Chuyên đề Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu

Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu vì nó biểu hiện mối quan hệ tương đối về giá (giữa đồng nội tệ với đồng ngoại tệ “USD”) và các dòng thương mại và sự nhạy cảm của xuất khẩu đối với biến động tỷ giá. Điều này chứng tỏ, chính sách tỷ giá hối đoái là một trong những công cụ mạnh thúc đẩy xuất khẩu. Chính sách tỷ giá hối đoái, từ khi Chính phủ thực hiện cải cách trong cơ chế điều hành tỷ giá giữa USD - đồng tiền Việt Nam, điều chỉnh linh hoạt hơn phần nào đã khép kín dần khoảng cách giữa tỷ giá quy định ngân hàng Trung ương với thị trường tự do. Song cần linh hoạt hơn nữa (không nên định giá quá cao đồng nội tệ, sẽ làm cho tỷ giá ngoại thương thay đổi không khuyến khích xuất khẩu). Tuy nhiên, không nên áp dụng biện pháp đột ngột (tạo nên các cú sốc) mà cần sát tới thị trường, nhằm khuyến khích xuất khẩu và bảo đảm sự ổn định, tăng trưởng kinh tế.

doc123 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồng thời, cần tập trung cho công tác nghiên cứu lai tạo giống, tạo ra những giống có năng suất, chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Cụ thể, trong thời gian tới, cần tạo ra bước chuyển biến mới để đáp ứng yêu cầu của chiến lược cạnh tranh nông sản trên thị trường như sau: - Tập trung đầu tư cho nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng, thực hiện các chương trình nghiên cứu giống (lai tạo, chọn lọc, nhập nội) quốc gia, tạo một bước có tính đột phá về năng suất chất lượng, phát triển công nghệ sau thu hoạch, nghiên cứu kinh tế, phát triển thị trường. - Tăng cường công tác khuyến nông, đưa nhanh và trực tiếp đến người sản xuất (hộ nông dân). - Kiện toàn và sắp xếp hệ thống nghiên cứu, khoa học để phát huy sức mạnh trí tuệ của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật. Tăng cường đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất cho nghiên cứu khoa học. 1.2 Huy động vốn đầu tư đổi mới công nghệ: Nhìn chung công nghệ chế biến và bảo quản nông sản còn quá nhỏ bé lạc hậu chiếm tới 70% (tỷ trọng chế biến đối với sản phẩm cao su là 20%, chè 55%...). Để khắc phục khó khăn và phát huy được các tiềm năng và thế mạnh vốn có của mình, thì việc huy động vốn đầu tư cho nông nghiệp nói chung và hàng nông sản xuất khẩu nói riêng có ý nghĩa hàng đầu. Vì vậy, cần có một lượng vốn thích đáng, đầu tư vào các lĩnh vực sau: - Xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn như thủy lợi, đường xá, điện nước nhằm tạo điều kiện cho việc phát triển nông nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. - Xây dựng các vùng chuyên canh, sản xuất cây trồng và vật nuôi trên quy mô lớn nhằm tạo ra năng suất lao động cao với chất lượng sản phẩm tốt đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. - Nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có, trong đó những nhà máy quá lạc hậu thì rà xét lại để có hướng xử lý trên cơ sở lấy hiệu quả làm mục tiêu. Đồng thời, xây dựng một số nhà máy mới tại vùng nguyên liệu để đảm bảo tạo ra các mặt hàng nông sản đa dạng về mẫu mã chủng loại có sức xuất khẩu cao. - Trên cơ sở nắm bắt yêu cầu của thị trường, xây dựng chương trình hỗ trợ đổi mới công nghệ, đáp ứng yêu cầu của thị trường, chủ yếu ở các thị trường mới, yêu cầu chất lượng và tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp cũng như vệ sinh thực phẩm cao. - Xây dựng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật nông nghiệp và cán bộ quản lý có trình độ để góp phần đưa nền công nghiệp nước ta tiến kịp với đà phát triển chung của các nước trên thế giới. Việc đầu tư vốn vào các lĩnh vực trên vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chất lâu dài, đòi hỏi phải có một lượng vốn khá lớn và có sự tham gia từ nhiều nguồn khác nhau. + Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước: Đây là nguồn vốn quan trọng hàng đầu trong cơ cấu đầu tư đổi mới công nghiệp chế biến nông sản. Điều này không chỉ thể hiện ở quy mô đầu tư mà còn biểu hiện ở nguồn vốn chủ đạo trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, lĩnh vực nào mà các thành phần kinh tế khác không thể mà cũng không muốn đầu tư. Cần nhận thức rằng, vốn ngân sách như là “vốn mồi”, tạo ra “cú hích” cho nông nghiệp chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, thu hút ngày càng nhiều vốn khác đầu tư phát triển nông nghiệp nói chung, nông sản xuất khẩu nói riêng. Mặc dù vậy, trong những năm gần đây, tỷ trọng nguồn vốn này dành cho đầu tư công nghệ chế biến còn rất hạn chế. Vì vậy, có thể tăng nguồn thu ngân sách thông qua việc đề nghị hỗ trợ đối với những dự án phát triển nông nghiệp có mục tiêu, phát sinh ngoài dự kiến ngân sách nhưng rất cần cho quá trình phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. + Vốn đầu tư từ nguồn vốn tự có của nhân dân: Cùng với việc giao ruộng đất nông nghiệp, đất rừng cũng như mặt nước cho nông dân sử dụng trong thời gian dài đã kích thích làm tăng nguồn vốn đầu tư từ nguồn tự có của nhân dân thông qua việc mua sắm thiết bị, vật tư nông nghiệp như phân bón, giống cây, máy nông nghiệp... để tự chủ động mở rộng diện tích trồng trọt. Sự tự đầu tư của nông dân được biểu hiện rõ nhất trong một loại hình nông nghiệp mới, đó là mô hình kinh tế trang trại với số vốn đầu tư khoảng 90% vốn của chính những người nông dân. Qua đó, nguồn vốn tự có của nhân dân là nguồn vốn khá dồi dào tuy nhiên vẫn còn tiềm ẩn, huy động được nguồn vốn này sẽ góp phần nâng cao được hiệu quả đầu tư cho công nghiệp chế biến nông sản. Vì vậy, cần đánh thức, huy động tối đa nguồn vốn này, gỡ bỏ những trở ngại về pháp luật, tâm lý cho nhân dân, tạo mọi điều kiện về môi trường luật pháp cũng như môi trường đầu tư, chính sách thuế... để họ yên tâm bỏ vốn đầu tư phát triển công nghệ chế biến, khuyến khích những nông dân có vốn có cơ hội tự tổ chức hoặc hợp tác với nhau huy động vốn đầu tư thông qua việc hình thành doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh của mình. + Đầu tư từ vốn tín dụng: Riêng hệ thống ngân hàng, năm 1990 dư nợ cho vay đối với ngành nông, lâm, ngư nghiệp chỉ chiếm 14,7% dư nợ của toàn ngành thì đến năm 1997 tỷ lệ này là 60%. Song nhìn lại thị trường vốn tín dụng nông thôn những năm vừa qua vẫn còn một số tồn tại như: Nguồn vốn vẫn còn phân chia đều cho các hộ nông dân vay trung bình vài ba triệu, dẫn đến tình trạng hộ làm ăn kinh tế tốt thì không đủ vốn còn hộ làm ăn kinh tế kém thì không sử dụng hết vốn và không hiệu quả. Vốn cho vay vẫn mang tính chất phân tán, thiếu sự quản lý thống nhất, thiếu sự tập trung dẫn đến vốn bị chia cắt đầu tư chưa mang lại hiệu quả, thị trường vốn bị rối loạn. Công tác thẩm định dự án vay vốn, nhất là đối với những dự án lớn còn nhiều điều bất cập gây thất thoát lãng phí. Nguồn vốn cho vay chủ yếu là vốn ngắn hạn do vậy chưa tạo điều kiện đầu tư theo chiều sâu - nhiều khi chưa thực hiện đã phải lo trả nợ. Số lượng nông dân cần vay vốn nhưng chưa đáp ứng còn chiếm tỷ lệ lớn do nông dân chưa tiếp cận với ngân hàng. Tuy nhiên, nguồn vốn này là nguồn vốn chủ yếu nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế nông thôn nói chung, đổi mới công nghệ chế biến và bảo quản nông sản nói riêng. Cần phải khắc phục những khó khăn trên và có những biện pháp thích hợp để ưu tiên khuyến khích sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu. Chẳng hạn như, lập ra bộ phận nghiên cứu thị trường để tiếp tục mở rộng mạng lưới ngân hàng liên xã, ngân hàng lưu động... đến tận cơ sở, nơi tập trung dân cư sản xuất; tích cực mở rộng các hoạt động dịch vụ của ngân hàng thương mại nhằm thu hút nguồn vốn tạm nhàn rỗi vào ngân hàng: mở rộng nguồn tín dụng đến tận hộ gia đình, cá nhân, hợp tác xã... mở rộng tín dụng cho nông dân vay khoảng 10 triệu đồng trở xuống thông qua Hội nông dân kiên quyết đi theo con đường mở rộng cho vay đến hộ gia đình thông qua tổ nhóm, giải quyết tình trạng thiếu vốn sản xuất của hộ nông dân. Chỉ có như vậy nông dân mới dễ dàng tiếp cận gần hơn với ngân hàng và ngược lại, ngân hàng tiếp cận gần hơn với nông dân, nắm bắt được nhu cầu tín dụng của họ để đầu tư vốn an toàn. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Trong các loại hình đầu tư vào hoạt động xuất khẩu nông sản, thì FDI có vai trò quan trọng đặc biệt. Vì FDI thường tập trung vào những ngành sản xuất và chế biến nông sản mũi nhọn, nâng cao được hàm lượng chế biến. Và thường đi kèm với chuyển giao công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại, do vậy nó đảm bảo được tính đồng bộ và hiện đại của các cơ sở chế biến hàng nông sản. Nhìn chung, đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp những năm vừa qua đã tăng. Song, vẫn còn hạn chế như tốc độ đầu tư chậm và còn quá khiêm tốn, hiệu quả hoạt động của các dự án còn đáng lo ngại. Việc phân bổ các dự án chưa hợp lý. Vì vậy, để thu hút được vốn FDI, một mặt cần chủ động cải thiện môi trường đầu tư có kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng, hình thành một hệ thống thị trấn, thị tứ ở nông thôn, đặc biệt cần xúc tiến xây dựng các khu công nghiệp có quy mô nhỏ ở nông thôn. Mặt khác, tổ chức các cơ sở chế biến, sơ chế lâm thủy sản theo hướng gắn kết các đơn vị cung cấp nguyên liệu sản xuất - chế biến và tiêu thụ. Từ đó, chỉ có các đối tác nước ngoài thấy rõ các lợi ích trực tiếp mà họ thu được khi quyết định đầu tư hoặc liên doanh với Việt Nam. Khi các dự án nông lâm thủy sản có sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài thì sẽ thu hút được vốn FDI để đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới. 1.3 Hỗ trợ lãi suất tín dụng xuất khẩu đối với nông dân và những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông sản chế biến. Nói đến một nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bền vững thì không thể không nói đến nền kinh tế đó đang hướng vào xuất khẩu và có chính sách xuất khẩu hợp lý. Có phát triển được xuất khẩu mới phát huy và khai thác được lợi thế so sánh từ nội lực. Trong nhiều năm qua, chính phủ rất chú trọng xuất khẩu, coi xuất khẩu là nguồn thu hút chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Chính phủ sẵn sàng can thiệp bằng các chính sách ưu đãi để kích thích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, đã từng bước đáp ứng nguồn tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, thực trang hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu đang đặt ra những vấn dề bức xúc: Đối tượng cho vay chủ yếu là các đơn vị kinh tế nhà nước, lãi suất chưa thể hiện rõ tính ưu đãi, cơ chế cho vay chưa thuận lợi. Mặt khác, kinh doanh sản xuất và xuất khẩu nông sản là một lĩnh vực khá bấp bênh do chính đặc thù của sản phẩm đem lại. Khi các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư sản xuất hay kinh doanh chế biến, tiêu thụ một loại nông sản nào đó cho xuất khẩu nhưng khi cho thu hoạch sản phẩm, hay tiêu thụ sản phẩm thì giá cả xuống quá thấp, sản phẩm tồn đọng kéo dài không tiêu thụ được, tiếp đó lại bị xuống cấp về chất lượng hay giảm giá bán, bị thua lỗ tới vài vụ liền thậm chí tới vài năm. Từ đó dẫn đến nợ đọng vốn, lãi mẹ đẻ lãi con. Do đó, chính phủ cần áp dụng chính sách tài chính hỗ trợ cho xuất khẩu mà quan trọng nhất là cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu nhằm hỗ trợ, khuyến khích cho các doanh nghiệp và hộ nông dân tham gia sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện kinh doanh nông sản xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu. Hạn mức tín dụng ưu đãi và hạn mức bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cụ thể cho các dự án sản xuất kinh doanh xuất khẩu nông sản với lãi suất vay ngắn hạn thường thấp hơn từ 20 - 25% lãi suất vay ngắn hạn thông thường. Ưu điểm của cho vay lãi suất ưu đãi là giúp doanh nghiệp khắc phục được những khó khăn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn tính toán vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, tập dượt làm quen với thị trường thế giới, dần vươn lên hòa nhập với nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, áp dụng chính sách lãi suất ưu đãi sẽ dẫn đến bao cấp, làm suy yếu và giảm vai trò đòn bẩy tín dụng. Vì vậy chính phủ cần phải xây dựng một cơ chế thưởng phạt tương thích. Nhưng đối với các doanh nghiệp và hộ nông dân hoạt động xuất khẩu có hiệu quả, mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản đã có hoặc mở thêm thị trường mới với kim ngạch xuất khẩu cả năm tăng lên trên 20% so với năm trước đối với những mặt hàng nông sản khuyến khích xuất khẩu của nhà nước, thì cần có chính sách thưởng lãi suất. Xem xét cho vay tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi đáp ứng đến 70% tổng số tín dụng để thực hiện hợp đồng đã ký hoặc xem xét bảo lãnh đến 80% tổng số tín dụng thực hiện hợp đồng đó. Đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu thua lỗ thì chấm dứt việc cho vay với lãi suất ưu đãi để tránh tình trạng ỷ lại vào sự trợ cấp của nhà nước. 2. Giải pháp về thị trường: Trong tiến trình hội nhập, để có thể thâm nhập các thị trường thế giới thì việc tăng khả năng cạnh tranh là chưa đủ mà còn đòi hỏi phải tăng cường tính chủ động của nhà nước trong mở rộng quan hệ quốc tế. Việc đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại: đàm phán, ký kết các hiệp định song phương và đa phương với chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, hay phát triển và trao đổi thông tin thương mại, quảng cáo mặt hàng thông qua các hoạt động hội chợ triển lãm trong nước, quốc tế... sẽ quyết định đến việc nâng cao thị phần nông sản Việt Nam trên thế giới. 2.1 Duy trì và phát triển quan hệ thương mại quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản. Trong thời đại ngày nay, khu vực hóa, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới là xu hướng tất yếu mà mọi nền kinh tế đều bị cuốn hút vào. Dưới sức ép của toàn cầu hóa, nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ và nhanh chóng. Nền kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động của xu thế này. Do đó, duy trì và phát triển quan hệ thương mại quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới sẽ góp phần tạo ra những triển vọng to lớn cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa nói chung và nông sản nói riêng của Việt Nam. Với chủ trương mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đang từng bước hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Việt Nam tham gia và đã là thành viên của diễn đàn hợp tác châu á - Thái Bình Dương (APEC) và đưa chương trình hành động quốc gia (IAP) để thực hiện tự do hoá thương mại, đồng thời Việt Nam cũng đang xúc tiến gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đàm phán để ký kết Hiệp định thương mại với Mỹ. Đặc biệt, với vai trò là thành viên chính thức của ASEAN từ 28 - 7 - 1995, Việt Nam đã cam kết thực hiện các hiệp định ASEAN trong đó có hiệp định về thực hiện mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Suy cho cùng thì việc tham gia các cam kết của AFTA, APEC hay WTO hoặc Hiệp định thương mại Việt - Mỹ thực chất là biểu hiện xu hướng hội nhập của Việt Nam ở các nấc thang khác nhau vào nền kinh tế thế giới mà sự khác biệt của các quá trình này sẽ đem đến các ưu đãi khác nhau cho Việt Nam trong tiến trình tự do hóa thương mại. Việt Nam tham gia AFTA được coi là bước khởi đầu quan trọng nhất, có thể ví như cuộc diễn tập toàn diện đầu tiên để chuẩn bị gia nhập APEC cũng như WTO. Tiếp đến, trở thành thành viên chính thức của APEC tháng 11/1998 là một cột mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực của Việt Nam, APEC với 21 thành viên chiếm hơn 1/2 GNP của thế giới và khoảng 80% khối lượng mậu dịch với Việt Nam đang là mối quan tâm lớn trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới. Gia nhập khối thương mại khu vực APEC là một bằng chứng đảm bảo thuận lợi cho việc gia nhập WTO, do sự cam kết chuyển sang kinh tế thị trường của Việt Nam được các tổ chức APEC khẳng định. Hơn nữa, liên quan đến vai trò của Mỹ trong đàm phán gia nhập WTO thì APEC được coi là địa bàn chiến lược hàng đầu trong thế kỷ XXI không chỉ về kinh tế mà cả an ninh chiến lược. Do đó, gia nhập APEC, Việt Nam sẽ gặt hái được nhiều thuận lợi trong gia nhập WTO và quan hệ song phương về thương mại và đầu tư với Mỹ. Với việc chuẩn bị gia nhập WTO của Việt Nam thì Mỹ là nước đóng vai trò là nước có yêu sách lớn nhất, đóng vai trò “lãnh đạo” trong các vấn đề của WTO. Vì vậy, ký được hiệp định thương mại Việt - Mỹ sẽ tạo thế thuận lợi cho các đàm phán gia nhập WTO đang được tích cực triển khai. Mặt khác, do hiệp định được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc WTO nên xét về mặt kỹ thuật, sau khi ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ, Việt Nam sẽ có cơ hội thực hiện được các yêu cầu căn bản của tổ chức thương mại quốc tế, giảm đi đáng kể các khó khăn trong tiến trình cam kết và thực hiện cam kết để sớm trở thành thành viên WTO. Do đó, khi Việt Nam tiến lên được nấc cuối cùng của quá trình bình thường hóa quan hệ kinh tế với Mỹ thì các quan hệ với các đối tác khác cũng trở nên suôn sẻ hơn. Tham gia vào các tổ chức này đã làm và sẽ làm cho thị trường xuất khẩu nông sản được mở rộng và ổn định hơn. Hiệp định nông nghiệp trong các tổ chức này đặt ra các quy tắc nhằm tăng cường khả năng tiếp cận thị trường của các mặt hàng nông nghiệp. Các nước ASEAN đang thực hiện tự do hóa thương mại nông sản chưa chế biến vào thực hiện hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Đến năm 2003, hầu hết các mặt hàng sẽ được các nước thành viên giảm thuế suất xuống còn 0 - 5%, riêng một số mặt hàng nhạy cảm thì tiến trình cắt giảm thuế quan được thực hiện muộn hơn, bắt đầu vào năm 2001 và kết thúc vào năm 2010. Cùng với tiến trình chung đó, tự do thương mại nông nghiệp cũng đã được đưa vào chương trình đàm phán trong khuôn khổ hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) tại vòng đàm phán URUGOAY (1986 - 1994) giữa các thành viên Tổ chức thương mại thế giới WTO. Tại vòng đàm phán này một loạt hiệp định đã được ký kết, trong đó có hiệp định về nông nghiệp. Do đó, có thể nói rằng Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được nhiều cơ hội quan trọng để phát triển, song bên cạnh đó cũng phải đối mặt với những thách thức, những cam kết mà Việt Nam phải thực hiện khi tham gia hội nhập. Trước hết, Hiệp định WTO yêu cầu loại bỏ tất cả các hàng rào phi thuế quan đang tồn tại bằng việc thuế hoá các hàng rào này với mức thuế không cao hơn so với các mức bảo hộ tương đương trong thời gian cơ sở (1986-1990). Đồng thời không đưa ra các hàng rào phi thuế quan mới; quy định tất cả các dòng thuế đối với nông sản phải rõ ràng buộc vào cuối giai đoạn thực hiện (năm 2000); yêu cầu tất cả các loại thuế đều phải cắt giảm, cam kết tiếp cận thị trường tối thiểu nhằm mở cửa các thị trường vẫn được bảo hộ cao. Trong phạm vi các nước ASEAN, AFTA còn có những quy định mạnh mẽ hơn, đó là việc thực hiện loại bỏ hàng rào phi thuế và hàng rào thuế trong thời gian ngắn, đồng loạt giảm thuế nhập khẩu hàng hóa xuống còn 0 -5% trong vòng 10 năm, bắt đầu từ năm 1993 và kết thúc năm 2003 (Việt Nam kết thúc vào năm 2006 do tham gia muộn hơn 3 năm). Riêng các mặt hàng nhạy cảm quá trình này chỉ bắt đầu vào năm 2001 và kết thúc vào năm 2010 (Việt Nam là 2004 - 2013). Việc cam kết cắt giảm thuế quan và phi thuế quan đối với các sản phẩm nông sản thực hiện đối xử bình đẳng đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước đã gây khó khăn cho Việt Nam trong việc cạnh tranh với các nước trên thế giới và trong khu vực. Nhất là trong khi nền kinh tế nước ta còn yếu kém, trình độ khoa học, sản xuất kinh doanh và quản lý còn thấp. Việc bãi bỏ các hàng rào thuế và phi thuế quan mặc dù được coi đó là một trong những giải pháp lớn để khuyến khích phát triển xuất khẩu, song việc bãi bỏ phải tuân thủ một số nguyên tắc và trình tự thời gian nhất định để tránh những cú sốc đột ngột đối với các doanh nghiệp trong nước. Như vậy, để duy trì và phát triển quan hệ thương mại quốc tế với các nước và thực hiện được những cam kết khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, cần tập trung xây dựng chính sách hội nhập trên cơ sở tự do hóa và thuận tiện hóa các hoạt động thương mại theo tiêu chuẩn quốc tế, đạt được những thoả thuận quốc tế để xoá bỏ hàng rào bên ngoài trong tương lai. Tuy nhiên, để đạt được những thoả thuận đó thì trước tiên phải xóa bỏ được các hàng rào bên trong, tự do hóa thương mại trên thị trường nội địa là điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể đương đầu với các thách thức của sự phát triển kinh tế và thương mại quốc tế thế kỷ 21. Việt Nam cần phải dành ưu tiên thời gian và nội lực cho việc đẩy nhanh tốc đọ xây dựng thể chế thương mại nội địa. Thị trường nội địa mạnh là động lực chủ yếu đẩy mạnh sự hội nhập của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tiềm năng của giới doanh gia Việt Nam cần phải được khơi dậy, tạo khuôn khổ vĩ mô cho quá trình tạo lập cũng như tiến hành kinh doanh được thuận lợi. Điều quan trọng hiện nay là cần phải thiết lập lộ trình cải cách kinh tế nội địa gắn liền với hội nhập quốc tế. Sự bất cập của bộ máy hoạch định chính sách đang đặt ra nhu cầu bức bách cần được sắp xếp lại để khắc phục tình trạng thiếu sự phối hợp kinh niên giữa các bộ, ngành, đảm bảo sự thống nhất của toàn bộ nền kinh tế như một tổng thể, đồng thời tập trung được sức mạnh nội lực quốc gia. Có như vậy mới thực hiện được chức năng của nhà nước trong việc lãnh đạo nền kinh tế bằng các chính sách và thể chế, của các cơ quan đại diện ngoại thương và thương mại trong việc thực hiện đàm phán trên thế giới, phát triển quan hệ thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu và tìm đối tác kinh doanh. 2.2 ổn định giá cả cho người nông dân và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông sản xuất khẩu. Nông sản là một mặt hàng có khả năng xuất khẩu lớn, tuy nhiên lại là mặt hàng chịu nhiều rủi ro do sự lên xuống thất thường của giá cả và chịu sức ép lớn nhất trên thị trường quốc tế. Có thể nói, vấn đề ổn định giá cho nông sản ở Việt Nam là vô cùng cần thiết. Cho đến nay, các yếu tố “đầu vào” của sản xuất nông nghiệp và đầu ra của nông sản đều có liên quan đến giá cả thị trường quốc tế, nhưng nhiều năm chỉ số chung giá xuất khẩu nông sản thấp hơn so với chỉ số chung giá nhập khẩu tư liệu sản xuất trên thị trường thế giới. Tình hình trên đã làm cho giá cánh kéo giữa hàng công nghiệp và hàng nông sản bất lợi cho nông dân. Cung cầu giá cả thị trường không ổn định thì người chịu thua thiệt nhiều nhất là nông dân và các doanh nghiệp kinh doanh nông sản xuất khẩu. Khi cung lớn hơn cầu giá tụt xuống sẽ kìm hãm việc kinh doanh và sản xuất của các doanh nghiệp và nông dân, nhưng khi giá tăng lên thì không có hoặc không có nhiều nông sản bán ra. Vì vậy, Nhà nước nên có những biện pháp khắc phục tình trạng biến động giá cả, đặc biệt hiện nay tình trạng giá nông sản trên thế giới đang có xu hướng giảm và về lâu dài, điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến việc xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Khi giá nông sản thị trường thế giới xuống thấp bằng, thậm chí dưới giá thành sản xuất, Nhà nước nên phát tín hiệu và tiến hành mua vào với khối lượng lớn nông sản xuất khẩu theo giá thị trường trong một thời gian ngắn dự trữ, cho đến khi giá thị trường xoay quanh giá tín hiệu thì dừng lại. Đồng thời giúp nông dân tìm kiếm thị trường tiêu thụ, đàm phán ký kết hợp đồng trả nợ bằng nông sản và tạm thời giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu, tạm dừng việc thu thuế, thu nợ tín dụng đối với nông dân. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hỗ trợ giá mua nhằm tăng lượng dự trữ, giảm giá vật tư và thực hiện chính sách bảo trợ giá trên nguyên tắc “Lấy lúc xuất khẩu được cao bù cho lúc xuất khẩu giá thấp” trong đó bảo trợ giá tối thiểu là quan trọng nhất, nhằm ổn định nguồn cung cho xuất khẩu, thu ngoại tệ cho quốc gia. Trong thời gian gần đây, để góp phần bình ổn giá, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu được hình thành trên nguyên tắc: khuyến khích, hỗ trợ, kích thích việc khơi dậy những tiềm năng, những lợi thế so sánh của đất nước phục vụ cho việc phát triển kinh tế tăng trưởng bền vững. Cơ chế hoạt động của Quỹ này là thu chênh lệch giá phát sinh của hàng xuất nhập khẩu, hàng sản xuất trong nước để chi hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh những vật tư hàng hóa quan trọng có điều kiện dự trữ lưu thông điều hòa cung cầu bình ổn giá cả. Nhờ sự hỗ trợ này mà các doanh nghiệp hoặc tăng cung hoặc kích cầu khi cần thiết tác động đến thị trường giá cả, góp phần làm cho giá cả từ chỗ quá thấp hoặc quá cao không hợp lý trở về mức giá của mặt bằng chung mà xã hội chấp nhận, tác động chung của mặt bằng giá. Do đó, có thể nói việc triển khai quỹ này không chỉ bao gồm việc hỗ trợ xuất khẩu mà thông qua việc phụ thu chênh lệch giá lập quỹ, hỗ trợ xuất khẩu còn bao hàm nội dung bình ổn giá chính những mặt hàng bị phụ thu và những mặt hàng được hỗ trợ. Vì vậy, trong thời gian tới cần phát huy vai trò của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đồng thời nhà nước cần hình thành thêm một số quỹ hỗ trợ và bảo trợ phát triển sản xuất và mở rộng thị trường nông sản như Quỹ hỗ trợ phát triển các mặt hàng nông sản chủ lực (gạo, cà phê... ). Quỹ bảo hiểm rủi ro thiên tai và rủi ro thị trường... với mục tiêu ổn định giá nông sản, trong đó, cần chú trọng nghiên cứu các hình thức bảo hiểm cho các loại cây trồng, hình thành quỹ bảo hiểm từng ngành sản phẩm. Trước mắt, cần thành lập các quỹ bảo hiểm cho nông sản: lúa gạo, cà phê, cao su, thịt lợn... Quỹ này dùng để can thiệp thị trường khi giá thị trường đột biến xuống dưới giá sàn, định hướng và giúp đỡ sản xuất trong những trường hợp đặc biệt khó khăn do thiên tai. Quỹ được trích từ phần thuế xuất khẩu và các khoản thu, đóng góp khác đối với từng loại nông sản. 2.3 Tăng cường công tác xúc tiến thương mại đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu: Bối cảnh bên ngoài và hoàn cảnh bên trong đang thay đổi với tốc độ nhanh. Bộ máy quản lý nhà nước về thương mại tuy đã có nhiều cố gắng để bắt kịp các thay đổi này nhưng nhìn chung thì hoạt động còn khá thụ động và trì trệ. Xuất khẩu vì thế vẫn chưa có được những định hướng rõ ràng và dài hạn ở tầm vĩ mô. Mặc dù, Chính phủ đã có quyết định thành lập Cục xúc tiến thương mại, song do mỗi hoạt động trong một thời gian ngắn nên công tác xúc tiến thương mại hàng nông sản vẫn chưa được tiến hành có hệ thống và có hiệu quả. Do đó, trước yêu cầu cấp bách của vấn đề tiêu thụ hàng hóa nông sản hiện nay thì việc tăng cường công tác xúc tiến thương mại đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu cần được chú trọng và triển khai ngay một số nội dung về công tác hỗ trợ xúc tiến thương mại hàng nông sản như sau: - Phối hợp tổ chức các hội chợ thương mại ở trong nước: Hội chợ nông nghiệp ở Hà Nội, Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh, miền Trung, các hội chợ chuyên đề về chăn nuôi, rau quả... - Hỗ trợ một phần kinh phí và tổ chức đầu mối giúp các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm quốc tế như ở Trung Quốc, Thái Lan, châu Âu, Mỹ. Có thể nói, hàng hóa mang nhãn hiệu Việt Nam trên thị trường thế giới chiếm một tỷ lệ vô cùng nhỏ, ngoài mặt hàng gạo, cà phê, các mặt hàng nông sản còn lại hầu như chưa được bạn hàng nước ngoài biết đến. Mặt khác, lại có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam có mong muốn được tham gia các cuộc triển lãm ở nước ngoài qua đó có thể mang hàng của chính mình giới thiệu với các bạn bè thế giới, từ đó tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp ký kết được các hợp đồng lớn. Thế nhưng kinh phí cho mỗi lần tham gia như thế rất lớn trong điều kiện nguồn vốn doanh nghiệp còn hạn hẹp. Vì vậy, rất cần sự hỗ trợ một phần kinh phí của nhà nước giúp các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm trên thế giới. - Tổ chức các buổi thử nếm, tham quan vùng sản xuất, nơi trưng bày hàng hóa, hội thảo... để giới thiệu hàng nông sản với khách hàng trong và ngoài nước. - Tổ chức giới thiệu hàng nông sản thông qua các sự kiện thể thao, văn hóa, phát hành các ấn phẩm giới thiệu về nông nghiệp các mặt hàng, các doanh nghiệp. Xây dựng chương trình tuyên truyền, quảng cáo cho hàng nông sản, từng bước tạo hình ảnh đẹp về hàng hóa của Việt Nam đối với khách hàng nước ngoài. Mặc dù hàng nông sản đã có mặt ở trên năm khu vực thị trường trên thế giới, nhưng muốn mở rộng phạm vi thị trường, mở rộng phạm vi bạn hàng cần phải quan tâm đến các hoạt động khuyếch trương sản phẩm để thu hút thêm nhiều khách hàng nước ngoài. Để chuẩn bị tốt cho công tác này phải có những xuất bản phẩm, những catalogue, tờ rơi giới thiệu về hàng nông sản. Những ấn phẩm này đòi hỏi phải được in ấn đẹp đẽ, thông tin ngắn gọn nhưng đầy đủ, cách bố trí hấp dẫn, thu hút người xem. - Giới thiệu và hướng dẫn các doanh nghiệp về thương mại điện tử, giới thiệu hàng hóa, doanh nghiệp qua trang Web. Sự ra đời của mạng máy tính toàn cầu Internet đã làm nảy sinh một hình thức thương mại mới là thương mại điện tử, được hiểu là hình thức hoạt động thương mại bằng các biện pháp điện tử hay sự trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện của công nghệ điện tử. Phạm vi của thương mại điện tử cũng rất rộng, buôn bán hàng hóa mới chỉ là một phần trong nhiều lĩnh vực áp dụng của thương mại điện tử. Ưu điểm của phương thức giao dịch thương mại này ở chỗ các chủ thể tham gia thương mại vừa tiếp cận được nguồn thông tin về thị trường vừa giảm được chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ như chi phí tiếp thị, chi phí giao dịch. Đồng thời, tạo điều kiện trực tiếp thiết lập và củng cố mối quan hệ bạn hàng thông qua tìm nhau trên mạng và có thể giao tiếp một cách liên tục. Làm việc với các cơ quan truyền thông để đề nghị giảm chi phí quảng cáo, giá cước dịch vụ viễn thông trên các phương tiện thông tin đại chúng đối với hàng nông sản. Hiện nay, ở nước ta, chi phí bỏ ra cho quảng cáo còn khá lớn, giá cước thông tin đắt hơn rất nhiều so với các quốc gia khác. Điều này đã làm hạn chế khả năng giao dịch và tìm kiếm thông tin của doanh nghiệp với thị trường nước ngoài. Vì vậy, đối với vấn đề này, nhà nước cần phải tiếp tục nghiên cứu, tìm kiếm những giải pháp để làm sao đưa được mức giá gần với mặt bằng quốc tế. 2.4 Tổ chức công tác thông tin về thị trường xuất khẩu nông sản kịp thời, chính xác. Do quy mô của thị trường quốc tế lớn hơn rất nhiều so với thị trường trong nước, mặt khác, thị trường nông sản quốc tế lại thường xuyên biến động phức tạp, nên các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông sản xuất khẩu thường gặp nhiều khó khăn trong nghiên cứu thị trường. ở Việt Nam, các doanh nghiệp nắm bắt thông tin về thị trường trong nước và quốc tế còn rất kém, thông tin thiếu và độ chính xác không cao. Vì vậy, nhiều khi các doanh nghiệp bị động, lúng túng trong điều hành xuất khẩu nông sản. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong kinh doanh nông sản trong và ngoài nước là hết sức quan trọng, và phải được vận hành đồng bộ giữa các cấp, cụ thể: + Đối với cơ quan hoạch định chính sách: - Tăng cường bộ phận theo dõi thị trường, chịu trách nhiệm nghiên cứu, cung cấp các thông tin về giá cả, thị trường hàng nông sản trong cả nước và quốc tế. - Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài, ti vi, mạng truyền thông....) thông tin cho người sản xuất nắm được tình hình cung, cầu, giá cả thị trường trong nước và ngoài nước đối với hàng nông sản để họ tự quyết định về quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm. - Duy trì trang Web về nông sản và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông sản Việt Nam để giới thiệu hàng trong và ngoài nước. + Đối với các Liên hiệp hợp tác xã (HTX), Hiệp hội ngân hàng - Tổ chức nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng hàng nông lâm sản trong nước và các thị trường xuất khẩu chính để có chiến lược kinh doanh phù hợp. - Hướng dẫn các thành viên, người sản xuất thực hiện các quy trình công nghệ để làm ra sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường, thống nhất tiêu chuẩn chất lượng, giá cả trên thị trường. + Đối với các doanh nghiệp, chủ trang trại, hộ sản xuất nhỏ. - Chủ động nắm bắt thông tin thị trường và tìm kiếm các cơ hội giới thiệu sản phẩm do mình làm ra. - Tổ chức từng nhóm hộ nhỏ hoặc thông qua hợp tác xã giới thiệu trong các dịp lễ hội, các hoạt động văn hóa, đặc biệt giới thiệu các sản phẩm truyền thống quê hương. - Phối hợp với cơ quan du lịch tổ chức các hình thức du lịch sinh thái giới thiệu sản phẩm, nhất là các sản phẩm kinh tế vườn, đồi. + Đối với các cơ quan đại điện ở nước ngoài: Các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài cần có các nhóm công tác nghiên cứu thị trường, có báo cáo chi tiết về thị trường, chức năng của các cơ quan này là nắm bắt và cung cấp các thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các doanh nghiệp Việt Nam, tổ chức xúc tiến xuất khẩu và đưa hàng ra nước ngoài một cách thuận lợi và tiết kiệm chi phí. Và về lâu dài sẽ tiến tới thiết lập một ngân hàng dữ liệu về từng thị trường nước ngoài để sẵn sàng cung cấp cho các doanh nghiệp nếu họ cần đến. 3. Giải pháp về tổ chức quản lý lưu thông: Có thể nói, trong các giải pháp trên thì giải pháp này được người sản xuất kinh doanh cũng như nhà nước quan tâm nhất. Vì giải pháp này trả lời được câu hỏi tiêu thụ nông sản bằng cách nào và như thế nào để có hiệu quả nhanh nhất trong thời gian ngắn nhất (nhất là ở thị trường nước ngoài). Trong khi ở nước ta, khâu này còn rất nhiều bất cập. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam thì cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau: 3.1 Tổ chức mạng lưới thu mua đồng bộ: Trong thời gian qua, việc tổ chức mạng lưới thu mua chưa tốt dẫn đến tình trạng hàng hóa nông sản tuy chưa nhiều, nhưng đã có hiện tượng ứ đọng. Với số nông sản này, trừ phần tiêu dùng tại chỗ, số còn lại cần xuất khẩu là rất lớn, song hệ thống thương mại dịch vụ làm chức năng thu mua nông sản còn rất nhiều yếu kém cả về tổ chức và phương thức hoạt động. Cho đến nay, việc thu mua nông sản chủ yếu chỉ do hai lực lượng tham gia: Thương nghiệp nhà nước và thương nghiệp tư nhân, còn thương nghiệp Hợp tác xã hầu như chưa có vai trò gì đáng kể. Thương nghiệp nhà nước mới chỉ tập trung vào mua nông sản, chưa tổ chức được mạng lưới rộng khắp các cửa hàng, trạm thu mua trực tiếp quan hệ với nông dân mà chủ yếu là mua nông sản xuất khẩu qua mạng lưới thương nghiệp tư nhân. Phần nông sản xuất khẩu bằng hợp đồng trực tiếp ký kết giữa Việt Nam với các công ty thì ít, phần thông qua các công ty môi giới thì nhiều. Nông dân bị thua thiệt, nhà nước cũng không có lợi. Do đó, cần phải tổ chức mạng lưới thu mua hàng nông sản có hệ thống và đồng bộ. Trước hết, cần đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của thương nghiệp nhà nước với mục tiêu phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của nó trong quá trình phát triển tiêu thụ thị trường nông sản như tập trung làm tốt công tác tìm kiếm thị trường, định hướng các sản phẩm chính, hướng dẫn và ký kết hợp đồng với người sản xuất, quan tâm xây dựng mạng lưới đại lý tiêu thụ sản phẩm đến tận địa phương. Cần nhanh chóng củng cố các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nông sản và vật tư nông nghiệp, trong đó trọng tâm là các doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu. Đối với bộ phận nội thương, cần củng cố và phát triển mạng lưới các cửa hàng kinh doanh tổng hợp ở các chợ, cụm thương mại dịch vụ ở các thị trấn, thị tứ, tụ điểm dân cư. Về phương thức hoạt động, cần kết hợp mua bán theo chuyên doanh, thực hiện bán buôn, mua sỉ là chủ yếu, tăng cường hoạt động tiếp thị, giảm tỷ trọng xuất khẩu qua khách hàng và thị trường trung gian, tăng tỷ trọng xuất khẩu nông sản theo điều kiện CIF để nông dân có lợi hơn. Đẩy mạnh quảng cáo, giới thiệu, tham gia hội chợ... để cung cấp thông tin cho người tiêu dùng, các nhà buôn, các chính phủ nhằm tăng doanh số, tăng khối lượng sản phẩm bán ra ngoài. Tiếp đến, đối với thương nghiệp hợp tác xã, cần làm cho loại hình này trở thành chỗ dựa, trợ thủ đắc lực của nông dân, là lực lượng nòng cốt để thương nghiệp nhà nước định hướng thị trường tiêu thụ. Phát triển hợp tác xã tiêu thụ dưới nhiều hình thức, hướng các hợp tác xã nông nghiệp làm chức năng đại diện hợp đồng thu mua hàng hóa nông sản cho nông dân. Về phương thức tổ chức tiêu thụ nông sản, thương nghiệp hợp tác xã cần thực hiện bằng cách thu mua bảo quản, dự trữ và bán nông sản qua mạng lưới tiêu thụ nông sản quốc gia và quốc tế. Về phương thức hoạt động của hợp tác xã, trước hết cần phải phối hợp cùng vận chuyển với mục đích là giảm chi phí vận chuyển thông qua việc mở rộng quy mô vận chuyển. Thương nghiệp hợp tác xã làm dịch vụ vận chuyển còn hàng hóa và thoả thuận mua bán do cá nhân xã viên thực hiện. Sau đó, phối hợp lựa chọn hàng nhằm tăng khả năng giao dịch nhờ giao hàng với số lượng lớn. Các mặt hàng được chọn lựa theo tiêu chuẩn chung, theo một chuẩn chất lượng. Bước cuối cùng là phối hợp thu mua, hợp tác xã làm toàn bộ dịch vụ thu mua, quyết định nơi bán, lượng bán, thời hạn giao hàng. 3.2 Quy định đầu mối xuất khẩu trung gian cho mặt hàng nông sản. Hiện nay trong nước có quá nhiều doanh nghiệp cùng tham gia xuất khẩu một ngành hàng, một mặt hàng nhưng không có sự hình thành rõ quan hệ ngành hàng, thiếu sự hướng dẫn, điều hành, phân công và sự phối kết hợp trong hoạt động kinh doanh đã dẫn đến tình trạng lộn xộn trên thị trường mỗi khi có nhu cầu hàng xuất khẩu mạnh ai nấy làm. Hậu quả gây ra là giá mua trong nước bị đẩy lên cao và giá bán ở thị trường nước ngoài bị đẩy xuống, gây thiệt hại lớn tới lợi ích xã hội và người sản xuất. Do đó, thành lập các hiệp hội, ngành hàng cho từng mặt hàng nông sản xuất khẩu cần phải được nghiên cứu. Việc thành lập này nhằm mục đích đưa hoạt động xuất khẩu nông sản về một mối, thống nhất được giá mua, giá bán, tránh được những bất lợi, thua thiệt không đáng có đồng thời sẽ giúp cho Nhà nước dễ kiểm tra, giám sát được tiêu chuẩn hàng hóa trước khi xuất khẩu. Trong khi đó, ở thị trường nước ngoài, kênh phân phối các mặt hàng nông sản của Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh vẫn chưa cung cấp được đến tận tay người tiêu dùng, chủ yếu xuất khẩu qua các hãng buôn nước ngoài. Các hãng này mua sản phẩm của Việt Nam về chế biến lại và gắn các nhãn mác khác nhau sau đó đem tiêu thụ tại chính thị trường đó hoặc xuất sang các nước thứ ba. Chính vì vậy mà hình ảnh về sản phẩm của Việt Nam trên thị trường thế giới còn chiếm con số rất nhỏ bé. Do đó, Việt Nam cần thiết lập hệ thống kênh phân phối trực tiếp, rộng khắp với các nước, hạn chế xuất khẩu qua trung gian. Muốn vậy, Việt Nam cần phải nghiên cứu để thuê được những gian hàng trưng bầy bán sản phẩm của Việt Nam có vị trí thuận lợi, xây dựng các kho ngoại quan để lưu trữ hàng hóa, đào tạo một đội ngũ nhân viên bán hàng giỏi, có thái độ tận tình với khách hàng. Đồng thời, Việt Nam cũng cần nhanh chóng tiếp cận, tham gia vào các kênh phân phối khác như các công ty chuyên doanh nước ngoài, các công ty siêu thị, các công ty bán lẻ được tổ chức rộng khắp ở thị trường nước ngoài, các cửa hàng bán lẻ của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Có như vậy, nông sản của Việt Nam mới chen chân được vào các thị trường cuối cùng, tránh sự lệ thuộc vào các thị trường trung gian. 3.3 áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng xuất khẩu. Trên cơ sở xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hóa - dịch vụ xuất khẩu phù hợp với đòi hỏi của từng thị trường về các loại nông sản, mọi nông sản hàng hóa trước khi xuất khẩu phải được kiểm tra chất lượng chặt chẽ theo những quy định đó. Thông qua biện pháp này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh quan tâm hơn nữa đến công nghệ (đặc biệt là công nghệ sạch) từ khâu sản xuất - chế biến - bảo quản - vận chuyển - xuất khẩu nhằm vừa nâng cao khả năng cạnh tranh, vừa tăng uy tín trên thị trường quốc tế của hàng hóa Việt Nam. Đẩy mạnh việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng hàng nông sản theo tiêu chuẩn của HACCP và ISO là một trong những biện pháp đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản xuất khẩu. Chất lượng hàng hóa là khả năng tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, một hệ thống hay một quá trình sản xuất nhằm đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan. Nhu cầu tiêu dùng luôn luôn thay đổi, do vậy chất lượng cũng phải thay đổi theo cho phù hợp cả về thời gian, không gian và điều kiện sử dụng. HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point - Phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu) là hệ thống quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm dựa trên việc xác định những điểm nhạy cảm nhất (nơi ô nhiễm nguy hại có thể xảy ra) và kiểm tra chặt chẽ từng bước của quá trình sản xuất, kịp thời đưa ra các giải pháp phòng ngừa hữu hiệu nhằm giảm thiểu được nguy hại hay ô nhiễm. ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn do Tổ chức tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO) ban hành nhằm đưa ra những yêu cầu, nội dung và những hướng dẫn cần thiết để xây dựng hệ thống quản lý chất lượng cho cả một tổ chức như: Chính sách và chỉ đạo về chất lượng, nghiên cứu thị trường, thiết kế triển khai sản phẩm và quá trình cung ứng, kiểm soát quá trình bao gói, phân phối, dịch vụ sau khi bán, xem xét đánh giá nội bộ, kiểm soát tài liệu, đào tạo nhân lực. Việc đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hóa là trách nhiệm của doanh nghiệp và người sản xuất, nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển bằng cơ chế chính sách và tạo hành lang pháp lý để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Do vậy doanh nghiệp phải thật sự chủ động về vấn đề này. 4. Một số khuyến nghị về mặt chính sách: Xuất khẩu nông sản có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung. Đặc biệt là ở nước ta, một nước nông nghiệp, với điểm xuất phát thấp, lao động nông nghiệp nông thôn chiếm tỷ lệ lớn (trên 75% lao động xã hội), năng suất thấp, sức ép việc làm, thu nhập đang trở nên căng thẳng, thì việc hướng và tạo dựng chiến lược xuất khẩu là một vấn đề có ý nghĩa quyết định và cần có môi trường kinh doanh đặc biệt. Đó là môi trường chứa đựng trong đó yếu tố bảo hộ nông nghiệp và trợ cấp xuất khẩu. Qua kinh nghiệm của các nước đều có chính sách hỗ trợ, do vậy trong thời gian đến năm 2010, cần tập trung giải quyết các vấn đề sau: 4.1 Chính sách thị trường: Trong những năm qua, nhà nước đã ban hành và có sự điều chỉnh bổ sung các luật và pháp lệnh: về Thuế xuất nhập khẩu, Luật Hải quan, Luật Doanh nghiệp tư nhân, luật Công ty cổ phẩn, Luật Hợp tác xã... là bước tiến bộ, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động thương mại. Song, để tạo lập nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh bình đẳng, về mặt luật pháp còn nhiều nội dung cần phải được nghiên cứu như: Luật Thương mại, Luật chống độc quyền và đầu cơ, Luật bảo vệ người tiêu dùng... mà hiện nay chúng ta còn thiếu. Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ dẫn đến tính thời vụ trong thu hoạch và trao đổi “cung - cầu” không ăn khớp làm cho thị trường luôn có sự không cân bằng. Chính phủ với chức năng điều hành vĩ mô nền kinh tế cần chủ động can thiện vào những lúc “cung - cầu” có biến động mạnh như: lập quỹ bình ổn giá, hỗ trợ lãi suất tiền vay để mua nông sản dự trữ lưu kho, ổn định cung cầu của thị trường và bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và tiêu dùng. 4.2 Chính sách xuất khẩu: Trong thời gian qua, chính sách xuất khẩu đã có nhiều tiến bộ tạo điều kiện thông thoáng và môi trường thương mại thuận lợi với xu hướng chung khuyến khích xuất khẩu nông sản. Tuy vậy, cũng có không ít khó khăn cần tháo gỡ. Trước hết, bãi bỏ giấy kinh doanh xuất khẩu đối với những mặt hàng nông sản không nằm trong danh mục các mặt hàng Nhà nước quản lý xuất khẩu để tạo thông thoáng cho hoạt động xuất nhập khẩu và phù hợp với xu thế tự do hóa thương mại toàn cầu. Tiến tới thay quota gạo, nhập khẩu phân bón bằng thuế, khi chưa bỏ được hạn ngạch thì áp dụng đấu thầu công khai. Ngoài ra, cần gấp rút ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những mảng trống trong kinh doanh xuất nhập khẩu để các doanh nghiệp không bị trở ngại trong kinh doanh. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế sau khi đăng ký kinh doanh được tự do giao dịch và quan hệ trực tiếp với thị trường thế giới và xuất khẩu. Khuyến khích các doanh nghiệp hình thành các tổ chức hiệp hội, hợp tác để thống nhất về quy cách, hàng hóa, ký kết hợp đồng dài hạn, bảo đảm thanh toán để giảm bớt rủi ro, tránh hiện tượng ép cấp, ép giá trong buôn bán. Đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu, các cơ quan quản lý nhà nước, bộ ngành có liên quan cần ban hành các chính sách, văn bản, quy định nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tăng sản lượng, kim ngạch xuất khẩu như: Đẩy mạnh thực hiện quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ thưởng xuất khẩu, đơn giản hoá đến mức thấp nhất các thủ tục xuất khẩu. Đặc biệt cần kiểm tra chặt chẽ chất lượng nông sản xuất khẩu để đảm bảo uy tín của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới. 4.3 Chính sách thuế: Thuế là một trong những công cụ đắc lực rất nhạy cảm với quá trình tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế thế giới, vì chìa khoá của quá trình này là việc cắt giảm hàng rào thuế quan và bỏ rào cản phi thuế quan khác. Tuy nhiên, công cụ này ở Việt Nam vẫn chưa phát huy được tính hữu hiệu của nó. Bởi lẽ thực tế hiện nay, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam còn rất nhiều bất cập, hạn chế. Do đó, trong thời gian tới cần phải có những biện pháp điều chỉnh như sau: - Điều chỉnh thời gian thu thuế và giao nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp hợp lý hơn để nông dân có thời gian lựa chọn thời điểm bán sản phẩm có lợi nhất. - Điều chỉnh tỷ lệ thuế để lại cho địa phương theo hướng tăng dần để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong nông thôn. - Miễn giảm thuế nông nghiệp trong một thời gian cần thiết đối với những sản phẩm cần thiết phát triển mở rộng quy mô. - Thực hiện chính sách ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp phục vụ xuất khẩu tại các vùng xa, vùng sâu, vùng khó khăn. - Để hỗ trợ đổi mới công nghệ, nên giảm thuế nhập khẩu đối với những trang thiết bị máy móc và công nghệ sản xuất - chế biến các nông sản. - Tiếp tục triển khai áp dụng các quy định giá tối thiểu cho các loại nông sản xuất khẩu chủ yếu. Đối với các đơn vị sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn Nhà nước cần có các biện pháp, chính sách về thuế tạo điều kiện thuận lợi để đơn vị đó phát triển sản xuất kinh doanh như: giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp ở mức độ nhất định, kéo dài thời gian thu thuế tạo điều kiện quay vòng vốn đưa vào sản xuất. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu vật tư nông nghiệp, các máy móc công nghệ chế biến nông sản, thuốc bảo vệ thực vật... cần ưu đãi về thuế nhập khẩu từ đó không ngừng nâng cao năng lực công nghệ sản xuất chế biến, hiện đại hoá cơ sở vật chất nông nghiệp không ngừng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất làm cho giá thành nông sản xuất khẩu giảm. Từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu trên thị trường thế giới, không ngừng xâm nhập và mở rộng thị trường, đặc biệt các thị trường cao cấp và khó tính. 4.4 Chính sách tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu vì nó biểu hiện mối quan hệ tương đối về giá (giữa đồng nội tệ với đồng ngoại tệ “USD”) và các dòng thương mại và sự nhạy cảm của xuất khẩu đối với biến động tỷ giá. Điều này chứng tỏ, chính sách tỷ giá hối đoái là một trong những công cụ mạnh thúc đẩy xuất khẩu. Chính sách tỷ giá hối đoái, từ khi Chính phủ thực hiện cải cách trong cơ chế điều hành tỷ giá giữa USD - đồng tiền Việt Nam, điều chỉnh linh hoạt hơn phần nào đã khép kín dần khoảng cách giữa tỷ giá quy định ngân hàng Trung ương với thị trường tự do. Song cần linh hoạt hơn nữa (không nên định giá quá cao đồng nội tệ, sẽ làm cho tỷ giá ngoại thương thay đổi không khuyến khích xuất khẩu). Tuy nhiên, không nên áp dụng biện pháp đột ngột (tạo nên các cú sốc) mà cần sát tới thị trường, nhằm khuyến khích xuất khẩu và bảo đảm sự ổn định, tăng trưởng kinh tế. Kết luận Ngày nay, đối với bất kỳ nước nào trên thế giới thì hoạt động xuất khẩu cũng trở thành hoạt động thương mại giữ vai trò hết sức quan trọng, cho dù nước đó có trình độ phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật đạt đến mức độ nào, dù tài nguyên có phong phú và giàu có đến đâu đi chăng nữa. Trước xu hướng khu vực hóa và quốc tế hóa nền kinh tế thế giới, đòi hỏi các quốc gia phải không ngừng thực hiện đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực tế đã chứng minh, với nguồn lực có hạn, không một quốc gia nào có thể phát triển chỉ dựa trên mối quan hệ nội thương mà không tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế. Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù Việt Nam có nhiều lợi thế và tiềm năng về xuất khẩu hàng hóa nói chung và nông sản nói riêng, trên quy mô lớn và một số mặt hàng có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Song, để khai thác có hiệu quả, đòi hỏi phải áp dụng đồng bộ các giải pháp kinh tế tổ chức - kỹ thuật, đặc biệt trong điều kiện có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt đang đặt ra cho thị trường xuất khẩu những vấn đề có tính thách thức lớn. Do vậy, một mặt đòi hỏi sự nỗ lực của người sản xuất kinh doanh mặt khác đòi hỏi phải có một sự quan tâm đồng bộ và nhiều mặt của nhà nước để tạo dựng cho thị trường xuất khẩu nông sản có vị thế và sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Bài viết “Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam” đã phần nào giải quyết được 3 vấn đề: - Làm sáng tỏ khả năng cạnh tranh của mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. - Phân tích và đánh giá thực trạng thị trường xuất khẩu nông sản và khả năng cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường thế giới. - Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong tình hình hiện nay. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế Thương mại. 2. Giáo trình Quản trị Doanh nghiệp Thương mại 3. Giáo trình Thương mại quốc tế. 4. Giáo trình Marketing Thương mại. 5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Nông nghiệp Việt Nam và những thành tựu - NXB Lao Động - LĐ 1999. 6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Báo cáo dự án “Hợp tác kỹ thuật TCP/VIE/8821 - khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh ASEAN và AFTA”. 7. Bộ Tài chính - Báo cáo hội thảo khoa học: Giải pháp tài chính thúc đẩy xuất khẩu, tháng 3/2001. 8. Bộ Thương mại - Hồ sơ các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam - Nhóm hàng nông sản, Hà Nội, tháng 3/1999. 9. Bộ Thương mại: Báo cáo phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001 - 2005 tháng 12/1999. 10. Dương Phú Hiệp, Vũ Văn Hà - Toàn cầu hóa kinh tế, NXB Khoa học xã hội. 11. Đào Thúy Phi: Xuất khẩu của Việt Nam - Nguồn tăng trưởng, các hạn chế và chiến lược tương lai - công nghiệp hóa và chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu. NXB Chính trị quốc gia, 1997. 12. Hội thảo về chiến lược phát triển nông nghiệp - nông thôn Việt Nam - NXB Nông nghiệp, 1998. 13. Kajonwan Itharattana - Effects of trade liberalization on Agriculture in ThaiLand: Commodity Aspeets - The CGPRT centre, working paper serrier, Nov.1999. 14. Niên giám thống kê 1995 - 2000. NXB Thống kê Hà Nội. 15. Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh - Phát huy lợi thế, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. NXB Nông nghiệp 1999. 16. Nguyễn Trung Văn - Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỷ mới hướng xuất khẩu. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. 17. Nguyễn Sinh Cúc - Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ 1990 - 2000 và hướng giải pháp cho 2001 - 2010. 18. Viện quản lý TN - Cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách cạnh tranh ở Việt Nam. NXB Lao động, Hà Nội, 2000. 19. Vũ Trọng Khải - Các lợi thế so sánh và các bất lợi của nông sản Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thương mại - Nội san thông tin khoa học, 2/2001, Trường Cán bộ quản lý nhà nước, thành phố Hồ Chí Minh. 20.Thời Báo Kinh tế Việt Nam và thế giới 2001- 2002. 21. Phát triển xuất khẩu 2001 - 2005, Bộ Thương mạii. 22. Tạp chí Ngoại thương, Thương mại các số năm 2001. 23. Tạp chí Con số và sự kiện, Tạp chí Kinh tế và dự báo các số năm 2001. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29153.doc
Tài liệu liên quan