ tin cậy, sẽ được trả trước cổ phiếu khi tổ chức phát hành thanh lý. Trong tình trạng thị trường biến động, giảm sâu thì trái phiếu là chứng khoán đảm bảo khả năng thu lợi nhuận ổn định cho công ty do trái phiêu nào cũng có khoản lãi suất cố định. Đa dạng hóa giỏ hàng hóa sẽ tránh được những rủi ro hàng loạt. Công ty có thể nghiên cứu thêm về chứng khoán phái sinh vì đây là loại chứng khoán mà đang được nghiên cứu để phát triển, loại chứng khoán này đang được nghiên cứu vì những đặc tính siêu việt của nó.
3.2.2. Công ty nên có chính sách cải thiện chính sách lương thưởng, đãi ngộ thu hút chuyên viên có kinh nghiệm.
Tầm quan trọng của đội ngũ chuyên viên phân tích những biến động của thị trường, chuyên viên đầu tư chứng khoán ngày càng quan trọng. Công ty kinh doanh hiệu quả hay không phần quyết định lớn nhất ở chính người lãnh đạo công ty và sau đó là đến chuyên viên làm việc dưới quyền. Trong giai đoạn này, đội ngũ lao động có trình độ, giàu kinh nghiệm rất thiếu, những người từng có kinh nghiệm trong lĩnh vực chứng khoán, hay đã từng làm trong công ty chứng khoán như SSI, TSC… thì không dễ chấp nhận vào công ty chứng khoán nhỏ với chính sách đãi ngộ không thỏa đáng.
Công ty hiện đang thiếu những chuyên viên giỏi, hoạt động tự doanh lại chỉ do một số lượng nhỏ gồm có 6 người làm việc, hoạt động chồng chéo làm cho không hiệu quả. Người lãnh đạo công ty về nghiệp vụ lại mang quá nhiều trọng trách không chia sẻ bớt được trách nhiệm, tinh thần căng thẳng. Công ty nên có chính sách đãi ngộ để thu hút thêm chuyên viên giỏi vào làm, để phụ giúp cho người lãnh đạo bộ phận trong quá trình điều hành và quản lý.
Cuối cùng phải thấy rằng chuyên viên giỏi là người có khả năng tiếp cận khách hàng, thuyết phục họ sử dụng những dịch vụ do công ty mình cung cấp, người đầu tư giỏi là người dự đoán được những biến động của thị trường. Nếu những người giỏi đã làm việc cho công ty rồi thì phải có cách để giữ họ lại làm việc lâu dài bởi xu hướng hiện nay là người giỏi sẽ đi tìm những công việc hấp dẫn, thu hút họ và lương thưởng chế độ, đãi ngộ cao.
Vậy công ty nên tham khảo qua về cách thức đãi ngộ của các công ty khác có giàu kinh nghiệm, tạo môi trường làm việc trong công ty hiện đại, thân thiện, đoàn kết, văn hoá doanh nghiệp tốt. Và đó là sự trao quyền cho nhân viên, chuyên viên theo của công ty để họ thấy rõ trách nhiệm, nhiệm vụ cần hoàn thành, khuyến khích họ tham gia đóng góp ý kiến.
3.2.3. Tăng đầu tư trung và dài hạn của tự doanh chứng khoán của công ty.
Đầu tư ngắn hạn trong thời điểm thị trường biến động là điều không tốt, có thể thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ nếu dự đoán được xu hướng biến động nhưng cũng có thể sẽ lỗ nặng nếu dự đoán sai. Dự đoán thì vẫn là dự đoán, đúng hay không không thể khẳng định chắc chắn được. Dự đoán thì có nhiều phương pháp nhưng phương pháp nào cũng có hạn chế của nó. Mà đầu tư ngắn hạn kiểu lướt sóng sẽ chỉ làm cho thị trường chứng khoán ngày càng suy giảm hơn, càng khó khắc phục được tình trạng tồi tệ này.
Trong thời điểm thị trường không mấy khả quan thì nên đầu tư trung hạn, dài hạn thật sự là bài thuốc hữu hiệu đồng thời cũng không ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán. Vì theo dự báo của chuyên gia trong dài hạn thị trường chứng khoán sẽ phục hồi trở lại, chính phủ không bao giờ để cho thị trường sập cả, họ sẽ tìm cách làm cho nó phục hồi nhưng không phải trong ngắn hạn. Đầu tư trung dài hạn sẽ đảm bảo an toàn hơn nếu “lướt sóng”.
Mặt tích cực của việc công ty chứng khoán đầu tư trung dài hạn đối với thị trường thể hiện rất rõ. Đó là trên thị trường đang thừa nhiều cung hàng hóa, việc tự doanh của công ty không bán chứng khoán ra sẽ giúp cung trên thị trường giảm, thị trường khôi phục, không làm nhà đầu tư mất lòng tin bán tháo theo. Có khả năng thị trường sẽ phục hồi dần dần nếu làm thế.
3.2.4. Từng bước nâng cao trình độ phân tích của nhân viên tự doanh.
Với các nhân viên đã làm việc cho công ty cũng không thể bỏ lơ, ngoài chính sách đãi ngộ lương thưởng ra còn phải giúp họ nâng cao trình độ phân tích, nâng cao khả năng làm việc. Những người quyết định sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của công ty thì cần được đầu tư kiến thức.
Trước đây công ty có tổ chức buổi học về Metastock cho chuyên viên phòng phân tích, đào tạo về cách thức sử dụng Reuters cho chuyên viên tự doanh. Nhưng chưa có buổi hội thảo với người nước ngoài làm việc trong lĩnh vực này. Việc học hỏi từ chuyên gia nước ngoài nơi mà thị trường chứng khoán phát triển hàng trăm năm nay là rất quan trọng. Kinh nghiệm nhiều, kỹ thuật phân tích tốt, kiến thức thực tế nhiều, khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tiễn tốt.
Bên cạnh việc đào tạo chuyên viên của mình, công ty còn có thể sử dụng biện pháp khuyến khích về thưởng cho thành tích đạt được, cho sự đóng góp đối với công ty. Khuyến khích chuyên viên tự doanh nâng cao trình độ, đi học thêm những khoá học nhanh về phân tích, đầu tư. Nếu có điều kiện có thể cử nhân viên công ty đi học những khoá học tại các nước phát triển.
Tóm lại cần phải tổ chức những buổi hổi thảo, cử nhân viên đi học các khóa đào tạo về phân tích, về đầu tư chứng khoán, về cách thức phân tích , những kỹ thuật dùng trong phân tích thị trường, những buổi truyền đạt kinh nghiệm của chuyên gia nước ngoài.
3.3. Một số kiến nghị đối với nhà nước.
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Hiện một số quy định trong luật chứng khoán về hoạt động tự doanh làm công ty chứng khoán đau đầu. Quy định không rõ ràng, không phù hợp có thể dẫn đến việc hoạt động tự doanh của công ty bị phạt bất cứ lúc nào. Như quy định về việc tự doanh không được đặt lệnh ngược lại với lệnh mua hoặc bán của khách hàng giao dịch tại công ty. Đây là quy định không thật sự thích hợp với công ty chứng khoán trong thời điểm này, do hoạt động tự doanh và môi giới không mấy quan hệ với nhau trong cùng một công ty. Và còn vô vàn quy định không phù hợp khác.
Một khung pháp lý chặt chẽ, và phù hợp tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho sự phát triển của thị trường chứng khoán, để thị trường minh bạch, công bằng hơn. Sự chuyển biến tích cực đó có tác động trở lại làm cho nhà đầu tư lạc quan trong kinh doanh, đầu tư nhiều hơn dẫn đến việc thị trường ổn định và tăng trưởng.
Ngược lại thị trường ổn định cũng làm nhà đầu tư cần tiền thực hiện hoạt động của mình, không có tiền mặt họ sẽ cần đến dịch vụ Repo, các chuyên viên tự doanh thực hiện mảng đầu tư chứng khoán cũng đầu tư hiệu quả hơn vì thị trường ổn định, ít biến động.
Nhưng phải khẳng định một điều đây là hiệu quả tạo ra trong dài hạn, trong ngắn hạn thì chưa có dấu hiệu khả quan.
3.3.2. Chính phủ nên cho phép tiếp tục triển khai cho vay kinh doanh chứng khoán đối với các ngân hàng thương mại.
Mới đây siết chặt chỉ thị 03/2007/CT-NHNN về kiểm soát, quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư và kinh doanh chứng khoán đối với ngân hàng thương mại, làm cho ngân hàng định trệ hoạt động. Nhà đầu tư thiếu tiền để đầu tư. Nó lại tác động gián tiếp đến hoạt động tự doanh thông qua việc thị trường giảm số lượng giao dịch, giá trị giao dịch giảm, chỉ số VN-index giảm.
Chỉ thị này cũng làm cho hoạt động Repo có cơ hội nhưng tác động của nó đối với mảng đầu tư lại lớn hơn nhiều vì thu lợi từ đầu tư nhiều hơn rất nhiều so với việc thu phí từ hoạt động Repo. Tại sao? Có một điều có thể trả lời cho lập luận này đó là do số lượng nhà đầu tư có nhu cầu Repo trên thị trường ít, bị cạnh tranh gay gắt. Kiếm được khách hàng với số lượng lớn là rất khó khăn, trong khi nếu thị trường ổn định thì ngoài khoản thu từ đầu tư còn thêm khoản thu từ hoạt động Repo.
Việc nới nỏng chỉ thị này có tác động ngay trong ngắn hạn nhằm cứu thị trường còn có tác động trong lâu dài.
3.3.3. Hạn chế việc thành lập các công ty chứng khoán trong thời gian tới.
Các công ty chứng khoán chỉ trong một năm qua mọc lên như nấm. Công ty nào cũng có cái tên na ná nhau: Việt Á, Đại Á, Nam Á… Các công ty chứng khoán càng ra đời nhiều thì càng có sự cạnh tranh gay gắt hơn nhưng chất lượng các dịch vụ lại không cao, kém đi trông thấy. Các công ty tranh dành nhau thị phần nhỏ bé mà tính trung bình mỗi tháng mỗi công ty chỉ có doanh thu 20 triệu mỗi ngày không đủ để trang trải các khoản nợ.
Đồng thời các công ty hiện nay ra đời là do lợi nhuận, cơ hội nhìn thấy ở hoạt động tự doanh. Cạnh tranh để dành khách hàng thực hiện Repo, cạnh tranh trong việc đầu tư mua chứng khoán có khả năng thanh khoản, chứng khoán có giá trị lâu bền, chứng khoán của công ty mạnh.
Vì vậy phải giảm số lượng các công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường. Để giảm việc cạnh tranh chia nhau “một miếng bánh” nhỏ trong cái bánh thị phần khổng lồ. Quá trình đang diễn ra trên thị trường chứng khoán hiện nay là quá trình đào thải các doanh nghiệp yếu kém, giữ lại những công ty mạnh.
3.3.4. Chính phủ, bộ tài chính không nên can dự quá sâu vào thị trường chứng khoán và hoạt động của các công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán là các pháp nhân có năng lực tài chính tiến hành kinh doanh một cách độc lập. Họ có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh của họ độc lập. Họ chịu sự điều chỉnh của cơ chế thị trường và quy luật giá trị. Vì thế không cần có sự can thiệp sâu, quá cụ thể vào hoạt động của công ty từ phía chính phủ.
Trong khoảng đầu năm nay chính phủ đã ban hành quy định buộc các công ty chứng khoán hạn chế bán chứng khoán trong danh mục mà họ nắm giữ ra ngoài thị trường, để đảm bảo thị trường không thể giảm sâu hơn nữa. Chính vì thế làm cho rất nhiều công ty cảm thấy bất ổn. Những chính sách can thiệp của chính phủ đang làm thị trường có những diễn biến phức tạp và khó đoán hơn.
Việc có bàn tay can thiệp của nhà nước vào thị trường chỉ làm cho thị trường biến động lớn hơn. Mà việc đưa ra những dự kiến về việc sẽ có biện pháp gì để giải quyết vấn đề hiện nay trong thời gian tới. Nhưng lại không thấy được một hành động cụ thể nào cả chỉ làm cho nhà đầu tư, những công ty chứng khoán mất lòng tin vào nhà nước.
Nhà nước nên hành động chứ không phải là dùng lời nói không, có hành động tích cực mà có hiệu quả thì đó mới là biện pháp hữu hiệu.
3.3.5. Nên cho đồng Việt Nam lên giá ở một mức nào đó để giảm sức ép. Hiện nay tình hình lạm phát đang rất nguy hiểm, nhưng việc chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt với những biện pháp như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng, bắt buộc gần 40 ngân hàng mua tín phiếu có tổng trị giá 23.000 tỷ đồng, chỉ thị 03 về việc cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán… Việc sử dụng kết hợp các công cụ trong chính sách tiền tệ ra trong cùng một đợt là đòn nặng giáng xuống các ngân hàng. Hoạt động ngân hàng khó khăn hơn. Trong khi đó thị trường chứng khoán thì thiếu tiền tiến hành đầu tư.
Ví dụ trước nhất đó là việc thiếu tiền của các ngân hàng trong thời gian đầu năm 2008, đó là lúc thị trường có mức lãi suất huy động và cho vay cao ngất ngưởng.
Một điều quan trọng là hạn chế lạm phát gắn liền với giảm tăng trưởng kinh tế. Dự đoán thấy tình hình đó, nhà đầu tư trở nên rụt rè hơn trong đầu tư của mình trên thị trường chứng khoán. Thị trường yếu đi, các công ty niêm yết bị dự báo sẽ không kinh doanh tốt. Tự doanh bị thua lỗ trong hoạt động mua bán chứng khoán của chính mình.
Vì thế kiến nghị cho việc vẫn mua ngoại tệ vào để đồng Việt Nam tăng giá ở mức nào đó. Lúc đó vừa thực hiện được mục tiêu giảm phát, vừa thực hiện được mục tiêu cứu thị trường chứng khoán. Tức kiềm chế lạm phát có mức độ nhất định, để đồng đô la không tạo sức ép quá lớn cho nền kinh tế. Và nhà đầu tư cũng có tiền và lạc quan hơn khi tham gia thị trường chứng khoán.
3.3.6. Từng bước phát triển công cụ phái sinh, phát triển thị trường trái phiếu chuyên biệt.
Càng có nhiều loại chứng khoán thì khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư càng dễ dàng, sự lựa chọn không hạn chế nếu công ty, nhà đầu tư nào có đủ khả năng về mặt tài chính.
Như đã nêu ở trên thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh có những đặc tính cực kỳ hấp dẫn. Nhưng thị trường Việt Nam chưa thấy xuất hiện. Để chuẩn bị cho sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh chính phủ cần nghiên cứu, điều chỉnh để thị trường chứng khoán Việt Nam chấp nhận được loại chứng khoán này.
Đồng thời cũng nên tạo ra một thị trường trái phiếu chuyên biệt đảm bảo cho việc đầu tư dễ dàng hơn. Nhà đầu tư cũng như chuyên viên chứng khoán nhìn thấy được sự giao dịch dễ dàng, mở rộng danh mục đầu tư ra các công cụ chứng khoán khác, giảm thiểu rủi ro hệ thống.
Ngoài ra, phải quản lý thị trường OTC để tránh sự hoạt động không kiểm soát như hiện nay gây ra những tác động xấu đến thị trường.
Tóm lại những kiến nghị đưa ra là đều nhằm mục tiêu ổn định thị trường chứng khoán trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn thông qua việc tác động vào nhà đầu tư, vào trực tiếp thị trường, các công ty chứng khoán.
KẾT LUẬN
Một điều có thể nói đối với hoạt động tự doanh trong giai đoạn hiện nay là hoạt động nuôi sống công ty. Qua việc xem xét tình hình hoạt động này tại công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình, chúng ta có thể hiểu sơ qua về một phần hoạt động của các công ty chứng khoán. Các thức hoạt động trên thị trường chứng khoán, những nghiệp vụ mà ta chưa từng nghe trước đây. Qua bài làm này, em đã hiểu biết thêm về hoạt động kinh doanh chứng khoán trên thị trường, những vấn đề vướng mắc mà các công ty chứng khoán hiện nay đang mắc phải, nguyên nhân tại sao lại có chuyện đó. Đưa ra những suy nghĩa của mình vào trong bài viết, những kiến nghị, những gợi ý và mong nó sẽ có ích.
Trải qua một thời gian thực tập, làm việc trong phòng tự doanh em thấy rằng hoạt động tự doanh là hoạt động có triển vọng nhất đối với các công ty chứng khoán, rất cần thiết cho công ty. Vì thế cần phải nâng cao hiệu quả để cho công ty chứng khoán có thể tồn tại. Các công ty sẽ phải có chiến lược lâu dài hơn nhưng trong tương lai gần thì phải tiến hành hoạt động tự doanh, đó là mục tiêu trước mắt của các công ty chứng khoán.
Nhờ sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn PGS.TS Phan Kim Chiến, em đã cố gắng hoàn thành bài viết này. Mặc dù còn nhiều chỗ còn không được như ý nhưng sau khi làm xong bài này em cũng đã tích lũy được cho mình chút kiến thức. Em mong nhận được sự ủng hộ của các thầy các cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo tài chính năm 2007 của Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình.
Báo đầu tư chứng khoán - Số 21 - Ngày 18/2/2008 - Tác động của lãi suất và lạm phát đến giá chứng khoán - Trang 8
Báo Đầu tư chứng khoán - Số 14 - ngày 1/2/2008 - Tự doanh, cơ hội dành cho CTCK mới - Trang 14 - Thanh đoàn.
Báo Đầu tư chứng khoán - Số 24 - ngày 25/2/2008 - Repo khác gì so với cho vay cầm cố chứng khoán - Trang 8 - Phòng tư vấn đầu tư công ty Hanoi Securities.
Báo Đầu tư chứng khoán - Số 24 - Ngày 25/2/2008 - Không nên im lặng khi nhà đầu tư hoảng loạn - Trang 10 - Thanh Đoàn.
Luật chứng khoán số 70/2006/QH11.
PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi - Kinh doanh chứng khoán - Nhà xuất bản Tài chính - 2006 - Hà Nội.
PTS. Lý Vinh Quang - Chứng khoán và phân tích đầu tư chứng khoán - Nhà xuất bản Thống Kê - 1998 - Hà Nội.
Ủy ban chứng khoán nhà nước Trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán - Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - TS. Đào Lê Minh - Nhà xuất bản chính trị Quốc Gia - 2002 - Hà Nội.
WWW.google.com.vn và trang web chính của Ủy ban chứng khoán nhà nước Việt Nam www.ssc.gov.vn, một vài trang web khác như: WWW.saga.vn; WWW.Vietstock.com.vn
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTCP: Công ty cổ phần
HDQT: Hội đồng quản trị
OTC: Thị trường phi tập trung
SGDCK: Sở giao dịch chứng khoán
TTCK: Thị trường chứng khoán
TMCP: Thương mại cổ phần
TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán
WTO: Tổ chức thương mại quốc tế
MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
MỞ ĐẦU. 1
NỘI DUNG 3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 3
1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán. 3
1.1.1. Thị trường chứng khoán 3
1.1.2. Chức năng của thị trường chứng khoán. 4
1.1.2.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. 4
1.1.2.2. Chức năng cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng. 4
1.1.2.3. Chức năng tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán. 4
1.1.2.4. Chức năng đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. 5
1.1.2.5. Chức năng tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. 5
1.1.3. Phân loại thị trường chứng khoán. 6
1.1.3.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn gồm có thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. 6
1.1.3.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường chứng khoán gồm có thị trường tập trung và thị trường phi tập trung. 6
1.1.3.3. Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường gồm có thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh. 7
1.2. Các công cụ đầu tư trên thị trường chứng khoán. 7
1.2.1. Cổ phiếu 7
1.2.1.1. Định nghĩa cổ phiếu. 7
1.2.1.2. Các hình thức phân loại. 8
1.2.1.3. Đặc điểm của cổ phiếu. 9
1.2.2. Trái phiếu 11
1.2.2.1. Định nghĩa. 11
1.2.2.2. Phân loại trái phiếu. 11
1.2.2.3. Đặc điểm của trái phiếu. 12
1.2.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư. 13
1.2.3.1. Định nghĩa. 13
1.2.3.2. Phân loại. 13
1.2.3.3. Đặc điểm của chứng chỉ quỹ đầu tư: 13
1.2.4. Chứng khoán có thể chuyển đổi. 14
1.2.4.1. Định nghĩa. 14
1.2.4.2. Đặc điểm. 14
1.2.5. Một số công cụ chứng khoán phái sinh. 15
1.2.5.1. Định nghĩa. 15
1.2.5.2. Các công cụ chứng khoán phái sinh. 16
1.3. Hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán. 19
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán. 19
1.3.2. Các hoạt động kinh doanh chứng khoán. 20
1.3.2.1. Hoạt động môi giới. 20
1.3.2.2. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán. 21
1.3.2.3. Hoạt động tự doanh chứng khoán. 22
1.3.2.4. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán 23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN AN BÌNH 25
2.1. Giới thiệu khái quát về Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình. 25
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty chứng khoán An Bình. 25
2.1.2. Chức năng nhiệm vụ. 28
2.1.2.1. Sứ mệnh của ABS. 28
2.1.2.2. Chức năng của công ty cổ phần chứng khoán An Bình. 28
2.1.3. Cơ cấu tổ chức. 30
2.1.3.1. Khối nghiệp vụ. 35
2.1.3.2. Khối môi giới và phát triển kinh doanh. 35
2.1.3.3. Khối hổ trợ. 37
2.1.4. Tình hình hoạt động của Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình. 40
2.1.4.1. Hoạt động tài chính của công ty. 40
2.1.4.2. Tình hình các hoạt động khác của công ty. 42
2.2. Hoạt động tự doanh của Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình. 44
2.2.1. Kết quả đạt được. 44
2.2.2. Mặt hạn chế của công ty. 49
2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế. 51
2.1.3.1. Nguyên nhân khách quan. 51
2.1.3.2. Nguyên nhân chủ quan. 52
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN AN BÌNH 55
3.1. Phương hướng hoạt động của công ty cổ phần chứng khoán An Bình trong thời gian tới. 55
3.2.Giải pháp về phía Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình 57
3.2.1. Đa dạng hóa danh mục đầu tư. 57
3.2.2. Công ty nên có chính sách cải thiện chính sách lương thưởng, đãi ngộ thu hút chuyên viên có kinh nghiệm. 58
3.2.3. Tăng đầu tư trung và dài hạn của tự doanh chứng khoán của công ty. 59
3.2.4. Từng bước nâng cao trình độ phân tích của nhân viên tự doanh. 60
3.3. Một số kiến nghị đối với nhà nước. 61
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. 61
3.3.2. Chính phủ nên cho phép tiếp tục triển khai cho vay kinh doanh chứng khoán đối với các ngân hàng thương mại. 61
3.3.3. Hạn chế việc thành lập các công ty chứng khoán trong thời gian tới. 62
3.3.4. Chính phủ, bộ tài chính không nên can dự quá sâu vào thị trường chứng khoán và hoạt động của các công ty chứng khoán. 63
3.3.5. Nên cho đồng Việt Nam lên giá ở một mức nào đó để giảm sức ép.
3.3.6. Từng bước phát triển công cụ phái sinh, phát triển thị trường trái phiếu chuyên biệt. 64
KẾT LUẬN 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
Hà nội, ngày tháng năm 2008
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12256.doc