Là cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, NHNN cần thực hiện những giải pháp sau để tăng cường hoạt động phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ của các NHTM:
(1) Hoàn thiện cơ sở pháp lý về TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về NH bao gồm Luật NHNN, Luật các TCTD phù hợp với chính sách phát triển KT-XH, với tiêu chuẩn và hoạt động quốc tế. Rà soát lại các văn bản liên quan đến hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ để hoàn chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam. NHNN cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản, quy định đối với hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ của các NHTM, nhanh chóng triển khai hướng dẫn thực hiện một cách rõ ràng các khuôn khổ pháp lý liên quan đến hoạt động TTQT theo phương thức TDCT để từ đó làm cơ sở cho hoạt động TTQT của NHTM. Xây dựng
(2) Nâng cao vai trò của NHNN trong việc điều hành chính sách tiền tệ NHNN cần nghiên cứu hoàn thiện các thị trường tài chính liên quan đến các chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, đặc biệt coi trọng thị trường tiền tệ. Vai trò điều hành vĩ mô của NHNN cần được nâng cao nhất là trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia và trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các trung gian tài chính. Việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN phải nhằm mục tiêu thúc đẩy, phát triển ổn định vững chắc nền KT, kiểm soát lạm phát. Bên cạnh đó, cần phát triển các công cụ tài chính của thị trường phái sinh, đặc biệt là các công cụ, các giao dịch hạn chế rủi ro về tỷ giá hối đoái như Swap,Forward, Future, Option.
(3)NHNN cần có biện pháp hoàn thiện và phát triển thị trường mua bán ngoại tệ liên ngân hàng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là thị trường nhằm giải quyết các quan hệ trao đổi, cung cấp ngoại tệ giữa NHNN với các ngân hàng thương mại và giữa các ngân hàng thương mại với nhau. Vì vậy, để Techcombank- Hoàn Kiếm mở rộng quan hệ thanh toán quốc tế, phục vụ tốt cho hoạt động XNK hàng hoá thì việc phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là rất cần thiết. Trong thời gian tới, để hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, ngân hàng nhà nước và các đối tượng liên quan cần thực hiện các công tác sau :
Cần giám sát và buộc các NHTM phải xử lý trạng thái ngoại hối của mình bằng việc mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Mở rộng đối tượng tham gia vào thị trường.
Phát triển các nghiệp vụ vay mượn ngoại tệ, nghiệp vụ đầu cơ và các hình thức mua bán ngoại tệ như mua bán ký hạn, hợp đồng tương lai.
88 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2009 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề NÂNG CAO HIỆU QUẢ THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN KỸ THƯƠNG Việt Nam – TECHCOMBANK, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tin và truyền thông trao tặng.
Thứ sáu, chính sách chủ động phá giá tiền tệ theo hướng có lợi cho xuất khẩu là một trong những yếu tố có tác động tích cực, kích thích hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt nam.
2.4.2 Những hạn chế trong việc phát triển hoạt động TTQT tại Techcombank
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Techcombank vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế cần khắc phục
Thứ nhất, Sự vận dụng luật pháp quốc tế và luật phát quốc gia trong hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ chưa đồng bộ và còn tồn tại nhiều bất cập. Nền kinh tế của nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cùng với sự sửa đổi hình thành, hoàn thiện luật pháp nói chung và luật cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói riêng. Môi trường pháp lý chưa đồng bộ chưa thích hợp với các quy định và chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là các quy định của luật các tổ chức tín dụng vẫn còn nhiều bất cập cần sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với sự phát triển. Hơn nữa, kinh nghiệm về TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ gắn với thông lệ quốc tế đối với nước ta còn mới mẻ và khá phức tạp, cần có thời gian để thực hiện kiểm nghiệm và phát triển hoàn thiện theo từng bước. Cho đến nay, Việt nam chưa có Luật hay quy định dưới luật dành riêng cho hoạt động TTQT nói chung và TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Hiện nay. Các bên tham gia TTQT đều sử dụng UCP 500 hoặc UCP 600 làm cơ sở quy định trách nhiệm và quyền hạn của các bên tham gia. Các quy định cho hoạt động TTQT và hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ hiện nằm rải rác ở các văn bản như : Bộ luật dân sự năm 1995, Luật Thương mại năm 1997, Luật các TCTD năm 1997….
Các nước thường dựa trên điều khoản của UCP 500 và UCP 600 khi thực hiện thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ. Tuy nhiên tại mỗi quốc gia lại có một hệ thống pháp luật riêng biệt điều chỉnh các quan hệ phát sinh phù hợp với phong tục và tập quán của nước mình. Điều đó đã dẫn tới sự không thống nhất trong việc áp dung phương thức tín dụng chứng từ tại mỗi quốc gia. Trong mọi hoạt động thì hiệu lực của luật được sắp xếp theo trình tự từ cao đến thấp : Luật quốc tế, luật quốc gia, thông lệ và tập quán quốc tế. UCP 500 và UCP 600 là những thông lệ và tập quán quốc tế trong TTQT nên trong những trường hợp có sự đối nghịch giữa UCP và luật pháp quốc gia thì luật quốc gia sẽ vượt lên trên và quyết định cuối cùng của tòa án địa phương là quyết định cuối cùng.
Thứ hai, Nguồn nhân lực thực hiện hoạt động TTQT theo phương thức L/C của Techcombank có trình độ không đồng đều, Tuy đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ quản lý cũng như đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ, song vẫn dễ nhận thấy rằng tư duy kinh doanh, nghiệp vụ của Techcombank đang còn có một khoảng cách xa so với trình độ thế giới và các rủi ro trong quá trình hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ của Techcombank chủ yếu bắt nguồn từ những nghiệp vụ cụ thể với những con người cụ thể. Do trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sự hiểu biết pháp luật hoặc do ý thức trách nhiệm không cao hoặc do thiếu đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công nhân viên đã dẫn đến việc vi phạm các quy trình nghiệp vụ, cơ chế, pháp luật dẫn đến những thất thoát trong quá trình hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Techcombank.
Thứ ba, Năng lực cạnh tranh của Techcombanh, thời gian qua, Techcombank đã không ngừng nâng cao năng lực tài chính, đầu tư cho các hoạt động phát triển mạng lưới, thành lập mới các chi nhánh, phát triển hê thống phòng giao dịch, tuy nhiên thị phần của Techcombank vẫn còn một khoảng cách khá xa với 4 ngân hàng hàng đầu của Việt nam đặc biệt là thị phần TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ vẫn chưa thể so sánh được với thị phần áp đảo của ngân hàng Vietcombank.
Về sản phẩm dịch vụ TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ : vẫn chưa đa dạng, chủ yếu vẫn là các loại sản phẩm truyền thống, áp dụng chung cho mọi đối tượng khách hàng. Các loại sản phẩm thiết kế riêng theo nhu cầu của khách hàng hầu như không có. Sự phối kết hợp giữa các bộ phận nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ còn lỏng lẻo và chưa có hiệu quả cao. Việc xây dụng đưa các sản phẩm mới vào kinh doanh còn chậm đặc biệt là các sản phẩm mang tính đặc thù cho từng loại nhu cầu của khách hàng. Nguyên nhân chính của việc này đó chính là tâm lý ngần ngại trong việc tiếp cận sản phẩm mới của Techcombank.
Về mức phí dịch vụ TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ: đây là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của khách hàng, tuy nhiên Techcombank chưa có hệ thống thông tin về giá cả dịch vụ cụ thể của các ngân hàng đại lý để tư vấn hỗ trợ cho khách hàng ngay khi lựa chọn hình thức giao dịch. Techcombank chưa thực sự quan tâm đến các chi phí của khách hàng đối với một giao dịch và chưa cho rằng phí giao dịch là một yếu tố để cạnh tranh. Khi khách hàng có khiếu nại về các khoản phí thanh toán bị trừ vào tiền hàng thì cán bộ Techcombank chỉ biết xuất trình điện thông báo của ngân hàng nước ngoài liên quan đến các khoản phí phải thu, điều này làm khách hàng chưa hài lòng.
Về uy tín của Techcombank đối với khách hàng trong và ngoài nước còn chưa cao do thời gian thâm nhập vào hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ còn ngắn. Trình độ cũng như kinh nghiệm hoạt động về lĩnh vực này còn hạn chế. Đặc biệt, Techcombank chưa quan tâm đúng mức đến công tác tiếp thị, quảng cáo về chức năng, khả năng hoạt động của mình, chưa tạo ra được hình ảnh sâu rộng trong và ngoài nước. Điều đó dẫn đến tâm lý rụt rè e ngại của một số khách hàng khi tiến hành hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ qua ngân hàng Techcombank. Techcombank chưa có định hướng tổng thể về hoạt động kinh doanh đối ngoại, chưa xác định rõ mục tiêu , chưa xác lập được chiến lược kinh doanh dài hạn với các kế hoạch cụ thể trong chiến lược chung của mình.
Theo cam kết hội ngập từ ngày 1/4/2007 Việt nam sẽ cho phép các ngân hàng 100% vốn nước ngoài được hoạt động và thực hiện hầu hết các nghiệp vụ như một ngân hàng nội địa. Hơn nữa, việc các ngân hàng TMCP pháp triển nhanh vê số lượng cũng như quy mô taọ ra áp lực cạnh tranh lớn cho Techcombank. Hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ là một trong những thế mạnh của các ngân hàng có 100% vốn nước ngoài do họ có những ưu thế nổi trội trong kinh nghiệm, mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, uy tín và sự tương quan về vốn. Tuy chỉ chiến 10% tín dụng tại thị trường Việt nam nhưng các ngân hàng nước ngoài có tiềm lực rất mạnh với 30% vốn chủ sở hữu trong hệ thống NHTM đang hoạt động tại Việt nam.
Thứ tư, các nghiệp vụ ngân hàng khác có liên quan chưa đa dạng. Thị trường tài chính của Việt nam chưa hoàn thiện và có khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực. Hoạt động khác trên thị trường vốn đặc biệt là thị trường chứng khoán còn sơ khai. Hiệu quả hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ còn chưa cao nguyên nhân là do lòng tin, lạm phát , lãi suất, mức độ cạnh tranh…. đã hạn chế sự phát triển của dịch vụ này. Bên cạnh đó cán cân TTQT của Việt Nam luôn bị thâm hụt dẫn đến sự mất cân đối giữa cung và cầu ngoại tệ ảnh hưởng đến khả năng chi trả ngoại tệ của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Techcombank nói riêng và nhu cầu thanh toán của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh XNK. Hiện nay nước ta chưa có một thị trường ngoại hối phát triển hoàn chỉnh theo đúng nghĩa của nó, nó mới ở dạng sơ khai kà thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Mặc dù đạt được những kết quả đáng khích lệ song thị trường liên ngân hàng vẫn bộc lộ những hạn chế ảnh hưởng đến nguồn ngoại tệ cũng cấp cho hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ. Hoạt động trên thị trường liên ngân hàng diễn ra theo một chiều khi nào ngoại tệ dư thừa thì ngân hàng nào cũng bán và khi nào khan hiếm thì ngân hàng nào cũng chào mua thậm chí có ngân hàng dư ngoại tệ cũng không bán. Điều này dẫn đến nguồn ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng cung cấp cho hoạt động TTQT nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng trong những thời điểm có biến động tỷ giác hoặc những thời điểm tập trung nhiều nghĩa vụ thanh toán với nước ngoài bị hạn chế.
Thứ năm là sự xuất hiện lợi dụng và lừa đảo trong hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tại Techcombank. Khi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhận thức của các doanh nghiệp hoạt động XNK và của cán bộ thực hiện hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tại Techcombank còn hạn chế dẫ đến những khe hở cho các tổ chức và cá nhân lợi dụng để lừa đảo. Nhiều sai sót kỹ thuật đã xảy ra dẫn đến rủi ro cho ngân hàng mở thư tín dụng như việc thiếu kiểm tra mẫu giao dịch, kiểm tra không cẩn thận và không đầy đủ nên không phát hiện được những yếu tố còn thiếu trong bộ chứng từ và Techcombank vẫn căn cứ thanh toán bình thường cho bên thụ hưởng. Trong các vụ chanh trấp TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ, Techcombank thường phải gánh chịu thiệt hại về cả vật chất, uy tín và thậm chí cả cán bộ. Khi là ngân hàng phát hành đến hạn phải trả hoặc bị ngân hàng nước ngoài trích tài khoản thu nợ trong khi lại rất khó đòi người mở L/C. Trong một số trường hợp, cán bộ ngân hàng bị coi là người liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới việc mất tiền hoặc mất hàng và bị xử lý hình sự.
Đối với phương thức thanh toán tín dụng chứng từ: việc xác định mức kỹ quỹ cho từng đối tượng khách hàng mở L/Ccủa Techcombank còn chưa đồng nhất về mặt tiêu chí. Các thông tin để quyết định hạn mức miễn giảm ký quỹ cho khách hàng còn hạn chế và hiệu quả còn rất thấp. Việc ký quỹ chỉ là một trong những điều kiện đảm bảo thanh toán nhưng không thể loại trừ hoàn toàn rủi ro. Tỷ lệ ký quỹ cao không thể thay thế kỹ thuật xử lý nghiệp vụ của cán bộ thanh toán. Techcombank đã cấp hạn mức mở L/c cho từng chi nhanh của mình. Tuy nhiên viêc thực hiện cấp hạn mức mới chỉ dừng lại ở việc theo dõi số dư thanh toán L/C của từng chi nhánh chứ chưa đáp ứng được việc cân đối ngoại tệ chung trong toàn hệ thống và chưa đạt được mục đích quản lý rủi ro trong thanh toán hàng XNK của Techcombank. L/C được mở bằng thư phần lớn là sai chữ ký mẫu hoặc không có chữ ký đăng ký nên ngân hàng phải hỏi lại ngân hàng phát hàng và gây chậm trễ trong việc thông báo cho khách hàng. Việc kiểm tra chứng từ mà không có chuẩn mực chung giữa các ngân hàng nên thường có quan điểm trái ngược gây tranh cãi giữa ngân hàng và khách hàng, nhiều trường hợp không giải quyết được đã dẫn đến tranh chấp làm mất uy tín của Techcombank.
Trong thanh toán L/C hàng xuất: có nhiều trường hợp do lỗi của ngân hàng không kiểm ttra chứng từ hàng xuất cẩn thận để xảy ra sai sót chứng từ, còn nhà XK thì lại quá dễ dãi chấp nhận những nội dung của L/C không chú ý đén các yếu tố gây bất lợi như ngày và nơi hết hiệu lực L/C tại nơi ngân hàng phát hành, ngân hàng trong nước chỉ là nơi xuất trình. Cán bộ làm công tác TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tại Techcombank chưa quan tâm đến giá cả cũng như tình hình thị trường để có thể thận trọng hơn ngay từ khi mở L/C để khuyến cáo khách hàng trong việc kiểm tra chứng từ trước khi thông báo cho nước ngoài cũng như thông báo cho khách hàng nhập khẩu.
Trong thanh toán L/C hàng nhập : Trong quan hệ thanh toán hàng nhập khẩu qua ngân hàng hiện nay, bên cạnh những khách hàng có kiến thức và biết giữ chữ tín với bạn hàng của họ, có tinh thần hợp tác, tôn trọng cam kết với ngân hàng phục vụ mình vẫn còn không ít những nhà nhập khẩu do không am hiểu về buôn bán ngoại thương, không có đủ kiến thức về TTQT kinh doanh theo thời vụ bỏ qua thông lệ quốc tế biến ngân hàng phục vụ mình thành nơi gánh chịu các tranh chấp. Ngoài ra do tính chất của L/C là việc thanh toán tiền hàng chỉ dựa trên bề mặt của bộ chứng từ hoàn hảo nên khi nhà xuất khẩu cố tình lập bộ chứng từ để nhận tiền thậm chí nhà xuất khẩu lập chứng từ giả để đòi tiền nhà nhập khẩu nhưng không giao hàng đã gây tổn thất nặng nề cho nhà nhập khẩu. Đây cũng là một trong những nhược điểm của phương thức thanh toán này và có thể gây rủi ro cho khách hàng cũng như gân hàng . Do vậy. việc tìm hiểu kỹ về khả năng tài chính cũng như uy tín của nhà xuất khẩu đối với nhà nhập khẩu và ngân hàng là rất quan trọng
2.4.3 Nguyên nhân của những hạn chế
Trong những hạn chế mà ngân hàng Techcombank hay bất kỳ một ngân hàng nào mắc phải đều một phần xuất phát từ hai phía: nguyên nhân chủ quan trong bản thân chính nội bộ ngân hàng và nguyên nhân khách quan do các yêu tố bên ngoài đem lại. Các nguyên nhân này có tác động trực tiếp đến tính hiệu quả và sự phát triển của các hoạt động TTQT trong ngân hàng Techcombank nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng.
* Các nguyên nhân khách quan
- Môi trường pháp lý chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Hệ thống pháp luật Việt nam tuy đã được khẩn trương xây dựng để đáp ứng yêu cầu mới, nhưng hiện còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ chưa thật sự quan tâm đến quy luật của thị trường và chuẩn mực quốc tế. Nhiều rào cản pháp lý vẫn còn, mà bản thân các NHTM không thể tự tháo gỡ. Việc xây dựng hệ thống pháp luật cho phù hợp với môi trường pháp lý WTO không phải chỉ đơn thuần vì Viêt nam gia nhập WTO, mà thực chất là vì sự phát triển của chính nền kinh tế VN nói chung và của các NHTM cũng như Techcombank nói riêng. Đối với NHNN - cơ quan quản lý tiền tệ và hệ thống NH thì việc xây dựng hệ thống pháp luật ngân hàng còn thiếu, chưa đồng bộ và khá nhiều vấn đề chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều đó tạo ra thách thức phải sửa đổi, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng theo nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO. Cùng với việc mở cửa thị trường tài chính nội địa sẽ làm tăng rủi ro thị trường do các tác động từ bên ngoài, từ thị trường tài chính khu vực và thế giới, trong khi đó, năng lực điều hành chính sách tiền tệ, cũng như năng lực giám sát hoạt động NH của NHNN còn hạn chế, bên cạnh đó là cơ chế quản lý vĩ mô còn chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện gây khó khăn cho NH khi tiến hành hoạt động TTQT như cơ chế lãi suất, tỷ giá. Các công cụ của chính sách tiền tệ chưa được đổi mới theo hướng linh hoạt, phù hợp với thị trường, các công cụ trực tiếp chưa hoàn toàn được thay thế bằng các công cụ gián tiếp. Tình trạng đôla hoá vẫn ở mức cao. Những yếu tố đó đã hạn chế hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của Ngân Hàng Nhà Nước. Bên cạnh đó, các khuôn khổ pháp lý đối với việc quản lý NN về hoạt động NH còn chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, minh bạch, tính thống nhất, thực thi không cao, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Hệ thống thanh tra theo chuẩn mực quốc tế chưa được áp dụng. Các chính sách liên quan đến hoạt động TTQT chưa đồng bộ. Chưa có văn bản nào của NN điều chỉnh quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia hoạt động thanh toán XNK.
- Kiến thức về nghiệp vụ thanh toán XNK chưa được phổ cập rộng rãi trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt nam. Trình độ của cán bộ làm công tác XNK ở các doanh nghiệp kinh doanh XNK chưa cao, thiếu thông tin về khách hàng; chưa thông thạo về kỹ thuật buôn bán ngoại thương, không nắm vững được các thông lệ quốc tế trong buôn bán quốc tế như và điều đó đã gây ra những rủi ro đáng tiếc như: chọn nhầm đối tác; còn nhiều sơ hở khi ký kết hợp đồng; khi thương lượng ký kết hợp đồng thương mại thường dễ dàng chấp nhận các phương thức thanh toán và điều kiện thanh toán bất lợi cho mình; chấp nhận các bất lợi trong nội dung L/C nên đã dẫn đến rủi ro trong thanh toán; dễ dãi cả tin và chạy theo lợi nhuận; Việc lập chứng từ hàng xuất còn nhiều sai sót dẫn đến việc NH nước ngoài từ chối thanh toán. Nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về hoạt động TTQT còn nhiều hạn chế do việc có quá ít kinh nghiệm trong đàm phán giao dịch quốc tế, nhiều doanh nghiệp còn xem nhẹ những rủi ro có thể phát sinh từ hoạt động này, vì thế cũng làm cho rủi ro của hoạt động này tăng lên. Nhiều thương vụ làm ăn với các đối tác nước ngoài không có sự phân tích thẩm định kỹ cho nên không mang lại hiệu quả KT và doanh nghiệp phải gánh chịu rủi ro. Một số doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết với ngân hàng, một số doanh nghiệp không có khả năng thanh toán.
- Sự biến động của các yếu tố kinh tế vĩ mô như: Trong năm 2008, trên thế giới đồng USD giảm giá đầu năm rồi lại tăng giá cuối năm, giá vàng tăng đầu năm rồi lại giảm vào cuối năm, giá dầu thô tăng rồi lại rớt giá nghiêm trọng vào cuối năm…ảnh hưởng đến các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của Techcombank. Đầu năm lạm phát tăng cao đến cuối năm thì lại giảm phát. Tình hình kinh tế bất ổn khiến cho nhiều tổ chức, doanh nghiệp lao đao. Các ngân hàng cũng hứng chịu những chính sách thay đổi liên tục như thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Trung ương, tăng lượng dự trữ bắt buộc trong các NHTM, đặc biệt là sự khan hiếm ngoại tệ vào cuối năm 2008 làm ảnh hưởng đến lượng tiền mặt và ngoại tệ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của các ngân hàng, trong đó có ngân hàng Techcombank, cụ thể là ảnh hưởng đến các nghiệp vụ thanh toán XNK của Techcombank.Bước sang năm 2009, tình hình kinh tế thế giới cũng như trong nước đã được cải thiện và thoát dần khỏi khủng hoảng, tuy nhiên để đạt trở lại tốc độ tăng trưởng vào thời kỳ cao nhất trước khủng hoảng vẫn cần một thời gian hồi phục. Sự chênh lệch tỷ giá ngoại tệ ngân hàng công bố và thị trường chợ đen đã được giảm xuống và tiến tới sự chênh lệch này sẽ được xóa bỏ nhưng sự khan hiếm ngoại tệ trên thì trường vẫn là điều luôn có khả năng xảy ra. Dư âm của cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 2008 đã để lại những vết thương và ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình XNK của các doanh nghiệp trong nước.
Ngoài ra còn rất nhiều nguyên nhân khách quan khác tác động tiêu cực đến hoạt động TTQT của ngân hàng Techcombank như các yếu tố về chính trị, văn hóa, xã hội, mà ngân hàng phải xem xét và tính đến.
* Các nguyên nhân chủ quan từ phía Techcombank
- Tiềm lực vốn nhỏ bé : Techcombank có nguồn vốn tự có thấp hơn các tứ đại ngân hàng và thấp hơn vốn tự có của các ngân hàng quốc tế mà Techcombank đã, đang và sẽ phải cạnh tranh. Vốn tự có thấp chính là nguyên nhân làm cho sức mạnh tài chính của Techcombank suy giảm và khả năng chống đỡ rủi ro yếu. Hiện nay tỷ lệ vốn tự có trên tổng nguồn vốn của Techcombank chỉ dao động từ 4% - 6% qua các năm 2005 đến 2009 trong khi quy định của ngân hàng thanh toán quốc tế là 8%. Đây là một khó khăn cho Techcombank trong cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài khi nhà nước mở rộng của để họ mở chi nhánh hoạt động tại Việt Nam.
- Trình độ cán bộ làm công tác TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tại Techcombank còn hạn chế và nghiệp vụ yếu ở một số bộ phận nhất định, chưa nắm bắt được những thay đổi kịp thời. Chưa có nhiều cán bộ giỏi làm công tác tham mưu cho lãnh đạo về TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ. Cán bộ làm công tác TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tại Techcombankchưa có chuyên gia thực thụ về TTQT và chuyên sâu về phát triển các sản phẩm tài trợ thương mại. Kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn để thực hiện giao dịch và đo lường rủi ro còn yếu kém, chưa có những bộ phận nghiên cứu dự đoán sự thay đổi của tỷ giá trên thị trường. Tổ chức hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ còn phân tán. Trình độ giữa các chi nhánh và hội sở chính cách biệt, hệ thống xử lý thông tin nghèo nàn dẫn đến rủi ro cao, chưa có bộ phận quản lý hạn mức mở L/C
- Sản phẩm dịch vụ TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ chưa đa dạng chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng và của thị trường. Các sản phẩm thanh toán mới dừng lại ở các sản phẩm truyền thống như thanh toán xuất, nhập, chuyển tiền. Chưa có sự bứt phá, đầu tư nghiên cứu phát triển các sản phẩm tài trợ thương mại mới. Hoạt động NH đại lý chưa đáp ứng được yêu cầu giao dịch; Chính sách khách hàng không đồng bộ trong toàn hệ thống. Công tác khách hàng, quảng bá hình ảnh và hoạt động TTQT của Techcombank chưa được triển khai mạnh. Dịch vụ TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ của Techcombank chưa tạo dựng được thương hiệu riêng, quy mô của dịch vụ còn nhỏ, chất lượng dịch vụ thấp, sức cạnh tranh yếu, tiện ích của một số dịch vụ đối với khách hàng chưa cao. Sự kết hợp và tương trợ lẫn nhau giữa các bộ phận có liên quan để tạo nên một dịch vụ khép kín trong hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ chưa tốt nên đã làm giảm bớt hiệu quả của hoạt động TTQT. Công tác áp dụng các chính sách Marketing vào việc thu hút khách hàng vẫn còn hạn chế chưa phát huy hiệu quả. Một thực tế hiện nay là việc nghiên cứu ứng dụng các chính sách Marketing vào để phát triển các hoạt động trong Ngân hàng là một quá trình khó khăn mà không phải ngân hàng nào cũng có khả năng thực hiện. Mặc dù hoạt động marketing đã được các chi nhánh chú trọng nhiều hơn nhưng chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Ngân hàng chỉ tìm biện pháp để gĩư chân khách hàng mà không chú trọng tìm biện pháp để khai thác những khách hàng tiềm năng khác. Những chiến lượng Marketing như phân tích khách hàng , phân tích đối thủ cạnh tranh, thực hiện xúc tiến hỗn hợp vẫn chưa được chú trọng và đánh giá đúng tầm quan trọng. Chính vì vậy lượng khách đến ngân hàng thực hiện giao dịch dù có xu hướng tăng lên nhưng vẫn là không đáng kể so với một số ngân hàng khác. Các chi nhánh đã có nỗ lực trong việc thu hút khách hàng thực hiện TTQT qua Techcombank nhưng các chính sách thu hút còn chưa mang tầm chiến lược lớn, chưa mang tính sâu rộng, chưa chú trọng nâng cao thái độ phục vụ khách hàng.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI TECHCOMBANK
3.1. Định hướng phát triển và mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ cho ngân hàng Techcombank
Gia nhập WTO là một cơ hội rất lớn để chúng ta có thể tranh thủ những ưu đãi để đẩy mạnh quá trình XK, thoát ra khỏi tình trạng của một nước nhập siêu, mở rộng thị trường đầu tư, áp dụng những quy trình sản xuất mới hiện đại… nhưng những thách thức mới cũng được đặt ra không ít cho nhà quản lý khi các doanh nghiệp nước ngoài, những doanh nghiệp có tiềm lực về vốn và con người mạnh, vào Việt Nam nhiều hơn, do vậy “chiếc bánh thị phần” ngày càng bị chia nhỏ làm cho quá trình cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Do vậy, muốn tồn tại trong cạnh tranh, muốn thắng được đối thủ cạnh tranh thì việc trước tiên phải thực hiện ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. Tất cả những điều đó khiến cho hoạt động TTQT trở thành một mũi nhọn cần được quan tâm đặc biệt, nhất là hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ. Truớc thực tế đó, để đẩy mạnh hoạt động TTQT theo phương thức L/C Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm đã đưa ra những định hướng phát triển cụ thể sau:
Đẩy mạnh công tác tiếp thị, thu hút các đơn vị, đăc biệt là các đơn vị có hoạt động XNK lớn về quan hệ và giao dịch với Ngân hàng, mà cụ thể hơn là giao dịch trực tiếp với phòng Thanh toán XNK của Techcombank.
Đa dạng hóa loại hình L/C đựợc sử dụng, tích cực tư vấn khách hàng trong việc lựa chọn L/C nào là phù hợp cho loại hình kinh doanh của mình nhất
Nâng cao chất lượng dịch vụ, và đảm bảo độ an toàn cho hoạt động TTQT theo phương thức L/C
Giữ chữ tín với khách hàng trong kinh doanh, đặc biệt là trong hoạt động XNK, thực hiện đúng các cam kết đã thỏa thuận với khách hàng trong và ngoài nước trong hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ
Tập trung đào tạo đội ngũ nhân viên có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, trình độ ngoại ngữ cao hơn nữa nhằm đáp ứng với yêu cầu cao của hoạt động TTQT cho cả trung tâm TTQT tại hội sở cũng như tại các chi nhánh của Techcombank
Phấn đấu đưa hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tiến tới chiếm một tỷ trọng đáng kể trong “chiếc bánh lợi nhuận” của toàn Chi nhánh
Chi nhánh phấn đấu trong năm tới, tốc độ tăng doanh số thanh toán XNK đạt 75% và tốc độ tăng tổng phí thu khoảng 70%, chiếm 80% tổng phí thu từ hoạt động kinh doanh đối ngoại
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C của Techcombank
Qua quá trình thực tập tìm hiểu thực trạng về Ngân hàng Techcombank, em xin đưa ra một số đề xuất về giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Techcombank.
3.2.1 Không ngừng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân viên thực hiện hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ
Ngân hàng Techcombank chi nhánh Hoàn Kiếm với một đội ngũ cán bộ, công nhân viên giàu kinh nghiệm, trẻ khoẻ, và đầy sức sáng tạo là một điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung , cho hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng.
Nhưng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ không ngừng được cải tiến cho phù hợp với nhu cầu của hoạt động thương mại quốc tế. Người cán bộ ngân hàng không chỉ giỏi về nghiệp vụ còn phải là người nhiệt tình, niềm nở, giải quyết công việc nhanh chóng, chính xác, sẵn sàng mà còn phải hướng dẫn và giúp khách hàng làm thủ tục một cách nhanh gọn, tư vấn cho khách hàng thực hiện hoạt động của mình an toàn và hiệu quả nhất. Vì vậy yêu cầu phải bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ công nhân viên của NH có thể thực hiện theo các hướng sau:
Tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ, bồi dưỡng cập nhật kiến thức chuyên sâu về chuyên môn, trang bị các kiến thức về rủi ro mà các doanh nghiệp XNK thường gặp phải, tình hình thị trường thế giới, triển vọng XNK của Việt Nam, luật lệ, tập quán thương mại quốc tế và phổ biến các kỹ thuật thanh toán mới được áp dụng trên thế giới...
Liên tục cử cán bộ đi du học nước ngoài chuyên về lĩnh vực TTQT nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng, tìm hiểu những thông tin về TTQT mà trong kinh doanh thương mại quốc tế hiện nay đang được sử dụng và trong tương lai gần sẽ áp dụng tại các nước công nghiệp phát triển.
Tranh thủ các lớp tập huấn, đào tạo do Techcombank tổ chức, các lớp đào tạo do các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế tài trợ.
Phát huy vai trò chủ động sáng tạo của các thanh toán viên, tích cực lắng nghe ý kiến của họ, khuyến khích họ nêu ra các sáng kiến mới, thường xuyên phân tích các nhược điểm, vụ việc liên quan làm khách hàng phàn nàn, và tìm hướng giải quyết
Chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực bổ sung, thay thế. Ngân hàng có thể thông qua các trường đại học để lựa chọn các sinh viên có khả năng đáp ứng được các yêu cầu, cũng có thể tổ chức các cuộc tuyển chọn, hoặc qua Techcombank thực hiện các cuộc điều chuyển nhân sự để lựa chọn nhân viên đáp ứng yêu cầu của công việc.
Techcombank cần tạo ra một môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ hợp lý. Môi trường làm việc tốt là ở đó, đội ngũ cán bộ làm việc tận tâm, năng động, sáng tạo, mối quan hệ giữa lãnh đạo và cán bộ cởi mở, chân thực, thẳng thắn. Đó chính là môi trường nảy nở và phát huy tốt nhất mối quan hệ con người – cơ sở cho sự hợp tác, nâng cao chất lượng kinh doanh NH. Bên cạnh đó, Techcombank cần thực hiện sắp xếp, bố trí lao động hợp lý, hiệu quả. Thực hiện việc kiểm tra đánh giá phân loại cán bộ đảm bảo cán bộ đủ tiêu chuẩn chức danh, đánh giá, nhận xét cán bộ, kiểm tra sát hạch định kỳ nhằm đánh giá trình độ của cán bộ trẻ để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho nhu cầu trước mắt và lâu dài. Gắn kết đào tạo với việc bố trí và sử dụng đúng người, đúng việc, tạo động lực khuyến khích người lao động. Cần tạo điều kiện cho người lao động được cống hiến và hưởng thụ phù hợp với cống hiến của mình. Ngoài ra, Techcombank cần xây dựng định mức công việc cho từng cán bộ nghiệp vụ, trên cơ sở đó xây dựng chế độ tiền lương hợp lý và đó chính là động lực thúc đẩy người lao động. Thực hiện quy chế trả lương và thưởng hợp lý cho người lao động dựa trên năng lực và mức độ hoàn thành công việc của họ - đây là một trong những động lực thúc đẩy người lao động làm việc tốt hơn và hiệu quả hơn. Thực hiện một cơ chế tài chính thông thoáng hơn nhằm thu hút và giữ được nhân tài. Nếu cần, có thể xem xét lại chế độ tiền lương, thưởng cho các cán bộ làm công tác TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ giỏi, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt. Thực hiện thưởng phạt nghiêm minh đối với các cá nhân và đơn vị làm công tác TTQT nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Đây là cơ chế động lực nhằm khuyến khích những đơn vị, cá nhân làm tốt công tác phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an toàn trong quá trình hoạt động TTQT
3.2.2. Đẩy mạnh công tác marketing trong hoạt động TTQT của Techcombank
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng chính là người đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Khách hàng có quyền lựa chọn bất kỳ một NH nào để tiến hành hoạt động TTQT. Trước đây, khách hàng không có quyền lựa chọn nên các ngân hàng không cần phải quan tâm đến khách hàng, họ chỉ cung cấp những dịch vụ mà họ có. Ngày nay, với sự thay đổi lớn trong hệ thống NH và sự xuất hiện của nhiều NH mới, cạnh tranh trong kinh doanh NH, dịch vụ NH ngày càng trở nên khốc liệt. Nếu Techcombank không quan tâm đến nhu cầu của khách hàng, đến khả năng phục vụ, cách tiếp thị, giới thiệu sản phẩm, hay nói ngắn gọn hơn là quan tâm đến chiến lược khách hàng, đến thương hiệu của mình, đến công tác marketing, thì Techcombank khó mà tồn tại và phát triển được. Do đó, bản thân Techcombank cần phải chủ động quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu và mong muốn của khách hàng,nắm bắt nhanh chóng và chính xác nhu cầu của khách hàng để có thể đáp ứng kịp thời. Techcombank cần phải tiến hành nghiên cứu nhu cầu của thị trường , phải dự tính được sự phát triển của thị trường trong tương lai. Thông qua việc nghiên cứu dự đoán phát triển thị trường mà phát hiện ra nhu cầu và tiềm năng của khách hàng, trên cơ sở đó nghiên cứu để đưa ra các sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Việc nghiên cứu thị trường còn để nhằm nắm bắt được nhu cầu của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ của NH, nghiên cứu các yếu tố quyết định thái độ của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ mà khách hàng cung cấp.Khi đặt mình vào vị trí của khách hàng, Techcombank sẽ có những đánh giá mang tính khách quan trong việc đưa ra quyết định chọn lựa ngân hàng và dịch vụ nào của ngân hàng khi thực hiện thanh toán. Trên cơ sở của sự phân tích đó, NH sẽ đưa ra chiến lược marketing thích hợp cho hoạt động của mình, bao gồm :
- Chiến lược đa dạng hóa sản phẩm: Tuỳ theo tình hình thị trường, ngân hàng cần có những đánh giá về hiệu quả của các sản phẩm truyền thống đã và đang cung cấp và xây dựng những chiến lược đưa những sản phẩm mới đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu của khách hàng nhằm khai thác thị trường tiềm năng. Việc đưa ra sản phẩm dịch vụ mới phải đảm bảo nguyên tắc đơn giản, thuận tiện, dễ sử dụng, phù hợp với trình độ dân trí và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của phương thức tín dụng chứng từ sẽ đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng và đem lại cho Techcombank một thị phần lớn hơn trong hoạt động TTQT
- Chiến lược giá cả: Tuỳ theo uy tín và khả năng cạnh tranh của mình, NH có thể quyết định đưa ra mức phí dịch vụ , lãi suất ký quỹ của mình cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển, nhằm mục đích thu hút khách hàng và tăng trưởng lợi nhuận. Techcombank nên đưa giá cả trở thành một trong những yếu tố cạnh tranh của mình.
- Chiến lược xúc tiến thương mại: Đó là việc quảng bá hình ảnh của ngân hàng, sản phẩm dịch vụ của ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng như: đài, báo, tivi... Mọi công việc quảng cáo đều phải tuân theo những nguyên tắc đó là: Phải hết sức ngắn gọn, súc tích, gây được sự chú ý đối với khách hàng, phải gây cho khách hàng được sự ham muốn và sẵn sàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của NH. Việc quảng bá hình ảnh của ngân hàng không chỉ đem lại lợi ích cho riêng rẽ một hoạt động nào mà nó đem lại lợi ích cho tất cả các hoạt động của ngân hàng trong đó có hoạt động TTQT theo phương thức tín dung chứng từ trong cùng một lúc. Tuy nhiên, quan trọng hơn hết đó chính là sự chu đáo, nhiệt tình và thái độ niềm nở của nhân viên giao dịch và chăm sóc khách hàng. Sự hiểu biết và thái độ phục vụ của nhân viên sẽ tạo dựng được niềm tin cho khách hàng, đó là cách quan trọng để giữ chân được khách hàng cũ và khai thác được những khách hàng mới
- Chiến lược khách hàng: Ngân hàng cần ý thức được rằng khách hàng không những là đối tác mà còn là người quyết định đến sự thành bại của mỗi ngân hàng. Vai trò của khách hàng đã được thay đổi qua sự đổi mới nền kinh tế từ việc khách hàng cần ngân hàng đến việc ngân hàng cần khách hàng cho sự phát triển của mình. Khách hàng có quyền so sánh, lựa chọn ngân hàng và loại hình dịch vụ cho chính mình. Ngân hàng cần có những chiến lược đặc biệt với từng nhóm khách hàng của mình chẳng hạn như việc sử dụng lãi suất ưu đãi, biểu phí dịch vụ TTQT ưu đãi cho những khach hàng cũ hoặc sử dụng các chương trình khuyến mãi hấp dẫn để thu hút những khách hàng mới.
- Tăng cường công tác phân tích đối thủ cạnh tranh. Tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh là một việc làm vô cùng quan trọng để đưa ra các chính sách đối phó sao cho có hiệu quả nhất, đặc biệt là với các đối thủ cùng hoạt động trong lĩnh vực TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ. NH nên có các biện pháp phân tích đối thủ cạnh tranh càng sớm càng tốt, tránh việc thu thập thông tin về đối thủ cạnh tranh một cách tự phát và bị động. Thường xuyên theo dõi và nắm bắt các thông tin về đối thủ cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế để có thể biết được những ngân hàng, những tổ chức tài chính nào mới ra đời, từ đó nghiên cứu phân tích chính sách kinh doanh, thực trạng tình hình khả năng tài chính của họ, tìm ra ưu nhược điểm của họh, qua đó có được những nhận định hay đánh giá kịp thời về đối thủ cạnh tranh đó. Việc thường xuyên có những phân tích đối thủ cạnh tranh sẽ giúp NH biết được những sản phẩm, những chính sách ưu đãi để thu hút khách hàng của họ, học hỏi được kinh nghiệm cũng như cách thức tiến hành công việc của họ, từ đó đề ra những biện pháp phát triển, có kế hoạch hoạt động kinh doanh phù hợp.
3.2.3 Đẩy mạnh công tác tư vấn hỗ trợ các doanh nghiệp XNK của Việt Nam thâm nhập vào thị trường thế giới
Nguyên nhân gây ra những hạn chế, khó khăn tồn tại trong việc phát triển hoạt động TTQT theo phương thức L/C xuất phát từ chính sự hiểu biết không sâu của các khách về phương thức này. Techcombank có thể thông qua các tham tán thương mại của Việt nam ở nước ngoài, thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp hay thông qua mạng lưới các ngân hàng đại lý của mình để tìm hiểu về nhu cầu thị trường hàng hoá XNK của các nước sở tại, các luật lệ có liên quan đến hoạt động TTQT của các nước, các rủi ro có thể gặp phải khi tiến hành hoạt động mua bán và thanh toán qua các nước đó, tư vấn cho các doanh nghiệp XNK tránh được những rủi ro đáng tiếc và đó cũng chính là cách để Techcombank tránh được những rủi ro cho mình. Do đó, trong thời gian tới Techcombank cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tư vấn cho khách hàng.
3.2.3.1 Đối với các doanh nghiệp NK:
Nhà NK thường gây ra rủi ro cho NH mở khi họ mất khả năng thanh toán hoặc cố tình vi phạm cam kết của mình. Để có thể đem lại lợi ích chính đáng cho nhà XK và bảo vệ quyền lợi của NH, việc nên áp dụng hình thức L/C nào trong từng trường hợp cụ thể sao cho phù hợp và hiệu quả nhất là việc mà các cán bộ TTQT cần phải hướng dẫn cho khách hàng.
Đối với những khách hàng là đơn vị NK mày móc thiết bị giá trị lớn mà phía đối tác nước ngoài yêu cầu có tiền đặt cọc, thanh toán viên nên tư vấn cho họ sử dụng L/C dự phòng vì đây là hình thức mà người NK được đảm bảo sẽ nhận được sản phẩm cung ứng từ nhà XK, đồng thời nhà NK còn được bồi hoàn toàn bộ số tiền đặt cọc cũng như chi phí liên quan nếu người XK không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo yêu cầu.
Đối với đơn vị NK hàng hoá với khối lượng lớn, giao hàng nhiều lần, nên tư vấn cho họ sử dụng L/C tuần hoàn. Đây là phương thức giúp cho khách hàng tránh được tình trạng ứ đọng vốn và giảm được chi phí cũng như các thủ tục có liên quan.
Đối với khách hàng NK nguyên liệu từ nước ngoài về gia công, sau đó xuất hàng sang nước cung cấp nguyên liệu để bán lại, thanh toán viên nên tư vấn cho họ sử dụng loại L/C đối ứng, đây là hình thức đảm bảo nhất cho các đơn vị gia công. Loại L/C này đảm bảo đồng thời thanh toán cho người XK giá trị nguyên liệu nhập cũng như sản phẩm hàng hoá được sản xuất từ chính nguyên liệu đó.
3.2.3.2 Đối với các doanh nghiệp XK:
Nhà XK thường gây rủi ro cho NH thông báo , NH chiết khấu khi họ lập bộ chứng từ không hoàn hảo và bị từ chối thanh toán. Để tránh rủi ro đó, NH nên tư vấn cho những vấn đề như sau:
Tư vấn cho các doanh nghiệp XK yêu cầu bên mua mở cho mình một L/C đảm bảo nhất. Hiện nay, loại L/C có xác nhận và miễn truy đòi là có lợi nhất cho người bán.
Thường xuyên cập nhật thông tin và tư vấn cho các đơn vị XK tìm hiểu kĩ các điều khoản và điều kiện trong L/C, tránh những sai sót về chứng từ để có thể bị từ chối thanh toán. Các thanh toán viên nên tư vấn cho đơn vị cách thức đòi tiền bằng thư hay bằng điện.
Đội ngũ cán bộ làm công tác TTQT cũng nên tư vấn cho khách hàng cách thức giải quyết các vấn đề khi mà bộ chứng từ có sai sót, kiểm tra kỹ xem những lí do từ chối mà NH mở đưa ra có hợp lí không. Tư vấn cho doanh nghiệp đưa ra các biện pháp kịp thời trong trường hợp giải quyết hàng hóa khi bị từ chối nhằm giúp họ hạn chế tối đa thiệt hại.
3.2.4. Xây dựng các biện pháp phòng ngừa rủi ro hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ một cách hoàn thiện.
Hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ thường xuyên tiềm ẩn những rủi ro làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bất kỳ một NHTM nào. Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro, Techcombank cần nghiên cứu đề ra các biện pháp quản lý rủi ro trong thanh toán, thông qua việc cấp hạn mức thanh toán từng lần cho các nghiệp vụ mở L/C cho từng chi nhánh của mình. Nghiên cứu xây dựng văn bản thoả thuận với khách hàng cho từng dịch vụ nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của khách hàng cũng như của mình trong giao dịch. Thực hiện phân loại rủi ro. Cần có sự thoả thuận giá cả dịch vụ cụ thể với các NH thường xuyên có giao dịch. Phối hợp với các bộ phận chức năng nghiên cứu đưa ra chính sách khách hàng tổng thể. Bên cạnh đó, Techcombank phải tổ chức thống kê, phân tích, phân loại rủi ro hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ một cách đầy đủ, chính xác theo nguyên nhân và thời gian. Việc làm này phải được thể chế hoá trong chế độ thông tin báo cáo trở thành một nghiệp vụ thường xuyên hàng tháng, quý, năm của NH. Biện pháp này được thực hiện chủ yếu thông qua việc phân tích, thẩm định kỹ các thông tin tài chính và thông tin phi tài chính của những DN XNK và áp dụng thủ tục cấp tín dụng chặt chẽ trước khi đầu tư nhằm phân loại khoản vay và các đối tác vay vốn dựa vào mức độ rủi ro tín dụng của nó để quản lý. Bên cạnh đó NH cần trích lập ra một khoản dự phòng rủi ro nhằm bù đắp cho những rủi ro có thể xảy ra. Techcombank cũng có thể làm giảm bớt rủi ro hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ bằng cách phân tán rủi ro. Thu nhập từ các hoạt động TTQT thành công sẽ bù đắp phần lỗ cho những hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ không thành công.
3.3. Một số kiến nghị.
3.3.1 Đối với cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò điều khiển vĩ mô Nhà nước ngày càng được khẳng định. Hơn thế nữa, xu thế quốc tế hoá nền kinh tế của thế giới đã đem lại cho mỗi quốc gia những cơ hội đồng thời cũng là những thách thức lơn. Lúc này cần phải có bàn tay định hướng của nhà nước để đưa đất nước đi đúng mục tiêu của mình. Đối với hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán hàng hoá XNK theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng trong mỗi thời kỳ rất cần đến sự lãnh đạo và định hướng của chính phủ để ngày càng mở rộng và phát triển, đồng thời tránh các rủi ro có thể xảy ra cho các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp kinh doanh XNK.
Như vậy, với thực trạng hệ thống pháp luật chưa đồng bộ như nước ta hiện nay, Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản pháp luật cho giao dịch thanh toán XNK, như các văn bản luật, dưới luật quy định và hướng dẫn giao dịch thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ, trong đó quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người mua và người bán trong hợp đồng ngoại thương cũng như quyên và lợi ích của các ngân hàng tham gia trong giao dịch thanh toán tín dụng chứng từ.
Hiệu quả của hoạt động thanh toán hàng hoá XNK bằng phương thức tín dụng chứng từ chịu sự ảnh hưởng của chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp XNK. Do đó, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong chính sách tiền tệ để khuyến khích và thúc đẩy hoạt động XNK. Mặt khác, để đẩy mạnh hoạt động XNK, nhà nước cần có chính sách đẩy mạnh công tác đối ngoại, đặc biệt là công tác thương mại với các thị trường như Nhật Bản, Mỹ, EU...
Ngoài ra, Nhà nước cần củng cố và phát triển Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại Việt Nam hợp tác với khách hàng và đối tác, giúp đỡ và tương trợ lẫn nhau trong qua trình hoà nhập voà cộng đồng thế giới.
Hơn nữa, cần cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính trong quản lý XNK, tinh giảm thủ tục hải quan. Tăng cường hơn nữa công tác chống buôn lậu và quản lý thị trường nội địa nhằm tăng thu ngân sách, bảo hộ nền sản xuất trong nước, tăng cường ngoại tệ thanh toán qua ngân hàng.
3.3.2 Đối với ngân hàng nhà nước.
Là cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, NHNN cần thực hiện những giải pháp sau để tăng cường hoạt động phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ của các NHTM:
Hoàn thiện cơ sở pháp lý về TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về NH bao gồm Luật NHNN, Luật các TCTD phù hợp với chính sách phát triển KT-XH, với tiêu chuẩn và hoạt động quốc tế. Rà soát lại các văn bản liên quan đến hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ để hoàn chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam. NHNN cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản, quy định đối với hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ của các NHTM, nhanh chóng triển khai hướng dẫn thực hiện một cách rõ ràng các khuôn khổ pháp lý liên quan đến hoạt động TTQT theo phương thức TDCT để từ đó làm cơ sở cho hoạt động TTQT của NHTM. Xây dựng
(2) Nâng cao vai trò của NHNN trong việc điều hành chính sách tiền tệ NHNN cần nghiên cứu hoàn thiện các thị trường tài chính liên quan đến các chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, đặc biệt coi trọng thị trường tiền tệ. Vai trò điều hành vĩ mô của NHNN cần được nâng cao nhất là trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia và trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các trung gian tài chính. Việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN phải nhằm mục tiêu thúc đẩy, phát triển ổn định vững chắc nền KT, kiểm soát lạm phát. Bên cạnh đó, cần phát triển các công cụ tài chính của thị trường phái sinh, đặc biệt là các công cụ, các giao dịch hạn chế rủi ro về tỷ giá hối đoái như Swap,Forward, Future, Option.
(3)NHNN cần có biện pháp hoàn thiện và phát triển thị trường mua bán ngoại tệ liên ngân hàng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là thị trường nhằm giải quyết các quan hệ trao đổi, cung cấp ngoại tệ giữa NHNN với các ngân hàng thương mại và giữa các ngân hàng thương mại với nhau. Vì vậy, để Techcombank- Hoàn Kiếm mở rộng quan hệ thanh toán quốc tế, phục vụ tốt cho hoạt động XNK hàng hoá thì việc phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là rất cần thiết. Trong thời gian tới, để hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, ngân hàng nhà nước và các đối tượng liên quan cần thực hiện các công tác sau :
Cần giám sát và buộc các NHTM phải xử lý trạng thái ngoại hối của mình bằng việc mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Mở rộng đối tượng tham gia vào thị trường.
Phát triển các nghiệp vụ vay mượn ngoại tệ, nghiệp vụ đầu cơ và các hình thức mua bán ngoại tệ như mua bán ký hạn, hợp đồng tương lai...
3.4.4. Kiến nghị với khách hàng là các DN XNK của Việt Nam
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO (7/11/2006), do đó khi tham gia các quan hệ thương mại quốc tế các NHTMVN và các DN XNK của Việt Nam cần phải hiểu rõ về thông lệ và tập quán quốc tế và quy định của WTO để phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong TTQT. Sự am hiểu các tập quán và thông lệ quốc tế và sự hợp tác của khách hàng chính là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ với Techcombank. Do vậy, để giảm bớt rủi ro trong quá trình hoạt động TTQT, các DN XNK cần phải thực hiện được những vấn đề sau:
(1) Tuân thủ chặt chẽ những quy định cơ bản của hoạt động thương mại quốc tế, không nên bỏ qua những chi tiết cho dù là nhỏ nhất trong hợp đồng mua bán để tạo sơ hở cho phía khách hàng có thể bắt lỗi và từ chối thanh toán.
(2) Cần kiểm tra kỹ lưỡng và xác minh tư cách pháp lý và năng lực tài chính của phía đối tác nước ngoài trước khi chính thức ký kết hợp đồng, nhằm tránh những rủi ro, tổn thất do bên đối tác mang lại.
(3) Đừng ngần ngại đặt ra những câu hỏi để thiết lập các thông số tin cậy với đối tác mà họ hy vọng bắt đầu đặt quan hệ kinh doanh. Cần thận trọng và phải điều tra kỹ các đối tác và các bên trung gian, cũng như phải kiểm tra sát sao các chứng từ liên quan trong giao dịch mua bán.
(4) Tránh đưa vào hợp đồng những điều khoản làm chậm trễ thời gian thanh toán, phức tạp trong lập chứng từ, thậm chí còn cài vào những điều khoản làm khó khăn cho việc lập bộ chứng từ phù hợp.
(6) Cần làm quen với việc thuê luật sư độc lập bên ngoài hoặc sử dụng các chuyên gia có năng lực, kinh nghiệm để soạn thảo hợp đồng hoặc rà soát lại các điều kiện và điều khoản của hợp đồng trước khi chính thức ký kết.
(7) Cần nắm bắt kịp thời thông tin về giá cả, thị trường, tỷ giá và các quy định pháp luật của NN để có những chiến lược kinh doanh phù hợp với từng giai đoạn.
(8) Cần nghiên cứu xem xét kỹ các yêu cầu, tư vấn của NH đối với DN trong quá trình mở L/C để có những tu chỉnh kịp thời, hạn chế thấp nhất những rủi ro và giảm được những khoản chi phí bất hợp lý phát sinh trong quá trình hoạt động.
(9) Cần tìm kiếm và mở rộng thị trường mới nhằm hạn chế và phân tán bớt rủi ro TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ.
KẾT LUẬN
Từ những năm cuối thập niên 80, Việt nam đã bắt đầu cải cách nền kinh tế và hiện nay, chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ quản lý theo mệnh lệnh hành chính tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực kinh tế quốc tế cũng vậy, từ nền ngoại thương độc quyền khép kín buôn bán với các nước xã hội chủ nghĩa là chính, đến mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, các thương nhân Việt Nam đã và đang có cơ hội thử sức trên một thương trường rộng lớn.
Trong hơn 30 năm qua, việc mở của nền kinh tế đã mang lại những bước chuyển biến tích cực đối với toàn bộ nền kinh tế, đối với hoạt động của các NHTM cũng như các doanh nghiệp trong lĩnh vực XNK như kim ngạch XNK tăng mạnh qua các năm. Có được kết quả đó phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của các NHTM với tư cách là trung gian thanh toán cho hoạt động XNK. Thông qua hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ của các NHTM giúp cho hoạt động TTQT được diễn ra nhanh tróng, liên tục và đạt hiệu quả cao, ổn định tâm lý cho các doanh nghiệp . Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ và ngày càng đa dạng của thương mại quốc tế, các nghiệp vụ TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ của các NHTM nhiều lúc và ngày càng tỏ ra có nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhứng đòi hỏi ngày càng cao của thương mại quốc tế và ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích kinh tế quốc gia.
Đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ” đã tập trung phân tích tình hình phát triển hoạt động TTQT tại ngân hàng Techcombank giai đoạn 2005- 2008 để qua đó rút ra những mặt tích cực cũng như tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân. Từ đó, đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động TTQT tại ngân hàng Techcombank.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Tài liệu từ sách
Phan Thị Thu Hà (chủ biên) (2002), Giáo trình NHTM quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Thị Hường (chủ biên) (2001), Giáo trình Kinh doanh Quốc tế, tập I, NXB Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thu Thảo (chủ biên ) (2005), Giáo trình nghiệp vụ Thanh toán Quốc tế, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Văn Tiến (chủ biên) (2005), Giáo trình Thanh toán Quốc tế & Tài trợ thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Văn Tiến (chủ biên) (2007), Giáo trình Thanh toán Quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội.
Đinh Xuân Trình (chủ biên) (2007 ), Giáo trình nghiệp vụ ngoại thương, Đại học Ngoại thương, NXB Giáo dục, Hà Nội - 1998.
Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, số 600, của ICC xuất bản năm 2007.
Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế để kiểm tra chứng từ theo thư tín dụng, ISBP số 681, của ICC xuất bản năm 2007.
2. Tài liệu của ngân hàng
Báo cáo tổng k ết hoạt động kinh doanh 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006 của ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam Techcombank.
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh 2006 và phương hướng nhiệm vụ năm 2007 của ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam Techcombank
Báo cáo tổng kế t hoạt động kinh doanh 2007 và phương hướng nhiệm vụ năm 2008 của ngâ n hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam Techcombank
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh 2008 và phương hướng nhiệm vụ năm 2009 của ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam Techcombank
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của phòng TTQT năm 2005, 2006, 2007, 2008.
Tài liệu h ướng dẫn nghiệp vụ TTQT & Kinh doanh ngoại tệ của Techcombank Việt Nam.
3. Tài liệu từ internet
17. hcombank.com.vn
18. dia.org/wiki/Ngân_hàng_thương_mại
19. http:// www.saga.vn/dictview.aspx?id=2088
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Hà Nội, ngày ..... tháng .... năm 2010
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Hà Nội, ngày ..... tháng .... năm 2010
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25580.doc