Chuyên đề Một số Giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn trong dân cư tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG DÂN CƯ PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC. 3 1. Vai trò của vốn đầu tư trong sự nghiệp hiện đạo hoá công nghiệp hoá đất nước 3 2. Nguồn vốn trong dân cư và ý nghĩa của công tác huy động vốn trong dân cư 5 3. Ngân hàng thương mại với hoạt động huy động vốn trong dân cư 7 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TRONG DÂN CƯ CỦA SỞ GIAO DICH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 18 1. Vài nét về hoạt động của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 18 2. Thực trạng huy động vốn trong dân cư của Sở giao dịch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 22 3. Những hạn chế trong công tác huy động vốn từ khu vực dân cư của Sở GD NHNTVN 31 CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TRONG DÂN CƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 39 I. Giải pháp: 39 II. Điều kiện để thực hiện tốt các giải pháp huy động vốn trong dân cư của Ngân hàng 56 KẾT LUẬN 62 TÀILIỆU THAM KHẢO 6

doc67 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số Giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn trong dân cư tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỳ phiếu, trái phiếu, thu tiền gửi tiết kiệm của dân, chỉ thực hiện các dịch vụ cho các doanh nghiệp là chủ yếu, hiện còn một mảng rất lớn những tiện ích của Ngân hàng dành cho các cá nhân bị bỏ trống. * Tâm lý lo sợ trượt giá của đồng tiền: Đồng tiền của ta gần đây đã ổn định hơn song vẫn có sự trượt giá nhất định. Điều đó biểu hiện qua sự tăng lên của giá cả hàng hoá hay sụt giá so với đồng Dolla Mỹ. Vấn đề này là một nỗi ưu tư của người dân: họ còn phần nào dè dặt, một số người chuyển nội tệ ra USD, đồ nữ trang quý hiếm hay bất động sản có vẻ an toàn hơn. * Thói quen tiêu dùng và tiết kiệm: Tiết kiệm và tiêu dùng luôn là hai yếu tố đối nghịch nhau. Một điều rất hiển nhiên là những năm gần đây, với chính sách mở cửa và sự phát triển của cơ chế thị trường, áp lực của chủ nghĩa tiêu dùng ngày một tăng, trái với nó là phần tiết kiệm trong dân chúng bị giảm bớt trước hết là cho bản thân và gia đình họ, nhưng sau cùng là ảnh hưởng đến việc nhập nguồn vốn từ dân cư qua con đường tiết kiệm...Tất nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng sức mạnh tiêu dùng là động lực phát triển của sản xuất, phù hợp với chủ trương kích cầu đầu tư của Chính phủ. Nhưng sự tiêu dùng hiện nay vượt quá mức cần thiết và có những hoạt động chi tiêu chưa chắc đã góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, ví dụ như tư tưởng sính ngoại, lãng phí, đua đòi... Vấn đề đặt ra là làm sao cho dân chúng hiểu được sự cần thiết và quan trọng của công tác tiiết kiệm để từ đó xác định được mức tiêu dùng hợp lý. - Thói quen giữ tiền tại nhà để tiện cho việc sử dụng: Thói quen này của người dân xuất phát từ nền sản xuất kém phát triển, kinh tế nông nghiệp lạc hậu đã hạn chế giao lưu sản phẩn hàng hoá, giao lưu thương mại... Họ muốn bất cứ cái gì cũng có sẵn trong nhà, khi cần là sử dụng được ngay. Chính vì thế, thủ tục gửi rút tiền của ngân hàng có vẻ rườm rà, phức tạp, tốn thời gian. Hơn nữa khi để tiền tại nhà, họ có nhiều thuận lợi cho tiêu dùng hàng ngày, lại có thể nhanh chóng chuyển tiền mặt thành các tài sản khác nếu đồng tiền có nguy cơ mất giá. 2.2 Nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng: Bên cạnh những kết quả đạt được, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam còn bộc lộ những hạn chế ảnh hưởng tiêu cực ảnh hưởng tới kết qả của công tác huy động vốn trong dân cư. Một là các hình thức huy động chưa phong phú, phần lớn vẫn là các hình thức truyền thống. Mạng lưới huy động vốn tuy đã được mở rộng nhưng chưa phát huy được hết thế mạnh của mình do phong cách phục vụ, tác phong giao tiếp của nhân viên Ngân hàng chưa phù hợp với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, chưa có tác phong làm việc công nghiệp. Mặt khác, thời gian giao dịch lại trùng với giờ hành chính nên gây bất tiện cho khách hàng khi muốn đến giao dịch. Hai là công nghệ Ngân hàng áp dụng trong việc cung ứng các dịch vụ cho khách, nhất là trong quan hệ gửi và rút tiền của dân chủ yếu vẫn là trực tiếp và thủ công, chưa được cải tiến nhiều. Mọi khoản tiền gửi vào Ngân hàng, ngoài tiền lãiđược hưởng ra, người dân hầu như chưa được hưởng các tiện ích khác như: thanh toán chi trả, chuyển đổi chiết khấu... Ba là chính sách khách hàng vẫn chưa tạo nên sức hấp dẫn đối với khách hàng. Qua khảo sát thực tế nhiều khách hàng truyền thống của Sở có tài khoản tiền gửi tại nhiều Ngân hàng khác nhau. Điều đó đồng nghĩa với việc nguồn huy động vốn của Sở bị phân tán, chịu sự thu hút mạnh mẽ từ các Ngân hàng khác trên địa bàn. Bốn là hình thức quảng cáo tiếp thị của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam còn tương đối nghèo nàn, chỉ bó hẹp trên các tạp chí của ngành là chủ yếu. Sở giao dịch hầu như chỉ làm công tác quảng cáo, tiếp thị mỗi khi cần huy động vốn đáp ứng được nhu cầu cấp bách của mình trong một thời gian nào đó, chính vì thế, sự hiểu biết và lòng tin của người dân về Sở giao dịch còn hạn chế, ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng huy động vốn của Sở. Năm là chính sách lãi suất của Sở giao dịch chưa thật mềm dẻo và hấp dẫn. So với mặt bằng lãi suất chung, mức lãi suất huy động của Sở giao dịch thường thấp hơn các ngân hàng khác, nhất là mức lãi suất trung và dài hạn. phải chăng đây là một trong những nguyên nhân khiến nhiều người gửi tiền vào Sở giao dịch với kỳ hạn ngắn hơn. Tóm lại, qua hàng loạt các phân tích trên, ta có thể thấy được sự ảnh hưởng của các nhân tố trên đến công tác huy động vốn từ khu vực dân cư của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, trong đó các nhân tố khách quan đống vai trò quan trọng, còn nhân tố chủ quan đóng vai trò quyết định. Và cũng chính từ đây ta sẽ tìm ra được các giải pháp hữu hiệu nhất tạo bước chuyển biến rõ rệt cho hoạt động huy động vốn của Sở giao dịch. IV. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM. Hằng năm hay cứ 6 tháng hoặc sau mỗi đợt huy động vốn bằng kỳ phiếu, Sở giao dịch lại tổng kết, đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm cho thời gian tới, cho đợt huy động kế tiếp. Các bài học đó là: Nắm bắt thời cơ, phát huy tính chủ động sáng tạo: Là một trong những ngân hàng thương mạI quốc doanh lớn hàng đầu, Ngân hàng ngoạI thương đã tự chủ được nguồn vốn, mở rộng hoạt động kinh doanh. Những năm gần đây Sở giao dịch đã mở hàng loạt đợt huy động kỳ phiếu và tiết kiệm theo quyết định của Ngân hàng ngoạI thương trung ương. Đợt huy động nào sở cũng hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao. Có được điều này là nhờ Sở giao dịch luôn có sự chuẩn bị kỹ càng, nắm bắt thời cơ và quan trọng hơn là biết tạo cơ hội cho chính mình, từng bước tăng dần vị thế và uy tín của mình trên địa bàn, tạo được nguồn vốn rất lớn cho hoạt động kinh doanh. Thực hiện tính thận trọng trong bước đi, kiên quyết và dứt khoát trong chỉ đạo: Vì sở giao dịch là nơI thử nghiệm các nghiệp vụ mới trong toàn ngành nên trong quá trình thực hiện nhất thiết phảI tránh sự nóng vội chủ quan. Điều này không có nghĩa là quá thận trọng dẫn đến bỏ lỡ cơ hội kinh doanh mà trong công tác chỉ đạo, điều hành phải có tính kiên quyết, dứt khoát và khôn khéo. Sở giao dịch Ngân hàng ngoạI thương luôn biết cân nhắc từng bước đI, vừa thực hành vừa đúc kết kinh nghiệm kịp thời. Nhân tố góp phần vào sự thành công trong công tác huy động vốn của Sở giao dịch Ngân hàng ngoạI thương là sự thống nhất, quyết tâm cao độ của ban lãnh đạo. Sự thống nhất về chủ trương, về đường lối và tháI độ cương quyết thực hiện của ban lãnh đạo đã củng cố niềm tin và lòng quyết tâm, tinh thần nhiệt huyết của các cán bộ nhân viên. Biết khởi xướng kịp thời và biết kết thúc đúng lúc: Tính nhạy bén và tính kịp thời cũng là hai nhân tố góp phần đưa công tác huy động vốn trong dân cư của sở giao dịch ngân hàng ngoạI thương đến kết quả tốt đẹp. Tập thể ban lãnh đạo của sở giao dịch đã biết khởi xướng các chiến dịch huy động vốn đúng lúc, đúng chỗ, biết phát huy phong trào để quần chúng hưởng ứng tham gia. Kết quả này bắt nguồn từ sự vận động hài hoà hợp lý cơ sở lý luận và thực tiễn, vừa đảm bảo tính khoa học, vừa mang tính sáng tạo, luôn đI trước nắm bắt cơ hội và có thái độ chỉ đạo thận trọng kiên quyết trong từng bước đI, trong từng giai đoạn biến động của lịch sử. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TRONG DÂN CƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM I. GIẢI PHÁP: Muốn khuyến khích dân chúng gửi tiền vào Ngân hàng thì không có cách nào hay hơn là chính Ngân hàng đó phải tạo dựng được niềm tin trong lòng dân chúng và tìm mọi biện pháp để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ. Công tác huy động vốn, đặc biệt đối với việc thu hút vốn trong dân cư là một bài toán khó chưa có lời giải hay, song vấn đề đặt ra không bắt nguồn từ phía khách hàng mà lại xuất phát từ bản thân mỗi Ngân hàng. Quán triệt quan điểm trên, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm khơi thông nguồn vốn trong dân cư tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương. 1. Giải pháp trước tiên là bằng mọi cách nâng cao uy tín của Ngân hàng. Như trên đã phân tích, một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng người dân chưa muốn gửi tiền vào Ngân hàng là họ chưa thực sự tin tưởng ở Ngân hàng. Để lấy được lòng tin của dân chúng, Ngân hàng phải kiên trì phân tích, tìm ra lý do và từng bước đề ra các giải pháp có tính khả thi. Uy tín của Ngân hàng được hình thành trên sự tổng hoà của rất nhiều yếu tố và rất nhiều mối quan hệ khác nhau nhưng ta có thể rút gọn lại bằng công thức sau: Uy tín của Ngân hàng = An toàn + Bảo toàn + thuận tiện + Đơn giản Tuy nhiên, để đảm được 4 chỉ tiêu trên, Ngân hàng phải thực hiện kết hợp hàng loạt các giải pháp cụ thể sau: 1.1 Công tác tuyên truyền - quảng cáo: Ngày nay, việc mở rộng hoạt động của Hệ thống Ngân hàng thông qua việc khuyếch trương, quảng cáo, tuyên truyền là việc làm rất cần thiết. Với phương châm “Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam luôn mang đến cho bạn sự thành đạt”, Ngân hàng phải làm sao cho mọi người biết đến sự hoạt động của mình, thấy được lợi ích khi giao dịch với Ngân hàng. Phải thừa nhận rằng công tác tuyên truyền hoạt động ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua đã được triển khai trên bề rộng, sử dụng số kinh phí không nhỏ nhưng hiệu quả tuyên truyền chưa cao. Vì vậy, trong công tác tuyên truyền, các Ngân hàng thương mại cần chú ý những điểm dưới đây: - Không nên thực hiện quảng cáo tràn lan mà nên tập trung vào quảng cáo một số dịch vụ nhất định như lãi suất tiền gửi, hình thức gửi, sử dụng séc, thẻ thanh toán, tiện ích của việc mở tài khoản cá nhân... - Đa dạng hoá các hình thức quảng cáo như quảng cáo trên truyền hình, đài phát thanh, báo, tạp chí, qua điện thoại, áp phíc nơi công cộng... - Nội dung và hình ảnh quang cáo phải tác động thẳng đến tâm lý và lợi ích của người dân. - Thực hiện khuyến mại theo đợt dưới nhiều hình thức như quay sổ số theo số tài khoản, lãi suất ưu đãi đối với khách hàng giao dịch thường xuyên, khách hàng đặc biệt. Tuy nhiên hoạt động tuyên truyền của Ngân hàng phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của đất nước và khả năng nhận biết của dân chúng. 1.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật: Hình ảnh đầu tiên khiến khách hàng chú ý và quan tâm là cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị máy móc của Ngân hàng. Do đó, yêu cầu đặt ra cho mỗi Ngân hàng là phải xây dựng cho được mặt bằng giao dịch khang trang, hiện đại hoá máy móc thiết bị...Điều này sẽ giúp cho Sở giao dịch có điều kiện tiếp cận với khác hàng tốt hơn và đẩy nhanh hơn quá trình hội nhập với hệ thống Ngân hàng Thế giới. 1.3 Báo cáo hoạt động ngân hàng: Ngân hàng phải báo cáo công khai hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình thông qua các báo cáo tài chính đã được các Cơ quan có thẩm quyền kiểm toán trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người đều biết, nhằm tạo cho Ngân hàng một uy tín, niềm tin vững chắc nơi người gửi, và mục đích là thu hút được nhiều vốn hơn nữa. 1.4 Phong cách phục vụ: - Thái độ của nhân viên, nhất là các nhân viên thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, cần phải có thái độ lịch sự, nhiệt tình, thân thiện. - Trình độ của nhân viên: Đây là kết quả của công tác tổ chức và đào tạo cán bộ. Tuyển lựa và đạo tạo sao cho có được một đội ngũ cán bộ nhân viên vừa có “tâm”, vừa có “tầm”, không những tinh thông về nghiệp vụ mà còn hiểu biết về nhiều mặt, nhanh nhẹn, tháo vát, có khả năng tác nghiệp thành thạo đồng thời giải đáp được hầu hết những thắc mắc, làm thoả mãn tất cả khách hàng, kể cả những khách hàng khó tính nhất. Bên cạnh đó cần có những hình thức thưởng phạt nghiêm minh, khuyến khích bằng vật chất và tinh thần nhằm động viên cán bộ nhân viên có thành tích tốt trong việc thu hút và phục vụ khách hàng. 1.5 Cải tiến công tác thanh toán: - Thủ tục đơn giản: Khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng ngoài mục đích lãi suất, an toàn và thuận tiện thì họ cũng cần các thủ tục đơn giản thuận tiện, nhanh chóng. Trong thời kỳ Ngân hàng tăng cường huy động vốn (phát hành kỳ phiếu) thì có thể tăng lượng nhân viên làm công tác giao dịch với khách nhằm đẩy nhanh tốc độ làm việc, tránh cho khách hàng phải chờ đợi quá lâu. - Mạng lưới các phòng giao dịch: Tại thời điểm này, Sở giao dịch có 8 phòng giao dịch. Để tăng cường huy động vốn, cần mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch, đặc biệt quan tâm mở thêm các phòng giao dịch tại các điểm tập trung dân cư, khu trung tâm thương mại và dịch vụ. - Thời gian giao dịch: Sở giao dịch cũng như đa số các Ngân hàng thương mại khác có giờ giao dịch trùng với giờ làm việc của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh doanh... Vì lẽ đó, một viên chức có nhu cầu gửi tiền vào Ngân hàng thì phải nghỉ làm việc và mất rất nhiều thời gian. Nên chăng Sở giao dịch cần tăng thêm giờ làm việc, bố trí làm theo ca, thậm chí cả ngày nghỉ để thoả mãn nhu cầu của khách. 1.6 Thực hiện chính sách khách hàng: Khi xây dựng và thực hiện chính sách khách hàng cần chú ý những điểm sau: - Thành lập tổ nghiên cứu khách hàng bao gồm các cán bộ có trình độ chuyên môn, có khả năng tiếp cận tốt với khách hàng. - Phân loại khách hàng để có biện pháp đối xử cho phù hợp. Đối với khách hàng truyền thống nên để cho họ được hưởng ưu đãi về lại suất, về dịch vụ và phí thanh toán. - Tổ chức định kỳ hội nghị khách hàng nhằm nắm bắt nhanh nhất nhu cầu của khách và tự đánh giá và khẳng định vị trí của mình trong lòng mỗi khách hàng. 2. Giải pháp thứ hai - vận dụng chế độ lãi suất một cách linh hoạt, mềm dẻo và hấp dẫn. Lãi suất là công cụ quan trọng trong chiến lược huy động vốn của một Ngân hàng thương mại vì nó tác động trực tiếp đến lợi nhuận của ngân hàng và lợi tức thu được của người gửi tiền. Lãi suất cao khuyến khích dân chúng gửi tiền vào ngân hàng, làm tăng quy mô nguồn tiền của ngân hàng nhưng lại có tác động đi ngược lại lợi ích của chính ngân hàng đó, do chi phí của các khoản vay tăng lên dẫn đến lợi nhuận giảm xuống. Như vậy vấn đề đặt ra cho mọi Ngân hàng thương mại là phải đưa ra chính sách lãi suất cạnh tranh hợp lý, vừa đảm bảo thu lợi cao, vừa đảm bảo nằm trong khung lãi suất quy định của Nhà nước. Kinh nghiệm của một số quốc gia thành công trong sự nghiệp phát triển kinh tế mà trước hết là công tác huy động vốn bằng công cụ lãi suất đã cho thấy: chính sách lãi suất chỉ phát huy được hiệu lực của nó trong điều kiện tiền tệ ổn định, lạm phát ở mức vừa phải và không biến động bất thường. Ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90, hệ thống Ngân hàng Việt nam đã sử dụng thành công chính sách lãi suất (lãi suất danh nghĩa cao hơn chỉ số lạm phát). Tuy nhiên, cũng giống như một số Ngân hàng thương mại khác, lãi suất đầu vào của Sở giao dịch hơi cao (so với tỷ lệ lạm phát hiện nay) làm cho công tác tín dụng gặp nhiều khó khăn. Vì thế, Sở giao dịch cần thiết phải sử dụng một chính sách lãi suất hợp lý nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác huy động vốn, đặc biệt từ khu vực dân cư, đồng thời kích thích các đơn vị kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Để cho công cụ lãi suất phát huy được vai trò, tác dụng của mình trong cơ chế thị trường, chính sách lãi suất của Sở giao dịch NHNT cần tiếp tục được điều chỉnh theo hướng sau: 2.1 Chỉ đạo lãi suất theo nguyên tác kinh tế thị trường và quan hệ cung cầu: Trong cơ chế thị trường, mọi chủ thể đều tuân theo các quy luật kinh tế. Chính sách lãi suất không thể được xây dựng chỉ theo cảm tính và dự đoán mà nhất thiết phải xây dựng trên cơ sở cung cầu vốn trên thị trường. Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, căn cứ vào lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn, đảm bảo ngân hàng kinh doanh có lãi. Lãi suất cho vay trung bình phải cao hơn lãi suất huy động bình quân, khoản chênh lệch chính là “lãi gộp” của ngân hàng để bù đắp chi phí, thuế, phí dự trữ bắt buộc, dự phòng rủi ro và lợi nhuận ròng. Điều đó cho thấy ngân hàng không thể tăng lãi suất huy động một cách tuỳ tiện vì đó không phải là một giải pháp mang tính lâu dài mà chỉ là giải pháp mang tính tình thế. 2.2 Lãi suất danh nghĩa bằng với lãi suất thực tế + tỷ lệ lạm phát. Mức lãi suất huy động của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam luôn phải cân đối với lãi suất trên thị trường và tỷ lệ trượt giá khi có một sự biến động, dù nhỏ, phải được điều chỉnh kịp thời và linh hoạt. Đảm bảo nguyên tắc này, Sở giao dịch mới có thể khuyến khích dân chúng gửi tiền, giảm tích luỹ vàng và ngoại tệ. 2.3 Luôn duy trì nguyên tắc: thời hạn gửi càng dài, lãi suất càng cao, số lượng gửi càng lớn, lãi suất càng nhiều. Mục đích của nguyên tắc này nhằm bảo vệ lợi ích của người gửi tiền trung dài hạn cao hơn ngắn hạn nhưng sau khi tính toán, người ta thấy rằng cùng với một món tiền gửi trong cùng một khoảng thời gian thì lãi suất thu được do gửi hạn dài vẫn thấp hơn so với thời hạn ngắn. Điều này dẫn tới sự thiệt thòi cho người gửi tiền trung dài hạn vì mức độ rủi ro mà họ gánh chịu tương đối lớn. Mặt khác, khi nâng lãi suất cho các số tiền gửi cho số lượng lớn và kỳ hạn dài, ngân hàng có thể không bị giảm lợi nhuận vì chi phí huy động vốn đã được giảm một phần đáng kể. 2.4 áp dụng các hình thức trả lãi khác nhau: Thông thường, khi đến hạn, các khoản gốc và lãi mới được thanh toán. Trong khi đó cuộc sống hàng ngày luôn phát sinh nhiều vấn đề cần chi tiêu. Nếu cứ cứng nhắc duy trì như vậy, ngân hàng sẽ khó lòng thu hút được các khoản tết kiệm, nhất là tiền gửi trung dài hạn, để khắc phục hạn chế này, ngân hàng nên đưa ra các công cụ đã lấy sau: * Trả lãi trước: Phương thức này sẽ làm cho người gửi tiền cảm thấy mức lãi suất mà họ thực sự nhận được cao hơn lãi suất mà ngân hàng công bố. * Trả lãi theo chu kỳ nhất định: Sở giao dịch có thể tính và trả lãi theo định kỳ 3 thàng, 6 tháng, hay một năm 1lần. Mặt khác nếu đến kỳ trả lãi, người gửi tiền không đến nhận thì lãi sẽ được vốn hoá (nghĩa là nhập lãi vào gốc). 2.5 Mở rộng khoảng cách giữa lãi suất huy động ngắn hạn và lãi suất huy động trung dài hạn. Thực hiện giải pháp này là để khuyến khích dân chúng gửi tiền với kỳ hạn dài mà không ảnh hưởng tới mức lãi suất huy động bình quân. Muốn vậy, Sở giao dịch phải nghiên cứu, tính toán để xác định mức lãi suất thích đáng, thể hiện sự ưu đãi rõ rệt đối với tiền gửi trung dài hạn. 2.6 áp dụng cả hai chế độ lãi suất cố định và lãi suất thả nổi: Khách hàng khi gửi tiền hay mua kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng có thể lựa chọn một trong hai loại lãi suất kể trên. Nếu khách hàng đồng ý với mức lãi suất hiện có và tin tưởng vào sự ổn định của đồng tiền thì họ sẽ chấp nhận một lãi suất cố định. Trái lại nếu khách hàng không muốn mãi duy trì một mức lãi suất cho trước thì họ có thể yêu câu ngân hàng điều chỉnh mức lãi suất 6 tháng hay một năm 1 lần băng cách tính chênh lệch với lãi suất bình quân trên thị trường một tỷ lệ nào đó. 2.7 Công khai tỷ lệ lãi suất huy động: Ngân hàng cần có những quy định cụ thể trong việc công bố lãi suất để người dân theo dõi một cách dễ dàng hơn. Khi có một sự thay đổi nào đó trong lãi suất huy động cũng nên tiến hành thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để dân chúng còn nắm bắt kịp thời và để cho họ thấy được mức độ hấp dẫn về lãi suất huy động của Sở giao dịch so với các ngân hàng khác. Như vậy, chính sách lãi suất một mặt phải tạo ra được sự linh hoạt, mềm dẻo không theo một khuôn mẫu định sẵn, mặt khác phải tuân thủ những quy luật kinh tế cơ bản. Thực tế cho thấy, Hàn Quốc đã rất thành công với một chính sách tiền tệ thắt chặt, giảm tối đa mức lãi suất huy động trong thời gian “cất cánh”. Ngược lại, chính phủ Đài Loan vào giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển kinh tế lại rất thành công trong việc sử dụng chính sách lãi suất tiền gửi cao để kích thích các dự án đầu tư cần ít vốn, sử dụng nhiều lao động rẻ mạt mà vẫn sinh lời. Do đó ngân hàng phải điều chỉnh lãi suất một cách linh hoạt phù hợp với đặc điểm kinh tế đất nước. 3 Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn: Việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn là một trong những biện pháp hiệu quả nhất giúp ngân hàng khơi tăng nguồn vốn huy động trong dân cư. Để tạo ra sự hấp dẫn mới trong công tác huy động vốn, sở giao dịch NHNT nên mở rộng theo hướng: 3.1 Không ngừng hoàn thiện và phát triển các hình thức huy động tiết kiệm hiện có đồng thời xây dựng những hình thức mới. Hiện tại, Sở giao dịch NHNT đang sử dụng một số hình thức tiết kiệm truyền thống như tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn và tiết kiệm xây dựng nhà ở. Tuy nhiên, nếu chỉ bó hẹp trong các hình thức này thì tổng nguồn vốn huy động của Sở khó có thể tăng nhanh được. Do đó Sở cần nghiên cứu tạo lập thêm nhiều hình thức huy động mới khác. * Tiết kiệm mua nhà ở: Hình thức huy động này đã được thực hiện ở một số Ngân hàng thương mại, cổ phần song quy mô còn thấp và chưa được người dân tin dùng. Cùng với chủ trương kích cầu của Chính phủ, Ngân hàng Ngoại thương sẽ cải tiến hình thức huy động này bằng cách nhận tiền gửi của khách hàng cho mục đích mua nhà theo định kỳ, lãi suất ưu đãi. Khi số dư tiền gửi của khách hàng đã đạt được một lượng nhất định, Sở giao dịch sẽ cho vay phần còn lại của ngôi nhà với lãi suất, kỳ hạn ưu đãi và lấy chính ngôi nhà hay căn hộ này là vật thế chấp. Tuy nhiên, hình thức huy động/cho vay này cũng có rủi ro do quy định của pháp luật về đất đai và nhà ở còn một số vướng mắc, nhưng ở giai đoạn thu hút vốn ban đầu rất thích hợp cho các tầng lớp dân cư với mức thu nhập đã ổn định và có nhu cầu mua nhà riêng. Đồng thời sẽ thay đổi thói quen tích trữ vàng trong nhà của người dân bằng việc gửi ngân hàng. Khó khăn của hình thức huy động này là các cơ sở pháp lý xác định quyền sở hữu đất đai nhà cửa còn nhiều hạn chế, trình độ dân trí của các đối tượng lựa chọn sản phẩm dịch vụ này còn thấp, chi phí cho việc huy động cũng như theo dõi các khoản vay này còn lớn hơn so với lợi nhuận thu được từ dịch vụ. Nếu thực hiện hình thức huy động này, Sở giao dịch cần ban hành quy chế riêng cho việc huy động và cho vay mua nhà ở, với một số nội dung chính như sau: - Sở giao dịch nhận gửi góp bằng VNĐ và USD (chưa nhận gửi bằng vàng, nhưng có thể gửi VNĐ đảm bảo bằng vàng). - Hình thức huy động này là hình thức tiết kiệm gửi góp (giống tiết kiệm gửi góp của Bưu điện). Định kỳ, khách hàng gửi tiền vào ngân hàng trong một tài khoản tiết kiệm riêng. Lãi của tài khoản được tính theo phương pháp tích số với lãi suất có kỳ hạn (nhưng lãi suất thấp hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn). - Quyền lợi của khách hàng: Khi khách hàng đã gửi vào Sở giao dịch một số dư nhất định và đã tìm được một ngôi nhà vừa ý, Sở giao dịch sẽ cho khách hàng vay số tiền phần còn lại với thời hạn ngắn, trung, dài hạn tuỳ vào khả năng trả nợ của khách hàng. Bên cạnh đó, Sở giao dịch cũng nhận làm trung gian thanh toán cho khách hàng không thu phí hoặc thu phí thấp. * Tiết kiệm rút định kỳ một số tiền bằng nhau: Nhằm giải toả tâm lý mất quyền sử dụng tiền của người gửi, loại hình tiết kiệm này cho phép người gửi tiền được rút ra từng định kỳ một số tiền bằng nhau cho đến khi đáo hạn, giúp họ giải quyết được các khó khăn hoặc nhu cầu cần thiết đột xuất nảy sinh. * Tiết kiệm báo trước thời hạn rút: Phương thức này chỉ nên áp dụng với thời hạn đáo hạn ít nhất là 3 năm, nhằm phục vụ cho những nhu cầu có tính chất ổn định như: chuẩn bị tiền cho con vào đại học... mà người gửi dự tính được gần đúng nhu cầu cần thiết trong tương lai, và được báo trước chính xác ngày lấy tiền cho ngân hàng, trước từ 1 đến 3 tháng tuỳ theo lượng tiền gửi vào ngân hàng. *Tiết kiệm học đường: Đây là hình thức được triển khai và áp dụng tại các trường học với mục đích giáo dục ý thức tiết kiệm cho học sinh chuẩn bị vào đời trong sinh hoạt cộng đồng, trên cơ sở hình thành kết dư tiết kiệm đáp ứng một phần chi tiêu cho nhu cầu học tập và làm tiền đề cho vay để trang trải một số chi phí vào đại học. Hai nội dung cần quan tâm khi triển khai phương thức này: - Thời hạn nên kéo dài vừa đủ phù hợp với từng lứa tuổi học sinh và khi chuẩn bị bước vào đại học. - Lãi suất là phần thưởng thích đáng nhằm khuyến khích và giáo dục ý thức tiết kiệm cho lứa tuổi học sinh. * Tiết kiệm dưỡng lão: Hợp đồng tiết kiệm dưỡng lão có thể coi là sản phẩm lai tạp giữa bảo hiểm và ngân hàng. Đó là một loại “Bảo hiểm nhân thọ” đặc thù do ngân hàng cung cấp cho dân cư, nhằm bổ khuyết vào sự thiếu vắng về loại sản phẩm này của ngành Bảo hiểm Việt Nam, mặt khác nó lại thích ứng hơn với đặc điểm tâm lý của người Việt Nam, nhờ các lợi thế sau: - Cung cấp cho người dân một dịch vụ quản lý nguồn tích luỹ của cá nhân để đảm bảo nguồn sống khi về già hoặc hết khả năng lao động, mà không đòi hỏi quá nhiều giấy tờ, thủ tục hành chính như các loại hình bảo hiểm chính thống. - Phần vốn gốc tích luỹ không mất đi nếu người hưởng thụ chết trước hạn, mà sẽ được thừa kế chọn vẹn theo pháp luật, hoặc có thể được trả lại toàn bộ cùng lãi suất (sau thời hạn nhất định, tối thiểu 10 năm) cho người thụ hưởng ngay khi thường sống, hay được chuyển đổi thành các khoản niên kim thu nhập ổn định trọn đời. - Tính linh hoạt, mềm dẻo của một sản phẩm tiền tệ được thể hiện ở chỗ: người gửi được toàn quyền quyết định về số tiền, tiền gửi mỗi lần tuỳ theo khả năng tích luỹ thực của mình chứ không bị bó buộc định kỳ, định mức như đóng phiếu bảo hiểm. - Khi cung cấp loại hình tiết kiệm dưỡng lão này, ngân hàng sẽ khai thác được ưu thế về mặt tài chính về một loại sản phẩm bảo hiểm truyền thống: ngân hàng thu nhận và quản lý được một nguồn tiền ổn định, liên tục và lâu dài. Vì vậy, có toàn quyền quyết định sử dụng để đầu tư trung dài hạn nhằm đạt tỷ suất sinh lời cao... Với các xu hướng nêu trên, sản phẩm này có sức cạnh tranh đặc biệt đối với ngành Bảo hiểm. * Chứng chỉ tích luỹ vốn có thể chuyển nhượng: Hình thức này đòi hỏi thời gian tích luỹ tiền của khách hàng ít nhất là từ 5 năm trở lên. Cũng như hợp đồng tiết kiệm dưỡng lão, chứng chỉ tích luỹ vốn cho phép người gửi tiền được hưởng một sự đảm bảo về vốn gốc và thuế. Nhưng điểm khác biệt là chứng chỉ tích luỹ vốn có khả năng chuyển nhượng cho các cá nhân khác, điều này cho phép người chủ sở hữu nhanh chóng thu hồi trước hạn số vốn đã tích luỹ của mình mà vẫn được đảm bảo về giá trị vốn gốc (bởi vì nó không hề bị rút ra khỏi ngân hàng) * Sổ tiết kiệm có phần vốn được đảm bảo: Giống như hai hình thức trên, hình thức này cũng cho phép phần vốn gốc của người gửi tiền được đảm bảo theo thời gian trên cơ sở tỷ lệ lạm phát hàng năm, phần lãi được xác định theo một tỷ lệ cố định hoặc được điều chỉnh định kỳ hàng quý tương ứng vơí mặt bằng lãi suất trên thị trường. Đối với loại sổ có thu nhập cố định thì tiền lãi được trả theo định kỳ hoặc nhập lãi vào gốc. Đối với loại sổ có thu nhập khả biến thì lãi được trả theo định kỳ. Thời hạn của các loại sổ này tối thiểu là 5 năm. Loại hình tiết kiệm này khiến người gửi yên tâm, giải toả được tâm lý ám ảnh, lo sợ đồng tiền bị mất giá. Về phía ngân hàng, phương thức huy động như trên tạo điều kiện cho ngân hàng hoàn toàn làm chủ được về “giá đầu vào” cũng như thời hạn khả dụng của nó, từ đó xây dựng được “giá thành” và “vòng đời” cho các loại sản phẩm “đầu ra”. * Tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng và theo đô la: Trong điều kiện của nước ta hiện nay, hình thức tiết kiệm đảm bảo bằng vàng hay USD sẽ có sức hấp dẫn hơn vì từ nhiều năm nay, người dân Việt Nam có thói quen dùng vàng, USD để đo giá trị của hàng hóa, tài sản có giá trị lớn như nhà cửa, xe máy... Hai loại tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng và theo USD đều có thể thực hiện được dưới hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích. Việc huy động vốn có giá trị bằng vàng được thực hiện theo nguyên tắc: lãi suất huy động được áp dụng theo lãi suất quốc tế (thấp hơn lãi suất tiền gửi thông thường) thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Ngân hàng huy động vốn bằng VND quy ra vàng 99,99% theo giá bán của công ty vàng bạcViệt Nam tại thời điểm gửi. Khi nhận tiền gửi, ngân hàng sẽ ghi rõ trên kỳ phiếu số tiền huy động và số lượng vàng tương đương. Tiền lãi được tính theo tỷ lệ lãi của số vàng đó. Đến hạn trả lãi, nếu người gửi tiền không đến lĩnh thì ngân hàng sẽ hạch toán vào một tài khoản riêng và được hưởng lãi theo lãi suất không kỳ hạn. Vào ngày đáo hạn, người gửi sẽ nhận được số tiền bằng VND tương đương với số lượng vàng ghi trên kỳ phiếu theo giá bán vàng 99,99% của công ty vàng bạc đá quý Việt Nam. Trên đây là một số loại hình tiết kiệm mà Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương có thể xem xét tham khảo và lựa chọn, dĩ nhiên không nhất thiết sử dụng tất cả các phương thức đó mà chỉ cần thực hiện vài ba hình thức nào đó phù hợp với khả năng và quan trọng hơn đó là phát huy triệt để thế mạnh của mình. 3.2 Phát hành trái phiếu ngoại tệ và ĐVN: Khó khăn trong việc phát hành trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu bằng ĐVN là biến động về tỷ giá và lãi suất. Để hạn chế rủi ro lãi suất, Ngân hàng đầu tư thường phát hành trái phiếu VNĐ 5 năm nhưng áp dụng lãi suất thả nổi theo lãi suất tiết kiệm 12 tháng và Kho bạc Nhà nước thường xuyên huy động trái phiếu thời hạn 2 năm. Hình thức phát hành trái phiếu VNĐ và ngoại tệ là giải pháp hữu hiệu nhất mà Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương có thể thực hiện được nhằm thu hút vốn trung dài hạn trong một thời gian ngắn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi lãi suất đang ở mức thấp, việc phát hành trái phiếu có thể đạt được hiệu quả nhất định. Rút kinh nghiệm từ các đợt phát hành trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư, và áp dụng một số lợi điểm của trái phiếu Kho bạc Nhà nước, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương có thể phát hành trái phiếu theo một số nội dung chính như sau: - Phát hành trái phiếu bằng VNĐ và ngoại tệ kỳ hạn 5 năm nhưng có lựa chọn sau 2 năm. Tức là sau 2 năm khách hàng có thể lựa chọn: gửi tiếp hoặc rút tiền về: + Trường hợp khách hàng rút tiền về, họ sẽ được hưởng lãi suất kỳ hạn 2 năm (giống trái phiếu Kho bạc bán lẻ cho dân cư). + Còn nếu không có yêu cầu gì thì khách hàng sẽ được hưởng lãi suất kỳ hạn 3, 4, 5 năm nếu họ gửi được tròn 3, 4, 5 năm. - Sở giao dịch nhận mua lại trái phiếu nếu khách hàng có nhu cầu bán. - Loại trái phiếu có thể phát hành: Ghi danh, vô danh, ghi sổ. - Lãi suất: Vì trái phiếu là loại được lựa chòn sau 2 năm nên cơ chế lãi suất cần linh hoạt. Trong giai đoạn hiện nay, do lãi suất của VNĐ và USD đang ở mức thấp nên trong hai năm đầu có thể để lãi suất ở mức cố định vì điều đó có thể hạn chế bớt rủi ro lãi suất. Từ năm thứ 3 trở đi, lãi suất sẽ được quy định từng năm dựa trên lãi suất tiết kiệm VNĐ và USD kỳ hạn 12 tháng cộng thêm 0,1%/tháng đối với VNĐ và 0,2%/năm đối với USD. - Trái phiếu VNĐ được đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán. 4 Mở rộng các dịch vụ phục vụ các khách hàng: Hiện nay, phương thức cạnh tranh hiện đại giữa các Ngân hàng là cạnh tranh bằng loại hình và chất lượng dịch vụ. Thông qua các dịch vụ cung ứng, Ngân hàng sẽ nắm bắt được ngày càng cao nhu cầu của khách hàng. Để thu hút được nhiều khách hàng, khơi tăng nguồn vốn huy động, Sở giao dịch nên nghiên cứu, triển khai thêm các hình thức sau: 4.1 Dịch vụ tư vấn: * Dịch vụ tư vấn đầu tư: Trong dịch vụ tư vấn đầu tư, Ngân hàng có thể hướng dẫn khách hàng xây dựng dự án, lựa chọn sản phẩm sản xuất... Đối với các loại hình dịch vụ này, Sở giao dịch nên mở rộng để nó vừa trở thành công cụ quảng cáo, vừa tạo niềm tin vững chắc cho khách hàng có nhu cầu. * Dịch vụ tư vấn tài chính: Thực tế cho thấy rằng, nhiều khi Ngân hàng cũng phải giúp đỡ khách hàng lập báo cáo tài chính, phân tích tài chính... 4.2 Dịch vụ tại nhà: Trình độ dân trí nước ta chưa cao. Hơn nữa, những người già yếu, neo đơn, những người khuyết tật sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi đến Ngân hàng gửi tiền. Vì vậy Sở giao dịch có thể cử cán bộ của mình đến tận nơi để làm thủ tục gửi tiền khi nhận được điện thoại hoặc thư yêu cầu. Đây là một biện pháp hiệu quả, thu hút được một bộ phận khách hàng lâu nay còn chưa được chú ý tới. 4.3 Dịch vụ chi lương: Từ số dư tài khoản của doanh nghiệp tại Ngân hàng, Ngân hàng sẽ thực hiện việc chi trả lương cho nhân viên của doanh nghiệp. Nếu nhân viên nào có tài khoản tại Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ tự động nhập tiền lương vào tài khoản của họ. Còn đối với những nhân viên không có tài khoản hoặc có tài khoản tại ngân hàng khác thì Ngân hàng vẫn có thể gửi tiền về tận nhà hay gửi vào tài khoản của họ tại Ngân hàng kia. Dịch vụ này mang lại cái lợi là doanh nghiệp không mất chi phí rút tiền từ Ngân hàng về để chi trả lương; còn đối với công nhân viên, họ được hưởng thêm phần lãi suất của khoản tiền chưa cần sử dụng đến, mặt khác lại đảm bảo bí mật tài chính của họ; Ngân hàng thì có được nguồn vốn thông qua dịch vụ này. 4.4 Dịch vụ khấu trừ tự động Bên cạnh dịch vụ chi trả lương, Ngân hàng sẽ kiêm luôn dịch vụ khấu trừ tự động. Ngân hàng sẽ đứng ra thu hộ tiền cho các công ty cung ứng từ các hộ gia đình khi sử dụng điện, nước, điện thoại...Khi đến kỳ thanh toán, các nhà phân phối sẽ gửi trực tiếp các hoá đơn thanh toán đến Ngân hàng nơi chủ thanh toán có tài khoản. Lúc đó, Ngân hàng sẽ trích tiền từ tài khoản của chủ thanh toán sang tài khoản của công ty cung ứng dịch vụ. Công việc này rất đơn giản, làm giảm bớt chi phí hữu hình và vô hình cho các bên. 4.5 Dịch vụ chuyển tiền nhanh: Ngân hàng nên quan tâm hơn nữa đến loại hình dịch vụ này vì nó vừa giúp tăng thu nhập, lại vừa làm tăng uy tín cho Ngân hàng. Trong tương lai, cùng với xu hướng quốc tế hoá ngành thương mại thì dịch vụ chuyển tiền nhanh, dịch vụ đại lý, dịch vụ uỷ thác đầu tư... sẽ rất phát triển. Có thể khẳng định rằng, khi mở rộng thêm các dịch vụ nêu trên, nguồn vốn huy động trực tiếp qua đó không nhiều song chúng ta lại có khả năng nâng cao uy tín cuả Ngân hàng trên thị trường, góp phần thu hút đông đảo khách hàng đến với giao dịch với Ngân hàng. 5. Phổ biến rộng rãi việc sử dụng tài khoản cá nhân và thẻ thanh toán. Mặc dù không được coi là nguồn vốn trung dài hạn nhưng nó lại có một ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của Ngân hàng. Trước hết việc mở rộng các phương này sẽ giúp Ngân hàng thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để tăng cường tín dụng đối với nền kinh tế, bởi vì tuy thường xuyên biến động nhưng tính trên toàn bộ tài khoản tiền gửi thanh toán luôn tồn tại một số dư nhất định (khoảng 20%) mà Ngân hàng có thể sử dụng để cho vay. Hơn nữa, do phải trả lãi rất thấp, thậm chí bằng không đối với tài khoản giao dịch, nên nếu như Ngân hàng tăng cường nguồn vốn này thì có điều kiện hạ thấp lãi suất bình quân, trên cơ sở đó giảm dần mức lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp. Ở những nước phát triển, các hình thức thanh toán qua Ngân hàng thông dụng nhất là séc cá nhân và thẻ thanh toán. Nhưng ở Việt Nam, các hình thức này mới xuất hiện và phát triển ở mức độ rất hạn chế, chủ yếu tập trung ở những Ngân hàng lớn như Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu và một số Ngân hàng nước ngoài. Vì vậy các hình thức thanh toán qua Ngân hàng cần được tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng và triển khai mạnh mẽ hơn nữa. 5.1 Đối với séc cá nhân: Cần cho phép phát hành séc tiền mặt để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ tài khoản tiến hành thanh toán cho người thụ hưởng. Người thụ hưởng dù chưa mở tài khoản tại Ngân hàng vẫn có thể mang séc đến Ngân hàng để rút tiền mặt, thu tiền bán hàng nhanh chóng, dễ dàng. Để đảm an toàn, thuận tiện và chính xác khi thanh toán cho khách, Ngân hàng cần làm tốt các bước sau: - Đảm bảo khả năng chi trả cho khách: Ngân hàng phải thanh toán ngay bằng chuyển khoản hoặc cho phép khách hàng rút tiền mặt bất cứ lúc nào bằng cách luôn duy trì định mức tồn quỹ tiền mặt hợp lý. - Bố trí mạng lưới quy hoạch thuận tiện. - Bố trí nhân viên có trình độ nghiệp vụ và khả năng giao tiếp tốt. - Chuẩn bị phương án kỹ thuật đồng bộ như trang thiết bị, chương trình máy vi tính trong nội bộ Ngân hàng và chương trình giao dịch của Ngân hàng với các tổ chức, chương trình thanh toán bù trừ liên ngân hàng. Có phương án sử lý rủi ro trong giao dịch của khách hàng cũng như của Ngân hàng. Do đặc điểm là hiểu biết của người dân nước ta trong việc sử dụng công cụ thanh toán không dùng tiền mặt còn hạn chế nên với các biện pháp nêu trên, Sở giao dịch cần nghiên cứu và soạn thảo cẩm nang hướng dẫn các đối tác tham gia quá trình thanh toán séc. Vấn đề cuối cùng mà Sở giao dịch cần quan tâm là việc triển khai mở tài khoản và sử dụng séc phải đảm bảo chắc chắn, an toàn và hiệu quả; Khuyến khích mở tài khoản và séc cá nhân là một việc làm cần thiết và đúng lúc nhằm tạo cơ hội tiếp cận và làm quen với tập quán không dùng tiền mặt, chuẩn bị tiếp xúc với các công cụ hiện đại như Credit card, Debit card, Smart Card... sớm hội nhập với mạng lưới Ngân hàng quốc tế. 5.2 Đối với thẻ thanh toán: Nhanh chóng, thuận tiện và an toàn là ưu điểm nổi bật của thẻ thanh toán. Ở Việt Nam hiện nay, chỉ có Ngân hàng Ngoại thương và ACB bank triển khai rộng rãi việc phát hành và sử dụng thẻ. Tuy nhiên mạng lưới chấp nhận thanh toán thẻ trong nước vẫn còn rất hạn chế. Để mở rộng hơn nữa việc phát hành thẻ, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương cần phải chú ý hơn nữa tới việc nâng cao số lượng khách hàng dùng thẻ. Khách hàng là một vấn đề sống còn của hệ thống thẻ thanh toán. Trong số đó đặc biệt lưu tâm đến đối tượng có thu nhập cao. Bằng công nghệ hiện đại, bằng đội ngũ kỹ thuật viên, chuyên viên giỏi về nghiệp vụ và kỹ thuật, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua thực tế thực hiện dịch vụ cho khách hàng, Sở giao dịch cần đi sâu hơn nữa vào tâm lý thích sử dụng thẻ của khách hàng. 6. Nâng cao chất lượng sử dụng vốn và tiết kiệm chi phí hoạt động: Thực tế hiện nay, chi phí cho hoạt động của Ngân hàng còn khá lớn. Các chi phí đó bao gồm: chi phí quản lý, chi phí thẩm định, chi phí quảng cáo tiếp thị và tiền lương cho công nhân viên... Khi xác định mức lãi suất đầu ra, Ngân hàng thường xây dựng trên mối quan hệ tổng hoà giữa ba yếu tố: lãi suất huy động, chi phí hoạt động và lợi nhuận bình quân. Nếu tiết kiệm tối đa và phân bổ hợp lý các loại chi phí này thì Ngân hàng có thể tăng lãi suất huy động, thu hút mạnh mẽ dân chúng đến gửi tiền vào Ngân hàng. 7. Các biện pháp khác: Sở giao dịch cũng có thể phối hợp với Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội để tránh cạnh tranh trong cùng một ngân hàng, nâng cao sức mạnh cạnh tranh trên thị trường, đồng thời cũng cần phối hợp trong việc phân chia thị trường nhằm phối hợp chặt chẽ với nhau, tránh những thiệt hại không đáng có thường sảy ra trong quá trình cạnh tranh. II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN TỐT CÁC GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN TRONG DÂN CƯ CỦA NGÂN HÀNG. Mặc dù Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương đã đưa ra nhiều giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường công tác huy động vốn từ khu vực dân cư, song nếu không có sự ủng hộ, quan tâm của các cấp, các ngành thì chưa chắc đã mang lại hiệu quả cao. Chính vì vậy, Chính phủ cần tạo lập một môi trường thuận lợi cho toàn hệ thống Ngân hàng để ngành Ngân hàng phát triển và giữ vững vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân, trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. 1. Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: Như đã nêu trên, sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là điều kiện tiền đề cơ bản nhất cho mọi sự tăng trưởng nói chung và cho việc đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn vào Ngân hàng nói riêng. Đối với Việt Nam hiện nay, một trong những nội dung chủ yếu nhất của việc tạo lập ổn định nền kinh tế vĩ mô là đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ mà trọng tâm là giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá. 1.1 Về lãi suất: Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp với từng thời kỳ nhưng phải đảm bảo lãi suất thực “dương” có lợi cho người gửi tiền. Khi nước ta có một thị trường tiền tệ hoàn hảo thì chúng ta phải tiến tới sự tự do hoá lãi suất, xoá bỏ mức trần lãi suất, thay vào đó là mức lãi suất tái chiết khấu và lãi suất trên thị trường mở. Có như vậy, các Ngân hàng thương mại mới độc lập tự chủ hơn trong việc hoạt động kinh doanh của mình. 1.2 Về tỷ giá: Thực hiện chế độ điều hành tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị trường, các Ngân hàng khi tiến hành huy động tiền gửi cần có một chế độ tỷ giá được định hướng và ổn định trong một thời gian dài. Trên thực tế có rất nhiều ý kiến cho rằng tỷ giá hiện tại của ta chưa phản ánh được sức mua của động nội tệ, đồng Việt Nam bị đánh giá quá cao gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu, do đó phải thực hiện phá giá tiền tệ. Tuy nhiên, đây là một vấn đề ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế, xã hội, cho nên khi tiến hành cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng trên tất cả các phương diện, các lĩnh vực khác nhau. Trước mắt chúng ta tiếp tục điều tiết linh hoạt tỷ giá theo hướng: - Phát triển thị trường hối đoái và thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Trên cơ sở đó thống nhất, tập trung cơ chế điều hành và can thiệp điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước. - Tập trung quỹ ngoại tệ do Ngân hàng Nhà nước quản lý, xây dựng nguyên tắc và chuẩn bị một lượng ngoại tệ để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. - Hoàn thiện các văn bản pháp lý về quản lý ngoại hối. - Tiếp tục vận hành cơ chế điều hành tỷ giá như hiện nay, nhưng giảm dần sự can thiệp, kiểm soát của Nhà nước, cho phép tỷ giá được hình thành một cách khách quan hơn, sát thực hơn theo quy luật kinh tế thị trường. 2. Hoàn thiện môi trường pháp lý: Đi đôi với những thanh tựu đạt được, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương còn gặp không ít trở ngại trong công tác huy động vốn bởi môi trường pháp lý Việt Nam tuy có đổi mới nhưng chưa hoàn thiện. Hiện nay, ngoài hiến pháp là đạo luật cơ bản, còn lại những bộ luật kinh tế vẫn còn có nhiều thiếu sót, thậm chí có chỗ bất hợp lý, gây tâm lý lo lắng sợ gặp phải những rủi ro cho người đầu tư và người sử dụng vốn đầu tư. Như vậy để đảm bảo quyền lợi cho tất cả các bên thì cần phải có một hệ thống pháp lý rõ ràng và bình đẳng. Chính phủ cần luật hoá mọi hoạt động liên quan đến tiền tệ, tín dụng, tạo môi trường lành mạnh và hành lang pháp lý rõ ràng cho các Ngân hàng phát huy hết khả năng của mình, đồng thời tạo niềm tin vững chắc cho dân chúng đối với hệ thống Ngân hàng. Không chỉ có thế, khi Luật Ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng được ban hành, chính phủ phải cùng với các Ngân hàng làm sao cho dân chúng hiểu rõ và tin tưởng rằng: Quyền lợi của họ luôn được đảm bảo vì luật pháp đứng về phía họ. 3. Xây dựng môi trường tâm lý xã hội thuận lợi: Nhà nước cần thường xuyên tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước như chủ trương phát huy nội lực, dựa vào sức dân để phát triển kinh tế, làm cho người dân nhận thức được vai trò làm chủ của mình trong công cuộc xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, Nhà nước phải tạo ra được một tâm lý xã hội coi trọng tích luỹ trong toàn quốc; làm sao cho dân chúng thực hiện hài hoà giữa tích luỹ và tiêu dùng; tạo ra được trào lưu kinh doanh tiết kiệm vốn, tăng cường tích luỹ, tạo năng lực tài chính, mở rộng năng lực đầu tư khi có đủ điều kiện. Muốn vậy Chính phủ nên thực hiện một số biện pháp sau: - Cương quyết lên án những thói quen tiêu dùng lãng phí, giảm thiểu tiêu dùng những hàng hoá mang tính xa xỉ bằng cách cấm nhập hoặc đánh thuế thật cao. - Xây dựng, phát hiện và phổ biến những tập thể cá nhân điển hình trong cả nước giàu lên nhờ làm ăn giỏi và biết tiết kiệm. - Xử lý nghiêm minh những người có hành vi tham nhũng trong bộ máy Nhà nước nhằm củng cố niềm tin của dân để họ hiểu rằng Nhà nước là của dân, do dân, vì dân. 4. Hình thành và phát triển thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán có vai trò tích cực trong công tác huy động vốn trung dài hạn cho nền kinh tế, là một hình thức phát triển cao của hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro và vô cùng phức tạp, do vậy cần phải chuẩn bị tốt một số tiền đề cơ bản để cho thị trường chứng khoán sớm đi vào vận hành và mang lại hiệu quả cao. Đó là các điều kiện sau đây: - Điều kiện con người: Phải có đủ trình độ quản lý và điều hành thị trường. - Điều kiện vật chất: Phải có nền kinh tế hàng hoá phát triển đến một trình độ chất định, có nhiều doanh nghiệp, công ty cổ phần tư nhân, lưu thông tiền tệ ổn định, đảm bảo an toàn vốn cho người đầu tư. Nhà nước cần tổ chức đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nhằm tạo thêm nhiều hàng hoá cho thị trường; cung cấp thông tin đầy đủ chính xác, kịp thời để người đầu tư có cơ hội lựa chọn những loại hình đầu tư thích hợp... - Điều kiện pháp lý: phải có một hệ thống pháp luật về tài chính có hiệu lực, thể hiện sự nghiêm minh, tránh lừa đảo, đảm bảo công bằng, công khai và trật tự thị trường... - Điều kiện lòng tin: Lòng tin là yếu tố xã hội rất quan trọng. Lòng tin của người đầu tư về sự ổn định tiền tệ, bảo toàn được vốn, về tài năng đạo đức của các nhà kinh doanh, lòng tin ở luật pháp công bằng, lành mạnh... Nếu không có lòng tin, người có tiền không dám mạo hiểm đầu tư vào chứng khoán. 5. Thành lập quỹ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. Trong cơ chế thị trường, việc kinh doanh lỗ, lãi là chuyện tất nhiên và Ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nếu Ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng. Ngược lại, nếu Ngân hàng làm ăn thua lỗ, tỷ lệ rủi ro cao sẽ ảnh hưởng tới uy tín của mình, gây ra tình trạng rút tiền ồ ạt của các tầng lớp dân cư, khiến cho hoạt động của Ngân hàng đã khó khăn lại càng khó khăn hơn và có nguy cơ phá sản. Do đó, để người đầu tư yên tâm gửi tiền vào Ngân hàng thì rất cần thiết phải thành lập một công ty chuyên doanh làm nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi mà kinh nghiệm rõ nhất cho loại hình nàylà mô hình Công ty bảo hiểm tiền gửi Trung ương (CDIC) Đài Loan. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi mang một số đặc điểm sau: - Chia sẻ được gánh nặng về mặt tài chính cho Chính phủ trên cơ sở phát huy tối đa tính tương hỗ, trợ giúp lẫn nhau trong hệ thống các Ngân hàng. Chính các Ngân hàng phải đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền và coi việc giữ an toàn cho người gửi như giữ an toàn cho chính bản thân Ngân hàng. - Là một tổ chức độc lập, có tư cánh pháp nhân, chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng vốn và tài sản theo các quy định của luật pháp và theo quy chế bảo toàn tiền gửi. - Chịu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng, trước hết là Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính về việc hình thành, quản lý, sử dụng vốn và về nghiệp vụ ngân hàng. - Các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng ở Việt Nam bắt buộc phải có sự bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền dưới hình thức tham gia vào tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Từ các định hướng trên, nhà nước nên cho thành lập tổ chức bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức “Quỹ bảo toàn tiền gửi”. Quỹ này có một số đặc điểm sau: * Tổ chức bộ máy: Quỹ là một tổ chức tài chính đặc biệt của Nhà nước, được nhà nước cấp một số vốn ban đầu khi thành lập. Cơ quan quyền lực của Quỹ là Hội đồng quản lý Quỹ. Hội đồng này gồm: đại diện Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và Hiệp hội Ngân hàng. * Chức năng của Quỹ: Giám sát chặt chẽ hoạt động của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, đưa ra các giải pháp kịp thời để trợ giúp các Ngân hàng bảo đảm khả năng chi trả tiền gửi, góp phần giữu ổn định hệ thống Ngân hàng và trật tự xã hội. * Nguồn vốn và sử dụng vốn: - Nguồn vốn của Quỹ được hình thành từ các nguồn: + Vốn Nhà nước cấp ban đầu. + Tiền đóng vào Quỹ hàng năm của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng. + Các khoản lãi thu được do sử dụng vốn theo quy định của Quỹ sau khi trừ đi chi phí hoạt động và các khoản thuế phải nộp (nếu có). - Sử dụng vốn: Quỹ được sử dụng vốn vào các mục tiêu sau: + Cho vay khẩn cấp đối với các Ngân hàng, tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tạm thời. + Thực hiện việc thanh toán cho người gửi tiền trong trường hợp Ngân hàng bị lâm vào tình trạng phá sản và tham gia vào việc thanh lý Ngân hàng với tư cách là một chủ nợ. + Được sử dụng vốn vào mục tiêu an toàn nhất, có khả năng thu hồi vốn nhanh nhất và chắc chắn nhất. Trong bối cảnh hiện nay, việc thành lập một tổ chức bảo toàn tiền gửi để góp phần giữ an toàn cho hoạt động Ngân hàng, ngăn ngừa những rủi ro tiềm tàng có thể dẫn tới sự bất ổn định cho nền kinh tế là một yêu cầu khách quan. Mặc dù vậy, đây là một vấn đề khá mới mẻ đối với Việt Nam. Do đó Chính phủ và các cơ quan chức năng, đặc biệt là hiệp hội Ngân hàng cần có sự nghiên cứu thấu đáo nhằm đưa ra một giải pháp khả thi nhất, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội Việt Nam. KẾT LUẬN Sự nghiệp xây dựng và phát triển nên kinh tế nước ta theo hướng CNH-HĐH đòi hỏi phải có một khối lượng vốn vô cùng lớn. Để đáp ứng nhu cầu đó, các Ngân hàng nói chung và Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương nói riêng đóng một vai trò đặc biệt trong khâu tạo vốn. Sở giao dịch thực sự đã trở thành một đầu mối thu gom các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để tiếp sức cho các nhà đầu tư nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Trên thực tế, không có một khuôn mẫu nhất định nào cho công tác huy động vốn cho các Ngân hàng thương mại. Huy động vốn được hình thành từ thực tiễn phát triển của nền kinh tế. Nó là kết quả của quá trình nghiên cứu, tìm tòi và ứng dụng đầy tính sáng tạo và khoa học. Để gặt hái được thành công trong lĩnh vực này, ngoài sự nỗ lực, cố gắng không mệt mỏi của bản thân Sở giao dịch, cần phải có sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng, Nhà nước trong việc tạo lập một môi trường vĩ mô thuận lợi để có thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cung cấp tín dụng trung dài hạn cho đầu tư phát triển. Do năng lực và kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế, thời gian chuẩn bị không nhiều nên chuyên đề này khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo cùng các anh chị đồng nghiệp để chuyên đề này được toàn diện hơn, sâu sắc hơn và quan trọng hơn cả là có thể trở thành một ý kiến đóng góp cho Ban Lãnh đạo Sở giao dịch trong công tác huy động vốn. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của cô giáo Nguyễn Thanh Sơn và các anh chị Lãnh đạo phòng Tiết kiệm - Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiền tệ ngân hàng và thị trường tàI chính (Federic S. Miskin) Nghiệp vụ ngân hàng hiện đạI (David Cox) Văn kiện đạI hội Đảng lần thứ VII. VIII. Kinh tế học (A. Samuelson và Ư. Nord haus) Ngân hàng thương mạI (Edward W.Reed và Edward K.Gill) Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch NHNT TW năm 1998, 1999, 2000. Tạp chí Ngân hàng, Ngiên cứu kinh tế, tạp chí Thị trường tàI chính năm 11998, 1999, 2000. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2005. Ngân hàng Nhà nước Việt nam với chiến lược huy động vốn phục vụ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50619 .doc
Tài liệu liên quan