Chuyên đề Nâng cao hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng TMCP Sài Gòn chi nhánh Hà Nội

Ở nước ta hiện nay, DNVVN chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, bao gồm hầu hết các DNNN do địa phương quản lý và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó, nó có khả năng to lớn trong việc mở rộng sản xuất, phát triển ngành nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng chục triệu lao động trong các thành phần kinh tế. DNVVN đã sản xuất chế biến và lưu thông một khối lượng hàng hoá, dịch vụ lớn đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của toàn xã hội ngày càng đa dạng và phong phú. DNVVN do phân bố rộng khắp trên mọi vùng đất nước nên nó có vai trò tích cực trong việc khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của mỗi vùng, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, góp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tuy nhiên trong quá trình phát triển của mình, DNNN còn gặp không ít khó khăn. Trong đó có khó khăn về vốn để đổi mới thiết bị công nghệ, tăng năng suất lao động tạo thế đứng trong cơ chế thị trường là khó khăn lớn nhất, cần phải có sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng.

doc86 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1631 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng TMCP Sài Gòn chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với 2006 Tổng nguồn vốn huy động 135,479.4 1,096,817.72 809.58% 6,556,112 597,74% + Tiền gửi của các tổ chức kinh tế 117,477.9 664,528.41 565.66% 452,033 68.02% + Tiền gửi từ dân cư 18,001.5 432,289.31 2,401.41% 6,104,079 1,412.04% Qua bảng số liệu cho thấy, năm 2006 tổng nguồn vốn huy động là 1,096.8 tỷ đồng, tăng 809,58% so với năm 2005. Tính đến năm 2007, tổng nguồn vốn huy động lên đến 6,556 tỷ đồng tăng 597,74% so với năm 2006 Về cơ cấu nguồn vốn: * Năm 2006: - Tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 664 tỷ đồng tăng 565% so với năm 2005 khi chi nhánh mới bắt đầu đi vào hoạt động, chiếm tỷ trọng 61 % trong tổng số nguồn huy động. - Nguồn vốn huy động từ dân cư đạt 432 tỷ đồng, tăng 2,401.4% so với năm 2006. * Tính đến ngày 31/12/2007: - Tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 452,033 tỷ đồng đạt mức 68% so vơi năm 2006. - Nguồn vốn huy động từ dân cư là 6,104 tỷ đồng tăng 1,412% so với năm 2006 Như vậy, về tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của chi nhánh SCB Hà Nội năm 2006, 2007 đạt mức cao đặc biệt so với các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội nói chung và các chi nhánh của ngân hàng TMCP Sài Gòn nói riêng ( Tổng nguồn vốn của các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội tăng 19,2% trong đó tiền gửi dân cư tăng 23,8%, tiền gửi các tổ chức kinh tế tăng 15,9%; 8 chi nhánh lớn trên địa bàn Hà Nội tăng 11,4%). Huy động vốn của ngân hàng những tháng đầu năm chủ yếu tập trung từ nguồn huy động trên thị trường liên ngân hàng theo tỷ lệ huy động, bắt đầu huy động giữa thị trường 1 tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng huy động trên thị trường 2 giúp ngân hàng có một cơ cấu vốn hợp lý, an toàn. Cuối năm 2007, tỷ lệ huy động vốn giữa thị trường 1 và thị trường 2 là: 7,5:2,5 đây là cơ vốn rất lý tưởng cho hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn huy động từ thị trường 1 tăng đều và ổn định qua các tháng. Mặc dù kể từ cuối quý II/2007, DTBB của NHNN tăng đáng kể cùng với áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng đã gây ra một sức ép lớn lên chi phí huy động của các ngân hàng; nhưng bằng các chương trình tiết kiệm dự thưởng với lãi suất hấp dẫn cũng như vơi chính sách huy động trên thị trường 1. Loại hình tiền gửi thanh toán với giá rẻ bên cạnh tiền gửi tiết kiệm mang tính ổn định cao đã tạo ra một cơ cấu vốn huy động hợp lý, ổn định cho hoạt động của ngân hàng. Có một khoảng thời gian nguồn vốn huy động ỏ thị trường 2 bị sụt giảm do xu thế chung về thừa dự trữ thanh khoản của các NHTM và một phần do ngân hàng muốn cơ cấu lại tỷ trọng nguồn vốn huy động từ thị trường 1 và 2. Từ giữa quý II/2007 huy động từ thị trường 2 đã tăng ổn định góp phần đảm bảo thanh khoản ở mức an toàn cho ngân hàng. Không chỉ riêng chi nhanh SCB Hà Nội mà các chi nhánh SCB khác cũng đều có bước tăng trưởng về nguồn vốn huy động trong năm 2007. Đây là điều kiện tiên quyết để đơn vị chủ động được nguồn tài chính sử dụng cho nhu cầu phát triển tín dụng, đầu tư với mục tiêu lợi nhuận. Xét về mức độ đóng góp giữa các đơn vị trong hệ thống SCB, chi nhánh SCB Hà Nội luôn là đơn vị dẫn đầu về thành tích huy động vốn. Phát huy lợi thế thị trường, bình quân SCB Hà Nội cung cấp từ 25% đến 30% nguồn vốn huy động cho toàn bộ hệ thống. Hình 2.1 Tình hình biến động nguồn vốn SCB năm 2007 Một số nguyên nhân tác động đến những thành quả đạt được của chi nhánh đó là: _ Sự phát triển hệ thống các NHTM kéo theo sự cạnh tranh hết sức sôi động và quyết liệt giữa các NHTM trong quá trình huy động vốn. Nhưng công tác huy động vốn của ngân hàng có nhiều thuận lợi do ngân hàng có các biện pháp tiếp thị khuyến mại hấp dẫn bằng nhiều hình thức, tăng lãi suất huy động, đưa ra nhiều loại sản phẩm huy động nhằm thu hút nguồn vốn. _ Các dịch vụ ngân hàng được quan tâm chú ý phát triển đáp ứng được yêu cầu của đời sống, tạo được thói quen thanh toán qua ngân hàng trong quảng đại quần chúng nên đã thu hút được nguồn vốn trong thanh toán. _Mặc dù chi nhánh mới chỉ có 06 phòng giao dịch nhưng chi nhánh đã đưa ra những giải pháp tích cực và chủ động đặc biệt là các giải pháp thuộc nhóm cơ chế động lực nên tinh thần, thái độ phục vụ của cán bộ, giao dịch viên tuy đã được học tập để nâng cao văn hoá giao tiếp. Đây là tác động chính dẫn tới công tác huy động vốn tốt so với các ngân hàng trong cùng địa bàn. Hoạt động tín dụng Nền kinh tế Việt nam trong nhưng năm gần đây lien tục tăng trưởng với tốc độ cao. Sự kiện Việt nam gia nhập WTO là một cơ hội tạo đà đưa nền kinh tế Việt nam phát triển nhanh và nhu cầu vốn cho nền kinh tế cũng tăng mạnh là một tất yếu. Nắm bắt được tình hình đó, ngân hàng đã không ngừng nâng cao năng lực, tái cơ cấu đồng thời chấn chỉnh lại bộ máy hoạt động, hoàn thiện qui trình nghiệp vụ cũng như qui trình quản lý. Bằng cách tung ra các sản phẩm tín dụng hấp dẫn, linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể. Hoạt động tín dụng của ngân hàng đạt mức tăng trưởng cao, tiếp tục duy trì khách hàng truyền thống. Đồng thời mở rộng đối tượng khách hàng vay mới. Các sản phẩm của ngân hàng đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh. Dư nợ cho vay Tổng dư nợ cho vay: Năm 2006 dư nợ cho vay là 391 tỷ đồng, tăng 349.34% so với năm 2005. Đến 31/12/2007 dư nợ cho vay là 1,051 tỷ đồng tăng 268.74% so với năm 2006. Dư nợ cho vay ngắn hạn Năm 2006 dư nợ cho vay ngắn hạn là 150.871 tỷ đồng, tăng 127.3 tỷ đồng ( gấp 6 lần) so với năm 2005. Đến 31/12/2007 dư nợ cho vay ngắn hạn là 614.995 tỷ đồng, tăng 464.124 tỷ đồng (407,63 %) so với năm 2006. Dư nợ cho vay trung và dài hạn: Năm 2006 dư nợ cho vay trung và dài hạn là 240.371 tỷ đồng, tăng 151.957 tỷ đồng ( 271.87%) so với năm 2005. Đến 31/12/2007 dư nợ trung và dài hạn là 436.442 tỷ đồng, tăng 196.071 tỷ đồng (181.57%) so với năm 2006. Bảng 1.2: Tình hình sử dụng vốn trong 03 năm qua như sau: Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 % so với 2005 2007 % so với 2006 Tổng dư nợ cho vay + Ngắn hạn + Trung hạn và dài hạn 111,993.49 23,579.38 88,414.11 391,242 150,871 240,371 349.34% 639.84% 271.87% 1,051,437 614,995 436,442 268.74% 407.63% 181.57% Chất lượng tín dụng: Dù mức độ tăng trưởng nhanh đặc biệt năm 2007 nhưng hoạt động tín dụng của ngân hàng vẫn được đảm bảo về chất lượng. Tỷ trọng nợ quá hạn, nợ xấu trên tổng dư nợ ngày càng thấp. Đó là kết quả của việc áp dụng và kết hợp nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát và thu hồi nợ quá hạn. Tổng dư nợ xấu năm 2006 (bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn) chiếm 4.92 % trên tổng dư nợ. Đến 31/12/2007, chỉ tiêu nợ đủ tiêu chuẩn tăng đáng kể trong khi đa phần các chỉ tiêu nợ khác đều có xu hướng giảm còn 0.44 % so với năm 2006. Bảng 1.3: Chất lượng nợ cho vay Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Nợ đủ tiêu chuẩn 0.00 372,010 1,046,766 Nợ cần chú ý 0.00 19,232 0.00 Nợ dưới tiêu chuẩn 0.00 0.00 2,833 Nợ nghi ngờ 0.00 0.00 1,838 Nợ có khả năng mất vốn 0.00 0.00 0.00 TỔNG 0.00 391,242 1,051,437 Dư nợ tín dụng của chi nhánh trong năm 2006 và năm 2007 tăng trưởng khá nhanh. Không chỉ tăng cường hoạt động tiếp thị các khách hàng tiềm năng, ngân hàng còn thu hút khách hàng bằng các chính sách ưu đãi như: miễn, giảm phí thanh toán trong nước, hỗ trợ đến 50% phí bảo hiểm tài sản thế chấp, ưu đãi lãi suất cho khách hàng vay chuyển doanh thu về ngân hàng…Bên cạnh đó, chi nhánh SCB Hà nội luôn quan tâm đến chất lượng tín dụng và đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư, đến nay, SCB Hà nội đã được chuẩn hóa quy trình tín dụng thống nhất với toàn Ngân hàng. Mục tiêu SCB Hà Nội là vừa từng bước đa dạng hoá danh mục kinh doanh, cải thiện cơ cấu nguồn thu, vừa tăng cường dự trữ thanh khoản cho Ngân hàng. Kết quả tài chính Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 % so với 2005 2007 % so với 2006 Tổng thu nhập 0.00 44,882 0.00 448,132 999% Tổng chi phí 0.00 33,735 0.00 376,359 1,116% Lợi nhuận 0.00 11,147 0.00 71,773 644% Qua bảng số liệu trên ta thấy mặc dù mới đi vào hoạt động tháng 10/205 nhưng lợi nhuận của Chi nhánh phát triển mạnh đặc biệt là trong năm 2007, năm 2006 là 11.147 tỷ đồng, năm 2007 là 71.773 tỷ đồng chiếm 644% so với năm 2006. 2.2 Quy trình cho vay đối với các DNVVN tại SCB Hà Nội Để có được quyết định tài trợ đúng đắn, đảm bảo an toàn vốn, tiết kiệm thời gian và chi phí cho Ngân hàng và khách hàng thì hoạt động tín dụng phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình tín dụng. Quy trình tín dụng là một tập hợp thứ tự các bước mà các cán bộ ngân hàng phải tuân thủ thực hiện khi tiến hành thực hiện một quyết định cho vay. Trên cơ sở những quy định chung của Ngân hàng Nhà nước thông qua các văn bản như luật tổ chức tín dụng, quy trình cho vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn bao gồm các bước: Bước 1: Tiếp thị, tiếp xúc khách hàng, tiếp nhận hỗ trợ Chuyên viên khách hàng thuộc phòng kinh doanh tại chi nhánh khi tiếp nhận nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp phải hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ; tiến hành thu thập các thông tin và tài liệu cần thiết từ phía khách hàng, thu thập thông tin từ các bạn hàng, đối thủ cạnh tranh, tìm hiểu thông tin thị trường từ các phương tiện thông tin đại chúng. Các thông tin thu thập phải đầy đủ, chính xác. trung thực để có được những đánh giá đầy đủ và tổng thể về khách hàng để làm cơ sở cho việc đề xuất cấp cấp hạn mức cho khách hàng hoặc phê duyệt tín dụng cho khách hàng. Bước 2: Thẩm định, phân tích hồ sơ Chuyên viên khách hàng sau khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn từ khách hàng phải tiến hành thẩm định tư cách khách hàng (là cá nhân/pháp nhân), thẩm định tình hình hoạt động, năng lực tài chính của doanh nghiệp, thẩm định nhu cầu vay vốn (cấp hạn mức) và đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Tuân thủ đầy đủ quy định của quy trình nhận tài sản đảm bảo. Tùy thuộc vào loại tài sản đảm bảo, chuyên viên khách hàng phối hợp với ban kiểm soát và hỗ trợ kinh doanh hoặc ban thẩm định và quản lý rủi ro tín dụng cùng đánh giá tài sản trong quá trình thực hiện thẩm định để việc đánh giá tài sản tăng tính chính xác, khách quan. Bên cạnh đó ngân hàng cần thực hiện xếp hạng doanh nghiệp. Sau khi thẩm định và xếp hạng doanh nghiệp, cán bộ thẩm định viết báo cáo thẩm định, nội dung báo cáo phải đề xuất giá trị cho vay, lãi suất, thời hạn, tài sản đảm bảo và các điều kiện kèm theo. Bước 3: Trình duyệt hồ sơ vay vốn, phán quyết cho vay: Trưởng/phó phòng kinh doanh kiểm tra kỹ các thông tin khách hàng mà chuyên viên khách hàng cung cấp, kiểm tra lại đầy đủ các nội dung báo cáo thẩm định do chuyên viên khách hàng lập, bổ sung, đề xuất những nội dung, còn thiếu. Kiểm tra lại các nội dung thẩm định, đối chiếu với các hồ sơ tín dụng đảm bảo khớp đúng. Ban giám đốc Ngân hàng thực hiện phê duyệt tín dụng theo đúng mức ủy quyền. Nội dung phê duyệt phải có ý kiến rõ ràng là đồng ý hay không đồng ý kèm theo những điều kiện cụ thể. Bước 4: Lập đàm phán, ký kết hợp đồng tín dụng: Sau khi kiểm tra hồ sơ vay vốn Hội đồng tín dụng xem xét và ra quyết định. Nếu từ chối ngân hàng phải có văn bản thông báo và nêu lý do từ chối, và người ra quyết định tín dụng phải ghi ý kiến từ chối lên giấy đề nghị cấp tín dụng cũng như hồ sơ xin cấp. Nếu chấp thuận ngân hàng sẽ ký kết hợp đồng tín dụng cùng hợp đồng có liên quan tới bảo đảm tín dụng. Đây là hành vi pháp lý rất quan trọng làm cơ sở để tiến hành giao vốn cho khách hàng và kiểm soát thu hồi vốn đã cấp. nếu hợp đồng được ký kết những điều khoản càng cụ thể và rõ ràng, thì công tác giám sát tín dụng ở giai đoạn sau sẽ càng thuận lợi. Vì vậy, việc đàm phán ký kết hợp đồng tín dụng phải được coi trọng, đặc biệt là với những khoản tín dụng có quy mô lớn hoặc có thời hạn dài hay khách hàng có độ rủi ro tương đối cao. Bước 5: Giải ngân và hạch toán giải ngân Giải ngân: là nghiệp vụ cấp tiền cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết theo hợp đồng. Giải ngân phải đảm bảo nguyên tác vận động của tín dụng gắn liền vận động hàng hoá. Hay nói một cách khác, việc phát tiền vay phải có hàng hoá đối ứng, phù hợp với mục đích vay của hợp đồng tín dụng. Mặc dù giải ngân là cấp tiền cho người đi vay, nhưng phương thức giải ngân phụ thuộc vào nội dung cam kết của hợp đồng tín dụng. Cơ sở để ngân hàng thực hiện giải ngân là kế hoạch sử dụng vốn tín dụng đã được nêu trong hợp đồng tín dụng. thường sau khi ký, nột bản chính hợp đồng tín dụng, giấy đề nghị cấp tín dụng, các bản báo cáo thẩm định tín dụng, giấ đề nghị cấp tín dụng đã được chấp thuận… sẽ được giao cho nhân viên kế toán. Về nguyên tắc, nhân viên giải ngân không phải là người ra quyết định tín dụng để đảm bảo an toàn và dễ kiểm soát. Nhân viên tín dụng có nhiệm vụ theo dõi tiến trình giải ngân đúng theo điều kiện và số lượng như trong hợp đồng. Một khoản tín dụng có thể giải ngân một lần toàn bộ số tiền vay hoặc giải ngân thành nhiều đợt. Bước 6: quản lý, giám sát rủi ro và thu hồi vốn vay: Giai đoạn giám sát tín dụng sẽ được tiếp nối với mục tiêu theo dõi, đánh giá mức độ chấp hành hợp đồng tín dụng của khách hàng và kịp thời có các ứng xử thích hợp. Kiểm tra sử dụng vốn vay đảm bảo vốn vay được sử dụng mục đích. Theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng, kịp thời phát hiện những thay đổi ảnh hưởng đến khả năng và nguồn trả nợ. Thu thập mọi thông tin về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá khả năng rủi ro pháp lý có thể xảy ra với doanh nghiệp. Phân tích những khó khăn mà khách hàng gặp phải dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ. Xây dựng một kế hoạch hành động chi tiết cho việc thực hiện thu hồi nợ. Bước 7: Tất toán, thanh lý hợp đồng: Đến kỳ trả nợ ngân hàng sẽ tiến hành thu vốn gốc và lãi. Theo từng định kỳ ngân hàng sẽ xem xét lại và xếp hạng tín dụng. Nếu chấm dứt thời hạn cho vay mà khách hàng không trả được nợ ngân hàng sẽ tiến hành các biện pháp để xử lý các khoản nợ có vấn đề. 2.3 Các hình thức cho vay đối với các DNVVN tại SCB Hà Nội Chi nhánh thỏa thuận với khách hàng về việc áp dụng phương thức cho vay sau đây: Phương thức cho vay từng lần ( cho vay theo món):Áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu và đề nghị vay vốn từng lần, cho vay bù đắp thiếu hụt tài chính tạm thời, cho vay tiêu dùng trong dân cư. Mức trả nợ và kỳ hạn trả nợ dựa vào chu kì kinh doanh hoặc khả năng nguồn thu của khách hàng. Cho vay theo hạn mức tín dụng Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận hạn mức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Áp dụng đối với khách hàng có sản xuất kinh doanh ổn định, có hiệu quả và có quan hệ thường xuyên với chi nhánh. Xác định dựa trên cơ sở: Báo cáo quyết toán tại thời điểm gần nhất cùng với kế hoạch sản xuất kinh doanh năm, quý và các hợp đồng kinh tế, hợp đồng thi công.. Khách hàng có thể vừa rút vốn vay, vừa trả nợ tiền vay, đảm bảo số dư nợ không vượt quá thỏa thuận trong hợp đồng hạn mức tín dụng hạn mức. Ngân hàng và khách hàng có thể kí phụ lục bổ sung hợp đồng tín dụng điều chỉnh hạn mức tín dụng cho kỳ tiếp theo, hoặc kí hợp đồng tín dụng hạn mức mới hoặc chấm dứt phương thức cho vay này. Cho vay theo dự án đầu tư Chi nhánh cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư. Cho vay trả góp Khi cho vay, chi nhánh cùng khách hàng xác định và thỏa thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kì hạn trong thời hạn cho vay. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng Ngân hàng cam kết sẵn sàng cho khách hàng vay trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định để khách hàng chủ động thu xếp các nguồn vốn cần thiết nhằm thực hiện dự án đầu tư phát triển hoặc phương án kinh doanh trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng. Khách hàng phải trả phí cam kết cho ngân hàng. Mức phí cam kết do chi nhánh thỏa thuận với khách hàng và được tính trên số tiền cho vay mà khách hàng chưa rút vốn trong thời hạn hợp đồng. Cho vay hợp vốn Ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác làm đầu mối thu xếp cùng cho vay đối với dự án vay vốn hoặc phương thức vay vốn của khách hàng. Chi nhánh quyết định việc tham gia cho vay hợp vốn, hoặc tham gia theo ủy quyền của Tổng giám đốc. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của Ngân hàng Nhà nước. Cho vay bắc cầu Đối với dự án có tính khả thi cao, chủ đầu tư có đầy đủ năng lực để triển khai dự án thành công, quy mô dự án lớn và có tính phức tạp cao. Ngân hàng cho khách hàng vay để đền bù các hộ dân sinh sống trong khu vực dự án. Đặc điểm: -Thời hạn cho vay ngắn . -Khách hàng phải có thỏa thuận chuyển nhượng lại cho chủ đầu tư toàn bộ phần diện tích đất và các tài sản gắn liền với đất đã đền bù giải tỏa. Góp vốn bằng toàn bộ diện tích và các tài sản đã gắn liền với đất đã đền bù giải tỏa với chủ đầu tư hoặc góp vốn bằng tiền với chủ đầu tư và chủ đầu tư dùng số tiền nhận góp vốn này để đền bù giải tỏa phần diện tích đất và các tài sản gắn liền với đất thuộc phạm vi dự án đầu tư mục tiêu. - Kết thúc thời hạn cho vay, ngân hàng chủ động dàn xếp chuyển dư nợ gốc, lãi và các khoản chi phí khác lien quan đến khoản vay còn thiếu(néu có) sang các khoản vay trung dài hạn và chuyển sang phương thức cho vay theo dự án đầu tư. - Trước khi quyết định cho vay bắc cầu ngân hàng phải đánh giá được tính khả thi của dự án đầu tư mục tiêu. 2.4 Thực trạng về hiệu quả cho vay các DNVVN tại SCB Hà Nội 2.4.1 Dư nợ Bảng 4: Dư nợ DNVVN trên tổng dư nợ Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 Tỷ lệ % 2006 Tỷ lệ % 2007 Tỷ lệ % Tổng dư nợ 111,993.49 100% 391,242 100% 1,051,437 100% Dư nợ DNVVN 105,945.84 94.6% 354,052 90.5% 651,176 61.9% Doanh số thu nợ DNVVN 0.00 0.00 336,703.45 95.1% 648,311 99.56% - Năm 2007 dư nợ cho vay DNVVN là 61.9% giảm 28.6% so với năm 2006 (là 90.5%). Nguyên nhân dư nợ cho vay DNVVN thấp và giảm so với năm 2006 là: Cuối năm 2007, ngân hàng Nhà nước dự kiến ra quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối các NHTM nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng mục tiêu kìm chế lạm phát( theo Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN). Do đó, SCB Hà Nội chủ động giảm doanh số cho vay DNVVN. Đồng thời chi nhánh tăng doanh số dư nợ cho vay sang đối tượng khách hàng cá nhân. Trước mắt do là một ngân hàng trẻ mục tiêu của ngân hàng là mô hình ngân hàng bán buôn khi đã đi vào ổn định ngân hàng sẽ dần chuyển sang mô hình ngân hàng bán lẻ. - Doanh số thu nợ DNVVN năm 2006 là 95.1% sang năm 2007 tăng lên đến 99.56% . Việc doanh số thu nợ tăng do các khoản cho vay đến hạn trả và các khoản nợ xấu, nợ quá hạn đã đòi được, cho nên doanh số năm 2007 tăng đáng kể. _ Xét theo thời hạn tín dụng Tín dụng đối với các DNVVN có thể được phân loại thành các nghiệp vụ cho vay đó là: nghiệp vụ cho vay ngắn hạn và nghiệp vụ cho vay trung và dài hạn. Các DN vay vốn ngắn hạn nhằm đáp ứng yêu cầu vốn lưu động bị thiếu trong quá trình SXKD. Hình thức cho vay chủ yếu là tín dụng ngắn hạn. Các doanh nghiệp vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư vào trang thiết bị, cơ sở vật chất nhằm hiện đại hoá quy trình sản xuất và công nghệ. Bảng 5: Dư nợ DNVVN phân theo thời hạn tín dụng Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 Tỷ lệ 2006 Tỷ lệ 2007 Tỷ lệ Dư nợ DNVVN 105,993.49 100% 354,052 100% 651,176 100% Ngắn hạn 22,364.63 21.1% 136,523 38.56% 380,938 58.5% Trung và dài hạn 83,628.86 78.9% 217,529 61.44% 270,238 41.5% Trong năm 2005 dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dư nợ cho vay DNVVN ( 21.1%). Điều này chưa phù hợp với mô hình hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì các khoản vốn tín dụng ngắn hạn nhằm cung ứng nhu cầu về vốn lưu động cho các DN, phục vụ quá trình SXKD như mua nguyên vật liệu, chi trả lương, các khoản vay cho mục đích thương mại và du lịch … với đặc điểm thu hồi vòng quay vốn nhanh. Tuy nhiên, tỷ trọng này đã tăng lên đáng kể năm 2007 là 58.5%. Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn năm 2005 là 78.9% và đã giảm xuống mức 41.5% cho thấy nhu cầu đầu tư về máy móc, trang thiết bị, đổi mới công nghệ, nhà xưởng của các DNVVN vẫn là rát cần thiết, phù hợp với nhu cầu của việc hội nhập. 2.4.2 Chỉ tiêu về nợ quá hạn _ Đây là những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá rủi ro cũng như hiệu quả cho vay của các NHTM. Tỷ lệ nợ quá hạn cao hay thấp sẽ cho biết quá trình cho vay có tăng trưởng lành mạnh hay không. Một ngân hàng nếu có doanh số cho vay cao, tổng dư nợ cho vay lớn nhưng khả năng thu hồi vốn thấp (tức tỷ lệ nợ quá hạn cao) thì hoạt động cho vay vẫn chưa thể coi là hiệu quả hơn việc doanh số cho vay có giảm, tổng dư nơ cho vay thấp nhưng khả năng thu hồi vốn cao (tỷ lệ nợ quá hạn thấp). Vì vậy để xác định hiệu quả cho vay của một ngân hàng trước hết cần xem xét đến tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ cho vay. Bảng 6: Nợ quá hạn DNVVN Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng dư nợ DNVVN 105,993.49 354,052 651,176 Nợ quá hạn 0.00 17,348.55 1,758 Tỷ lệ (%) 0.00 4.9% 0.27% Nợ khó đòi 0.00 0.00 1,107 Tỷ lệ(%) 0.00 0.00 0.17% Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ DNVVN năm 2007 giảm mạnh so với năm 2006. Tỷ lên nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay DNVVN là 0.17%. Đây là một tỷ lệ rất tốt so với hệ thống NHTM ở Việt Nam. Đạt được kết quả này là do trong năm 2007, ngân hàng đã đề ra kế hoạch cụ thể cho hoạt động cho vay doanh nghiệp là tiếp tục mở rộng doanh số hoạt động cho vay nhưng phải tập trung vào giải quyết các khoản nợ quá hạn, tích cực kiểm tra, giám sát các khách hàng để đảm bảo thu hồi được nợ. Về nợ khó đòi, thực hiện chỉ đạo của Giám đốc SCB Hà nội, ban lãnh đạo chi nhánh đã quan tâm và đề ra các biện pháp tích cực, cụ thể nhằm đẩy mạnh thu nợ xấu, nợ quá hạn như giao chỉ tiêu thu nợ cho từng phòng, từng cán bộ tín dụng thường xuyên báo cáo hàng tháng tình hình thực hiện đề ra các giải pháp tiếp theo, quan tâm chú trọng tới tiền lương, thi đua khen thưởng đối với cá nhân và tập thể đạt thành tích trong công tác thu hồi nợ quá hạn nên đã có tác động tốt tới kết quả thu nợ. _ Phân chia nợ quá hạn theo thời hạn tín dụng: Bảng 7: Nợ quá hạn cho vay DNVVN theo thời hạn tín dụng Chỉ tiêu 2005 Tỷ lệ % 2006 Tỷ lệ % 2007 Tỷ lệ % Tổng nợ quá hạn DNVVN 0.00 0.00 17,348.55 100% 2,865 100% Ngắn hạn 0.00 0.00 3,330.92 19.2% 1,761.97 61.5% Trung và dài hạn 0.00 0.00 14,017.63 80.8% 1,103.03 38.5% Nhìn vào bảng trên, ta thấy tỷ trọng nợ quá hạn theo thời hạn tín dụng trong 3 năm qua có sự thay đổi rõ rệt. Tỷ trọng nợ quá hạn của các khoản vay ngắn hạn tăng, tỷ trọng của các khoản vay trung và dài hạn lại giảm mạnh từ 80.8% (năm 2006) còn 38.5% (năm 2007). Nguyên nhân là do từ năm 2007 Chi nhánh bắt đầu thực hiện việc xử lý các khoản nợ phân nhóm 3 ,nhóm 4 đồng thời đề ra những giải pháp tích cực, cụ thể nhằm thu hồi nợ xấu, nợ đã xử lý. Đối với hoạt động của ngân hàng thì việc chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn là điều đương nhiên, ngân hàng có chấp nhận rủi ro thì mới thu được lợi nhuận, mà rủi ro tín dụng là điều tất yếu xảy ra ở bất kỳ một ngân hàng nào. Các ngân hàng không thể loại trừ nó ra khỏi hoạt động của mình, tuy nhiên phải tìm mọi cách để khống chế nó ở mức thấp nhất có thể chấp nhận được. 2.4.3 Thu nhập từ cho vay DNVVN Từ năm 2007 Chi nhánh thực hiện việc xử lý các khoản nợ phân nhóm 3,nhóm 4, do đó chi phí do trích lập dự phòng tăng lên. Trong năm 2007 Chi nhánh có lãi 44,427 triệu đồng. 2.5 Đánh giá về hiệu quả cho vay DNVVN tại SCB Hà Nội 2.5.1 Những thành quả đạt được Trong năm 2007, việc cho vay DNVVN đã đạt được những thành công đáng kể. Tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm xuống 0.17%, đây là một chỉ tiêu quan trọng chứng minh rằng chất lượng cho vay DNVVN tại SCB Hà nội đã tăng lên trong những năm qua. Ngân hàng đã tập trung vào việc phân loại các khoản nợ để có những biện pháp cụ thể đối với từng loại nợ và từng đối tượng khách hàng. Cùng với quá trình phân loại nợ, Ngân hàng đã thực hiện đầy đủ về trích lập dự phòng rủi ro theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và của SCB Hà nội nên tổn thất từ cho vay DNVVN được kiểm soát. Thị trường DNVVN là thị trường mà ngân hàng TMCP Sài Gòn lựa chọn để đầu tư phát triển trong thời gian tới. Tuy xâm nhập vào thị trường này chưa lâu, nhưng hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã phần nào góp phần vào việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh của DNVVN. 2.5.2 Những hạn chế và nguyên nhân 2.5.2.1 Những hạn chế còn tồn tại Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động cho vay DNVVN tại SCB Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế, chất lượng hoạt động cho vay đối với DNVVN chưa cao. Đây là những khó khăn mà ngân hàng cần phải đối mặt và cần phải có biện pháp khắc phục. - Dư nợ tín dụng đối với DNVVN còn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng. Trong khi DNVVN đang ngày càng phát triển, thị trường hoạt động tín dụng đối với các DNVVN là rất lớn và có nhiều tiềm năng phát triển. Các DNVVN hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực thương mại, dịch vụ do đó nhu cầu về nguồn vốn tín dụng của ngân hàng là rất lớn nhưng vấn đề là vẫn chưa tiếp cận được. - Về chất lượng tín dụng, Ngân hàng đã từng bước xây dựng và hoàn thiện quy chế hoạt động của quản lý tín dụng nhưng tỷ lệ nợ quá hạn đối với các DNVVN cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế vẫn tồn tại, phản ánh chất lượng tín dụng của Ngân hàng chưa thật đảm bảo. Cho vay đối với các DNVVN vẫn chứa đựng nhiều rủi ro vì họ có vốn chủ sở hữu nhỏ bé, kinh nghiệm và trình độ quản lý chưa cao. - Thủ tục cho vay đối với DNVVN còn nhiều ràng buộc như: phụ thuộc vào tài sản thế chấp, vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Về tài sản thế chấp, thực tế phần lớn tài sản đảm bảo của doanh nghiệp là đất đai, nhà xưởng lại chưa có giấy tờ hợp lệ để hoàn thiện thủ tục thế chấp ở ngân hàng. Thông tin hai chiều giữa Ngân hàng và khách hàng còn chưa đầy đủ. Phía Ngân hàng, việc thu thập, khai thác, tìm hiểu thông tin về khách hàng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thông tin về tình hình tài chính của khách hàng, tình hình tiêu thụ sản phẩm… do đó Ngân hàng còn dè dặt trong việc mở rộng cho vay đối với DNVVN. Phía khách hàng, họ chưa sẵn sàng cung cấp những thông tin cần thiết cho Ngân hàng để ngân hàng có thể đưa ra quyết định cho vay, thậm chí còn che đậy thông tin không tốt về mình. - Khả năng thẩm định dự án của Ngân hàng chưa cao, trình độ xây dựng dự án của doanh nghiệp cũng không tốt. Nhiều doanh nghiệp không có khả năng lập dự án mà phải đi thuê, nên tính khả thi không cao, dẫn đến khoản vay không có khả năng thu hội, từ đó làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn. 2.5.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế - Chính sách tín dụng chưa linh hoạt: Cũng giống như các ngân hàng thương mại nói chung, trước đây thường tập trung vào các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp Nhà nước vì vậy khi chuyển sang các DNVVN ngân hàng có những chính sách tín dụng chưa hợp lý. Mặc dù hiện nay đã có những thay đổi trong cách nhìn nhận về DNVVN nhưng Ngân hàng vẫn có tâm lý thận trọng trong vấn đề cho vay đối với các doanh nghiệp này. Quan điểm tín dụng của SCB Hà Nội là mở rộng tín dụng trên cơ sở chất lượng tín dụng được đảm bảo. Tài sản đảm bảo là vấn đề được đặc biệt quan tâm trong quá trình xét duyệt cho vay. Các quy định về tài sản đảm bảo là những trở ngại lớn nhất mà các DNVVN khó vượt qua được. Đối với DNVVN phần lớn phải có tài sản thế chấp, hoặc cầm cố tương đối an toàn, có giá trị, có tính thị trường thuộc sở hữu của doanh nghiệp hay ban lãnh đạo doanh nghiệp. Có những DNVVN có khả năng thế chấp tài sản nhưng cũng không được vay vốn ngân hàng vì giá trị khoản vay tính trên giá trị tài sản đảm bảo tuỳ thuộc vào loại tài sản đảm bảo khoảng 60% đến 80%. Đây là quy định gây khó khăn cho các DNVVN khi có nhu cầu về vốn lớn hơn giá trị tài sản thế chấp. Trong quá trình phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như phương án, dự án đầu tư, Ngân hàng mới chỉ tiến hành đơn giản sử dụng biện pháp so sánh, phân tích các chỉ số đơn giản. Ngoài ra Ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình làm hợp đồng cầm cố, thế chấp với khách hàng, nhất là vấn đề liên quan đến định giá tài sản đảm bảo đặc biệt là những tài sản là bất động sản. - Chất lượng cán bộ tín dụng chưa cao: Cán bộ tín dụng chính là người chịu trách nhiệm trong việc ra quyết định có cho vay hay không, do đó chất lượng cán bộ tín dụng ảnh hưởng lớn đến chất lượng của khoản vay. Số lượng cán bộ tín dụng của Ngân hàng còn ít, chưa đáp ứng kịp với quá trình phát triển. Công tác thẩm định khách hàng còn gặp nhiều khó khăn, sự phân tách chức năng bộ phận trong mô hình tín dụng chưa rõ ràng. Khối lượng công việc đối với một cán bộ tín dụng quá nhiều, trong khi yêu cầu thời gian giải quyết hồ sơ nhanh, dẫn đến chất lượng làm việc không đảm bảo. Đối với lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp, đôi khi cán bộ tín dụng không hiểu biết cặn kẽ về cách thức hoạt động, hệ thống thiết bị cần thiết nhất là những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng đặc thù của ngành. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình kiểm tra, kiểm soát trong quá trình vay vốn cũng như chất lượng tín dụng của Ngân hàng. SCB Hà nội chưa xây dựng được chiến lược marketing rõ ràng để tiếp thị, thu hút khách hàng. Hình thức tiếp thị khách hàng chủ yếu là tìm đến các doanh nghiệp trực tiếp để giới thiệu sản phẩm, dịch vụ của mình do đó tốn nhiều thời gian và chi phí. Còn các DNVVN chưa tìm thấy được lợi ích gia tăng khi đến với dịch vụ của ngân hàng ngoài thái độ phục vụ nhiệt tình của cán bộ. Sản phẩm dịch vụ chưa có sự khác biệt so với các ngân hàng khác, lãi suất chưa hấp dẫn. Hệ thống công nghệ thông tin và mạng lưới chi nhánh chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng như hệ thống Smart Bank với đường truyền quá chậm để tạo lập được một báo cáo cán bôn tín dụng thường phải mất rất nhiều thời gian. Vấn đề công nghệ cũng bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là nguồn vốn tự có của ngân hàng còn thấp, chưa đáp ứng được nguồn vốn cần thiếp đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ hiện đại hoá của ngân hàng. - Nguyên nhân từ phía nhà nước: Hiện nay nhà nước đang có chủ trương khuyến khích các DNVVN phát triển, nhưng công tác quản lý đối với loại hình doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế. Tình trạng DNVVN phát triển tràn lan với số lượng ngày càng nhiều nhưng không hiệu quả. Hệ thống doanh nghiệp chưa cung cấp được thông tin đầy đủ, các thông tin chỉ mang tính chất chung chung, không cụ thể và không được cập nhật thường xuyên do đó cơ quan quản lý không nắm được số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động và lý do ngừng hoạt động. Chính sự phát triển nhanh quá về số lượng trong khi bộ máy quản lý không kiểm soát được tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, dẫn đến nhiều DNVVN làm vỏ bọc cho các hoạt động phi pháp, lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng… Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng như hoạt động của các DNVVN chưa đồng bộ, thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thể. Các văn bản liên quan đến hoạt tín dụng ngân hàng còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp với tình hình thực tế. Theo quy định hiện hành thì khi các doanh nghiệp sử dụng các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh rất khó khăn trong việc xử lý các thủ tục như: đăng ký quyền sở hữu quyền tài sản, đăng ký giao dịch đảm bảo, xác định giá trị tài sản thế chấp nhất là bất động sản… Vấn đề trích lập và phân loại rủi ro chưa đảm bảo được tính an toàn cho ngân hàng, trích lập dự phòng mới chỉ dựa vào thời hạn tín dụng. Mặt khác trong giai đoạn hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối các ngân hàng thương mại. Do đó các ngân hàng gần như không cho vay ra. Doanh nghiệp cũng khó khăn hơn khi tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng do lãi suất cho vay tăng cao. Chương III. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với các DNVVN tại SCB Hà Nội 3.1 Định hướng hoạt động của SCB Hà Nội trong thời gian tới Định hướng chung - Trong giai đoạn mới, bắt đầu từ năm 2007, khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, quá trình hội nhập của đất nước với thị trường thế giới sẽ càng diễn ra sâu rộng hơn; áp lực cạnh tranh đối với hoạt động của ngành ngân hàng nói chung và của SCB Hà Nội nói riêng, vì thế ngày càng gay gắt hơn. - Tình hình đó đặt ra yêu cầu chi nhánh phải luôn nổ lực trong mọi mặt hoạt động, tích cực phát huy những thành quả đạt được; thường xuyên tiếp cận kinh nghiệm của các ngân hàng đại lý – bạn hàng trong và ngoài nước; tạo bước đột phá mới trong ổn định – tăng trưởng huy động vốn từ thị trường I đồng thời với việc nâng cao tính hiệu quả trong quản trị điều hành sử dụng vốn theo tiêu thức ngân hàng hiện đại, đi đôi với việc phát triển đa dạng, đa tiện ích các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống và hiện đại, phấn đấu đến năm 2010 hệ thống công nghệ dịch vụ ngân hàng SCB ngang tầm các ngân hàng lớn tại Việt Nam và khu vực ASEAN. Trong khi kiên trì thực hiện phương châm: “SCB luôn hướng đến sự hoàn thiện vì khách hàng”, phải đưa mọi hoạt động của ngân hàng bám sát hiệu quả theo định hướng hành động của toàn ngành ngân hàng. Việt Nam là “An toàn – Hiệu quả - Phát triển bền vững – Hội nhập quốc tế”… Mục tiêu chung - Là không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức kinh doanh, lấy hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại đa năng, bán lẻ làm trọng tâm; đồng thời với việc đẩy mạnh các hoạt động đầu tư tài chính – thương mại liên doanh góp vốn đảm bảo tối đa hóa nguồn thu lợi nhuận; cùng với việc từng bước tạo dựng vững chắc các tổ chức, công ty kinh doanh độc lập, trực thuộc theo phương thức đa sở hữu trong mối quan hệ hợp tác liên kết chiến lược thị trường với các cổ đông và khách hàng chiến lược là tổ chức kinh tế có tiềm lực mạnh cả trong nước và nước ngoài. - Với định hướng, mục tiêu chiến lược trên đây, bước vào giai đoạn kế tiếp sau năm 2010, hệ thống tổ chức SCB sẽ dần hình thành một cách khách quan đáp ứng với yêu cầu thực tiễn mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng cỡ trung tại Việt Nam và khu vực ASEAN. 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SCB Hà Nội Với vai trò quan trọng của các DNVVN đối với nền kinh tế và thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp này như hiện nay thì việc đưa ra những chính sách hỗ trợ phát triển cho bộ phận doanh nghiệp này là điều hết sức cần thiết. Phát triển tín dụng cho các DNVVN có thể đem lại lợi ích to lớn cho các ngân hàng. Đặc biệt khi cạnh tranh đang diễn ra găy gắt, các NHTM đang cạnh tranh nhau để giành lấy các khách hàng lớn thì việc phát triển thị trường DNVVN là một định hướng kinh doanh đúng đắn. Các ngân hàng nên tập trung khai thác đối tượng khách hàng này bởi đây là đối tượng khách hàng chiếm thị phần lớn trên thị trường, có tiềm năng lớn có thể đem lại cho ngân hàng nguồn thu nhập cao. Từ thực trạng hoạt động của SCB Hà Nội như hiện nay thì việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN là một chính sách phát triển đúng đắn và cần thiết. Để phát huy được tối đa vai trò quan trọng của các DNVVN trong nền kinh tế cũng như để tiếp cận được với đối tượng khách hàng đầy tiềm năng này, trong thời gian tới Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước và SCB Hà Nội cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau: 3.2.1 Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng, được xây dựng và hoàn thiện trong nhiều năm, đó chính là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng là những hướng dẫn chung cho cán bộ ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo ra sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng khả năng sinh lời. Nội dung tín dụng chính sách tín dụng bao gồm chính sách về lãi suất và phí suất tín dụng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng, thời hạn tín dụng và kỳ hạn trả nợ…Vì thế để hoạt động cho vay thực sự có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thì ngân hàng phải xây dựng được một chính sách tín dụng hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận vốn của khách hàng. Bên cạnh việc đa dạng hoá các hình thức cho vay, cần đa dạng hoá các loại tài sản đảm bảo. Danh mục tài sản đảm bảo của SCB Hà Nội chủ yếu vẫn là thế chấp bằng nhà ở, quyền sử dụng đất, máy móc thiết bị…hoặc là cầm cố bằng trái phiếu, kỳ phiếu…còn các loại tài sản khác như hàng hoá, khác khoản phải thu, các hợp đồng bảo hiểm hợp đồng nhận thầu… Ngân hàng muốn thu hút được nhiều khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ thì cần phải mở rộng danh sách các tài sản đảm bảo này bởi hầu hết các DNVVN có tài sản nhỏ, không đủ điều kiện để thế chấp vay vốn. Xây dựng chính sách tín dụng, Ngân hàng còn cần phải xác định một cơ cấu nợ hợp lý. Hiện nay dư nợ cho vay của SCB Hà Nội đối với DNVVN chủ yếu tập trung vào nguồn vốn ngắn hạn mà dư nợ cho vay trung dài hạn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu nợ cho vay. Vì thế trong thời gian tới, Ngân hàng cần tập trung phát triển tín dụng trung dài hạn. Các doanh nghiệp thường có nhu cầu vốn trung dài hạn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật…và trong điều kiện phát triển nhanh chóng của Khoa học và Công nghệ thì nhu cầu vốn trung dài hạn để đầu tư ngày càng gia tăng. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi có thể giúp cho Ngân hàng mở rộng được doanh số cho vay, vì thế Ngân hàng cần tận dụng khai thác để phát triển hoạt động cho vay trung dài hạn. Trong chính sách tín dụng của NHTM thì chính sách về lãi suất và phí suất tín dụng là một trong những chính sách cực kì quan trọng. Ngân hàng cần đưa ra các mức lãi suất tín dụng khác nhau tuỳ theo kì hạn, tuỳ theo loại tiền và tuỳ theo loại khách hàng. Lãi suất có thể cố định trong suốt kì hạn tín dụng hoặc biến đổi tuỳ theo thay đổi của lãi suất thị trường. Ngân hàng đưa ra mức lãi suất định trước nhưng có thể cho phép các cán bộ tín dụng đưa ra mức lãi suất thoả thuận trong giới hạn cho phép đối với những khách hàng truyền thống, khách hàng vay lớn. Khi xây dựng chính sách tín dụng tín dụng, Ngân hàng phải tính đến rủi ro lãi suất, lãi suất hoà vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường vì thế cần đưa ra các mức lãi suất linh hoạt, đa dạng trên cơ sở đảm bảo được khả năng sinh lời cũng như khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Lãi suất tín dụng phụ thuộc nhiều yếu tố khác như lãi suất huy động, chi phí khác, thuế, rủi ro… vì thế cần xây dựng một chính sách lãi suất đồng bộ, linh hoạt, có cơ cấu hợp lý…và phải được phổ biến đến mọi cán bộ tín dụng. 3.2.2 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định trước khi ra quyết định cho vay Công tác thẩm định trước khi ra quyết định cho vay là một việc làm hết sức cần thiết bởi nó có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả cho vay của ngân hàng. Thẩm định là việc thu thập, phân tích và xử lý mọi thông tin liên quan đến khách hàng như năng lực tài chính, năng lực dân sự, chu trình sản xuất kinh doanh, lợi nhuận của khách hàng, vì thế Ngân hàng cần thực hiện tốt công tác này để có thể tiến hành phân loại được khách hàng một cách chính xác, xây dựng được một danh sách khách hàng để dễ dàng hơn trong việc ra quyết định cho vay, đảm bảo hoạt động cho vay có hiệu quả hơn. Trong công tác thẩm định cần chú ý đến vấn đề về tài sản thế chấp. Các ngân hàng hiện nay thường coi tài sản thế chấp như là một chỗ dựa an toàn trong việc ra quyết định cho vay. Tài sản thế chấp là cơ sở để ngân hàng thu hồi nợ khi người vay không trả được nợ, nhưng đây chỉ là giải pháp tình thế, bắt buộc, là giải pháp cuối cùng buộc ngân hàng phải thực hiện bởi phát mại tài sản thế chấp là công việc hết sức khó khăn. nó không những ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng cũng như của doanh nghiệp. Vì vậy đối với các khoản cho vay có tài sản đảm bảo, ngân hàng cần thực hiện thẩm định một cách nghiêm ngặt, chính xác, ngân hàng cần tích cực hơn trong việc kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản đảm bảo của doanh nghiệp, tránh những ảnh hưởng xấu tác động làm giảm giá trị của tài sản đảm bảo. Việc lựa chọn loại tài sản đảm bảo nào cũng là một vấn đề quan trọng vì nó chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố pháp lý và các yếu tố thị trường như giá cả, quyền chuyển nhượng, sử dụng…Bên cạnh việc thận trọng khi lựa chọn, sử dụng tài sản đảm bảo, Ngân hàng cần mở rộng các hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản để tăng dư nợ cho vay đối với các Doanh nghiệp. Thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là khâu rất quan trọng đối với ngân hàng nhằm đạt hiệu quả mong muốn cũng như phòng tránh được rủi ro. Trong khi vấn đề tài sản thế chấp của các DNVVN đang còn nhiều hạn chế thì việc căn cứ vào tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh để ra quyết định cuối cùng là điều hết sức cần thiết. Vì vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thực hiện phân tích, đánh giá, xem xét tính khả thi của dự án một cách nhanh chóng, chính xác và trung thực, rút ngắn thời gian thẩm định. Đồng thời sau khi kết thúc một quy trình cho vay, cán bộ tín dụng kết hợp thực hiện ngay công đoạn bán chéo sản phẩm. Điều này không chỉ tối đa hóa lợi nhuận cho ngân hàng mà còn giữ được mối quan hệ lâu bền và thân thiết đối với khách hàng thông qua các sản phẩm bảo lãnh, cho vay, tư vấn, thẻ, ủy nhiêm chi, ủy nhiệm thu… 3.2.3 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Chi nhánh Để có thể mở rộng và phát triển một cách có hiệu quả hoạt động tín dụng thì trước hết chi nhánh phải có một cơ cấu tổ chức quản lý chặt chẽ đồng bộ, phải luôn bám sát tình hình thực tế, xây dựng được một tập thể cán bộ đoàn kết, trong đó ban lãnh đạo và cán bộ phụ trách là những người năng nổ, dám làm, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm, cùng với đọi ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ cao, nhiệt tình và tháo vát trong công việc. Một số vấn đề cần giải quyết Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý điều hành của Chi nhánh. Phải thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về chế độ kế toán mới, các phương pháp và kỹ thuật thẩm định dự án, phân tích các hoạt động kinh tế, các kiến thức pháp lý như luật dân sự, các vấn đề liên quan đến sở hữu. Tuyển chọn những cán bộ thực sự có năng lực cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn trình độ văn hoá, đặc biệt là lớp cán bộ trẻ có năng lực, nhạy bén với công việc, với sự thay đổi và yêu cầu của hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Bố trí, xắp xếp lại đội ngũ cán bộ một cách hợp lý, từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ trên cơ sở năng lực, trình độ nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, đáp ứng được nhu cầu của công tác kinh doanh trong cơ chế thị trường. Phải thường xuyên có các cuộc hội thảo khoa học, có kế hoạch đào tạo nâng cao nghiệp vụ đối với cán bộ hoạch định chính sách tín dụng để đào tạo ra người có trình độ lý luận nghiệp vụ ngân hàng vững vàng, có kiến thức kinh tế tổng hợp, có phương pháp nghiên cứu khoa học, am hiểu thị trường và giàu kinh nghiệm thực tế, có khả năng tổng hợp vấn đề, có kiến thức pháp luật vững chắc và sâu rộng. Đối với cán bộ quản lý điều hành hoạt động tín dụng, ngoài những tiêu chuẩn về kiến thức nghiệp vụ cơ bản cần có thêm các đặc điểm sau: phải nắm chắc về pháp luật, đặc biệt là luật kinh tế và luật dân sự. Phải nắm chắc các quy định, thể chế và vận dụng một cách linh hoạt, phải có khả năng tổng hợp, phân tích, xác định những điều đúng, chưa đúng, chưa phù hợp của các chế độ, thể chế để kiến nghị với cấp trên. Phải có kiến thức khoa học tâm lý, trình độ ngoại ngữ và tin học. Đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng, thẩm định dự án... phải là những người trung thực, khách quan, thẳng thắn, kiên định, có ý thức bảo vệ tài sản của ngânhàng, ngoài trình độ chuyên môn còn cần phải sâu sát với thực tế, hiểu biết nhận định về kinh tế thị trường, nắm vững pháp luật và các vấn đề có liên quan. Muốn vậy Sở Giao dịch cần phải thường xuyên tổ chức những cuộc kiểm tra kiến thức về nghiệp vụ, pháp luật, tâm lý... và cấn có khuyến khích về mặt vật chất. 3.2.4 Tăng cường thu thập, phân tích thông tin về khách hàng Thông tin luôn là vấn đề hêt sức quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Thông tin phải được cập nhật và xử lý nhanh chóng, chính xác bởi chất lượng thông tin ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược tín dụng. Nắm bắt kịp thời các thông tin, Ngân hàng sẽ phân tích, đánh giá và định hướng được những rủi ro có thể xảy ra, Ngân hàng có thể dự báo, dự đoán trước những tín hiệu biến động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như những biến động của thị trường do đó giúp Ngân hàng đưa ra được những quyết định đầu tư đúng đắn cũng như tránh được những rủi ro mà dự án sản xuất có thể gặp phải. Ngân hàng có thể thu thập các thông tin trực tiếp từ khách hàng, từ Hội sở, từ trung tâm tín dụng (CIC) hoặc từ các phương tiện thông tin đại chúng khác…Để việc thu thập và xử lý thông tin được kịp thời, chính xác, cần thành lập một nhóm tư vấn thông tin tín dụng có chức năng thu thập, phân tích các thông tin về khách hàng, về kinh tế, thị trường, thông tin về pháp luật…có ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. 3.2.5 Xây dựng chính sách khách hàng linh hoạt Ngân hàng tiến hành phân loại khách hàng truyền thống và quan trọng và các đối tượng khách hàng khác để có những chính sách khách hàng hợp lý. Cần có các chính sách ưu đãi với những doanh nghiệp truyền thống đặc biệt là những doanh nghiệp quan trọng, đồng thời có những chính sách để thu hút thêm các doanh nghiệp mới. Để thực hiện được điều này, chi nhánh cần xây dựng được hệ thống chỉ tiêu đánh giá khách hàng cụ thể, thực hiện đầy đủ phương pháp tính điểm tín dụng để nâng cao hơn nữa hiệu quả cho vay của Ngân hàng. Thực tế cho thấy, ứng dụng phương pháp tính điểm tín dụng cho phép giảm bớt chi phí và thời gian cho vay đối với DNVVN, do đó cho phép các tổ chức tín dụng mở rộng vốn vay với khách hàng, cho phép các NHTM xây dựng được quy trình thẩm định tín dụng chặt chẽ hơn qua đó kiểm soát tín dụng được chính xác hơn. Tính điểm tín dụng sẽ giúp giảm bớt sự phụ thuộc nặng nề của ngân hàng vào ký quỹ bằng việc đánh giá chủ doanh nghiệp hay nhà quản lý. Điều này đặc biệt có lợi co các doanh nghiệp trẻ trong tình trạng thiếu báo cáo thống kê về kinh doanh và các yêu cầu bảo đảm tín dụng khác. Hiện nay chi nhánh SCB Hà Nội đã xây dựng được một hệ thống chấm điểm khách hàng doanh nghiệp với nhiều chỉ tiêu như ngành, quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, quan hệ của doanh nghiệp với ngân hàng, tỷ số đòn bẩy, thương hiệu sản phẩm…Đây là việc làm hết sức quan trọng giúp cho Ngân hàng đánh giá đúng các đối tượng khách hàng. Tuy nhiên để việc chấm điểm khách hàng được thực hiện đầy đủ và chính xác, chi nhánh cần mở rộng các chỉ tiêu xếp hạng, nâng cao công tác thu thập và xử lý thông tin khách hàng. Do phần lớn các DNVVN thường có mối quan hệ chặt chẽ giữa chủ sở hữu với nhà quản lý doanh nghiệp (hầu hết các DNVVN có chủ sở hữu là người trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp) nên ngân hàng cần tập trung phân tích các thông tin của cá nhân hơn là thông tin doanh nghiệp, cần xác định những chỉ tiêu quan trọng cho việc xếp hạng. Ngoài ra chi nhánh cần tăng cường công tác tiếp thị, tìm hiểu khách hàng trên địa bàn để nghiên cứu, xây dựng mục tiêu kế hoạch đầu tư, kết hợp với tư vấn đầu tư để chủ động hơn nữa trong quan hệ tín dụng và khai thác khách hàng, lựa chọn và thu hút những khách hàng làm ăn có hiệu quả từ đó góp phần nâng cao được hiều quả cho vay tại Ngân hàng. Kết hợp với các gải pháp hỗ trợ phát triển như củng cố và mở rộng mạng lưới ngân hàng bán lẻ, giải pháp quan hệ cộng đồng tạo dấu ấn… Kết luận Ở nước ta hiện nay, DNVVN chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, bao gồm hầu hết các DNNN do địa phương quản lý và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó, nó có khả năng to lớn trong việc mở rộng sản xuất, phát triển ngành nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng chục triệu lao động trong các thành phần kinh tế. DNVVN đã sản xuất chế biến và lưu thông một khối lượng hàng hoá, dịch vụ lớn đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của toàn xã hội ngày càng đa dạng và phong phú. DNVVN do phân bố rộng khắp trên mọi vùng đất nước nên nó có vai trò tích cực trong việc khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của mỗi vùng, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, góp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tuy nhiên trong quá trình phát triển của mình, DNNN còn gặp không ít khó khăn. Trong đó có khó khăn về vốn để đổi mới thiết bị công nghệ, tăng năng suất lao động tạo thế đứng trong cơ chế thị trường là khó khăn lớn nhất, cần phải có sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ giúp đỡ cho các doanh nghiệp phát triển, cho nền kinh tế phát triển mà nó cũng mang lại những lợi ích to lớn cho chính Ngân hàng phục vụ. Chất lượng tín dụng là một vấn đề phức tạp, để nâng cao chất lượng tín dụng không phải là một sớm một chiều là làm được mà cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng của lãnh đạo Ngân hàng. Trong đề tài này em xin đóng góp một cách nhìn của riêng mình, đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHCT Hai Bà Trưng. Do nội dung nghiên cứu phức tạp, thời gian thực tập có hạn cũng như kiến thức thực tế và kỹ năng phân tich của em còn chưa sâu nên đề tài nghiên cứu còn có những khiếm khuyêt không thể tránh khỏi. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô và ban lãnh đạo ngân hàng TMCP Chi nhánh Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm hướng dẫn tận tình của cô: Ths. Lê Hương Lan – Giáo viên hướng dẫn thực tập và các anh chị tại SCB Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề và khóa thực tập này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Phạm Văn Hồng - Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. 2. TS.Phan Thị Thu Hà - Giáo trình NHTM. NXB ĐH KTQD-2007 3. Các văn bản pháp luật: Luật doanh nghiệp năm 2005, Luật các tổ chức tín dụng đã sửa đổi bổ sung năm 2004; Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN; Thông tư số 01/2006/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về việc hướng dẫn một số nội dung về góp vốn thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN… 4. Các công văn, quy định và một số tài liệu khác của Ngân hàng TMCP Sài Gòn. 5. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của SCB Hà Nội các năm 2005, 2006, 2007. 6. Luận văn các khoá. 7. Tạp chí Ngân hàng 2008. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10001.doc
Tài liệu liên quan