Chuyên đề Nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại chi nhánh NHCT Thanh Xuân

Hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế là xu thế tất yếu và là đòi hỏi khách quan của quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Trong xu thế đó, các thị trường tài chính ngày càng phát triển, mở rộng, mức độ cạnh tranh giữa các NHTM trên thị trường quốc tế, ngay cả thị trường nội địa tăng nhanh. Trong điều kiện kinh doanh mới, thị trường luôn sôi động và biến động khó lường, nguy cơ rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng lại càng lớn. Do đó, việc sử dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản được coi là giải pháp hữu hiệu để các NHTM Việt Nam duy trì được sự phát triển ổn định, bền vững, đảm bảo cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Và điều đó đã được chứng minh tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. Việc áp dụng biện pháp BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh, không những góp phần mở rộng qui mô tín dụng mà chất lượng tín dụng cũng được nâng cao. Tuy vây, trong quá trình thực hiện công tác BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh đã phát sinh một số vướng mắc, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả BĐTV tại Chi nhánh. Việc tìm hiểu nguyên nhân và có những giải pháp xử lý kịp thời luôn được Chi nhánh hết sức quan tâm.

doc83 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1720 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại chi nhánh NHCT Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c đây vay không có TSBĐ. Do đó, dư nợ cho vay có TSBĐ tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân tăng lên. - Các quy trình cho vay có TSBĐ trong thời gian qua, đã được thực hiện một cách nghiêm túc, chặt chẽ, chính xác và kịp thời, tạo uy tín tốt cho khách hàng. Vì vậy, số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng để vay bằng thế chấp, cầm cố tài sản tăng lên không ngừng. Để có thể mở rộng tín dụng mà vẫn nằm trong tầm kiểm soát, Chi nhánh đã áp dụng đầy đủ các biện pháp BĐTV bằng tài sản: Cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay, Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Thực tế áp dụng các hình thức bảo đảm bằng tài sản tại Chi nhánh được phản ánh qua bảng dư nợ cho mỗi hình thức trong năm 2005 như sau: Bảng 4: Dư nợ theo các hình thức BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh. Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Dư nợ Tỷ trọng Dư nợ Tỷ trọng Dư nợ Tỷ trọng Cầm cố thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay. 242.046 58,84% 252.006 56,3% 473.702 60,14% Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba 14.529 4,1% 15.218 3,4% 16.383 2,08% Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. 131.334 37,06% 180.386 40,3% 297.582 37,78% Tổng cộng 354.384 100% 447.610 100% 787.667 100% Đơn vị: Triệu đồng (Nguồn từ phòng tổng hợp tiếp thị Chi nhánh NHCT Thanh Xuân). Để thấy rõ tốc độ tăng dư nợ của các hình thức BĐTV bằng tài sản ta có thể xem biểu đồ sau: Như vậy, dư nợ theo hình thức bảo đảm cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất và tăng dần qua các năm: Dư nợ theo hình thức này, năm 2004 đạt 252.006 triệu đồng, tăng 4,11% so với năm 2003 và sang năm 2005 tăng một cách đột biến tăng 87,97%. Đó cũng là điều dễ hiểu vì đây được coi là hình thức bảo đảm an toàn nhất trong ba hình thức, vì vậy Chi nhánh vẫn luôn khuyến khích cho vay theo hình thức này. Bên cạnh đó, các tài sản bảo đảm theo hình thức này tại Chi nhánh chủ yếu là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất, máy móc thiết bị sản xuất của doanh nghiệp, phương tiện vận tải( tàu, ô tô…) … là những tài sản có giá trị lớn, dẫn đến mức cho vay theo hình thức này vì thế mà cao. Và đặc biệt, trong năm qua, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được các cơ quan ban ngành tích cực triển khai, giúp cho khách hàng đáp ứng được điều kiện vay vốn sản xuất kinh doanh bằng thế chấp quyền sử dụng đất. Đối với hình thức bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, Nghị định 85/2002/NĐ- CP đã có sự sửa đổi hết sức quan trọng đó là: Nếu như điều 15 ở Nghị định 178/1999/ NĐ- CP có quy định về điều kiện của khách hàng vay là “Khách hàng phải có tín nhiệm với Tổ chức tín dụng” (đây được coi là điều kiện hết sức mập mờ, khó xác định) thì Nghị định 85/2002 đã bỏ điều kiện này. Tiếp đó, Nghị định 85/2002/ NĐ - CP đã sửa đổi điều kiện đối với khách hàng vay: “Có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu là 15% vốn đầu tư của dự án” thay cho “50% vốn đầu tư của dự án” so với quy định tại Nghị đinh 178/1999/NĐ - CP trước đây. Các doanh nghiêp Việt Nam hiện nay, vốn chủ sở hữu rất nhỏ, lại không có TSBĐ đủ điều kiện để vay vốn ngân hàng. Với việc nới lỏng các điều kiện cho vay bằng bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay như trên như là “chiếc chìa khóa” giúp các doanh nghiệp tiếp cận được vốn ngân hàng dễ dàng hơn, để triển khai các dự án kinh doanh có hiệu quả. Những sửa đổi trên là cơ sở pháp lý quan trọng, giúp Chi nhánh mạnh dạn cho vay, mở rộng tín dụng. Bên cạnh đó, cùng với chính sách khuyến khích phát triển kinh tế của khối Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) của Đảng và Nhà nước và đặc biệt các DNTN dần khẳng định vị trí của mình, làm ăn có hiệu quả. Do đó, tỷ trọng dư nợ cho vay theo hình thức này tại Chi nhánh được duy trì ổn định và khá cao qua các năm: Năm 2003 là 37,06%, năm 2004 là 40,3% và sang năm 2005 là 36,4%. Bên cạnh đó, quy mô dư nợ theo hình thức bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay đã có mức tăng trưởng nhanh: Năm 2004 đạt 180.386 triệu đồng, so với năm 2003 tăng 49.052 triệu đồng tương đương với tốc độ tăng 37,35% và sang năm 2005 đạt 286.712 triệu đồng, so với năm 2004 tăng 106.326 triệu đồng, tương đương với tốc độ tăng 58,94%. Tài sản hình thành từ vốn vay tại Chi nhánh chủ yếu là máy móc, dây chuyền công nghệ, nhà ở, ô tô… Tuy nhiên, hình thức bảo đảm này được coi là rủi ro nhất trong tất cả các hình thức bảo đảm, vì vậy, Chi nhánh khá thận trọng trong cho vay theo hình thức này và chỉ cho vay những doanh nghiệp có uy tín, quan hệ lâu dài với ngân hàng hoặc những dự án có độ khả thi cao. Bảo lãnh bằng tài sản của khách hàng vay còn chiếm tỷ trọng khá nhỏ: (Năm 2003 là 4,1%, năm 2004 là 3,4% và sang năm 2005 là 2,08%) và tốc độ tăng trưởng dư nợ theo hình thức này còn thấp (Dư nợ theo hình thức này năm 2004 đạt 15.218 triệu đồng, so với năm 2003 tăng 4,74% và sang năm 2005 đạt 16.383 triệu đồng, tăng 7,66% so với năm 2004). Sỡ dĩ như vậy là vì việc khách hàng tìm được bên thứ ba – bên bảo lãnh có thể đáp ứng được các điều kiện vay vốn còn quá ít, do đó số món cho vay theo hình thức này còn khiêm tốn: năm 2003 có 2 món, năm 2004 có 3 món và sang năm 2005 chỉ có 3 món Bên cạnh đó, phần lớn các món vay theo hình thức này để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, do đó tài sản được đem ra đảm bảo thường có giá trị không cao. Như vây, Chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã áp dụng các biện pháp bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế tại Chi nhánh với mục tiêu duy nhất an toàn và sinh lợi. 2.4.2 Những tài sản được dùng làm TSBĐ tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. Trước nhu cầu vay vốn ngày càng cao của các thành phần kinh tế, tài sản dùng làm TSBĐ tại Chi nhánh không ngừng tăng lên cả số lượng lẫn chủng loại. Điều đó, được phản ánh qua bảng dư nợ chia theo từng loại TSBĐ như sau: Bảng 5: Dư nợ phân theo loại tài sản bảo đảm Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Dư nợ Tỷ trọng Dư nợ Tỷ trọng Dư nợ Tỷ trọng Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất 271.032 76,48% 351.015 78,42% 454.405 57,69% Máy móc thiết bị và phương tiện vận tải 81.437 22,98% 85.090 19,01% 310.655 39,44% Hàng hóa 0 0 1.521 0,34% 4.568 0,58% Sổ tiết kiệm và giấy tờ có giá. 1.915 0,54% 3.401 0,76% 11.499 1,46% Quyền đối với vốn góp 0 0 6.583 1,47% 6.540 0,83% Tổng cộng 354.384 100% 447.610 100% 787.667 100% Đơn vị:Triệu đồng. (Nguồn từ phòng tổng hợp tiếp thị Chi nhánh NHCT Thanh Xuân) Như vậy, qua bảng ta nhận thấy: Dư nợ phân theo các loại TSBĐ không đồng đều, chủ yếu dư nợ cho vay tập trung vào việc cho vay bảo đảm bằng Bất động sản (Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất). Dư nợ cho vay được đảm bảo bằng bất động sản đã không ngừng tăng lên: Năm 2003 là 271.032 tr. đ, năm 2004 là 351.015 tr.đ, tăng 29,51% và sang đến năm 2005 đã là 454.405 tr.đ so với năm 2004 tăng 29,45%. Như vậy, sang năm 2005, mặc dù thị trường bất động sản trong tình trạng “đóng băng” kéo dài, tốc độ dư nợ bảo đảm bằng bất động sản có giảm nhưng không đáng kể. Sỡ dĩ, dư nợ được bảo đảm theo hình thức tài sản này luôn đạt mức cao tại Chi nhánh vì: Thứ nhất, đây là loại tài sản có giá trị cao, đồng thời tỷ lệ cho vay tính trên giá trị định giá cũng khá cao thông thường đạt 70%, do đó mà khách hàng khi thế chấp bằng bất động sản luôn vay được vốn lớn. Bên cạnh đó, khi thế chấp tài sản này, khách hàng vẫn sử dụng các tài sản này để tiến hành kinh doanh như bình thường, thị trường nhà đất sôi động, giá nhà đất ở Hà Nội trong mấy năm qua luôn ở mức cao, dễ dàng cho việc xử lý tài sản. Thứ hai: Có thể nói, trong thời gian quan, các cơ quan ban ngành đã có sự quan tâm tới việc sự sửa đổi, bổ sung các văn bản theo hướng giúp người dân có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng bằng việc thế chấp bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất. Nghị định 85/2002/ NĐ- CP đã bỏ khoản 4 điều 8 của Nghị định 178/1999/NĐ- CP: “Việc thế chấp giá trị quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản gắn liền thì giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bao gồm giá trị sử dụng đất và giá trị tài sản gắn liền trên đất”. Việc bỏ qui định này, cho phép khách hàng có thể linh hoạt trong việc lựa chọn quyền sử dụng đất hay tài sản gắn liền trên đất để làm tài sản đảm bảo. Nghị định 85/2002/ NĐ- CP đã sửa đổi khoản 3 điều 8 theo hướng tiến bộ: Cho phép khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh và ngân hàng có thể thỏa thuận giá trị quyền sử dụng đất theo giá đất thực tế chuyển nhượng tại địa phương thay vì như quy định cũ giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo khung giá đất của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW ban hành. Như vây, áp dụng theo quy định mới, giá trị quyền sử dụng đất của khách hàng được đánh giá cao hơn và khách hàng có thể vay được nhiều hơn. Đặc biệt, với sự ra đời của Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành ngày 1/7/2004 thay thế Luật đất đai năm 1993 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức và cá nhân, hộ gia đình hoàn thiện nhanh chóng các thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất và/ hoặc tài sản thuộc quyền sở hữu của mình gắn liền với đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ ngân hàng. Tài sản để đảm bảo cho vay luôn duy trì tỷ trọng ổn định và có mức dư nợ cao thứ hai sau bất động sản là máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải. Ngân hàng rất ngại nhận loại tài sản này làm bảo đảm vì phần lớn các tài sản này do khách hàng nắm giữ để phục vụ sản xuất kinh doanh, tốc độ hao mòn nhanh, ngân hàng rất khó quản lý. Sỡ dĩ, loại tài sản có dư nợ cao là vì các tài sản này này đều là thiết bị sản xuất chính của doanh nghiệp có giá trị rất lớn. Trong năm 2005, tốc độ tăng cho vay được bảo đảm theo hình thức tăng lên đáng kể từ 81.437tr.đ năm 2003, sang năm 2004 là 85.090tr.đ và đến năm 2005 đạt 310.655tr.đ. Sỡ dĩ có sự gia tăng đột biến như vậy là vì năm 2005 Chi nhánh đã tập trung nhiều hơn cho vay có TSBĐ kể cả đối với DNNN, tích cực đôn đốc các DNNN nay đã cổ phần hóa trước kia cho vay không bằng TSBĐ nay bổ sung tài sản bảo đảm. Qua bảng ta cũng nhận thấy tài sản có tính an toàn cao như: Quyền vốn góp, hàng hóa và đặc biệt là sổ tiết kiệm và giấy tờ có giá còn chiếm tỷ trọng quá nhỏ trong tổng dư nợ. 3. Đánh giá về công tác BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. 3.1 Những thành tựu đạt được. Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác BĐTV bằng tài sản, trong thời gian qua, Chi nhánh đã không ngừng tích cực áp dụng các hình thức BĐTV và hoàn thiện công tác BĐTV. Thực tế, hoạt động tín dụng tại Chi nhánh đã thu được kết quả đáng khích lệ cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Qua mục 2.4, ta đã thấy qui mô dư nợ cho vay có TSBĐ đã tăng rất nhanh cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối: năm 2003 đạt 354.384 tr.đ, năm 2004 đạt 447.610 tr.đ, so với năm 2003 tăng 93.226 tr.đ tương ứng với tốc độ tăng 26,3% và sang năm 2005 đạt 787.667 tr.đ, tăng 340.057tr.đ tương đương với tốc độ tăng75,97%. Đặc biệt, dư nợ cho vay có TSBĐ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Để đánh giá hiệu quả công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản, một chỉ tiêu không thể thiếu được là chất lượng các khoản vay. Trong 2 năm liên tục 2003, 2004: 100% dư nợ nằm trong tầm kiểm soát của Chi nhánh, không có nợ quá hạn phát sinh, nhưng nợ gia hạn đến 31/12/2004 là 106 tỷ đồng. Đây là một thành công lớn không phải ngân hàng nào cũng có được. Tuy nhiên, sang năm 2005, phát sinh nợ quá hạn là 51 tỷ đồng và nợ gia hạn đến 31/12/2005 đã giảm xuống 89 tỷ đồng. Như vậy, nếu so với tổng dư nợ, nợ quá hạn chiếm 3,19%. Với tỷ lệ đó, vấn đề nợ quá hạn chưa đến mức nghiêm trọng. Bên cạnh đó, nợ quá hạn phát sinh do các nguyên nhân khách quan: Do chính sách của Nhà nước trong việc hạn chế đăng ký xe máy tại các thành phố lớn đã dẫn tới khó khăn trong việc tiêu thụ của các Doanh nghiệp có dư nợ cho vay lớn tại Chi nhánh như: Công ty Quan hệ Quốc tế Đầu tư Sản xuất và Công ty thương mại và Sản xuất Vật tư Thiết bị Giao thông Vận tải. Mặt khác, khách hàng của Chi nhánh chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và xây dựng công trình giao thông như: Cty xây dựng số 19, Tổng công ty LICOGI, Công ty Vật tư vận tải & xây dựng công trình giao thông .… Trong khi tình hình thị trường bất động sản chìm lắng kéo dài, nợ Ngân sách nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, đặc biệt là các dự án xây dựng hạ tầng, cầu đường lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng. Việc thanh quyết toán các công trình gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến các doanh nghiệp không được ngân sách Nhà nước thanh toán kịp thời, không thu hồi được công nợ để trả Ngân hàng. Như vậy, mặc dù chịu ảnh hưởng bất lợi của yếu tố khách quan nêu trên nhưng nhìn chung công tác BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh đã thực hiện khá tốt, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh. 3.2. Những hạn chế tồn tại và nguyên nhân. Bên cạnh, đạt được những kết quả đáng mừng như trên, nhưng công tác BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh vẫn còn gặp phải một số hạn chế. Những hạn chế này nếu không sớm được khắc phục sẽ ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả bảo đảm tiền vay. 3.2.1 Công tác thẩm định chưa đảm bảo về chất lượng, mất nhiều thời gian: Đây được coi là hạn chế, gây ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến hiệu quả cho vay. Hạn chế đó có thể xuất phát từ một số nguyên nhân sau: * Nguyên nhân từ phía ngân hàng. - Trước hết là do tổ chức công tác cho vay chưa được hợp lý. Hiện nay, tại Chi nhánh một CBTD vẫn phải đảm nhiệm một khối lượng lớn tất cả các khâu của quá trình cho vay: -Thẩm định trước khi cho vay. - Kiểm tra, giám sát trong khi cho vay. - Kiểm tra, giám sát, tổ chức thu hồi nợ sau khi cho vay. Chỉ tính riêng khâu thẩm định trước khi cho vay đã bao gồm một lượng lớn các công việc: Thẩm định khách hàng, thẩm định dự án vay vốn, thẩm định TSBĐ (nếu có). Với một khối lượng lớn các công việc như vậy, gây áp lực lớn cho CBTD, CBTD khó có thể đi sâu, xem xét một cách kĩ càng từng khâu đặc biệt là khâu thẩm định, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả cho vay. Trong ba khâu trên, thẩm định trước khi cho vay được coi là khâu quan trọng nhất và phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, trình độ của CBTD. CBTD không chỉ nắm vững về nghiệp vụ, mà còn am hiểu về ngành nghề khách hàng kinh doanh, về tài sản dùng làm bảo đảm, có khả năng phân tích, dự báo….Trong khi đó, phần lớn CBTD tại Chi nhánh còn trẻ vẫn còn ít kinh nghiệm và chưa được đào tạo chuyên sâu, do đó khả năng “đọc” dự án, khả năng thẩm định còn nhiều hạn chế, gây khó khăn trong việc ra quyết định cho vay hay không cho vay. - Quá trình khai thác, thu thập và xử lý thông tin để phục vụ cho công tác thẩm định còn nhiều hạn chế. - Trong thẩm định một số nhân tố chưa được quan tâm cần phải đề cập trong chu trình kỹ thuật này là: Các chỉ số dự báo trước khi cho vay hoặc là ngắn hạn, hoặc là dài hạn nếu không khoản tín dụng sẽ trở về con số âm. Đó là dự đoán về: giá vàng, tỷ giá, lạm phát, độ thăng trầm kinh tế theo các nước ở khu vực khác nhau, các biến cố có thể dự đoán về kinh tế, chính trị, xã hội…. * Nguyên nhân từ phía khách hàng. - Các báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp cho Ngân hàng thường không chính xác, thiếu độ tin cậy. Tính minh bạch trong hoạt động tài chính, trong hạch toán kế toán còn hạn chế. Phần lớn các báo cáo tài chính chưa được kiểm toán, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có trường hợp còn giả mạo giấy tờ tài sản thế chấp. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình phân tích, thẩm định và xét duyệt cho vay của Chi nhánh. - Ngoài ra, khách hàng còn tồn tại nhiều bất cập về trình độ, năng lực, khả năng phân tích, dự báo dẫn đến việc lập các phương án sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, làm mất nhiều thời gian thẩm định 3.2.2 Danh mục TSBĐchưa đa dạng, phong phú: Chi nhánh vẫn chưa có sự bứt phá trong việc nhận TSBĐ, chỉ mới chú trọng tới các TSBĐ thông dụng như: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất, máy móc thiết bị, tiền gửi,…. Một số loại tài sản khác như các khoản phải thu, các hợp đồng dự thầu… chưa có trong danh mục TSBĐ. Việc thế chấp quyền sử dụng đất, các tài sản đòi hỏi phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản trong khi đó việc cấp các loại giấy tờ này ở nước ta còn nhiều bất cập, gây khó khăn rất lớn cho khách hàng tiếp cận vốn vay. Bên cạnh đó, tỷ trọng của các tài sản nhận làm bảo đảm tại Chi nhánh còn có sự chênh lệch khá lớn, phần lớn vẫn là Quyền sử dụng đất trong khi đó các tài sản có độ rủi ro thấp như: tiền gửi, hàng hóa còn rất khiêm tốn. Việc duy trì tỷ trọng quyền sử dụng đất lớn tiềm ẩn nhiều rủi ro khi mà thị trường nhà đất ở nước ta vẫn chưa có sự ổn định tương đối cả về diễn biến thị trường cũng như quy định của Nhà nước về quản lý, quy hoạch, hay trong xác định khung giá cả, thuế mua bán BĐS. Với những tồn tại trong danh mục TSBĐ, đã hạn chế rất lớn trong việc mở rộng tín dụng cũng như nâng cao chất lượng tín dụng. Sỡ dĩ, danh mục nhận TSBĐ còn chưa đa dạng, phong phú là do một số nguyên nhân sau: - Do những quy định bắt buộc, khắt khe của NHCT Việt Nam đối với Chi nhánh trong việc nhận TSBĐ cho vay. Điều đó, đã hạn chế rất lớn cho Chi nhánh trong việc chủ động tiếp nhận một số tài sản để làm bảo đảm. - Phần lớn nhu cầu về vốn vay của khách hàng tại Chi nhánh là vốn trung và dài hạn, còn nhu cầu về vốn ngắn hạn không thường xuyên, chỉ trong trường hợp đột xuất. Trong khi đó, để đáp ứng nhu cầu vay vốn, khách hàng chỉ có tài sản có giá trị lớn là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất hoặc các tài sản là máy móc, thiết bị được hình thành từ vốn vay. - Ngân hàng vẫn theo một thói quen cũ ưa thích các loại TSBĐ là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất, máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ…, chưa mạnh dạn cho vay các loại TSBĐ khác. Đó là do tâm lý sợ rủi ro và do các văn bản pháp lý để hướng dẫn nhận các tài sản khác: hợp đồng dự thầu, vàng, bảo hiểm nhân thọ… chưa cụ thể, rõ ràng. 3.2.3 Định giá TSBĐ còn nhiều bất cập:. Về nguyên tắc định giá TSBĐ phải theo giá thị trường. Tuy nhiên, tại Chi nhánh nguyên tắc này vẫn chưa được tuân thủ đúng mức. TSBĐ vẫn chưa được đánh giá sát với giá thị trường. Hạn chế trong công tác định giá TSBĐ tại Chi nhánh bắt nguồn từ nguyên nhân chính sau: - Việc định giá TSBĐ tại Chi nhánh vẫn do CBTD đảm nhiệm, chưa có tổ định giá riêng. Trong khi đó, CBTD tiến hành định giá TSBĐ còn hạn chế về trình độ chuyên môn, chưa được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ định giá và chưa tích cực trong việc khai thác các thông tin liên quan đến TSBĐ: Cung cầu, giá cả của TSBĐ, các mặt hàng thay thế… mà phần lớn chỉ dựa vào nguồn thông tin từ phía khách hàng cung cấp. Định giá TSBĐ được coi là công việc phức tạp. Vì vậy, để định giá chính xác phải tổ chức theo hướng chuyên môn hóa sâu về nghiệp vụ định giá tài sản. Do chưa chú trọng trong việc chuyên môn hóa trong khâu định giá, nên chất lượng định giá TSBĐ vẫn còn nhiều vấn đề. - Do yếu tố chủ quan của CBTD sợ quy trách nhiệm, ngại rủi ro nên có khuynh hướng định giá thấp hơn giá thị trường, để dễ dàng hơn trong việc xử lý TSBĐ thu hồi nợ. Điều đó, không chỉ gây thiệt hại cho khách hàng khi không có đủ vốn để thực hiện phương án sản xuất kinh doanh mà chính ngân hàng cũng mất cơ hội để mở rộng dư nợ. - Các thông tin, dữ liệu về TSBĐ mà khách hàng cung cấp thường không chính xác, thiếu độ tin cậy: giá trị các tài sản ghi trên các hóa đơn mua hàng có thể được khách hàng thông đồng với người bán ghi cao hơn so với giá mua thực tế, trong khi đó mức khấu hao của tài sản mà khách hàng cung cấp có thể do cố tình hay sơ ý mà thấp hơn so với hao mòn thực tế, do đó giá trị còn lại của TSBĐ thường bị đánh giá cao. Bên cạnh đó, có nhiều tài sản không có hóa đơn mua hàng, việc lượng hóa giá trị hao mòn vô hình không có cơ sở tham chiếu… đã gây nhiều khó khăn cho việc định giá TSBĐ của CBTD. - Các Trung tâm tư vấn định giá ở Việt Nam hiện nay chưa có đủ cơ sở xác định các tài sản này hoặc chưa có liên hệ mật thiết với các TCTD để có sự hỗ trợ trong việc định giá. 3.2.4 Quản lý TSBĐ còn gặp nhiều khó khăn: Một lượng lớn các TSBĐ vẫn chưa được kiểm soát, quản lý chặt chẽ, làm cho chất lượng tài sản giảm sút đáng kể. Đó là do: - Đặc điểm các TSBĐ của Chi nhánh phần lớn là các máy móc, thiết bị vẫn do khách hàng nắm giữ để tiến hành sản xuất, kinh doanh. Do đó, phát sinh nhiều rủi ro: Người vay dễ có động cơ tẩu tán tài sản, cho thuê hoặc sử dụng tài sản sai mục đích, không có ý thức bảo vệ tài sản, sử dụng quá mức công suất cho phép…. Bên cạnh đó, Khách hàng chủ yếu của Chi nhánh là các doanh nghiệp sản xuất, các công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và giao thông nên phần lớn máy móc, thiết bị nằm rải rác trên các công trường, bến bãi, trong các doanh nghiệp sản xuất, rất khó kiểm soát. Đối với các máy móc thiết bị dùng trong xây dựng và giao thông phần lớn phải để ngoài trời, dưới tác động của môi trường thiên nhiên nên hao mòn rất nhanh, giảm nhanh giá trị. - Diện tích Chi nhánh khá nhỏ, nên việc cất giữ TSBĐ lớn phải thuê kho của bên thứ ba hoặc sử dụng kho của chính khách hàng vay. Do đó, khả năng kiểm soát rất hạn chế, nguy cơ rủi ro lớn. - Do chưa nhận thức đúng vai trò quan trọng quan trọng của việc quản lý TSBĐ, nên nhiều khi có một số bộ phận CBTD thực hiện qua quýt, cho đúng nghĩa vụ. 3.2.5 Xử lý TSBĐ vẫn chưa hiệu quả: Tốc độ xử lý TSBĐ còn chậm. Việc kéo dài thời gian xử lý TSBĐ không chỉ làm phát sinh thêm nợ quá hạn mà còn ảnh hưởng đến việc thanh lý TSBĐ, làm cho việc xử lý TSBĐ nhiều khi không đủ thu hồi nợ. Bất cập trong việc xử lý TSBĐ tại Chi nhánh do các lý do sau: - Việc xử lý TSBĐ tại Chi nhánh phần lớn để cho khách hàng tự bán. Việc để cho khách hàng tự bán TSBĐ, Chi nhánh muốn tạo sự chủ động cao nhất cho khách hàng, nhưng cách này mang lại nhiều rủi ro: Ngân hàng không thể kiểm soát hết được việc bán TSBĐ của khách hàng. Khách hàng có thể viện đủ lý do để không thực hiện việc bán TSBĐ, kéo dài thời gian xử lý TSBĐ. Thậm chí, khách hàng có thể khai khống số tiền bán được TSBĐ ít hơn so với thực tế, dẫn đến việc không thu hồi đủ nợ. - Mặc dù, pháp luật đã quy định cho phép Ngân hàng được xử lý TSBĐ để thu hồi nợ nhưng trên thực tế Chi nhánh vẫn không chủ động tự xử lý được số tài sản này vì luôn gặp phải thái độ bất hợp tác của khách hàng vay. Khi phải xử lý TSBĐ, khách hàng luôn cố tình chây ỳ giao nộp tài sản, có những hành vi chống đối, cản trở gây nhiều khó khăn trong việc xử lý TSBĐ. Trong khi đó, sự phối hợp của UBND và cơ quan Công an để buộc bên bảo đảm phải giao tài sản còn nhiều hạn chế. *Ngoài ra, còn tồn tại một số nguyên nhân khách quan gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả BĐTV tại Chi nhánh. Trước hết, là hạn chế xuất phát từ các văn bản pháp lý về bảo đảm tiền vay: Bảo đảm tiền vay không chỉ bó hẹp trong các văn bản của Luật TCTD, Luật Ngân hàng mà còn liên quan tới nhiều bộ Luật khác: Bộ luật dân sự, luật đất đai, luật doanh nghiệp…. Trong khi đó, các nội dung quy định trong các điều Luật này về bảo đảm tiền vay nhiều khi còn chồng chéo, thiếu đồng bộ gây nhiều lúng túng cho các TCTD khi triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý ở nước ta vẫn chưa hoàn thiện, thường xuyên thay đổi, gây không ít khó khăn: Đơn cử như Luật đất đai được ban hành năm 1993, đến năm 1998 được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất, sang năm 2001 được sửa đổi, bổ sung lần hai và đến năm 2003 ban hành Luật đất đai mới thay thế Luật đất đai năm 1993 và các luật sửa đổi, bổ sung năm 1998, 2001. Sự thay đổi thường xuyên của bộ Luật nói trên, kéo theo sự thay đổi của các Nghị định, thông tư hướng dẫn ….Và đặc biệt, trong thời gian qua, những người làm trong ngành ngân hàng không khỏi băn khoăn, lúng túng với sự ra đời Bộ Luật dân sự 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006 thay thế Bộ luật dân sự năm 1995 với nhiều điểm thay đổi tiến bộ về bảo đảm tiền vay khắc phục những hạn chế, bất cập của các văn bản trước đó : tách bạch rõ ràng về nội dung thế chấp, cầm cố, về phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, về điều kiện của TSBĐ…. Tuy nhiên, các Ngân hàng vẫn chưa nhận được các văn bản hướng dẫn từ NHNN để thực hiện theo sự thay đổi này. Thứ hai: Sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành hỗ trợ cho công tác bảo đảm tiền vay: Bộ Tài nguyên & Môi trường, Bộ Công an, Bộ tư pháp, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính…. còn thiếu chặt chẽ và tích cực, gây nhiều khó khăn cho ngân hàng triển khai cơ chế bảo đảm tiền vay: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và công trình xây dựng trên đất còn nhiều rối rắm, phiền hà. Hoạt động của phòng công chứng và phòng đăng ký giao dịch bảo đảm luôn trong tình trạng quá tải, thái độ phục vụ còn quan liêu, cựa quyền hay sách nhiễu, gây tốn rất nhiều thời gian. Ước tính để vay được một món vay, thì thời gian tối đa phải mất khoảng 15 ngày. Ngân hàng thẩm định hồ sơ TSTC khoảng 3 ngày, ký hợp đồng tại Phòng công chứng 1 ngày, đăng ký giao dịch bảo đảm 10 ngày. Với thời gian dài như vậy đã làm hạn chế cơ hội kinh doanh của khách hàng, đồng thời cũng gây khó khăn cho ngân hàng trong việc đẩy mạnh cho vay. Thứ ba: Môi trường kinh tế chưa có sự ổn định tương đối, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc dự báo, hoạch định chính sách cho vay và thu hồi nợ. Đặc biệt, trong năm 2005, thị trường bất động sản có sự chững lại đột ngột gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Chương III. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. I. Phương hướng hoạt động của Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. Đứng trước khó khăn chung của nền kinh tế, nhưng trong năm 2005, hoạt động kinh doanh của Chi nhánh vẫn đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cánh cửa WTO đang dần mở ra, mức độ cạnh tranh dự báo trong hoạt động ngân hàng ngày càng khốc liệt hơn. Để có thể tiếp tục đứng vững và ngày càng phát triển, sang năm 2006 Chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã xây dựng cho mình một phương hướng kinh doanh với những biện pháp rất cụ thể. Tiếp tục đẩy mạnh công tác huy động vốn bằng cách mở rộng, quy hoạch lại mạng lưới các điểm giao dịch. Thường xuyên bám sát thị trường, tăng cường mở rộng khai thác các khách hàng có nguồn tiền nhàn rỗi lớn. Có chính sách lãi suất phù hợp, tăng cường làm tốt chính sách khách hàng, đặc biệt giữ gìn và phát triển quan hệ gắn bó mật thiết với các Ban quản lý dự án, những khách hàng lớn, khách hàng truyền thống của Chi nhánh. Trong công tác tín dụng, đối với những khoản nợ gia hạn, nợ quá hạn phát sinh trong năm 2005 tập trung đôn đốc, theo dõi chặt chẽ các nguồn tài chính của doanh nghiệp. Bám sát tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, theo sát từng công trình, từng hạng mục, từng dự án đầu tư để tập trung thu hồi nợ. Phấn đấu trong năm 2006 không để phát sinh nợ quá hạn. Trong hoạt động tín dụng, luôn đề cao nguyên tắc tăng trưởng trong an toàn.Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về bảo đảm tiền vay của Chính phủ, các văn bản hướng dẫn thực hiện của NHNN và của NHCT Việt Nam. Tăng dần tỷ trọng cho vay có TSBĐ, khuyến khích cho vay đối với các khách hàng có tài sản thế chấp, cầm cố. Khắc phục những tồn tại, hạn chế tại Chi nhánh trong công tác định giá, quản lý, xử lý TSBĐ, nâng cao uy tín đối với khách hàng, tạo thuận lợi cho khách hàng vay vốn bằng bảo đảm bằng tài sản. Bên cạnh đó, cần chú trọng tới công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ. Công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng cần được thực hiện nghiêm túc và thường xuyên. Để có thể đạt vượt mức kết quả năm 2005, Chi nhánh đã đặt ra các mục tiêu cụ thể cần đạt được trong năm 2006 như sau: Huy động vốn: 3.100 tỷ Sử dụng vốn: 1.900 tỷ Phát hành thẻ đạt 10.000 thẻ Thu phí dịch vụ đạt: trên 3 tỷ đồng Lợi nhuận tăng so với năm 2005 là 10% II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. 1. Nâng cao chất lượng của cán bộ tín dụng. Con người luôn là nhân tố quyết định tới thành công hay thất bại trong bất kì hoạt động nào. Đặc biệt, với hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro như hoạt động tín dụng, yếu tố con người lại càng đặt lên hàng đầu. Chất lượng CBTD được đánh giá cả về mặt chuyên môn nghiệp vụ lẫn tư cách đạo đức. Đội ngũ CBTD đảm bảo chất lượng, có tác dụng lớn trong việc hạn chế rủi ro. Để có được đội ngũ CBTD có chất lượng, ngay từ khâu tuyển chọn phải được sàng lọc kĩ lưỡng. Hình thức thi tuyển được coi là hình thức khách quan nhất để có thể lựa chọn được những CBTD tốt. Để luôn duy trì tốt chất lượng của đội ngũ CBTD, Chi nhánh luôn phải chú trọng nâng cao trình độ cho các CBTD thông qua việc khuyến khích và tạo điều kiện cho CBTD học lên, cử CBTD tham gia các khóa đào tạo về nghiệp vụ, các buổi tọa đàm về hoạt động ngân hàng, tại Chi nhánh cần thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận để phổ biến các văn bản mới, tạo điều kiện để CBTD có thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Đặc biệt, Chi nhánh cần chú trọng đào tạo đội ngũ CBTD trẻ. Họ là những người năng nổ, nhiệt tình, tiếp thu nhanh, sẽ là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong tương lai của Chi nhánh. 2. Nâng cao chất lượng công tác định giá TSBĐ. Hạn chế lớn nhất trong công tác định giá tại Chi nhánh vẫn do CBTD kiêm nhiệm, do đó tính chuyên môn hóa không cao, kết quả định giá không được đảm bảo. Có thể nói, công tác định giá có ảnh hưởng quyết định suốt quá trình cho vay. Định giá TSBĐ được thực hiện tốt, góp phần quan trọng tới hiệu quả bảo đảm tiền vay. Vậy để nâng cao chất lượng công tác định giá TSBĐ, Chi nhánh cần sớm thành lập tổ định giá TSBĐ riêng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, tổ định giá quan trọng nhất cần phải có đội ngũ nhân sự chất lượng. Đó là những cán bộ có chuyên môn sâu về nghiệp vụ định giá, có khả năng tổng hợp, phân tích, dự báo xu thế phát triển của TSBĐ. Tùy vào điều kiện thực tế tại Chi nhánh, mà có thể tuyển nhân sự có chuyên môn về định giá từ bên ngoài hoặc điều chuyển một số CBTD sang tổ định giá và tổ chức đào tạo lại về nghiệp vụ định giá cho số cán bộ này. Bên cạnh đó, Chi nhánh cần quan tâm đầu tư hệ thống thông tin: báo chí, máy tính nối mạng…, góp phần hỗ trợ cho các cán bộ định giá trong việc cập nhật thông tin về: các văn bản liên quan đến định giá, sự thay đổi giá cả các tài sản trên thị trường, sự phát triển của khoa học công nghệ…. Dựa trên những thông tin xác thực, có căn cứ khoa học, tổ định giá cần xây dựng hệ thống các tiêu thức để đánh giá giá trị TSBĐ, làm cơ sở giúp cán bộ định giá dễ dàng hơn trong việc định giá. Ngoài ra, đối với những tài sản phức tạp, khó định giá, tổ định giá có thể tham khảo thêm từ tổ chức chuyên môn định giá. 3. Thường xuyên đánh giá lại giá trị của TSBĐ. Với tốc độ phát triển khoa học công nghệ như hiện nay, tài sản dễ hao mòn vô hình nhanh chóng. Bên cạnh đó, phần lớn TSBĐ tại chi nhánh là các máy móc thiết bị xây dựng thường xuyên để ngoài trời, cường độ sử dụng cao, do đó tốc độ hao mòn rất nhanh. Do đó, công tác đánh giá lại giá trị TSBĐ cần được tiền hành thường xuyên, qua đó để có giải pháp hạn chế rủi ro. Từ việc xem xét thực trạng tài sản và tham khảo các thông tin trên thị trường: giá cả, xu hướng phát triển công nghệ, các mặt hàng thay thế.... cán bộ định giá tiến hành định giá lại. Trong trường hợp, tài sản được đánh giá lại giảm giá mạnh, CBTD yêu cầu khách hàng bổ sung thêm tài sản đảm bảo, hoặc giảm số tiền giải ngân hoặc số lần giải ngân (nếu món vay được giải ngân nhiều lần). Như vậy, đánh giá lại giá trị TSBĐ là biện pháp giúp TCTD hạn chế nhiều rủi ro, đảm bảo TSBĐ khi xử lý có thể thu đủ nợ. 4. Đa dạng hóa các loại TSBĐ. Phần lớn, TSBĐ mà Chi nhánh nhận cầm cố, thế chấp là Quyền sử dụng đất, máy móc thiết bị trong khi đó việc cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản ở nước ta còn nhiều bất cập, gây ảnh hưởng không nhỏ cho khách hàng vay vốn trong khi đó, có nhiều TSBĐ mà khách hàng có thể dễ dàng đáp ứng hơn: Các khoản phải thu, vàng, các hợp đồng nhận thầu, các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Do đó, danh mục TSBĐ được mở rộng, không những giúp khách hàng dễ dàng đáp ứng được điều kiện vay vốn, góp phần mở rộng tín dụng mà còn góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Ưu điểm chung của các TSBĐ này là không tốn kém về chi phí quản lý và định giá. Riêng với hình thức bảo đảm bằng vàng, Ngân hàng với nghiệp vụ kinh doanh vàng của mình, sẽ dễ dàng trong việc phân kim và định giá vàng, làm cơ sở để xác định mức cho vay. Đối với các khoản phải thu, tạo thuận lợi cho Chi nhánh mở rộng các khoản cho vay ngắn hạn, nhanh thu hồi vốn. Phần lớn khách hàng của Chi nhánh hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và giao thông, tình trạng các công trình chưa được quyết toán do dở dang, chưa thể hoàn thành vì còn thiếu vốn là rất lớn. Việc ngân hàng chấp nhận nhận hợp đồng nhận thầu làm TSBĐ, là “lời giải” cho bài toán thiếu vốn của các doanh nghiệp, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành công trình và sớm được quyết toán. Ngoài ra, Chi nhánh cần đi đầu trong việc nhận Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ làm TSBĐ. Thị trường Bảo hiểm Việt Nam, trong thời gian qua đã có những bước phát triển khởi sắc, đặc biệt đối với loại hình bảo hiểm nhân thọ, đã đưa ra nhiều mức bảo hiểm cùng với các dịch vụ hỗ trợ liên quan, do đó số lượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ngày càng gia tăng, đây là cơ sở để ngân hàng có thể khai thác để mở rộng tín dụng. Bên cạnh đó, hình thức bảo đảm này tương đối thuận lợi vì tính thanh khoản cao, dễ dàng trong quản lý. Bên cạnh những ưu điểm kể trên, những TSBĐ cần bổ sung trên cũng ẩn chứa nhiều rủi ro. Điều đó, đòi hỏi CBTD cần xem kĩ lưỡng các yếu tố về khách hàng, hiệu quả dự án để lựa chọn TSBĐ cho phù hợp. Việc đưa cái mới vào áp dụng ban đầu bao giờ cũng khó khăn, nhưng nếu thực hiện tốt kết quả thu được rất khả quan. Vì vậy, ban đầu Chi nhánh nên áp dụng đối với các khách hàng có quan hệ lâu dài, dự án có tính khả thi cao, ít rủi ro. Từ đó, tiếp tục mở rộng đối tượng áp dụng. Với cách làm như vậy, Chi nhánh không chỉ thu hút một số lượng khách hàng đáng kể mà còn hạn chế rất lớn rủi ro. 5. Chi nhánh có thể yêu cầu khách hàng mua Bảo hiểm cho TSBĐ. Đối với những loại TSBĐ mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm, Chi nhánh yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm. Do đó, đối với tài sản bắt buộc phải mua bảo hiểm, việc thẩm định TSBĐ lại càng phải được thực hiện chặt chẽ, kĩ lưỡng. Kết quả thẩm định là cơ sở để ngân hàng yêu cầu khách hàng mua loại bảo hiểm với mức phù hợp. Việc quản lý TSBĐ dù có tốt đến đâu, cũng khó tránh khỏi những rủi ro bất ngờ xảy ra đối với TSBĐ: lũ lụt, lốc, bão và các nguyên nhân bất khả kháng khác.... Khi đó, Bảo hiểm sẽ đứng ra thanh toán những tổn thất xảy ra đối với TSBĐ. Việc mua bảo hiểm cho TSBĐ cũng là biện pháp nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Tuy nhiên, để đảm bảo thu nợ, khi mua bảo hiểm cho TSBĐ, Chi nhánh cần phải thỏa thuận với khách hàng vay, bên bảo lãnh về việc chuyển tên người thụ hưởng trong Hợp đồng bảo hiểm là Chi nhánh trong trường hợp có rủi ro xảy ra. 6. Quan tâm hơn đến việc quản lý TSBĐ. Kết quả quản lý TSBĐ có ảnh hưởng rất lớn đến việc kết quả xử lý TSBĐ. TSBĐ được quản lý tốt thì việc xử lý TSBĐ được dễ dàng, nhanh chóng hơn. Do đó, quản lý TSBĐ luôn phải được chú trọng và quan tâm. Đối với các loại giấy tờ phải bảo quản nơi khô ráo, tránh chuột bọ, mối mọt và thuận tiện cho việc thường xuyên lấy ra kiểm tra. Đối với các TSBĐ cần phải cất giữ ở các kho, thì hệ thống kho phải đảm bảo có các yếu tố an toàn: phải đặt ở vị trí có an ninh tốt, người trông coi kho phải có uy tín và tư cách đạo đức tốt, có hệ thống chống trộm, hệ thống phòng cháy, chữa cháy.... Khó khăn nhất trong công tác quản lý TSBĐ tại Chi nhánh là khó kiểm soát được TSBĐ do khách hàng nắm giữ, đặc biệt là những máy móc có giá trị lớn nằm ở các công trường. Do đó, đối với những tài sản này, CBTD cần tiến hành những đợt xuống cơ sở đột xuất để kiểm tra tình trạng tài sản, định kỳ thường xuyên định giá lại tài sản để có biện pháp bổ sung thêm tài sản hoặc dừng cho vay. Quan tâm tới công tác quản lý TSBĐ là giải pháp giúp ngân hàng bảo vệ chính mình, giảm bớt rủi ro. 7. Nâng cao hiệu quả công tác xử lý TSBĐ. Việc tiến hành xử lý TSBĐ là điều mà ngân hàng cũng như khách hàng không hề mong muốn. Xử lý TSBĐ là khâu cuối cùng nhưng kết quả của nó lại phần nào phản ánh kết quả của định giá cũng như quản lý TSBĐ. TSBĐ xử lý đảm bảo thu hồi đủ nợ, chứng tỏ công tác định giá và quản lý TSBĐ đã được thực hiện khá tốt. Để nâng cao hiệu quả công tác xử lý TSBĐ, Chi nhánh cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: - Chi nhánh cần áp dụng nhiều hình thức xử lý TSBĐ, không nên tập trung quá vào hình thức để cho khách hàng tự bán vì cách này rất khó kiểm soát. Tùy từng loại TSBĐ và điều kiện cụ thể mà Chi nhánh cần lựa chọn hình thức xử lý cho phù hợp. - Để cho TSBĐ sau khi xử lý có thể đủ thu hồi nợ, ngân hàng phải cập nhật các thông tin về TSBĐ: giá cả, nhu cầu thị trường, các văn bản pháp luật mới liên quan đến xử lý TSBĐ.... là cơ sở để đánh giá đúng giá trị TSBĐ tại thời điểm xử lý. - Cần phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan chức năng nhà nước như Công an, Tòa án, Thi hành án, ủy ban nhân dân các cấp, Tư pháp.... 8. Thiết lập hệ thống thông tin trong suốt. Thông tin được coi là nguồn “nguyên liệu” đầu vào quan trọng cho quá trình phân tích tín dụng trong hoạt động ngân hàng. Với đăc trưng hoạt động đầy rủi ro như hoạt động tín dụng, khối lượng thông tin cần thu thập càng lớn: thông tin về khách hàng, thông tin về tài sản, thông tin về thị trường, thông tin về các văn bản…. Bên cạnh đó, thông tin càng đảm bảo chất lượng, có độ tin cậy cao, góp phần hỗ trợ cho quá trình xét duyệt khoản vay được nhanh chóng, ít tốn kém về chi phí đồng thời nâng cao chất lượng của khoản vay. Do đó, thiết lập một hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác là yêu cầu tất yếu, nhất thiết cần được quan tâm đúng mức. Để có hệ thống tin đảm bảo chất lượng cần tập trung vào những nội dung sau: - Trước hết cần đẩy nhanh việc hiện đại hóa công nghệ. Cần trang bị hệ thống máy tính nối mạng nội bộ trong Chi nhánh, cũng như với toàn hệ thống NHCT Việt Nam để giúp cho CBTD có thể truy cập nhanh chóng các Thông tin tín dụng, các văn bản, các sự kiện ... của NHCT Việt Nam cũng như chia sẻ thông tin về khách hàng, trao đổi về kinh nghiệm, chuyên môn giữa các CBTD với nhau trong toàn hệ thống. Mạng Internet là kênh cung cấp thông tin khổng lồ về tất cả các lĩnh vực trên toàn cầu. Với tiện ích của mạng toàn cầu Internet, hệ thống máy tính nối mạng Internet cần được đưa vào ứng dụng rộng rãi, giúp cho CBTD có thể khai thác các thông tin về giá cả, sự biến động thị trường của TSBĐ cũng như ngành nghề lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh làm cơ sở cho CBTD có thể phân tích, dự báo nhằm đưa ra quyết định. - Cần phối hợp chặt chẽ với các TCTD mà khách hàng vay, đối tác, nhà cung cấp của khách hàng để có thể khai thác các thông tin về khách hàng. Đây là những nguồn thông tin quan trọng, phản ánh khá chính xác về tư cách đạo đức, về tình trạng tài chính của khách hàng. -Nguồn thông tin có được từ mỗi khoản vay cần được lưu trữ cẩn thận trong hệ thống thông tin nội bộ, làm cơ sở cho việc xét duyệt các khoản vay tiếp theo cũng như chia sẻ thông tin với các đối tượng cần quan tâm. III. Một số kiến nghị 1. Kiến nghị với NHCT Việt Nam. - Cần tăng thêm tính tự quyết cho Chi nhánh: Hơn ai hết CBTD của Chi nhánh là người trực tiếp tiếp cận với khoản vay, do đó tăng tính tự quyết cho Chi nhánh, giúp Chi nhánh có thể chủ động đưa ra những quyết định kịp thời về số tiền vay, về tài sản nhận bảo đảm, về xử lý TSBĐ… tránh đánh mất những cơ hội chỉ vì những quy định cứng nhắc, máy móc không phù hợp với thực tế của Chi nhánh. - NHCT Việt Nam cần tập trung chú trọng nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của Trung tâm Phòng ngừa & Xử lý rủi ro NHCT Việt Nam, qua đó CBTD của Chi nhánh có thể khai thác được kịp thời và chính xác các thông tin phòng ngừa: về tình hình thị trường sản phẩm, dự báo sự biến động của giá cả, thị phần, về những lĩnh vực đang có sự biến động lớn (thuận lợi, khó khăn), về xu thế giải thể, sáp nhập…. - Cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo để qua đó CBTD có thể trao đổi những bất cập, vướng mắc của các văn bản khi triển khai tại cơ sở, để qua đó NHCT Việt Nam có thể tập hợp để tự sửa đổi hoặc trình lên các cơ quan cấp trên yêu cầu sửa đổi. Đồng thời, qua các buổi hội thảo, CBTD có thể cập nhật các văn bản, quy định mới của NHCT Việt Nam, của NHNN, cùng học tập, trao đổi, nâng cao trình độ nghiệp vụ. Bên cạnh đó, NHCT Việt Nam phải có chính sách đào tạo cán bộ: có thể tự tổ chức lớp đào tạo hoặc gửi đi đào tạo ở các trường trong nước hoặc nước ngoài. - NHCT Việt Nam đã thực hiện xong giai đoạn 1 của đề án tái cơ cấu ngân hàng. Hịên tại, NHCT Việt Nam đang trong quá trình triển khai giai đoạn 2 của đề án. Trong thời gian còn lại của đề án, NHCT Việt Nam tập trung đẩy mạnh hiện đại hóa công nghệ, đặc biệt trong hoạt động tín dụng, để giúp CBTD có thể rút ngắn thời gian phân tích tín dụng, tiếp cận thông tin, dần làm quen với môi trường làm việc hiện đại. 2. Kiến nghị với NHNN. - Trước những hạn chế và bất cập của Bộ luật dân sự năm 1995, ngày 14/6/2005, Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006 thay thế cho Bộ luật dân sự ngày 28/10/1995. Do đó, có nhiều quy định hiện hành của các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay được xây dựng trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 không còn phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 nữa. Do đó, NHNN cần sớm xây dựng và hoàn thiện dự thảo nghị định về bảo đảm tiền vay trình Chính phủ xem xét, ký ban hành, làm cơ sở pháp lý cho các TCTD thực hiện. Nghị định về bảo đảm tiền vay trình Chính phủ ký lần này cần được xây dựng trên cơ sở kế thừa những điều khoản còn phù hợp và sửa đổi, bổ sung những quy định lỗi thời, lạc hậu của Nghị định số 178, Nghị định số 85 cho phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, các văn bản pháp luật có liên quan khác và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin tín dụng tại Trung tâm Thông tin tín dụng của NHNN nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin cập nhật và chính xác về khách hàng. Cần có những biện pháp tuyên truyền thích hợp để các NHTM nhận thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ trong việc cung cấp và sử dụng thông tin tín dụng. - NHNN cần có sự chỉ đạo các NHTM báo cáo rõ các vướng mắc, tồn tại, bất cập trong các văn bản pháp luật về Bảo đảm tiền vay đã ban hành cũng như các yêu cầu về những vấn đề trong thực tiễn hoạt động bảo đảm tiền vay đã phát sinh cần có văn bản pháp quy pháp luật để điều chỉnh, để NHNN kịp thời xem xét, cùng phối hợp với các cơ quan liên quan chỉnh sửa, bổ sung hoặc ban hành mới, tạo môi trường thể chế thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và phù hợp với chuẩn mực quốc tế. - NHNN đề xuất với Chính phủ chỉ đạo các Bộ ban ngành thống nhất thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm khi cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và thủ tục cấp giấy chứng nhận sở hữu bất động sản cho rõ ràng. - Phối hợp với các đơn vị liên quan thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo và bồi dưỡng kiến thức cập nhật để nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân tích kiểm soát rủi ro tín dụng. - Tăng cường hiệu quả thanh tra kiểm soát hoạt động tín dụng tại các NHTM nhằm hạn chế phòng ngừa rủi ro tín dụng. 3. Kiến nghị với các bộ ban ngành liên quan. * Bộ tư pháp và Bộ TN&MT - Phòng công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm luôn ở trong tình trạng quá tải, gây mất rất nhiều thời gian cho dân. Thiết nghĩ, Bộ TN&MT và Cục đăng ký Quốc gia giao dịch bảo đảm cần có kế hoạch tuyển thêm nhân sự, mở thêm các phòng làm việc tại nhiều quận, tạo thuận lợi cho người dân đến giao dịch. Và hiện nay, Bộ TN&MT và Cục đăng ký Quốc gia giao dịch bảo đảm chưa quy định rõ công chứng trước hay giao dịch bảo đảm trước. Do đó, cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện đăng ký Giao dịch bảo đảm trước hay công chứng trước để hai cơ quan này không đùn đẩy cho nhau, gây phiền hà cho khách hàng và ngân hàng. - Đề nghị Bộ TN&MT và Bộ tư pháp có quy định đối với những trường hợp tài sản thế chấp là bất động sản trước khi luật đất đai năm 2003 có hiệu lực còn thiếu giấy tờ theo quy định hiện nay nhưng không nằm trong quy hoạch, không chuyển mục đích sử dụng, không có tranh chấp thì cho phép các TCTD bán và người mua được cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, giúp ngân hàng xử lý TSTC thu hồi vốn. - Về cách tính lãi nợ quá hạn do chậm thi hành án, theo quy định của NHNN, các TCTD được tự xác định mức lãi suất cho vay và thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng (HĐTD), lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn cũng được ghi trong hợp đồng. Tuy nhiên, cơ quan thi hành án không chấp nhận lấy mức lãi suất cho vay đã thỏa thuận trong HĐTD giữa ngân hàng và khách hàng làm căn cứ để xử lý nợ quá hạn đối với tài sản phát mại mà lấy lãi suất cơ bản của NHNN (là mức lãi suất mang tính định hướng, thấp hơn nhiều so với lãi suất thực tế của các TCTD) nên đã gây thiệt hại cho các TCTD. Vì vậy, Bộ tư pháp cần làm việc với NHNN để có hướng dẫn xử lý lãi suất nợ quá hạn đối với tài sản phát mại. * Bộ Công an: Đề nghị Bộ Công an có hướng dẫn cảnh sát giao thông thống nhất việc cho phép chủ phương tiện lưu thông sử dụng bản sao Giấy chứng nhận đăng ký (có chứng nhận của cơ quan Công chứng) đối với các phương tiện vận tải đã được cầm cố, thế chấp tại Ngân hàng (theo quy định, bản chính Giấy tờ đăng ký các phương tiện này đã được các TCTD giữ khi nhận cầm cố, thế chấp). * Bộ Tài chính: Theo quy định của Bộ Tài chính, khi Ngân hàng bán TSBĐ để thu hồi nợ, thì thu nhập từ việc bán TSBĐ này phải chịu thuế TNDN. Quy định không hợp lý ở chỗ việc bán TSBĐ là biện pháp ngoài mong muốn của ngân hàng nhằm mục đích thu hồi nợ vay, hoàn toàn không phải là hoạt động kinh doanh. Do đó, đề nghị Bộ Tài chính xem xét bỏ quy định này, tạo điều kiện cho các ngân hàng không phát sinh một khoản chi phí, để có thể thu đủ nợ. 4. Kiến nghị với Chính phủ. - Việc xây dựng xếp hạng tín dụng nội bộ tại NHTM còn gặp nhiều khó khăn vì việc tiếp cận các thông tin giúp cho việc đánh giá, xếp hạng tín dụng khách hàng (như tình hình kinh doanh, tài chính, tài sản, uy tín đối với NHTM đã giao dịch trước đây) hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Hiện tại, Việt Nam mới chỉ có một Công ty xếp hạng tín nhiệm của Vietnamnet được thành lập, tuy nhiên khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của công ty xếp hạng tín nhiệm trong nước chưa hoàn chỉnh, do đó, các NHTM chưa thể tham khảo kết quả xếp hạng doanh nghiệp do công ty xếp hạng tín nhiệm trong nước thực hiện khi phân tích, đánh giá, xếp hạng tín nhiệm. Vì vậy, Chính phủ cần giao cho Bộ Tài Chính sớm ban hành khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của công ty xếp hạng tín nhiệm. -Chỉ đạo các Bộ, ngành ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật cần kịp thời, đồng bộ, rõ ràng, thống nhất và sát thực tế hơn, loại bỏ những bất cập và chồng chéo, tránh tình trạng Luật đã có hiệu lực thì hành mà chưa có văn bản hướng dẫn. - Cần có sự chỉ đạo các cơ quan ban ngành có giải pháp kịp thời để làm “tan băng” thị trường bất động sản như hiện nay. - Hiện nay, có nhiều cơ quan của các Bộ, ngành thực hiện nhiệm vụ đăng ký giao dịch bảo đảm: Bộ TN& MT đăng ký Bất động sản. Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm – Bộ Tư pháp đăng ký động sản, Cơ quan quản lý đường biển, đăng ký tàu thuyền, Cục hàng không dân dụng Việt Nam đăng ký máy bay….Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm chưa được thống nhất, đặc biệt ở các địa phương, gây khó khăn cho doanh nghiệp và ngân hàng. Thiết nghĩ, Chính phủ xem xét thống nhất giao cho một cơ quan đảm nhận. Kết luận Hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế là xu thế tất yếu và là đòi hỏi khách quan của quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Trong xu thế đó, các thị trường tài chính ngày càng phát triển, mở rộng, mức độ cạnh tranh giữa các NHTM trên thị trường quốc tế, ngay cả thị trường nội địa tăng nhanh. Trong điều kiện kinh doanh mới, thị trường luôn sôi động và biến động khó lường, nguy cơ rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng lại càng lớn. Do đó, việc sử dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản được coi là giải pháp hữu hiệu để các NHTM Việt Nam duy trì được sự phát triển ổn định, bền vững, đảm bảo cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Và điều đó đã được chứng minh tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. Việc áp dụng biện pháp BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh, không những góp phần mở rộng qui mô tín dụng mà chất lượng tín dụng cũng được nâng cao. Tuy vây, trong quá trình thực hiện công tác BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh đã phát sinh một số vướng mắc, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả BĐTV tại Chi nhánh. Việc tìm hiểu nguyên nhân và có những giải pháp xử lý kịp thời luôn được Chi nhánh hết sức quan tâm. Qua việc nghiên cứu lý thuyết, cũng như được thực tế tại Chi nhánh, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp với mong muốn nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu cũng như hiểu biết thực tế còn nhiều hạn chế, nên bài viết của không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo 1. Sách. - “ Ngân hàng thương mại” của PGS.TS Phan Thị Thu Hà - Nhà xuất bản thống kê. - “ Các nghiệp vụ NHTM” của GS.TS Lê Văn Tư - Nhà xuất bản thống kê - “ Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại” của David Cox- Nhà xuất bản quốc gia Hà Nội 1997. - “ Một số nghiệp vụ NHTM” của TS Nguyễn Văn Ngôn - Nhà xuất bản thống kê 1996 2. Báo và tạp chí. - Bài “Bàn về một số khía cạnh trong nhận cầm cố tài sản là máy móc, thiết bị làm đảm bảo tiền vay – vấn đề quan tâm của doanh nghiệp”- Đào Văn Chung, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ 15/2/2005. - Bài “Chính sách tài sản đảm bảo trên quan điểm an toàn và sinh lợi của NHTM” – Phan Thị Thu Hà, Tạp chí Ngân hàng số 9/2004. - Bài “Xử lí TSBĐ thu hồi nợ của NHTM còn nhiều bất cập”- Bình Minh, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ 8/2005. - Bài “Quản trị danh mục TSBĐ - một yêu cầu cấp thiết” – Phạm Xuân Hòe, Tạp chí Ngân hàng số 7/2005. 3. Các tài liệu khác. - Luật đất đai 2003. - Sổ tay tín dụng của NHCT 2004. - Luật dân sự 2005. - Các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay được nêu trong bài. Nhận xét của cơ sở thực tập Ngày...... tháng ....... năm 2006 Thủ trưởng đơn vị (Ký tên, đóng dấu) Nhận xét của giáo viên hướng dẫn Ngày...... tháng ....... năm 2006

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29428.doc
Tài liệu liên quan