Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng trúng thầu ở công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số 1 Hà Nội

Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, sự phát triển nền kinh tế thế giới và các nước trong khu vực đã đặt ra cho chúng ta nhiều thử thách cũng như những triển vọng mới. Vì thế chúng ta cần phải phát triển công nghiệp, công nghệ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để nhanh chóng hoà nhập vào sự phát triển chung. Với nền kinh tế còn nghèo nàn thì việc hoà nhập nền kinh tế nước ta vào sự phát triền của nền kinh tế thế giới là rất cần thiết. Nó sẽ tạo ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội để phát triển. Nhưng để có thể thực hiện việc này một cách nhanh chóng thì việc đầu tiên chúng ta cần làm là hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế. Sự cải cách về pháp luật, việc tạo ra một hệ thống pháp luật vững chắc, chặt chẽ, tiến bộ sẽ tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể từ đó chúng ta có thể dễ dàng trong việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và lựa chọn đối tác, cũng như nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Lĩnh vực xây dựng là một lĩnh vực quan trọng, liên quan đến hầu hết các nghành kinh tế kỹ thuật khác. Vì vậy, việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư xây dựng là vấn đề cần thiết. Trong bài viết này, tô có đi sâu nghiên cứu về công tác đầu thầu, với các hình thức đấu thầu, các bước để mở thầu và những điều cần thiết khi làm một hồ sơ mời thầu cũng như hồ sơ dự thầu. Qua đó đi sâu trực tiếp vào thực trạng đấu thầu ở công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số 1 Hà Nội, nghiên cứu những thuận lợi và cả khó khăn trên cả hai cương vị là người đi dự thầu cũng như là chủ đầu tư. Từ đó mạng dạn đề ra một số giải giáp nhằm nâng cao khả năng thắng thầu trong công ty dựa trên những khó khăn mà công ty đang gặp.

doc102 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng trúng thầu ở công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số 1 Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng lực hay những thông tin về phương thức thi công cũng như các loại vật tư thiết bị giá thành thấp mà phù hợp với công trình. Những thông tin là chính trực tiếp do các nhà thầu tham gia dự thầu cung cấp và đề xuất ra những phương án tối ưu. Để làm rõ hơn, ta lây một ví dụ cụ thể minh họa. Việc xây dựng một công trình có rất nhiều phương án thi công. Mỗi nhà thầu tham gia có thể đưa ra những phương án của mình sau khi nghiên cứu hồ sơ mời thầu. Chủ đầu tư có thể được nghe trực tiếp nhà thầu được mời trình bày về phương án của mình, nghe họ thuyết minh về phương án đó, những thuận lợi và cả những khó khăn. Chính vì vậy mà chủ đầu tư có thể dễ dàng so sánh các phương án, cân nhắc phương án nào phù hợp nhất với tình hình công trình cũng như điều kiện của công ty. Hay một ví dụ nữa về mua vật tư thiết bị. Khi hoàn thiện công trình, trong mục mua sắm trang thiết bị có mục dây điện. Trên thị trường có rất nhiều loại dây điện với những ưu nhược điểm vê chất lượng cũng như giá thành chúng rất khác nhau. Nhà thầu này đưa ra phương án sử dụng dây điện của Inđô, nhà thầu kia sử dụng dây điện của Trần phú. Chủ đầu tư có thể xem xét bằng cách gặp trực tiếp nhà thầu yêu cầu họ giải trình về những lựa chọn của họ. Và từ đó công việc ra quyết địng của chủ đầu tư trở nên dễ dàng hơn nhiều. Trong khi đó ở hình thức đấu thầu, theo quy định của nhà nước, trong hồ sơ thầu không được ghi rõ vật liệu là loại gì và của hãng sản xuất nào để tránh tình trang độc quyền. Giả sử trong hồ sơ thầu mà ghi rõ sẽ sử dụng thép Hòa Phát thì rất có thể Hòa Phát tự động tăng giá thép của mình làm giá thành của công trình bị đội lên cao. Trong hồ sơ thầu, hồ sơ thiết kế chỉ được ghi dây điện có điện trở bao nhiêu, bán kính thế nào… hay thép có bán kính bao nhiêu… Thêm một ưu điểm nữa của hình thức chào giá cạnh tranh là nó tránh được tình trạng “thông thầu” trong hình thức đấu thầu. Giả sử đấu thầu có 5 nhà thầu tham dự. Một nhà thầu đàm phán với 4 nhà thầu còn lại kèm với những thỏa thuận. Qua đó nhà thầu này đưa ra với giá thấp nhất và 4 nhà thầu kia đội giá của mình lên cao. Chủ đầu tư không thể ầuểm soát được trường hợp này. Như vậy ưu điểm lớn nhất của đấu thầu đấy là tính cạnh tranh cao bị mất đi. Chủ đầu tư sẽ không thể lựa chọn được nhà thầu tốt nhất phù hợp nhất với công trình cần xây dựng và giá công trình do nhà thầu này đưa ra cũng không phải là tối ưu nhất. Tuy nhiên, hình thức đấu thầu cạnh tranh cũng có những khuyết điểm của nó. Vì khi sử dụng hình thức này việc đấu thầu trở nên vô nghĩa tức là chưa chắc giá thấp nhất là giá được chấp nhận và trúng thầu. Chủ đầu tư có thể dùng hình thức này để lựa chọn nhà thầu nào ma minh muốn hay hạ giá thành công trình. Chủ đầu tư có thể lấy giá ông này ép giá ông kia và như vậy tính công bằng bị mất đi. Ví dụ trong gói thầu có 10 hạng mục. Sau khi xem xét các hồ sơ dự thầu mà các nhà thầu tham gia gửi lên, chủ đầu tư lấy 10 hạng mục thấp nhất của các nhà dự thầu gộp lại thành một bảng giá và yêu cầu các nhà thầu đáp ứng, xem người nào đạt yêu cầu. Bởi chào giá cạnh tranh là hình thức chủ đầu tư gặp riêng các nhà thầu và thỏa thuận với họ về giá cả cũng như cách thức thực thi công trình nên dường như có vẻ hạn chế về thông tin và mất tính công bằng đối với các nhà dự thầu. Bản thân là một chủ đầu tư, với đặc thù là công ty có thế mạnh trong xây dựng nhà dân dụng và đường nên khi đứng trên cương vị là chủ đầu tư công ty có những thuận lợi và cả những khó khăn khi tổ chức thầu lựa chọn các nhà thầu cho các gói thầu của mình. 2.2.3.2. Thuận lợi Công ty có đội ngũ cán bộ chuyên môn lành nghề và lâu năm kinh nghiệm Với 30 năm kinh nghiệm trong ngành xây dựng với các công trình chủ yếu là xây dựng nhà dân dụng, công ty có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật dày dặn kinh nghiệm trong ngành xây dựng. Chính vì vậy mà công ty có thể tự làm ra một hồ sơ mời thầu tương đối hoàn chỉnh đủ các yêu cầu về chuyên môn, kỹ thuật mà không cần mời đến tư vấn nếu công trình thuộc lĩnh vực xây dựng nhà dân dụng. Công ty đã có thương hiệu và chỗ đứng nhất định trong ngành Với nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, được cấp những chứng chỉ về chất lượng cũng như trình độ chuyên môn, công ty cũng đã tự xây dựng cho mình một thương hiệu, tự tạo cho mình một chỗ đứng nhất định trong ngành, nhờ đó mà khi đứng ra mở các gói thầu, mời các nhà thầu tham gia dự thầu, công ty được rất nhiều các nhà thầu lớn, có uy tín tham gia dự thầu. Công ty được sự giúp đỡ từ Ủy ban nhân dân thành phố và các bạn trong ngành Công ty khi đứng ra làm chủ đầu tư mở thầu, cũng nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, tạo điều kiện thực hiện từ Ủy ban nhân dân thành phố, từ các bạn thầu lâu năm. Ủy ban nhân dân thành phố hỗ trợ rất nhiều về công tác chuẩn bị hồ sơ pháp lý đến công tác giải phóng mặt bằng… Bạn công tác trong ngành cũng đã giúp đỡ rất nhiều về chuyên môn, nghiệp vụ để công ty có thể thực hiện tốt công trình. 2.2.3.3. Khó khăn Khó khăn trong lựa chọn tư vấn chấm thầu Một trong những khó khăn lớn nhất mà không chỉ đối với riêng công ty khi làm chủ đầu tư một công trình mà đây có lẽ là khó khăn chung đối với hầu hết các chủ đầu tư. Đó là những khó khăn trong vấn đề tư vấn khi chấm thầu. Bởi lẽ không phải một công ty nào cũng có đủ tiềm lực để hiểu biết hầu hết các lĩnh vực trong ngành xây dựng, từ xây lắp nhà dân dụng, làm cầu, làm đường đến các công trình loại A như những khu nhà mang tính văn hóa hay lịch sử… Chính vì vậy khi đứng ra làm chủ đầu tư, nếu công trình ấy là những công trình nằm trong thế mạnh của mình thì đội ngũ cán bộ của công ty có thể tự làm hồ sơ mời thầu, cũng có thể tự xem xét các hồ sơ tham gia dự thầu. Nhưng đối với những công trình không thuộc sở trường của mình hay có những gói thầu mình không thể hiểu hết được thì không còn cách nào khác phải thuê tư vấn. Hay có những gói thầu dù nằm trong lĩnh vực của mình nhưng do nó quá phức tạp hay cán bộ công ty không đủ khẳ năng đảm trách thì việc thuê tư vấn là điều không thể tránh khỏi. Trong công trình Tổ hợp nhà ở tiêu chuẩn 25 Làng Hạ do công ty làm chủ đầu tư vào năm 2005-2007 là một ví dụ điển hình. ở các hạng mục như làm móng, xây thô thì công ty có thể tự làm. Tuy nhiên đến công đoạn hoàn thiện, lắp đặt các thiết bị thì quả là khó khăn do thiếu những thông tin cần thiết. Ví dụ như đấu thầu lắp thang máy, lắp đặt thiết bị phòng cháy chữa cháy... Công ty cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm ra nhà thầu tư vấn nào đáp ứng đủ yêu cầu mà công ty đặt ra. Nếu tư vấn không đủ kinh nghiệm, hay có những va vấp cũng ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động xây dựng công trình. Nếu thuê tư vấn bên ngoài, công ty cũng phải đối mặt với những rủi ro và khó khăn. Nếu tư vấn không khách quan, họ làm cho mình những hồ sơ mà yêu cầu quá cao, lái việc thực thi công trình theo ý họ thì đương nhiên chỉ có một số ít nhà thầu có thể đáp ứng được yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Điều này gây khó khăn rất nhiều trong việc chủ đầu tư có thể lựa chọn được nhà thầu thích hợp với mức giá thầu hợp lý. - Trong quá trình mở thầu, tuy là chủ đầu tư của dự án, công ty cũng gặp không ít những sức ép từ nhiều phía Sức ép mà công ty phải chịu không những từ phía trong công ty mà còn từ phía bên ngoài: + Sức ép để công trình có thể đảm bảo đúng như tiến độ thi công + Sức ép từ các cơ quan nhà nước, pháp luật + Sức ép từ các bạn đồng nghiệp trong ngành + Sức ép từ những khó khăn vướng mắc gặp phảI do nhiều yếu tố: tài chính, giải phóng mặt bằng, giấy tờ chứng minh hợp pháp từ cơ quan công quyền… Chương III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TRÚNG THẦU Ở CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG SỐ 1 HÀ NỘI Phương hướng trong hoạt động nhằm nâng cao khả năng đấu thầu của công ty thời gian tới. Năm 2008 Công ty Cổ phần đầu tư và Xây dựng số 1 Hà nội còn phải tiếp tục đối mặt với nhiều thử thách khó khăn, cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong xu thề hội nhập, giá cả thị trường biến động... Mặt khác sau 1 năm chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty cổ phần, phần nào đã rút ra được những kinh nghiệm quý báu và định hướng tốt hơn cho nhiệm vụ năm 2008. Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số 1 Hà Nội xin đề ra những phương hướng và nhiệm vụ cụ thể cho năm 2008 trong hoạt động đấu thầu như sau: Hoàn tất hồ sơ và thủ tục bàn giao từ DNNN sang Công ty Cổ phần Hoàn tất hồ sơ và thủ tục để bàn giao từ DNNN sang Công ty Cổ phần, trong quý I năm 2008 Công ty phải hoàn tất hồ sơ bàn giao, trình cấp có thẩm quyền xem xét xử lý. Hoàn chỉnh bộ Quy chế quản lý và điều hành của công ty Hoàn chỉnh bộ Quy chế quản lý và điều hành của công ty cổ phần, đồng thời xem xét điều chỉnh bổ sung lại tất cả các quy chế và quy định khi có vấn đề cập. Công ty sẽ tiếp tục nghiên cứu soạn thảo, ban hành và cập nhật chỉnh sửa các quy định, quy chế quản lý cho phủ hợp với tình hình sản xuất kinh doanh, sắp xếp lại bộ máy tổ chức sản xuất từ Công ty đến các đơn vị trực thuộc tăng cường hiệu quả quản lý, phân công phân cấp cụ thể nhằm nâng cao năng lực điều hành và năng lực tham mưu quản lý của các phòng ban chức năng. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý của Công ty cũng như tổ chức sắp xếp lại các Xí nghiệp xây lắp thành viên theo hướng gọn nhẹ, đủ năng lực, hiện đại về công nghệ, thiết bị, trình độ và năng lực đội ngũ cán bộ điều hành, quản lý, đáp ứng yêu cầu trong công việc trong tình hình mới. Đặc biệt phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện Xí nghiệp xây dựng nòng cốt đủ năng lực nhận thầu thi công các công trình có quy mô phức tạp. Lộ trình tổ chức sắp xếp lại Xí nghiệp như sau: Trong quý 1 năm 1008 hoàn thiện kế hoạch hồ sơ tổ chức, bố trí lại các xí nghiệp hiện có thành một số xí nghiệp vững mạnh, được trang bị đầy đủ các máy móc phương tiện và dụng cụ đủ điều kiện thi công các loại công trình. Trong quý 2 năm 2008 tổ chức thực hiện xong công việc sắp xếp lại toàn bộ các xí nghiệp. đảm bảo 100% đơn vị và cá nhân ký hợp đồng lao động với Công ty có việc làm gắn bó với công ty và giải quyết xong chế độ cho tất cả những người không có việc làm hoặc không phù hợp phải đào tạo lại. áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000 đối với hoạt động xây lắp trong toàn Công ty ở tất cả các đơn vị; 100% các công trình thi công đều phải đạt yêu cầu cao về chất lượng và kỹ thuật. Ổn định và nâng cao thu nhập cho người lao động Tuyển dụng bổ sung nguồn nhân lực và đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ công nhân viên Công ty. Đầu tư chiều sâu, hoàn thiện tổ chức quản lý sắp xếp lại lực lượng lao động, tuyển dụng cán bộ công nhân có tay nghề và có trình độ nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cơ chế thị trường. Mạnh dạn sử dụng cán bộ trẻ có phẩm chất, năng lực bổ sung vào công tác quản lý điều hành của công ty. Khuyến khích tính năng động, chủ động tự chịu trách nhiệm của mỗi cá nhân, các đơn vị. Khẩn trương đào tạo. bồi dưỡng bổ sung đối với cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật, chuyên môn hoá đáp ứng yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Tiếp tục tổ chức các phong trào thi đua, chăm lo hơn nữa đối với đời sống vật chất tinh thần và sức khoẻ của cán bộ công nhân viên thông qua các hình thức hoạt động như nghỉ mát, sinh hoạt văn hoá lành mạnh tạo không khí vui tươi đoàn kết, nâng cao tinh thần tập thể của cán bộ công nhân viên toàn công ty, tạo động lực phấn đấu để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2008 với lợi nhuận đem lại là cao nhất cho các Cổ đông góp vốn và đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên. Nâng cao thu nhập cho người lao động với thu nhập bình quân đạt tối thiểu 2.500.000đ/người/tháng. Về sản xuất kinh doanh Công tác đầu tư Dự án toà nhà Thành công Tower 25 Láng Hạ Hoàn thành Quyết toán công trình “Tổ hợp nhà ở cao tầng tiêu chuẩn cao tại 25 Láng Hạ” và tổng quyết toán dự án. Hoàn thiện các tầng 26,27,28 để cho thuê mặt bằng dịch vụ. Dự án Đầu tư Xây dựng khu đô thị mới Nghĩa Đô Điều chỉnh quy hoạch tổng thể dự án Xây dựng khu Đô thị mới Nghĩa Đô theo tình hình thực tế để nâng cao kinh doanh. Hoàn thiện toàn bộ các hạ mục hạ tầng kỹ thuật của dự án: đường giao thông, thoát nước, bài đỗ xe, khu thể thao, cây xanh, điện nước... Hoàn thành thi công mạng mục Xây dựng Biệt thự, Nhà vườn. Điều chỉnh quy hoạch nhà CT2A lên 19 tầng trong quý 1, triển khai thi công xong phần móng và xây thô nhà CT2A. Hoàn tất thủ tục để triển khai đầu tư thứ cấp và khởi công xây dựng các công trình hạ tầng xã hội như trường học, nhà trẻ. Chuẩn bị đầy đủ các thủ tục theo quy định đối với các nhà cao tầng còn lại để sơm triển khai thi công và khai thác. Các dự án đầu tư khác: Tiến hành tìm kiếm, đấu thầu, khai thác các dự án đầu tư xây dựng công trình mới trên địa bàn Hà Nội và các tỉnh lân cận có tiềm năng, tiếp tục theo dõi bám sát những dự án mà công ty đã đăng ký với UBND TP Hà Nội. Công tác thi công và xây lắp đấu thầu. Tăng cường công tác tìm kiếm hợp đồng, tham gia đấu thầu, nhận thầu thi công các loại hình công trình như: Nhà cao tầng, thuỷ lợi, đường giao thông, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật đô thị, điện, đường dây và trạm. Đặc biệt các công trình yêu cầu kỹ thuật, công nghệ cao, công nghệ mới để qua đó nâng cao sức cạnh tranh, sản lượng và mở rộng thị trường kể cả các đối tác nước ngoài, khẳng định được thương hiệu của công ty không chỉ trong lĩnh vực đầu tư mà cả trong lĩnh vực xây dựng. Tăng cường công tác phối hợp, liên danh, liên kết với các tổ chức trong nước và ngoài nước, các cá nhân để phát triển sản xuất không ngừng tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty, đưa công ty ngày càng phát triển. Đảm bảo tuyệt đối để không xảy sự cố mất an toàn lao động tại các công trình Công ty đang thi công. Mở rộng lĩnh vực hoạt động thêm Cung ứng một số vật tư, đồ trang trí nội thất là thế mạnh hiện nay của công ty cho các công trình như: các loại cửa sổ kính, sàn gỗ, trần, vật liệu sành sứ, thiết bị vệ sinh... Đẩy mạnh tìm kiếm thị trường về thiết kế, sản xuất, thi công, cung cấp các đồ nội thất cho công trình. Giải pháp Để giải quyết những khó khăn mà công ty hiện thời đang gặp phải, từ cá nhân công ty, công ty cần phải không ngừng cố gắng hoàn thiện về mọi mặt: 2.1. Luôn luôn giữ uy tín và chất lượng Đây là điều kiện tiên quyết để nâng cao được khả năng trúng thầu đối với công ty nói riêng và ở tất cả các công ty khi muốn tham gia dự thầu để trúng thầu nói chung. Thương trường là chiến trường, sự cạnh tranh luôn là yếu tố được đề cao nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Tình trạng độc quyền ở nước ta hiện nay là không còn, nhất là khi Nhà nước ta quyết định chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy mỗi doanh nghiệp vừa được mở rộng lĩnh vực hoạt động hơn, tự do hơn trong các quyết định của mình vừa phải tự chịu trách nhiệm, không còn nữa sự bảo trợ, sự đỡ đầu của nhà nước. Doanh nghiệp nào hoạt động có hiệu quả, chứng tỏ được năng lực của mình thì tồn tại, ngược lại doanh nghiệp nào hoạt động yếu kém lập tức bị đào thải. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn làm ăn lâu dài, muốn có một chỗ đứng nhất định ở thương trường, cái đầu tiên cần gây dựng đấy chính là chữ tín. Ở mọi công ty, lấy uy tín làm đầu luôn là phương châm được ghi tạc trong mỗi cán bộ nhân viên. Đối với các công ty sản xuất trong các lĩnh vực khác, muốn giữ được mối quan hệ làm ăn, muốn được được sự ưa chuộng của khách hàng lâu dài thì phải giữ được chữ tín. Nếu làm ăn sai trái, lừa lọc thì chỉ làm được một lần và sẽ bị lập tức đào thải ngay. Đây là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Đối với các công ty thuộc ngành xây dựng, chữ tín này lại càng phải cần được coi trọng hơn nữa. Tín ở đây là tín về chất lượng, tín về vật liệu (không vì mong được lợi nhuận cao mà đưa những vật liệu kém chất lượng, hay thuê những thiết bị hỏng lạc hậu vào công trình làm giảm chất lượng công trình), tín về kỹ mỹ thuật (bảo đảm về kỹ thuật và đẹp về mỹ thuật) ; tín về thời gian tiến độ thi công. Tín về thời gian thi công nhiều trường hợp rất quan trọng. Ví dụ công ty thi công xây dựng ngân hàng và có cam kết bàn giao công trình theo như lịch trong công trình. Nếu chúng ta chậm tiến độ dù chỉ một ngày có thể làm nhỡ kế hoạch của chủ đầu tư, có thể gây thất thoát về tiền bạc cho chủ đầu tư. Điều này gây rất mất uy tín và ảnh hưởng đến thương hiệu của công ty. Có được sự tín nghiệm của khách hàng thì công ty mới có cơ hội làm ăn về sau. Làm ăn không chỉ một lần là xong mà cần giữ những mối quan hệ, từ đó mới có được những thông tin cần thiết để có được những hợp đồng tiếp theo, sự hợp tác lâu dài. Uy tín là chúng ta đảm bảo cam kết được chất lượng bằng hợp đồng bảo hành công trình trong khoảng thời gian dài. Thi công công trình không có nghĩa là chấm dứt hợp đồng, công ty vẫn phải bảo đảm được yêu cầu về bảo hành công trình. Tùy từng quy mô công trình mà thời gian bảo hành công trình dài ngắn khác nhau. Những cam kết về bảo hành là những cam kết về chất lượng công trình, khắc phục kịp thời những sai sót khi công trình đã đưa vào sử dụng nếu lỗi đó là lỗi của công ty do tổ chức thi công. Giữ được chữ tín là rất khó cũng như ta giữ được lòng tin của con người vậy. Để xây dựng được uy tín phải mất khoảng thời gian không hề ngắn nhưng nếu chỉ một lần sai sót mà thất tín, nó sẽ làm sụp đổ tất cả bao công lao chúng ta xây dựng từ trước đến giờ. Do vậy mà nhiệm vụ này không phải làm một lần là xong ma phải làm liên tục, không phải là nhiệm vụ của riêng cấp lãnh đạo mà là nhiệm vụ chung của tất cả mọi người trong công ty. Mọi người từ các nhà lãnh đạo, đến cán bộ, nhân viên, công nhân phải cùng đồng lòng góp sức gây dựng nên thương hiệu của công ty. Uy tín muốn có được thì phải đảm bảo được chất lượng. Bất kể ngành nào hoạt động sản xuất kinh doanh cũng cần đảm bảo những chỉ tiêu về chất lượng. Riêng trong lĩnh vực xây dựng thì yếu tố chất lượng lại càng được đặc biệt coi trọng. Bởi trong ngành này là xây dựng ra những công trình được sử dụng không chỉ trong một thời gian ngắn mà hầu hết là những công trình trên 10 năm, nó liên quan trực tiếp đến mạng sống con người. Đã biết bao những công trình bị “rút ruột” làm cho công trình đi vào sử dụng chưa được bao lâu đã xuống cấp thậm chí chưa hoàn thành đã hỏng. Nó không chỉ làm lãng phí nguồn lực xã hội mà ảnh hưởng đến mạng sống biết bao con người sử dụng những công trình kém chất lượng đó. Đây không chỉ là vấn đề liên quan đến trách nhiệm nghề nghiệp mà liên quan đến vấn đề pháp luật. Muốn nâng cao được khả năng thắng thầu công ty cần không ngừng đề cao nhân tố chất lượng ở tất cả các công trình thi công. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào bộ máy quản lý của công ty: Khi thực thi công trình, bộ máy tổ chức quản lý của công ty phải không ngừng giám sát chặt chẽ tiến độ thi công của từng giai đoạn, chất lượng của từng hạng mục thi công, kiểm tra chặt chẽ nguyên vật liệu và các bán thành phẩm, thiết bị nói chung để đưa vào công trình… Tổ chức mặt bằng thi công hợp lý, khoa học : để thuận tiện cho việc thi công, tránh các công đoạn chung chuyển và rơi vãi, lãng phí nguyên vật liệu. Đào tạo cán bộ công nhân trong vấn đề đạo đức nghề nghiệp vừa hồng vừa chuyên. Cán bộ, công nhân ngoài trình độ chuyên môn tay nghề phải có trách nhiệm với công việc, ý thức được nhiệm vụ của mình. Khi mua các vật tư, phải đảm bảo được nguồn gốc xuất xứ, và đạt tiêu chuẩn về chất lượng. Phải trang bị cho các công nhân cũng như cán bộ các thiết bị cần thiết, hiện đại phục vụ thi công nhằm rút ngắn thời gian thi công, giảm lao động nặng nhọc, tăng an toàn lao động mà vẫn bảo đảm được chất lượng công trình. Ví dụ như lắp đặt tại công trình cần cẩu tháp, máy nâng hàng đối với các công trình cao tầng, gầu xúc, máy ủi, máy đầm, máy khoan, hệ thống giàn giáo, các phương tiện chuyên chở… 2.2. Điều tra, nghiên cứu và tiếp cận công trình khi còn ở dạng dự án Các công trình trước khi đưa vào đấu thầu bao giờ cũng ở dạng dự án, chờ chủ đầu tư xem xét, ký duyệt. Muốn tạo lợi thế khi đấu thầu, công ty phải tiếp cận, nghiên cứu, điều tra khi công trình đang ở giai đoạn này. Bằng cách này, nó đem lại cho ta những lợi thế nhất định: Khi tiếp cận được công trình sớm, công ty sẽ có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu về công trình, nắm bắt hiểu rõ đặc thì của công trình, những thuận lợi và khó khăn khi thi công công trình, từ đó sẽ định hướng tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất để thi công công trình đó. Tiếp cận được công trình sớm, công ty có thời gian tìm hiểu giá cả các nguyên vật liệu, tìm được nguồn hàng cần sử dụng cho công trình với chi phí rẻ nhất mà vẫn đảm bảo được chất lượng. Muốn tiếp cận được công trình sớm cũng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Công ty khi làm ăn nhất thiết phải có uy tín và thương hiệu hay hiểu thực chất là các mối quan hệ trong ngành, để khi có dự án, chúng ta có được thông tin. Có được những mối quan hệ này công ty phải xây dựng trong một khoảng thời gian không hề ngắn, luôn phải lấy uy tín là chỉ tiêu hàng đầu. Ngoài ra công ty cấn đẩy mạnh cho phát triển bộ phận nghiên cứu thị trường. Bộ phận này có nhiệm vụ nghiên cứu, tìm hiểu những công trình đang còn ở dạng dự án, theo dõi những dự án phù hợp với năng lực của công ty, phù hợp với thế mạnh mà công ty có khả năng trúng thầu khi tham gia dự thầu. Chức năng của phòng này cũng cần phải biết về chuyên môn, kỹ thuật để biết lựa chọn những dự án khả thi, có khả năng trở thành công trình mà công ty có thể thực hiện được. Trên thực tế, muốn hoạt động đấu thầu có hiệu quả thì trước tiên phải gây được uy tín và sự ưa chuộng của khách hàng thông qua công tác tiếp thị. Ở nước ta, từ khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, công tác tiếp thị đã trở thành công cụ đắc lực cho các nhà kinh doanh, bởi vì thông qua công tác tiếp thị thì công ty mới có thể tìm hiểu nắm bắt được thị trường và ngược lại chủ đầu tư mới biết đến công ty. Hiện nay, các doanh nghiệp hầu hết đã có chú ý đến công tác Marketing. Nhưng với Công ty cổ phần đầu tư xây dựng số 1 Hà Nội thì công tác tiếp thị (Marketing) của công ty chưa có một bộ phận nào chuyên trách về vấn đề này. Cho nên, công ty nên lập một bộ phận chuyên trách về công tác này, để họ làm những công việc sau: Thu thập, tìm hiểu các thông tin về các dự án đấu thầu được phổ biến qua các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là qua các mối quan hệ riêng với các đối tác khác để tham gia đấu thầu. Thu thập các thông tin về tình hình biến động của giá cả thị trường để có biện pháp điều chỉnh giá dự toán, dự thầu kịp thời cũng như việc thông tin cho chủ đầu tư biết để đàm phán thoả thuận, nhằm tránh rủi ro cho công ty. Thu thập và nghiên cứu các thông tin về các đối thủ cạnh tranh (nguồn lực, phương pháp tính giá dự toán, điểm yếu, điểm mạnh...). Tìm hiểu các thông tin, đề xuất các biện pháp thu hồi vốn nhanh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Đề ra các chiến lược tranh thầu phù hợp nhờ sự phân tích, đánh giá các hoạt động trên. Nếu làm tốt được các công tác này, chắc chắn công ty sẽ tăng được khả năng thắng thầu khi tham gia đấu thầu các công trình. Công tác này hiện nay ngày càng trở nên quan trọng khi mà cơ chế thị trường đẩy sức cạnh tranh lên càng mạnh mẽ. Chúng ta không thể ngồi chờ các chủ đầu tư tổ chức đấu thầu rồi mua hồ sơ mời thầu, thế là quá chậm. Chúng ta luôn phải có sự chuẩn bị trước. Sự chuẩn bị kĩ lưỡng bao giờ cũng giảm thiểu tối đa được sự sai sót, những sai lầm không đáng có, và tỉ lệ thành công, khả năng trúng được thầu bao giờ cũng cao hơn. 2.3. Giải trình, phân tích kết quả công trình dù thành công hay thất bại để rút kinh nghiệm. Công việc này vô cùng hữu ích đối với tất cả các doanh nghiệp nhưng dường như hay bị bỏ qua. Kết thúc, hoàn thành một công trình, công ty rất cần có những buổi tổng kết dù là thành công đem lại nhiều lợi nhuận, thất bại trong đấu thầu hay thi công công trình nhưng hiệu quả công cao. Cho dù thành công hay thầt bại, chắc chắn việc đấu thầu và thực thi công trình không tránh khỏi những thiếu sót. Buổi tổng kết đó cần phải chỉ rõ nguyên nhân những thiếu sót đó và tìm biện pháp khắc phục. Công tác này đem lại rất nhiều lợi ích: Thứ nhất, việc giải trình kết quả sau cuộc đấu thầu sẽ chỉ rõ cho ta những sai sót, dù là thành công chăng nữa, chỉ rõ xem trách nhiệm thuộc về ai, nguyên nhân là chủ quan hay khách quan. Những thành công đạt được thì cố gắng phát huy, ngược lại những sai sót phải tìm cách khắc phục. Thứ hai, buổi tổng kết này là cơ hội để cấp trên tuyên dương những cá nhân có thành tích và phê bình những cá nhân mắc khuyết điểm. Từ đó, cán bộ công nhân viên trong công ty nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm cá nhân mình, nâng cao ý thức tự chịu trách nhiệm và giúp khuyến khích, động viên những cá nhân có thành tích tốt. Thứ ba, buổi tổng kết cũng họp mọi người lại, cùng nhau đóng góp ý kiến tìm ra giải pháp hữu hiệu cho những vấn đề cần giải quyết. Nhiều ý kiến được đưa ra chắc chắn sẽ nhanh chóng tìm ra giải pháp, đặc biệt là tận dụng được những ý kiến của những cá nhân trực tiếp bị vướng mắc những khó khăn ấy trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình. Thứ tư, những buổi họp tổng kết cũng giúp thêm sự gần gũi hơn giữa lãnh đạo và nhân viên. Nhân viên có thể tự do đề xuất ý kiến của mình đóng góp cho công ty, và cấp trên có thể nắm bắt sâu xát hơn tình hình cán bộ công nhân viên cấp dưới của mình. Đồng thời cũng dễ dàng hơn trong việc truyền đạt những chỉ thị, yêu cầu, mục tiêu lớn hơn của công ty. Hiện nay, trong cơ chế thị trường, với sự vận động như vũ bão, những buổi họp tổng kết như thế này càng phát huy hơn nữa những lợi ích của nó. Những khó khăn vướng mắc luôn cần được giải quyết sớm từ những người trực tiếp gắn với nó, sự gắn kết giữa nhân viên và cấp trên luôn thực sự cần thiết. Nó dường như là nghệ thuật của các nhà lãnh đạo khi quản lý nhân viên mình. 2.4. Tạo điều kiện nâng cao chất lượng cán bộ có chuyên môn, công nhân có tay nghề. Công nghệ hiện đại ngày càng phát triển, những yêu cầu về thi công công trình ngày càng đòi hỏi cao hơn, yêu cầu về con người cũng càng khắt khe hơn. Mặc dù trong công ty đã có một đội ngũ cán bộ dầy dạn kinh nghiệm, nhưng tính đồng bộ về kinh nghiệm chưa cao. Hơn nữa một vấn đề xảy ra tại công ty là có những công trình đấu thầu yêu cầu phải làm Hồ sơ dự thầu bằng tiếng Anh, hoặc có những công trình mà Hồ sơ mời thầu được viết bằng tiếng Anh, do đó các cán bộ trong công ty phải dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt và từ tiếng Việt sang tiếng Anh. Để làm được điều đó đòi hỏi phải có những cán bộ với trình độ tiếng Anh cao, mà ở công ty thì số cán bộ đáp ứng được vấn đề này còn hạn chế. Vì vậy, công ty cần đài thọ cho cán bộ đi học thêm tiếng Anh, hoặc có thể khuyến khích tạo điều kiện cho họ đi học thêm. Công ty cần không ngừng đào tạo cán bộ có chuyên môn, công nhân có tay nghề để nâng cao được chất lượng công việc. Việc đào tạo này có thể tổ chức tại chỗ, cán bộ quản lý cần tận tình hướng dẫn, theo dõi hoạt động của từng nhân viên. Đào tạo cũng có thể tạo điều kiện cho cán bộ, công nhân được đi học, tập huấn những chuyên môn nghiệp vụ. Ta chỉ có thể tạo được lợi thế khi tham gia dự thầu nếu ta có đội ngũ cán bộ kỹ thuật mạnh về chuyên môn. Như vậy công tác nghiên cứu hồ sơ mời thầu, nghiên cứu công trình và tìn ra phương pháp thi công hiệu quả cũng nhanh hơn và có chất lượng hơn. Biện pháp thi công là nhân tố quan trọng để quyết định nhà thầu có giành được thầu hay không. Ngược lại, nếu đội ngũ cán bộ kỹ thuật hoạt động không hiệu quả thì có khă năng thăng được thầu. Bởi thời gian nghiên cứu hồ sơ từ lúc nhận hồ sơ mời thầu đến lúc mời thầu là không dài, hơn nữa chủ đầu tư rất coi trọng biện pháp thi công, nhà thầu nào đưa ra được biện pháp thi công hợp lý, đảm bảo về chất lượng và thời gian công trình sẽ đạt được điểm cao trong chấm thầu. Cán bộ quản lý cần nắm rõ năng lực từng nhân viên của mình, từ đó có những bố trí sắp xếp vị trí công tác sao cho hợp lý, vừa phát huy tốt nhất năng lực của bản thân nhân viên vừa đem lại hiệu quả cao nhất cho tổ chức. 2.5. Thành lập phòng kinh doanh chuyên nghiên cứu giá cả thị trường Như đã phân tích ở phần trên, giá cả luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thắng thầu. Một trong những khó khăn của ta khi làm giá là không nắm bắt được giá cả chính xác của từng vật tư công trình. Mà gía cả luôn thay đổi không những theo thời gian mà còn tùy thuộc ở địa điểm cung cấp hàng. Vậy làm sao có thể khắc phục được khó khăn này? Công ty cần có một phòng ban chuyên nghiên cứu những biến động giá cả của thị trường từng vật tư, máy móc, thiết bị cung cấp, phục vụ cho công trình. Chức năng chính của phòng này là hàng ngày luôn cập nhật giá cả từng vật tư, thiết bị, máy móc, theo dõi chúng, tìm tòi những nguồn hàng “tân gốc” với giá thành thấp nhất, vẫn đạt được những chỉ tiêu về chất lượng mà đảm bảo được chứng nhận về nguồn gốc xuất xứ. Có như vậy, ta mới có thể tạo được lợi thế khi dự thầu: Nhanh chóng tìm ra nguồn hàng cung ứng vật tư, thiết bị, máy móc cần thiết phục vụ cho công trình. Mua được vật tư, thiết bị, máy móc với giá thành thấp nhất, đạt chất lượng và đảm bảo được nguồn gốc xuất xứ, do vậy mà sẽ hạ được giá thành công trình trong tính toán, từ đó nâng cao được khả năng thắng thầu. Luôn luôn đảm bảo được nguồn cung cấp hàng kịp thời, ổn định khi cần 2.6. Tăng cường đầu tư vào máy móc thiết bị để nâng cao năng lực thi công: Máy móc thiết bị là một yếu tố quan trọng mà công ty cần phải giới thiệu khi làm Hồ sơ dự thầu, chủ đầu tư rất quan tâm đến yếu tố này, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình sau này. Với Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số 1 Hà Nội, mặc dù công ty đã đầu tư khá nhiều để mua máy móc thiết bị, song công ty còn phải đầu tư nhiều hơn nữa mới có thể cạnh tranh được với các nhà thầu khác, đặc biệt là các nhà thầu nước ngoài khi họ có một lượng máy móc thiết bị rất hiện đại. 2.7. Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động tạo và thu hồi vốn đầu tư: Thiếu vốn sản xuất kinh doanh là một bài toán khó giải quyết đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xây dựng thì nhu cầu về vốn rất lớn bởi thi công các công trình xây dựng bao giờ cũng đòi hỏi một lượng vốn vô cùng lớn Thực tế Công ty có vốn không phải lớn so với các công ty xây dựng khác tỏng ngành, trong khi đó hiện nay Công ty đang trực tiếp thi công nhiều công trình trên nhiều địa bàn khác nhau nên nhu cầu về vốn lưu động ứng trước cũng như số vốn dùng để bảo lãnh thực hiện hợp đồng là luôn luôn thiếu. Mặt khác, có một số công trình công ty đã thực hiện xong và bàn giao nhưng vẫn chưa được chủ đầu tư thanh toán kịp thời nên Công ty còn một số vốn ứ đọng gây khó khăn cho quá trình thực hiện các công trình tiếp theo. Đứng trước tình hình đó Công ty phải có một số biện pháp nhằm huy động và thu hồi vốn đầu tư của mình để tăng cường khả năng cạnh tranh khi tham gia dự thầu, như: Tạo vốn bằng cách mở rộng sản xuất, tăng cường chất lượng công trình để tăng tổng doanh thu, tăng lợi nhuận, từ đó tỷ lệ trích nhập quỹ vốn phát triển sản xuất tăng lên. Đẩy mạnh khả năng tạo vốn bằng cách thi công rứt điểm từng hạng mục công trình, tránh dây dưa kéo dài dẫn đến tình trạng không quyết toán được, cần rút ngắn thời gian xây dựng đến mức tối thiểu có thể được. Có như vậy mới tăng nhanh khả năng thu hồi vốn rút ngắn chu kỳ sản xuất, tăng nhanh vòng quay vốn. Đẩy mạnh khả năng tạo vốn bằng cách tham gia liên doanh liên kết với các công ty khác lớn hơn đồng thời qua đó học hỏi thêm được kinh nghiệm quản lý vốn có hiệu quả, đây là yếu tố giúp cho sự thành công của công ty. Hoàn thành nhanh chóng Hồ sơ pháp lý và hợp đồng nhận thầu, giao thầu lại. Đây là yếu tố giúp cho việc thanh toán dễ dàng và thuận lợi hơn. Huy động vốn nhàn rỗi tạm thời của cán bộ công nhân viên trong toàn công ty. Tạo và mở rộng tăng cường hơn nữa mối quan hệ với các tổ chức tài chính, Ngân hàng nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức này trong việc vay vốn, bảo lãnh, nhằm khai thác tối đa nguồn vốn tín dụng. Duy trì các mối quan hệ với các nhà cung ứng nguyên vật liệu để có được điều kiện thuận lợi cho thanh toán phù hợp điều kiện thi công, đảm bảo tiến độ cung ứng vật tư đối với tiến độ thi công, tránh tình trạng nguyên vật liệu về chậm sẽ làm tăng thời gian thi công một cách vô ích gây ứ đọng vốn, thất thoát lãng phí nguồn lực của công ty. 3. Điều kiện thực hiện thành công giải pháp Nhà nước đóng một vai trò vô cùng quan trọng quyết định đến nền kinh tế nhất là với bối cảnh nước ta hiện nay: nền kinh tế thị trường có sự định hướng của Nhà nước. Bởi vậy Nhà nước không chỉ ảnh hưởng đến chung toàn bộ nền kinh tế mà nó tác động đến từng cá thể (các công ty, doanh nghiệp, hộ gia đình...) khi tham gia vào nền kinh tế. Nhà nước là một thiết chế đặc biệt có chức năng riêng, đó là việc quản lý nền kinh tế bằng pháp luật. Pháp luật với ý nghĩa là những nguyên tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra, có vai trò tạo dựng các quan hệ kinh tế, nhưng đồng thời là nguồn để điều chỉnh nó theo đúng mục đích mà thiết chế đó đang theo đuổi, vì vậy trong phần này em xin đưa ra một số kiến nghị nhằm khắc phục những khó khăn của hệ thống pháp luật về hợp đồng giao nhận thầu xây dựng hiện nay. Đó là tiền đề cơ bản để công ty có thể thực hiện thành công giải pháp. Quy định về chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu Theo quy định của Quy chế đấu thầu thì hợp đồng giao nhận thầu xây dựng chỉ có thể được ký kết giữa các pháp nhân với nhau (cụ thể là Bên mời thầu và Nhà trúng thầu). Nhưng theo quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng có thể là pháp nhân với pháp nhân hoặc pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Vậy khi hợp đồng được ký kết giữa một pháp nhân với một cá nhân đăng ký kinh doanh xây dựng thì có được coi là chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng hay không? Khi ta áp dụng Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì đó là chủ thể của hợp đồng nhưng khi áp dụng Quy chế đấu thầu thì đó lại không phải là chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Hơn nữa, hợp đồng được ký kết giữa hai cá nhân có đăng ký kinh doanh xây dựng hay ngay cả trường hợp hai doanh nghiệp xây dựng tư nhân ký kết hợp đồng với nhau nhằm mục đích kinh doanh cũng không được coi là hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, vì không bên nào là pháp nhân cả. Ở đây, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế cũng như Quy chế đấu thầu đã lấy tư cách pháp nhân làm căn cứ để xác định tư cách chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Điều đó hoàn toàn vô lý. Các chủ thể kinh tế sẽ càng gặp nhiều khó khăn hơn khi nền kinh tế thị trường phát triển, có nhiều chủ thể kinh doanh mới ra đời. Bên cạnh những chủ thể kinh doanh truyền thống có tư cách pháp nhân như Doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã.... còn có rất nhiều chủ thể không có tư cách pháp nhân như Công ty hợp danh, hộ kinh doanh cá thể... Mặt khác, các chủ thể kinh doanh mới này nếu có đăng ký kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực nhận thầu xây dựng, chứng minh được năng lực về tài chính cũng như về kỹ thuật mà đáp ứng được những yêu cầu của gói thầu do chủ đầu tư đặt ra thì tại sao lại không được tham gia đấu thầu? để trở thành chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Chẳng lẽ vì không được coi là tư cách pháp nhân mà các chủ thể kinh tế này không thể tham gia dự thầu. Nhà nước luôn muốn tạo nên một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp, trước hết các chủ thể kinh doanh đó phải hoàn toàn bình đẳng với nhau trong các quan hệ pháp luật. Muốn được như vậy, theo em cần sửa đổi khái niệm về nhà thầu và quy định "Nhà thầu là cá nhân hoặc tổ chức kinh tế có đủ tư cách tham gia đấu thầu". Đồng thời không nên quy định cứng nhắc các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng giao nhận thầu xây dựng phải là pháp nhân mà chỉ nên quy định Hợp đồng giao nhận thầu xây dựng là hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể kinh doanh xây dựng. 3.2. Vấn đề người đại diện và uỷ quyền Tuy pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã có quy định về vấn đề người đại diện và uỷ quyền, nhưng các quy định này thật sự chưa chặt chẽ, tạo ra nhiều khe hở và trong nhiều trường hợp tạo cho các bên tham gia ký kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng dễ trốn tránh trách nhiệm của mình. Theo Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế và Nghị định 17-HĐBT ngày 16-1-1990 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì người ký kết hợp đồng kinh tế (cũng là người ký kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng) phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh (Điều 9 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế). Đại diện hợp pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hay được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó và đương giữ chức vụ đó (Điều 5 khoản 2 Nghị định 17). Người đứng tên đăng ký kinh doanh là người đã đứng tên xin giấy phép kinh doanh, và được Nhà nước được cấp giấy phép kinh doanh đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo đúng quy định về đăng ký kinh doanh. Đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên trong đăng ký kinh doanh có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người khác thay mình ký kết hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng. Vấn đề cần bàn ở đây là khái niệm "Đại diện hợp pháp của pháp nhân". Nếu hiểu đại diện hợp pháp theo Điều 5 Nghị định 17 thì phải chăng những người đại diện theo uỷ quyền là không hợp pháp? Nếu không phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân thì làm sao có thể ký kết hợp đồng kinh tế cho pháp nhân được. Một số tác giả cho rằng khái niệm "Đại diện hợp pháp" ở đây dùng chưa chính xác. Cụ thể hơn, theo em có lẽ là chưa đủ. Đại diện hợp pháp của pháp nhân chính là người có quyền đại diện cho pháp nhân trong một quan hệ cụ thể. Người được uỷ quyền có quyền đại diện cho pháp nhân trong việc ký kết hợp đồng kinh tế mà cụ thể ở đây là về giao nhận thầu xây dựng cho pháp nhân. Hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng do người được uỷ quyền ký kết đúng nội dung uỷ quyền làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân. Trong quan hệ này, người được uỷ quyền là đại diện hợp pháp của pháp nhân. Do vậy nên quy định là: Người có thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng cho pháp nhân là đại diện theo pháp luật của pháp nhân hoặc đại diện theo sự uỷ quyền. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân chính là người đứng đầu của pháp nhân (Hay còn gọi là đại diện đương nhiên, đại diện chính thức). Đại diện theo sự uỷ quyền là người được người đại diện theo pháp luật uỷ quyền. Đại diện hợp pháp bao hàm cả hai lpại hình trên: đại diện theo pháp luật và đại diện theo sự uỷ quyền. Nhưng đại diện theo pháp luật khác đại diện theo uỷ quyền ở chỗ: đại diện theo pháp luật của pháp nhân có quyền đại diện cho pháp nhân trong tất cả các mối quan hệ còn đại diện theo sự uỷ quyền thì chỉ được đại diện trong những quan hệ nào được uỷ quyền. Như vậy theo em sẽ đầy đủ và chính xác hơn. Ngoài ra, quy định hiện hành còn có khiếm khuyết là chưa quy định rõ trách nhiệm cụ thể đối với việc thực hiện hợp đồng là của người uỷ quyền hay của người được uỷ quyền. Do vậy, để khắc phục những thiếu sót của Điều 9 - Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và Điều 5 - Nghị định 17/HĐBT, pháp luật hợp đồng kinh tế cần có những quy định ràng buộc trách nhiệm của người đại diện trong việc ký kết hợp đồng kinh tế bao gồm: trách nhiệm tài sản, trách nhiệm hành chính và cả trách nhiệm hình sự để có thể ngăn chặn những tiêu cực có thể xảy ra, những vấn đề ngoài ý muốn cần quy kết trách nhiệm. Mặt khác, cũng cần quy định trách nhiệm của người được uỷ quyền khi ký kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng trong trường hợp hành vi của họ có thể gây thiệt hại cho công trình, người đại diện hay Nhà nước. Về vấn đề này để cho phù hợp với các quy định của Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế cần quy định thêm về thủ tục uỷ quyền ký kết hợp đồng kinh tế như người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh khi uỷ quyền cho người khác thay mình ký kết hợp đồng kinh tế phải làm hợp đồng uỷ quyền theo quy định của Bộ luật Dân sự. Theo quy định tại điều 585, điều 586 - Bộ luật Dân sự thì hợp đồng uỷ quyền là sự thoả thuận của các bên, mà theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Hợp đồng uỷ quyền phải được lập thành văn bản, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác hợp đồng uỷ quyền phải có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Theo đó, trong hợp đồng uỷ quyền này sẽ ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia ký kết hợp đồng uỷ quyền, cũng như trường hợp hợp đồng uỷ quyền chấm dứt. 3.3. Về các quy định trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Nhà nước cần quy định rõ lại các mức phạt vi phạm hợp đồng trong đấu thầu xây dựng. Theo Điều 29 khoản 2 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và Điều 13 Nghị định 17/HĐBT thì mức phạt vi phạm hợp đồng do các bên thoả thuận nhưng không quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Sở dĩ có quy định như vậy là vì Pháp lệnh ra đời trong thời kỳ nền kinh tế đang tồn tại các xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã, tức là các tổ chức kinh tế dưới dạng tập thể. Mục đích của Pháp lệnh này là hạn chế việc các đơn vị kinh tế Nhà nước khi áp dụng mức hình phạt vi phạm quá cao sẽ gây thiệt hại cho Nhà nước và làm cho kết quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế không phản ánh trung thực hoạt động của họ. Nhưng hiện nay, quy định này cần phải sửa đổi lại bởi vì trong nền kinh tế thị trường không chỉ tồn tại các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước mà còn tồn tại rất nhiều các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nữa. Vì vậy, pháp luật hợp đồng kinh tế không nên hạn chế mức tối đa của phạt vi phạm là 12%, vì mức phạt quá cao mà hai bên không thoả thuận được thì chắc chắn sẽ không được đưa vào hợp đồng. Điều này sẽ làm giảm ràng buộc cũng như hạn chế trach nhiệm khi các bên kỹ kết các hợp đông xây dựng. Mặt khác, khi các bên đã thoả thuận được mức phạt vi phạm tức là luc này họ có đủ khả năng chịu mức phạt đó nếu như vi phạm. Mức phạt vi phạm cao sẽ thúc đẩy các bên không vi phạm hợp đồng, nâng cao được trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng. Cần quy định lại chế tài xử lý vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Điều 29 khoản 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: "bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm tiền phạt vi phạm hợp đồng và trong trường hợp có thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại...". Như vậy, đối với một hành vi vi phạm hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, chủ thể vi phạm có thể cùng lúc chịu hai chế tài là phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường nếu có thiệt hại. Nguyên tắc của bồi thường thiệt hại là người vi phạm đã gây ra thiệt hại bao nhiêu thì sẽ phải bồi thường bấy nhiêu. Có thể nói việc bồi thường thiệt hại đã bù đắp toàn bộ những mất mát, thiệt hại cho chủ thể bị vị phạm. Nếu cộng thêm mức phạt vi phạm hợp đồng vào nữa thì đương nhiên chủ thể bị vi phạm sẽ được nhận thêm một khoản lợi về tài sản lớn hơn so với khoản lợi về tài sản mà người đó sẽ nhận được nếu hợp đồng được thực hiện như kế hoạch. Điều này là bất hợp lý và không công bằng. Trong khi đó, chế tài trong Luật Thương mại và Bộ Luật dân sự lại được quy định khác: + Luật Thương mại có bốn loại chế tài là: buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; bồi thường thiệt hại; và huỷ hợp đồng. Trong đó chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại không cùng được áp dụng. + Bộ Luật dân sự cũng có bốn loại chế tài là: buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ dân sự; bồi thường thiệt hại; phạt vi phạm; và huỷ bỏ hợp đồng. Trong đó, đối với mỗi hành vi vi phạm, chủ thể vi phạm không đồng thời bị áp dụng hai loại chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. (*) Trích Luật Thương mại và Bộ Luật dân sự So sánh với các quy định này ta thấy quy định của Luật Thương mại và Bộ Luật dân sự là hợp lý. Vì vậy, trong tương lai Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế cũng nên quy định lại theo Luật Thương mại và Bộ Luật dân sự để đảm bảo công bằng giữa các chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. 3.4. Vấn đề hiệu lực kinh tế Điều 8 - Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế có quy định vấn đề hiệu lực hợp đồng kinh tế, nhưng chưa được trình bày một cách rõ ràng, chỉ mới được gián tiếp thể hiện dưới hình thức các quy định về hợp đồng kinh tế vô hiệu. Để làm cho các quy định của pháp luật được rõ ràng dễ vận dụng và thực hiện trong cuộc sống, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế cần quy định các điều kiện của hiệu lực của hợp đồng như sau: + Hợp đồng phải có nội dung phù hợp với pháp luật, đạo đức và trật tự công cộng của xã hội. + Người ký kết hợp đồng có đủ năng lực chủ thể khi tham gia các hợp đồng kinh tế (mà ở đây ta quan tâm đến chủ thể của hợp đồng giao nhận thầu xây dựng). + Ý chí của các bên tham gia ký kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện. + Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với những quy định của pháp luật. Một hợp đồng thoả mãn các điều kiện trên thì sẽ có hiệu lực pháp lý. Việc quy định các điều kiện để hợp đồng kinh tế có hiệu lực sẽ làm cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế về giao nhận thầu xây dựng trong quá trình ký kết ít mắc sai phạm hơn, đồng thời cũng giúp cho cả cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dễ dàng hơn trong quá trình phán xử. LỜI KẾT Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, sự phát triển nền kinh tế thế giới và các nước trong khu vực đã đặt ra cho chúng ta nhiều thử thách cũng như những triển vọng mới. Vì thế chúng ta cần phải phát triển công nghiệp, công nghệ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để nhanh chóng hoà nhập vào sự phát triển chung. Với nền kinh tế còn nghèo nàn thì việc hoà nhập nền kinh tế nước ta vào sự phát triền của nền kinh tế thế giới là rất cần thiết. Nó sẽ tạo ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội để phát triển. Nhưng để có thể thực hiện việc này một cách nhanh chóng thì việc đầu tiên chúng ta cần làm là hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế. Sự cải cách về pháp luật, việc tạo ra một hệ thống pháp luật vững chắc, chặt chẽ, tiến bộ sẽ tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể từ đó chúng ta có thể dễ dàng trong việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và lựa chọn đối tác, cũng như nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Lĩnh vực xây dựng là một lĩnh vực quan trọng, liên quan đến hầu hết các nghành kinh tế kỹ thuật khác. Vì vậy, việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư xây dựng là vấn đề cần thiết. Trong bài viết này, tô có đi sâu nghiên cứu về công tác đầu thầu, với các hình thức đấu thầu, các bước để mở thầu và những điều cần thiết khi làm một hồ sơ mời thầu cũng như hồ sơ dự thầu. Qua đó đi sâu trực tiếp vào thực trạng đấu thầu ở công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số 1 Hà Nội, nghiên cứu những thuận lợi và cả khó khăn trên cả hai cương vị là người đi dự thầu cũng như là chủ đầu tư. Từ đó mạng dạn đề ra một số giải giáp nhằm nâng cao khả năng thắng thầu trong công ty dựa trên những khó khăn mà công ty đang gặp. Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian khảo sát thực tế chưa nhiều nên bài viết không tránh khỏi những thiếu xót. Em mong được sự giúp đỡ góp ý của thầy cô giáo, bạn bè và các anh chị trong Phòng Kinh tế- Thị trường- Đầu tư- Dự án để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Mục lục DANH MỤC TÀO LIỆU THAM KHẢO I. Văn bản pháp luật: Công văn 3220/BHK-VPXT ngày 23-05-2002 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết 05/2002/NQ-CP đối với nội dung liên quan đến công tác đấu thầu. Công văn 952/CP ngày 16-08-2002 của Chính phủ về hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết 05/2002/NQ-CP về nội dung đấu thầu và sửa đổi Quy chế đấu thầu. Nghị định 43/1996/NĐ-CP ngày 16-7-1996 về ban hành Quy chế đấu thầu Nghị định của Chính phủ về việc sủa đổi bổ sung một số điều của quy chế đấu thầu, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,2000. Nghị định 17/2003/NĐ_CP ngày 30-01-2003 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo NĐ52/1999/NĐ_CP và NĐ12/2000/NĐ_ CP. Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1-9-1999 ban hành Quy chế đấu thầu. Nghị định 14/2000/NĐ-CP ngày 5-5-2000 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 88/CP. Nghị định 52/ 1999/ NĐ-CP ngày 8-7-1999 về ban hành Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng . Nghị Quyết 05/2002/NQ-CP ngày 24-04-2002 của Chính Phủ về Một số giải pháp để triển khai thực hiện kế hoạch kinh tế- xã hội năm 2002. Thông tư 04/TT-BKH ngày 26-5-2000 hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu. Thông tư 15/2000/TT-BXD hướng dẫn các hình thức quản lý thực hiện dự án đầu tư và xây dựng. Thông tư 16/2000/ TT- BXD ngày 11-12-2000 hưỡng dẫn việc quản lý xây dựng đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và quản lý các nhà thầu nước ngoài vào nhận thầu xây dựng và tư vấn xây dựng công trình tại Việt Nam . Thông tư liên bộ số 02 /1997/TTLB ngày 25-2-1997 hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 43/CP Thông tư số 17/2001/TT- BTC ngày 21-03-2001 của Bộ Tài Chính về hướng dẫn chế độ quản lý và sử dụng lệ phí thẩm định kết quả đấu thầu. II. Giáo trình và sách tham khảo: Giáo trình Luật đầu tư và xây dựng- PGS.TSKH Nghiêm Văn Dĩnh- NXB Giao thông Vận tải Năm 20010 Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà nội - Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam - - NXB Đại học Quốc gia Hà nội. Năm 2002 Khoa Khoa học quản lý- Giáo trình Hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước– Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Trường Đại học Kiến trúc Hà nội- Giáo trình Pháp luật về xây dựng - - NXB Xây dựng Năm 200. III. Báo và tạp chí: 18. Báo Tài chính tháng 3 năm 2002. 19.Tạp chí Kinh tế và dự báo số 3, số 6 năm 2000. 20.Tạp chí Giao thông vận tải tháng 9,11 năm 2002. 21. Tạp chí Xây dựng số 4, 11 năm 2000; số 1,7,9,10 năm 2001; số 3, 5,10 năm 2002. 22. VACC - Nhà thầu và thị trường xây dựng. Số 3 Năm 2002. IV. Tài liệu tham khảo khác: 23. . Bài giảng về công tác đấu thầu của TS. Nguyễn Việt Hùng- Chánh Văn phòng xét thầu Quốc gia - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 24. Báo cáo tổng kết năm 2001,2002 của công ty. 25. Dự thảo Luật Xây dựng tháng 2/2003. 26. Dự thảo Pháp lệnh đấu thầu ( Dự thảo lần 2) ngày 12/10/2000. 27. Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, quy chế đấu thầu, NXB Xây dựng, Hà Nội, 1995 28. . FIDC: Đấu thầu quốc tế – Sách đỏ 29.Ngân hàng phát triển Châu Á: các tài liệu đấu thầu mua hàng hóa – tàI liệu dịch – Trường cán bộ quản lý thủy lợi, Hà Nội, 1993. 30.Một số chuyên đề, luận văn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20496.doc
Tài liệu liên quan