Năng lực cạnh tranh là vấn đề quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của mọi doanh nghiệp khi tham gia trên thị trường cạnh tranh. Đối với doanh nghiệp tư nhân, quy mô nhỏ, tiềm lực yếu thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh là một vấn đề cấp thiết, đặc biệt trong giai đoạn mà cạnh tranh ngày càng gay gắt bởi sự gia nhập của các tập đoàn lớn từ nước ngoài, những tập đoàn mà quy mô, tiềm lực cũng như kinh nghiệm đều vượt trội so với doanh nghiệp tư nhân. Chính vì vậy, xuyên suốt những phân tích trong toàn bộ chuyên đề là những luận điểm nhằm đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân với mục đích đưa ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp này, góp phần giúp doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh một cách sòng phẳng trên thị trường.
Chuyên đề đã giải quyết vấn đề này từ góc độ vi mô, phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân từ góc độ bên trong doanh nghiệp. Việc phân tích những yếu tố nội hàm bên trong doanh nghiệp, tìm ra những vấn đề yếu kém từ bên trong doanh nghiệp tư nhân sẽ là cơ sở để giải quyết một cách hiệu quả và triệt để những nguyên nhân làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân.
Nhưng cũng chính vì chỉ tiếp cận dưới góc độ vi mô, chuyên đề không đánh giá và đưa ra những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân từ góc độ vĩ mô, tức là các yếu tố tác động từ bên ngoài tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân. Đây là một trong những mặt hạn chế của chuyên đề, chưa đánh giá được năng lực cạnh tranh của doanh nghệp tư nhân một cách tổng thể. Một điểm khác, do điều kiện hạn chế về thời gian và kiến thức, những luận điểm trong chuyên đề nhiều chỗ còn chưa đầy đủ về số liệu, dẫn chứng và phân tích.
86 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1827 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ yếu cạnh tranh theo cách truyền thống bằng giá cả và số lượng sản phẩm dựa trên yếu tố cơ bản của nền sản xuất nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp. Thiếu thông tin, yếu kém trong dự báo làm doanh nghiệp tư nhân quên mất sự nhìn nhận về những diễn biến của thị trường bên ngoài, không có kế hoạch cho việc tiêu thụ một cách bài bản, cộng thêm những áp lực khác khiến doanh nghiệp tư nhân luôn một mình tự thân vận động xoay sở trong cơn bão cạnh tranh ngày càng tăng cấp. Doanh nghiệp tư nhân đã hầu như bỏ quên chiến lược tăng trưởng bằng liên doanh, liên kết. Thực tế cho thấy sự liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân là rất lỏng lẻo. Trong 670 doanh nghiệp được hỏi trong cuộc điều tra của Viện Kinh tế Việt Nam năm 2008, chỉ có 21.12% doanh nghiệp hiện nay đang có sự liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngược lại, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tập đoàn lớn hoạt động ở Việt Nam đã vận dụng tối đa việc liên kết với nhau để chiếm lĩnh thị phần của doanh nghiệp trong nước. Có một thời người tiêu dùng quen thuộc với hình ảnh bột giặt Omo bên chiếc máy giặt hiệu Electrolux do hai hãng này cùng làm mưa làm gió trên thị trường Việt Nam. Hay hiện nay, sự kết hợp giữa Tide và Downy đang thu hút được nhiều chú ý của người tiêu dùng. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài khi vào thị trường Việt Nam đã kết hợp với các doanh nghiệp trong nước để tận dụng hình ảnh thương hiệu của họ trong việc thâm nhập thị trường Việt Nam. Như trường hợp các hãng điện tử như Samsung, LG, Toshiba kết hợp với siêu thị Nguyễn Kim đến với người tiêu dùng đã quen thuộc với thương hiệu siêu thị này.
Thấy rằng, ngay cả những doanh nghiệp lớn của nước ngoài, những doanh nghiệp có thương hiệu cũng như tiềm lực tài chính mạnh cũng rất coi trọng chiến lược liên doanh liên kết để phát triển và chiếm lĩnh thị trường. Trong khi đó, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam - quy mô nhỏ bé, trình độ yếu kém lại vẫn đang mạnh ai người đó làm, không chịu kết hợp với nhau. Điều này vô hình chung tạo nên sự cạnh tranh không cần thiết, làm giảm năng lực của các doanh nghiệp tư nhân.
Hiện nay, sự liên kết của các doanh nghiệp tư nhân trong nước chủ yếu thông qua các Hiệp hội. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê được, chỉ có khoảng gần 35% doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hiệp hội. Trong số đó, đến hơn 50% số doanh nghiệp có quan hệ lỏng lẻo với Hiệp hội, nghĩa là việc tham gia chỉ mang tính hình thức. Nguyên nhân của vấn đề này một phần là do hoạt động không hiệu quả của Hiệp hội, nguyên nhân khác là xuất phát từ bản thân sự nhận thức của các doanh nghiệp tư nhân, không thấy được vai trò và lợi ích của Hiệp hội. Tận dụng tốt những lợi ích của việc liên kết, doanh nghiệp tư nhân sẽ tiết kiệm được chi phí, tiếp cận được những nguồn thông tin chính xác, kịp thời.
Có thể khẳng định, yếu về liên kết chính là nguyên nhân làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân.
4.Hoạt động marketing
Hoạt động marketing là một khâu kém hiệu quả của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Nó được thể hiện trước hết ở khâu tìm hiểu nhu cầu thị trường, nhu cầu khách hàng. Công việc này không được tiến hành thường xuyên và bài bản. Thông tin sơ cấp về thị trường doanh nghiệp tư nhân hầu như không nắm được. Những thay đổi về nhu cầu, thị hiếu của khách hàng không được doanh nghiệp tư nhân nắm bắt và đáp ứng kịp thời. Do đó chiến lược marketing thường không điều chỉnh phù hợp để thu hút khách hàng. Cũng chính vì vậy mà sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân tung ra thường theo trào lưu hiện tại mà không chú ý đến những sản phẩm tiềm năng. Việc nắm bắt được xu thế nhu cầu của khách hàng là một lợi thế không chỉ riêng của hoạt động marketing mà còn là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp dễ dàng chiếm lĩnh và mở rộng thị phần.
Một vấn đề khác tồn tại đó là hoạt động phát triển thương hiệu. Sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân hầu như không có thương hiệu trên thị trường. Trong khi thương hiệu là một tài sản vô hình nhưng vô cùng có giá trị đối với doanh nghiệp. Theo một nghiên cứu xã hội học của trung tâm nghiên cứu và phát triển thương hiệu, 90% người tiêu dùng cho rằng thương hiệu là yếu tố quyết định khi họ lựa chọn mua sắm. Trong khi đó, doanh nghiệp tư nhân thì vẫn coi thường tầm quan trọng của thương hiệu
Đồ thị 3: Đánh giá của DNTN về sự ảnh hưởng của thương hiệu yếu tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đơn vị tính: %
Nguồn: Viện Kinh tế Việt Nam.
Có đến 43.55% số doanh nghiệp tư nhân cho rằng hình ảnh và uy tín thương hiệu của doanh nghiệp còn thấp không ảnh hưởng gì đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, 40,11% cho rằng có ảnh hưởng nhưng không quá quan trọng. Chỉ có 12.04% doanh nghiệp cho rằng thương hiệu thấp ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chính việc xem nhẹ sức mạnh của thương hiệu đã làm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân bị giảm sút. Trong khi đó, các doanh nghiệp nước ngoài vốn đã có thương hiệu mạnh trên thế giới, khi xâm nhập thị trường Việt Nam vẫn chú ý quảng bá thương hiệu của mình rộng rãi. Điều này khiến người tiêu dùng trong nước thuộc tên các thương hiệu thế giới còn hơn cả thương hiệu của doanh nghiệp trong nước.
Do các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu đã làm hạn chế tầm hoạt động và mạng lưới phân phối. Nhiều doanh nghiệp vẫn áp dụng hình thức các kênh phân phối qua các trung gian thương mại nên chưa thiết lập được hệ thống phân phối hàng hóa đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối dùng. Với phương thức này, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam không thể kiểm soát được quá trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm của họ và không thể nắm bắt trực tiếp những thông tin phản ánh tình hình thị trường. Do đó sự đáp ứng nhu cầu thị trường không nhanh nhậy.
Hệ thống kênh phân phối của hầu hết các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vẫn chưa được quan tâm đúng mức và còn tồn tại nhiều hạn chế. Một bộ phận vẫn còn tổ chức kênh phân phối theo kiểu trao đổi đơn (bên mua và bên bán chỉ quan hệ với nhau một lần), một bộ phận khác tổ chức kênh phân phối theo kiểu tự nhiên, không hề có tác động quản lý điều khiển theo hướng có mục tiêu. Có rất ít các doanh nghiệp tư nhân xây dựng được hệ thống phân phối hiện đại như siêu thị hay trung tâm mua sắm, trong khi thói quen mua sắm ở siêu thị ngày càng trở nên phổ biến, nhất là ở các thành phố lớn.
Thực tế, trong 2008, số siêu thị tăng 135% và số trung tâm mua sắm tăng 158,5%( số liệu của Bộ Công thương). Trong số lượng tăng thêm này, đa số lại là sự xâm nhập của các tập đoàn phân phối lớn, nổi tiếng nước ngoài như: Wal-Mart (Mỹ), Carefour (Pháp), Tesco (Anh), Metro Cash & Carry (Đức), Bourbon (Pháp), Dairy Farm (Hồng Kông), South Asia Investment Pte (Singapore), Parkson (Malaysia), Zen Plaza (Nhật Bản), Diamond Plaza (Hàn Quốc). Việc mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ của Việt Nam từ đầu 2009 sẽ thu hút nhiều hơn nữa số lượng các tập đoàn lớn trên thế giới. Nguy cơ để mất thị trường phân phối
trong nước vào tay các tập đoàn nước ngoài là rất lớn. Trong khi theo một khảo sát gần đây của Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh (ITPC), trong chuỗi giá trị hình thành giá trị sản phẩm: khâu phân phối chiếm tới 40%. Như vậy, vô hình chung, để mất khâu phân phối, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ để mất 40% doanh thu, cũng có nghĩa là để mất 40% thị phần.
Một vấn đề khác trong hoạt động marketing của doanh nghiệp tư nhân là chiến lược tiếp thị và xúc tiến hỗn hợp. Hoạt động xúc tiến hỗn hợp của các doanh nghiệp tư nhân còn ở trình độ thấp, giản đơn và không mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều doanh nghiệp tư nhân mới chỉ dừng lại ở mức in ấn và phát hành các tờ rơi giới thiệu về doanh nghiệp. Có rất ít doanh nghiệp xây dựng được chương trình xúc tiến hỗn hợp để giới thiệu sản phẩm cho khách hàng. Chi phí dành cho quảng cáo còn quá thấp, chỉ dưới 1% doanh thu là quá nhỏ so với doanh nghiệp nước ngoài như Coca Cola là 20% và Sony là l0%, chất lượng quảng cáo còn rất yếu do thiếu chuyên gia trong lĩnh vực này. Hình thức quảng cáo của các doanh nghiệp vẫn chủ yếu là xuất bản các tập catalogue, brochure với nội dung đơn điệu, không mang dấu ấn của quảng cáo cho thị trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Số liệu từ cuộc khảo sát của Viện Kinh tế Việt Nam phản ánh sự đánh giá chưa đầy đủ của doanh nghiệp tư nhân về tầm quan trọng của khả năng tiếp thị sản phẩm.
Đồ thị 4: Đánh giá của DNTN về mức độ ảnh hưởng của khả năng tiếp thị thấp tới hoạt động của DN.
Đơn vị tính: %
Nguồn: Viện kinh tế Việt Nam
Theo số liệu điều tra như bảng trên, 42.88% số doanh nghiệp tư nhân cho rằng hoạt động tiếp thị thấp không ảnh hưởng đến doanh nghiệp, 42.73% cho rằng có ảnh hưởng nhưng không phải vấn đề quá nghiêm trọng. Chỉ có 9.4% các doanh nghiệp tư nhân cho rằng khả năng tiếp thị thấp ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực trạng này khiến sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân không đến được với người tiêu dùng.
Rõ ràng có thể nhận thấy, khả năng cạnh tranh yếu kém của doanh nghiệp tư nhân xuất phát bởi sự yếu kém trong các hoạt động marketing.
5.Khả năng sản xuất, nghiên cứu và phát triển sản phẩm(R&D)
Khả năng sản xuất của doanh nghiệp bao gồm những điều kiện phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp. Yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sản xuất của doanh nghiệp chính là tình trạng của máy móc thiết bị phục vụ quá trình sản xuất.
Theo số liệu từ cuộc điều tra của Viện Kinh tế Việt Nam, máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp tư nhân có tuổi đời (tính đến 2008) từ 1-5 tuổi chiếm tỷ lệ trung bình 40.65%, từ 6-10 tuổi chiếm 41.21%, từ 11-20 tuổi chiếm 13.78%, từ 21-30 tuổi chiếm 2.42% và trên 30 tuổi chiếm 1.94%.
Tuy nhiên con số nêu ở trên không thể hiện tình hình đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp tư nhân. Cụ thể hơn thấy rằng, trong mẫu điều tra, các doanh nghiệp mới thành lập năm 2006 và 2007 có độ tuổi máy móc từ 1-5 năm chiếm 65.81%, từ 6-10 năm chiếm 29.28%, còn lại là từ 11-20 năm chiếm 4.91%, không có máy móc tuổi đời lớn hơn 20 năm. Trong khi đó, với các doanh nghiệp thành lập từ 1997 trở về trước, độ tuổi của máy móc từ 1-5 năm chỉ còn chiếm 32.21%, từ 6-10 năm chiếm 39.33%, từ 11-20 năm chiếm 22.35%, từ 21-30 năm chiếm 5.55% và trên 30 năm là 0.56%. Doanh nghiệp có thời gian thành lập càng lâu thì tỷ lệ máy móc hiện đại càng giảm, tỷ lệ máy móc lạc hậu càng tăng. Sự so sánh nêu trên cho thấy rằng doanh nghiệp tư nhân nhìn chung thời gian gần đây đã có quan tâm đến việc đầu tư công nghệ. Tuy nhiên, sự đầu tư đó chỉ là đầu tư ban đầu. Doanh nghiệp trong quá trình hoạt động lại không quan tâm đến việc tái đầu tư công nghệ, đổi mới công nghệ, trong khi hiện nay công nghệ thay đổi từng ngày và đóng vai trò quan trọng trong sản xuất. Hiện nay các doanh nghiệp tư nhân mới chỉ đầu tư khoảng 0.3-0.4% doanh thu cho đổi mới công nghệ. Đó là một phần nguyên nhân của việc sản phẩm của doanh nghiệp không đáp ứng kịp nhu cầu trong đổi mới sản phẩm.
Nguyên nhân quan trọng của việc sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân kém cạnh tranh đó là từ khâu nghiên cứu và phát triển. Khả năng nghiên cứu và phát triển là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, tạo ra sản phẩm dịch vụ luôn phù hợp với cầu thị trường, đẩy nhanh tốc độ đổi mới cũng như khác biệt hóa sản phẩm. Mặc dù đóng vai trò quan trọng như thế nhưng khâu nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp tư nhân chưa được đầu tư tương xứng. Qua điều tra, trong số doanh nghiệp đầu tư chi phí cho nghiên cứu và phát triển thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ cao nhất, đã chiếm đến 84.6%, thấp nhất là khu vực doanh nghiệp tư nhân, chỉ dưới 7% mà đa số là ở các doanh nghiệp tư nhân lớn. Điều này giải thích tại sao sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam lại đơn điệu và chậm đổi mới như vậy. Yếu kém trong khâu nghiên cứu và phát triển cũng là nguyên nhân giải thích cho vấn đề vì sao trình độ máy móc của doanh nghiệp tư nhân khá tiên tiến mà doanh nghiệp lại không sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với khách hàng cả về mẫu mã, chủng loại, chất lượng. Có công nghệ nhưng vấn đề còn ở sử dụng và khai thác nó như thế nào cho hiệu quả.
6.Năng lực quản lý và điều hành doanh nghiệp
Doanh nghiệp muốn hoạt động tốt trước hết phụ thuộc vào khả năng điều hành của bộ máy quản lý doanh nghiệp. Bộ máy quản lý năng động sáng tạo thì doanh nghiệp sẽ luôn có những ý tưởng sáng tạo, hiệu quả trong quá trình hoạt động.
Nhìn chung, trình độ học vấn của bộ máy quản lý của doanh nghiệp tư nhân là khá cao. Chiếm đến 72.22% là có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học. Quản lý có trình độ trung cấp chiếm 11.4%, trình độ phổ thông trung học là 10.3% .Về quy mô của bộ máy quản lý doanh nghiệp, có 7.25% là quản lý trên tổng số lượng lao động
Từ những phân tích ở những phần trên, ta đã thấy rằng hiệu quả của các hoạt động lựa chọn chiến lược, marketing hay nghiên cứu và phát triển đều rất kém. Điều này thể hiện được sự yếu kém trong quản lý và điều hành của bộ máy quản lý. Các khâu quan trọng trong sản xuất, phân phối, tiêu thụ đều không có những chính sách hợp lý và hiệu quả.
Giải thích cho nguyên nhân của việc quản lý yếu kém có thể do không có nhiều kinh nghiệm trong quản lý. Hoạt động hàng ngày của người quản lý thường chỉ là xử lý tình huống phát sinh, việc sắp xếp lịch làm việc hay lên kế hoach công việc hầu như không có. Nó thể hiện sự thiếu chuyên nghiệp, khoa học trong quản lý doanh nghiệp. Đây là vấn đề tồn tại đã lâu và không chỉ trong hoạt động của doanh nghiệp tư nhân. Trong số các doanh nghiệp tư nhân được điều tra trong cuộc khảo sát của viện kinh tế Việt Nam, thời gian hoạt động trung bình một doanh nghiệp là khoảng 9 năm(tính đến 2007). Thời gian nắm giữ vị trí quản lý trung bình của các thành viên ban quản trị là gần 6 năm. Trong khi đó, có những tập đoàn nước ngoài tồn tại hàng chục, thậm chí hàng trăm năm. Vì vậy, so sánh về kinh nghiệm quản lý và điều hành doanh nghiệp thì các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam chỉ như một đứa trẻ so với người khổng lồ.
Còn ít doanh nghiệp tư nhân áp dụng những hệ thống quản lý chất lượng vào doanh nghiệp. Theo điều tra của Viện Kinh tế Việt Nam, trong năm 2008, chỉ có 25.45% số doanh nghiệp tư nhân hiện nay đang áp dụng những hệ thống quản lý tiêu chuẩn trong doanh nghiệp, trong số đó đến 57.63% số các doanh nghiệp trả lời rằng không áp dụng do không biết thông tin về những vấn đề này. Khi được hỏi về kế hoạch áp dụng những tiêu chuẩn quản lý vào doanh nghiệp, chỉ 27.71% số doanh nghiệp đặt ra kế hoạch áp dụng những bộ quản lý tiêu chuẩn đó trong tương lai gần, 72.29% doanh nghiệp tư nhân còn lại chưa có kế hoạch hoặc có thì cũng ở tương lai xa. Nhìn chung, không áp dụng những tiêu chuẩn trong quản lý, doanh nghiệp tư nhân sẽ gặp khó khăn trong việc đưa sản phẩm của mình ra thị trường quốc tế cũng như hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
IV.Kết luận chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân
Tổng hợp những phân tích trên,chúng ta có thể nhận định rằng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam còn thấp,nguyên nhân cụ thể do:
Doanh nghiệp có quy mô nhỏ, tiềm lực tài chính yếu, khả năng thu hút nguồn lực kém. Đa số các doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong tình trạng không đủ vốn cần thiết, tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau khá phổ biến, làm rủi ro của các doanh nghiệp có tính dây chuyền. Thiếu vốn dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không có điều kiện để lựa chọn các mặt hàng có chất lượng cao trong kinh doanh, đầu tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ kinh doanh, đầu tư vào hoạt động nghiên cứu, các hoạt động xúc tiến và quảng cáo.
Nguồn nhân lực của doanh nghiệp tư nhân không đảm bảo yêu cầu. Đa số lao động chưa qua đào tạo bài bản qua các trung tâm đào tạo. Doanh nghiệp phải tự đào tạo lại làm chi phí tăng trong khi lao động không có kiến thức tổng thể, kỹ năng chuyên nghiệp, tinh thần và kỷ luật lao động tốt.
Các doanh nghiệp tư nhân hầu như không xây dựng chiến lược kinh doanh. Hoạt động lựa chọn thị trường mục tiêu không được tiến hành. Do đó, có nhiều phân đoạn thị trường chưa được khai thác trong khi có lúc tồn tại quá nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh một mặt hàng trên cùng một thị trường đã dẫn đến tình trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp giảm sút. Tình trạng các doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh với nhau một cách không cần thiết là biểu hiện của sự thiếu liên kết trong hoạt động. Vấn đề này cũng làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Hoạt động marketing chưa được đẩy mạnh. Khâu tìm hiểu thị trường không được tiến hành thường xuyên làm doanh nghiệp tư nhân không cập nhật được tâm lý khách hàng. Doanh nghiệp tư nhân chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề phát triển thương hiệu. Đặc biệt là nhận thức về tầm quan trọng của kênh phân phối còn hạn chế làm hệ thống phân phối trong nước gần như để các tập đoàn phân phối nước ngoài chiếm lĩnh.
Doanh nghiệp tư nhân chưa dành nhiều ngân sách cho đổi mới công nghệ. Hoạt động nghiên cứu và phát triển không được đầu tư nhiều. Đây là nguyên nhân của việc sản xuất những sản phẩm chất lượng kém, mẫu mã xấu, không có tính đặc thù, không phù hợp với thị hiếu và nhu cầu khách hàng.
Năng lực quản lý điều hành doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Đây chính là một trong những yếu tố dẫn đến việc các hoạt động lựa chọn chiến lược, marketing, nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp tư nhân không được xây dựng và định hướng phù hợp. Vấn đề xây dựng hệ thống quản lý tiêu chuẩn còn chưa phổ biến khiến sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân khó tiếp cận với thị trường quốc tế.
Chương III:Giải pháp nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân
I. Cơ sở đề xuất giải pháp
1. Quan điểm phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước
Kinh tế tư nhân là một khu vực quan trọng của nền kinh tế, được Nhà nước quan tâm và có những chính sách khuyến khích, tạo điều kiện phát triển. Nó được thể hiện trong các văn bản của Đảng và Chính phủ trong các phiên họp quan trọng.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986) khẳng định đường lối đổi mới, chỉ rõ "nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", chỉ rõ sáu thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh; kinh tế tập thể; kinh tế gia đình; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước. Đây là thời điểm kinh tế tư bản tư nhân bắt đầu được thừa nhận, môi trường hoạt động của doanh nghiệp tư nhân bắt đầu được khôi phục. Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước ta không ngừng có những chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân, vai trò của những doanh nghiệp tư nhân ngày càng được coi trọng.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương Khóa IX( 3-2002) đã đề cập: "Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa". Gần đây nhất, tại Đại hội X, Đảng ta khẳng định rằng: "Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Như vậy, phát triển khu vực kinh tế tư nhân là một trong những chiến lược phát triển kinh tế đất nước.
Đi cùng với những quan điểm đường lối là sự cụ thể trong chính sách. Việc đưa ra nhiều chính sách như giảm thiểu thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân, hỗ trợ lãi suất, miễm giảm thuế, miễn giảm tiền thuê đất…là những minh chứng cho sự khuyến khích phát triển, tạo điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp tư nhân.
Có thể thấy rõ rằng các doanh nghiệp tư nhân luôn là đối tượng được quan tâm và khích lệ của Đảng và Nhà nước. Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân là khuyến khích và tạo mọi điều kiện phát triển.
2.Thực trạng về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân là thấp
Như đã phân tích, thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam còn nhiều điểm yếu kém. Với năng lực cạnh tranh như vậy, doanh nghiệp tư nhân khó có thể tồn tại và phát triển trước sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt, đặc biệt là từ phía các doanh nghiệp nước ngoài. Đảng và Nhà nước hiện nay luôn dành sự quan tâm cho khu vực doanh nghiệp tư nhân. Nhưng những chính sách của Chính phủ chỉ ở tầm vĩ mô. Doanh nghiệp tư nhân muốn thực sự phát triển bền vững thì phải xuất phát từ thực lực của mình, nghĩa là có năng lực cạnh tranh mạnh do những yếu tố nội hàm bên trong doanh nghiệp mạnh. Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân sẽ được đề cập lần lượt trong phần tiếp theo của chuyên đề.
II.Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân
1.Nâng cao năng lực tài chính
Cả trong giai đoạn khởi nghiệp và hoạt động sau đó, tìm đủ vốn đầu tư luôn là thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp tư nhân. Quy mô nhỏ khiến tiềm lực tài chính của doanh nghiệp tư nhân không đảm bảo cho hoạt động. Vốn là vấn đề khá nan giải và không thể dễ giải quyết trong ngắn hạn. Do đó, doanh nghiệp tư nhân phải năng động và linh hoạt trong việc xử lý các tình huống.
Để giải quyết vấn đề thiếu vốn, giải pháp chủ yếu cho các doanh nghiệp tư nhân là vay của các ngân hàng. Thường thì doanh nghiệp tư nhân không có tài sản có giá trị thích hợp để làm thế chấp, sổ sách, báo cáo tài chính chưa rõ ràng, minh bạch, năng lực quản lý, xây dựng chiến lược và lập phương án kinh doanh có tính khả thi còn thấp do đó không đủ yêu cầu để vay vốn. Doanh nghiệp tư nhân muốn nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn của mình thì đầu tiên phải minh bạch hóa sổ sách kế toán, báo cáo tài chính. Không một ngân hàng nào muốn trao khoản vay của mình cho những công ty mà họ không nắm rõ về tình hình tài chính. Doanh nghiệp có thể nhờ đến sự tư vấn của các dịch vụ tư vấn pháp luật vay vốn, các công ty kiểm toán có uy tín trong và ngoài nước. Việc tiếp theo mà doanh nghiệp tư nhân phải thực hiện là xây dựng phương án kinh doanh một cách chuyên nghiệp để thuyết phục sự ủng hộ của ngân hàng. Ngân hàng sẽ sẵn sàng đầu tư vào nơi có khả năng sinh lời cho họ. Mặt khác, doanh nghiệp tư nhân phải đảm bảo được uy tín của mình trong việc thanh toán với các ngân hàng. Một bộ phận các doanh nghiệp tư nhân lừa đảo là nguyên nhân làm mất niềm tin của ngân hàng.
Không chỉ có thể huy động vốn từ các ngân hàng, có nhiều kênh huy động vốn khác mà doanh nghiệp tư nhân chưa khai thác và sử dụng. Như hình thức thuê tài chính, một kênh thu hút vốn trung và dài hạn được đánh giá là khá hữu hiệu với những ưu thế nổi bật như tiết kiệm chi phí, thủ tục tương đối đơn giản, không phải thế chấp, được hưởng lợi ích từ những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến và các dịch vụ tư vấn miễn phí nhưng các doanh nghiệp tư nhân lại chưa sử dụng nhiều phương thức này. Ngoài ra, doanh nghiệp tư nhân còn có thể huy động vốn bằng cách vay của người lao động trong doanh nghiệp, phát hành trái phiếu hay huy động vốn qua thị trường chứng khoán.
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan và khách quan từ phía các doanh nghiệp tư nhân, Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường nên hệ thống chính sách, pháp luật có nhiều thay đổi, chưa ổn định và đầy đủ… cũng khiến cho doanh nghiệp tư nhân vốn đã khó tiếp cận các nguồn tài chính lại càng thêm khó khăn. Trong phạm vi đề tài, những kiến nghị vĩ mô không được đề cập, nhưng nhìn chung để nâng cao tiềm lực vốn cũng như khả năng tiếp cận nguồn lực này cần đến sự nỗ lực từ cả phía các doanh nghiệp tư nhân và chính sách của Chính phủ.
2.Nâng cao trình độ nguồn lao động
Vấn đề nguồn lao động chất lượng thấp đã là vấn đề được nhắc đến từ lâu. Con người luôn là chủ thể của mọi hoạt động, do vậy doanh nghiệp tư nhân muốn hoạt động hiệu quả thì phải có nguồn lao động chất lượng.
Doanh nghiệp tư nhân muốn có nguồn nhân lực chất lượng thì cần phải kiểm soát lao động ngay từ đầu vào. Doanh nghiệp tư nhân cần chủ động trong việc liên kết với các cơ sở dạy nghề ở địa phương. Việc này vừa đảm bảo nguồn cung lao động chất lượng, vừa tiết kiệm chi phí nhiều so với việc doanh nghiệp phải tự đào tạo. Người lao động được đào tạo trong các cơ sở dạy nghề một cách chuyên nghiệp, toàn diện, lại được bổ sung luôn những kỹ năng cần thiết khi làm việc trong doanh nghiệp. Kết thúc khóa học, người lao động được sắp xếp chỗ làm ngay trong doanh nghiệp nếu đáp ứng đủ yêu cầu trong quá trình đào tạo. Việc kết hợp như vậy có lợi cho cả ba bên: doanh nghiệp, người lao động và cơ sở dạy nghề. Thực tế, mô hình trên đã thành công ở nhiều nơi và cần được nhân rộng.
Nếu chưa có điều kiện bổ sung nguồn lao động có chất lượng, doanh nghiệp tư nhân cần tổ chức sắp xếp đội ngũ lao động cho phù hợp. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực sở trường. Mặt khác, cần tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính sách như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho người lao động kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp. Chính sách đãi ngộ hợp lý là chìa khóa để doanh nghiệp giữ được lao động lành nghề và thu hút lao động có chất lượng tự đến với doanh nghiệp.
Đồng thời với việc tuyển dụng lao động có trình độ, doanh nghiệp tư nhân cần luôn bổ sung kỹ năng cho người lao động. Doanh nghiệp nên thường xuyên mở các lớp nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ của người lao động, nhất là khi công ty đưa vào sử dụng những công nghệ mới hay chuẩn bị sản xuất những mặt hàng mới.
Giữa chủ doanh nghiệp tư nhân và các lao động nên thường xuyên giữ quan hệ “mở” trong đó các nhân viên có thể đối thoại trực tiếp với các cấp lãnh đạo và đưa ra ý kiến đóng góp về các hoạt động của doanh nghiệp sẽ góp phần làm giảm thiểu những sự hiểu lầm là mầm mống của các tranh chấp và các mối bất hòa trong quan hệ cá nhân và công việc thường hiện hữu trong nhiều doanh nghiệp, nhất là khi doanh nghiệp có nhiều lao động đến từ nhiều địa phương với văn hóa khác nhau. Doanh nghiệp cũng nên phổ biến cho tất cả lao động về chiến lược hay phương án kinh doanh của doanh nghiệp, không chỉ đơn thuần là đưa ra những yêu cầu về sản xuất, số lượng hay chất lượng sản phẩm. Như vậy, người lao động luôn chủ động trong công việc, nâng cao tinh thần và năng suất lao động.
3.Nâng cao hiệu quả hoạt động lựa chọn chiến lược
Để doanh nghiệp tư nhân thực sự phát triển bền vững, doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh trong trung hạn và dài hạn, chấm dứt tình trạng kinh doanh theo mùa vụ như hiện nay. Khâu đầu tiên cần cải thiện chính là dự báo. Vấn đề tài chính làm doanh nghiệp tư nhân khó có thể tổ chức các cuộc điều tra thông tin sơ cấp. Do vậy, để làm tốt công tác dự báo, doanh nghiệp tư nhân cần thu thập và tận dụng dụng tối đa các thông tin đa chiều có được từ nhiều nguồn. Phải nhận thức rằng, ở thời đại thông tin như hiện nay, doanh nghiệp nào nắm được thông tin sớm hơn thì sẽ nắm được phần hơn. Vì vậy, không nên bỏ qua thông tin từ bất kỳ nguồn nào, đặc biệt quan trọng như các thông tin liên quan đến chính sách nhà nước, luật pháp. Từ việc thu thập thông tin, doanh nghiệp sẽ tiến hành phân tích các ảnh hưởng của chúng đến doanh nghiệp. Những phân tích đặc biệt quan trọng liên quan đến môi trường cạnh tranh ngành như phân tích đối thủ cạnh tranh, khách hàng, nhà cung cấp… cần được tiến hành thường xuyên để đảm bảo doanh nghiệp tư nhân luôn nắm được thay đổi tình hình. Từ đó, doanh nghiệp sẽ rút ra những cơ hội, thách thức của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những chiến lược hợp lý để chiếm lĩnh thị trường và chiến thắng trong cạnh tranh.
Đặc biệt, doanh nghiệp tư nhân cần đặt chiến lược hoạt động của mình cùng xu hướng với sự phát triển của ngành. Nghĩa là hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân cần có sự liên kết. Không để tái diễn tình trạng mạnh ai người đấy làm như hiện nay, làm giảm năng lực cạnh tranh nói chung của các doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp tư nhân cần đẩy mạnh liên kết hợp tác bằng nhiều con đường. Việc tham gia vào các Hiệp hội là một hoạt động làm tăng tính liên kết của các doanh nghiệp. Mặt khác, tham gia vào Hiệp hội là cơ hội cho doanh nghiệp được cung cấp thông tin về chính sách và luật pháp, cung cấp thông tin thị trường, tham gia các khóa huấn luyện ngắn hạn, hỗ trợ tìm các nguồn vốn, tư vấn công nghệ và tư vấn cơ hội kinh doanh. Do vậy, chủ động và tích cực tham gia các Hiệp hội sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp tư nhân.
Tham gia Hiệp hội là một kiểu của liên kết ngang. Con đường phát triển có sức cạnh tranh trong xu thế hội nhập là liên kết theo chuỗi, theo chiều dọc, tức là tập hợp tất cả các doanh nghiệp có mối liên quan trong quá trình tạo ra giá trị gia tăng từ khâu cung cấp nguyên liệu, sản xuất… đến phân phối, tiêu thụ, bán hàng tới tay người tiêu dùng. Liên kết như vậy sẽ giúp hoạt động của doanh nghiệp tư nhân luôn ổn định, thu được lợi thế lớn so với các đối thủ.
4.Nâng cao hiệu quả hoạt động marketing
4.1.Hoạt động nghiên cứu thị trường
Để nâng cao hiệu quả hoạt động marketing, đầu tiên doanh nghiệp tư nhân cần đầu tư cho hoạt động nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên đối với bất cứ doanh nghiệp nào trong quá trình kinh doanh. Một doanh nghiệp không thể khai thác hết tiềm năng của mình cũng như không thoả mãn tất được nhu cầu của khách hàng nếu không có được đầy đủ các thông tin chính xác về thị trường.
Thông qua việc nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ nắm được những thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp đang kính doanh hoặc sẽ kinh doanh để đề ra những phương án chiến lược và biện pháp cụ thể được thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường kinh doanh, phân tích so sánh số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó đề ra các biện pháp thích hợp đối với các doanh nghiệp. Để công tác nghiên cứu thị trường đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp cần kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường.
Doanh nghiệp nên tiến hành nghiên cứu thị trường theo trình tự sau: xác định mục tiêu nghiên cứu thị trường, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu thị trường, xác định và lựa chọn phương pháp nghiên cứu, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, thực hiện, điều chỉnh kế hoạch và viết báo cáo.
4.2.Xây dựng thương hiệu
Xây dựng thương hiệu mạnh là một công cụ hữu hiệu tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo một nghiên cứu xã hội học, 90% người tiêu dùng cho rằng thương hiệu là yếu tố quyết định khi họ lựa chọn mua sắm. Vì vậy, doanh nghiệp tư nhân cần xây dựng thương hiệu ngay cho riêng mình để nâng cao vị thế trong cạnh tranh.
Biểu hiện bên ngoài của thương hiệu là logo, hình tượng, khẩu hiệu, nhạc hiệu, bao bì của doanh nghiệp. Với ngân sách hạn hẹp của doanh nghiệp tư nhân, việc thuê một công ty quảng cáo chuyên nghiệp thiết kế thương hiệu là tương đối khó. Do vậy, khi bắt đầu, doanh nghiệp tư nhân có thể tự thiết kế bằng việc tổ chức các cuộc thi thiết kế logo, khẩu hiệu của doanh nghiệp trong nội bộ công ty. Chú ý rằng, tên gọi của một thương hiệu cần phải đơn giản, dễ nhớ, dễ đọc và mang tính quốc tế. Logo cần phải tạo đuợc sự khác biệt, dễ nhận biết và phân biệt với các logo khác, có khả năng làm cho nguời xem nhớ đến nó và liên tuởng đến sản phẩm của công ty. Logo cần đuợc thiết kế đơn giản để dễ tái tạo chính xác trên các hình thức in ấn, bảng hiệu, băng rôn, biểu tuợng khác nhau. Hình tượng của một nhãn hiệu là cách sử dụng một nhân vật hoặc con vật nào đó diễn tả tính cách riêng biệt của nhãn hiệu, để tạo sự chú ý, sinh động, gợi nhớ, và tạo sự khác biệt của sản phẩm. Nhạc hiệu là một đoạn nhạc hoặc một bài hát ngắn dễ nhớ, dễ lặp lại, đuợc sáng tác dựa trên giá trị cốt lõi của nhãn hiệu và sản phẩm. Khẩu hiệu là một lời văn ngắn gọn diễn tả cô đọng về lợi ích sản phẩm và gợi nhớ. Khẩu hiệu phải lột tả đuợc cái tinh túy của nhãn hiệu và sản phẩm và mang tính đặc trung cho loại sản phẩm đó. Bao bì cần tạo tiện lợi cho khách hàng khi sử dụng sản phẩm như dễ mở, dễ đóng, dễ cầm, dễ cất, dễ lấy sản phẩm ra. Bao bì sản phẩm cần có một thiết kế nổi bật có thể đuợc khách hàng nhận biết nhanh khi cùng đuợc trung bày trên một vị trí với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Điều này có thể đuợc thực hiện qua hình dáng, kích thuớc hoặc màu sắc, hình ảnh bắt mắt của bao bì.
Hình thành thương hiệu rồi, doanh nghiệp tư nhân phải không ngừng phát triển thương hiệu, nghĩa là chất lượng của thương hiệu. Để xây dựng một thương hiệu được khách hàng tin cậy thì doanh nghiệp cần phải hiểu rõ người khách hàng của mình hơn ai hết, và luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động. Do đó, vấn đề quan trọng là doanh nghiệp luôn giữ được sự hài lòng của khách hàng, đối tác trong chất lượng phục vụ cũng như chất lượng sản phẩm, dich vụ. Ngoài ra, để quảng bá thương hiệu của mình một cách rộng rãi, doanh nghiệp tư nhân cần chú ý giới thiệu thương hiệu của mình trong tất cả các hoạt động của công ty, kể cả nhỏ nhất. Doanh nghiệp nên in tên, logo, khẩu hiệu của mình lên tất cả các tài liệu, vật dụng như danh thiếp, đồ dùng văn phòng, bảng hiệu, bao bì, brochure và trang web của doanh nghiệp. Đính kèm câu khẩu hiệu vào phần chữ ký của thư điện tử, in logo hoặc đính chúng lên các văn bản giao tiếp với khách hàng cũng là biện pháp để khắc sâu thương hiệu vào trí nhớ của đối tác cũng như khách hàng. Doanh nghiệp có thể in logo lên các vật dụng không quá đắt tiền như áo, túi xách..và phát những vật dụng này cho các khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng và cả các nhà cung cấp mỗi lần ghé thăm doanh nghiệp. Những biện pháp trên vừa đơn giản, dễ thực hiện trong khi chi phí thấp, rất phù hợp với tình hình tài chính của doanh nghiệp tư nhân trong khi hiệu quả rất lớn.
Một vấn đề nữa là doanh nghiệp tư nhân cần nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Doanh nghiệp phải coi thương hiệu là công cụ bảo vệ lợi ích của mình. Các nhãn hiệu, kiểu đáng hàng hóa xuất khẩu là tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, việc đăng ký sở hữu công nghiệp, đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hóa, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thương hiệu tại các thị trường mà doanh nghiệp có chiến lược đầu tư kinh doanh là rất cần thiết.
4.3.Hoàn thiện chiến lược phân phối và tổ chức mạng lưới bán hàng
Trên thương trường, phần thắng thuộc về những DN kéo được người tiêu dùng về phía mình và dành được hệ thống phân phối chính là các mạng lưới kinh doanh lớn, cũng như các cửa hàng nhỏ lẻ. Có thể doanh nghiệp làm ra sản phẩm chất lượng tốt, giá thành hợp lý nhưng nếu sản phẩm không phủ khắp, không đưa đến người tiêu dùng qua hệ thống phân phối tốt thì không ai biết đến sản phẩm đó. Sự trung thành của người tiêu dùng và độ phủ kín của hệ thống phân phối chính là hai điều kiện cơ bản đển doanh nghiệp xây dựng thương hiệu. Vì vậy, vấn đề hiện nay của doanh nghiệp tư nhân là phải hình thành hệ thống phân phối chuyên nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân nên chọn kiểu kênh phân phối dọc. Đây là kiểu tổ chức kênh rất hiệu quả và đang được áp dụng phổ biến. Trong kênh gồm có nhiều thành viên khác nhau: nhà sản xuất, nhà bán buôn, bán lẻ. Các thành viên liên kết với nhau thành một hệ thống thống nhất, chặt chẽ, bền vững để không bị phá vỡ bởi bất kỳ xung lực nào từ môi trường bên ngoài. Quản lý giữa các tổ chức hay thành viên kênh phải đảm bản chặt chẽ đến mức tạo ra một sự lưu thông thông suất của hàng hóa và các dòng chảy khác trong kênh từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng và ngược lại.
Doanh nghiệp tư nhân nên mạnh dạn đầu tư xứng đáng cho việc thiết kế, tạo ra một cơ cấu kênh phân phối tối ưu về chiều dài (số cấp độ trung gian của kênh), chiều rộng (sản lượng thành viên ở cùng một cấp độ của kênh), số lượng kênh được sử dụng và tỷ trọng hàng hóa được phân bổ vào mỗi kênh. Sau khi thiết kế được một cơ cấu kênh phân phối tối ưu, các doanh nghiệp phải biến các mô hình này thành hiện thực, nghĩa là phát triển mạng lưới phân phối và thực hiện các biện pháp để điều khiển, quản lý nó. Trong quá trình phát triển mạng lưới, tuyển chọn, thu hút các thành viên kênh cũng như quá trình quản lý kênh, các doanh nghiệp không chỉ đơn thuần đầu tư tiền bạc mà phải có những kế sách khôn ngoan kiên trì, mềm dẻo, khai thác những khía cạnh văn hóa, tập quán truyền thống của người Việt Nam.
Nói chung, để xây dựng được hệ thống phân phối, doanh nghiệp tư nhân phải đầu tư nhiều công sức, thời gian và tiền bạc. Thực tế, chỉ có số ít các doanh nghiệp tư nhân ở quy mô trung bình và lớn mới có đủ khả năng thiết lập những hệ thống, chuỗi cửa hàng phân phối của riêng mình. Do đó, khi chưa thể tự thiết lập hệ thống phân phối riêng của mình, doanh nghiệp tư nhân cần thiết lập kế hoạch đưa sản phẩm của mình tham gia vào hệ thống phân phối bán lẻ có sẵn trên thị trường. Trong quá trình mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế, các hệ thống phân phối ở nước ta rất đa dạng. Hiện chiếm khoảng 18% là loại hình hiện đại: trung tâm thương mại, đại siêu thị – con số không quá lớn nhưng ngày càng có xu hướng tăng lên, còn lại chiếm 82% là loại hình truyền thống. Hiện nay, sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân chủ yếu lưu thông trên những trên phân phối truyền thống. Việc bán sản phẩm trong những kênh phân phối hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại chiếm số lượng ít. Nguyên nhân là do doanh nghiệp tư nhân chưa chú ý đến hình thức ngày càng phổ biến này. Mặt khác, sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân không thường xuyên duy trì được chất lượng khiến các siêu thị không muốn tiêu thụ sản phẩm của họ. Các doanh nghiệp tư nhân cần đẩy mạnh đàm phám với các siêu thị trong việc phân phối sản phẩm, đồng thời đảm bảo nguồn cung ổn định về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm.
4.4. Tăng cường công tác quảng cáo, xúc tiến bán hàng
Doanh nghiệp tư nhân cần tăng cường công tác quảng cáo, xúc tiến bán hàng và các loại dịch vụ để kích thích sức mua của thị trường.
Quảng cáo và tuyên truyền trong truyền tin và xúc tiến phải hướng đồng thời tới ba mục tiêu là: thông tin, thuyết phục và gợi nhớ. Tư tưởng chủ đạo của các thông điệp đưa ra phải dựa vào nguồn gốc sản phẩm, gây chú ý đến điều gì đó của sản phẩm đối với khách hàng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần quảng cáo uy tín của doanh nghiệp và tính nổi trội của các dịch vụ đi theo. Loại hình quảng cáo trên truyền hình là loại hình có hiệu quả nhất. Tuy vậy, khả năng của doanh nghiệp tư nhân đa số chưa thể chi trả được khoản chi phí lớn như vậy. Doanh nghiệp tư nhân có thể hướng đến các loại hình chi phí thấp hơn như quảng cáo trên đài phát thanh, tạp chí, bảng hiệu…Đặc biệt, xu thế hiện nay là quảng cáo trên internet trong các webside trưng bày sản phẩm, hoặc tiếp thị sản phẩm qua các blog cá nhân, diễn đàn.
Khi chuẩn bị tung ra sản phẩm mới, doanh nghiệp tư nhân nên tổ chức buổi giới thiệu sản phẩm để giới thiệu tính năng, cách sử dụng, các dịch vụ hậu mãi, bảo hành cho khách hàng. Như vậy, khách hàng sẽ có điều kiện hiểu biết sâu về sản phẩm, tác động đến sự lựa chọn sản phẩm của khách hàng.
4.5.Tăng cường áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh
Dưới tác động của khoa học và công nghệ, mà đặc biệt là công nghệ thông tin đã làm xuất hiện hình thức thương mại tiên tiến - thương mại điện tử. Nếu biết áp dụng hình thức này, doanh nghiệp tư nhân dù nhỏ bé nhưng vẫn có thể phát triển thương hiệu cũng như hệ thống phân phối của mình ở phạm vi rộng lớn.
Lợi ích của thương mại điện tử có thể thấy được như tiếp cận với nguồn thông tin đa dạng và khổng lồ, qua đó có cơ hội lựa chọn các thông tin phù hợp nhất cho hoạt động kinh doanh của mình. Giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn phòng không giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần. Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Thương mại điện tử qua Internet/Web giúp người tiêu dùng và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0.5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10% đến 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường.
Thấy rằng, khi ứng dụng thương mại điện tử, khoảng cách về vốn, thị trường, nhân lực và khách hàng sẽ được thu hẹp lại do bản thân doanh nghiệp đó có thể cắt giảm nhiều chi phí. Hơn thế nữa với lợi thế của kinh doanh trên mạng sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo ra bản sắc riêng về một phương thức kinh doanh mới khác với hình thức kinh doanh truyền thống. Chính những điều này sẽ tạo nên lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân có quy mô vừa và nhỏ thậm chí là rất nhỏ trong cuộc cạnh tranh với đối thủ của mình.
5.Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, nghiên cứu và phát triển sản phẩm
Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, doanh nghiệp tư nhân cần cần đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới công nghệ. Phải xác định rằng, công nghệ là yếu tố tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ. Công nghệ hiện nay thay đổi từng ngày và đòi hỏi doanh nghiệp tư nhân phải kịp thời nắm bắt. Doanh nghiệp tư nhân cần lập quỹ khấu hao để dành cho việc mua sắm máy móc, thiết bị mới. Việc đổi mới máy móc thiết bị cần tiến hành 5-7 năm/lần để đảm bảo cho sản xuất có chất lượng và đổi mới. Đổi mới công nghệ không chỉ bao gồm máy móc thiết bị. Công nghệ còn là những quy trình sản xuất hay tiêu chuẩn kỹ thuật. Yêu cầu của quá trình sản xuất hiện nay không chỉ là tạo ra sản phẩm được chấp nhận trong nước mà còn phải đạt tiêu chuẩn quốc tế. Và công nghệ áp dụng vừa phải tạo ra sản phẩm chất lượng, vừa đảm bảo không gây hại đến môi trường. Có như vậy mới có thể phát triển bền vững.
Hoạt động nghiên cứu và phát triển là những chi phí cho hôm nay nhưng lại là thành quả cho ngày mai. Một doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu phát triển tốt sẽ có nhiều điều kiện hơn để phát triển mạnh mẽ. Doanh nghiệp tư nhân cần nhận thức được vấn đề này để tăng cường trong khâu nghiên cứu và phát triển. Hiển nhiên là hoạt động này cần một chi phí nghiên cứu lớn trong khi rủi ro có thể xảy ra. Việc gia tăng đột ngột hoạt động này cũng có thể ẩn dấu những chi phí không được kiểm soát. Do vậy doanh nghiệp tư nhân trước hết nên tập trung vào việc nghiên cứu cải tiến sản phẩm cũ, điều chỉnh nó cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Nghiên cứu sản phẩm mới phải đảm bảo sản phẩm thích nghi và đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã và bao gói. Đặc biệt, nên tạo ra những sản phẩm mang tính đáp ứng nhu cầu tiềm năng của khách hàng, hoặc sản phẩm ở những phân khúc thị trường chưa được đáp ứng. Có như vậy, tuổi đời sản phẩm mới được lâu dài. Cung cấp những sản phẩm như thế luôn đảm bảo doanh nghiệp đi tiên phong trên thị trường của mình so với đối thủ cạnh tranh.
6.Nâng cao công tác quản lý và điều hành doanh nghiệp
Để nâng cao hiệu quả điều hành doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân nên áp dụng những tiêu chuẩn quản lý hiện đại. Những tiêu chuẩn này đã được hình thành qua nhiều năm và áp dụng ở nhiều doanh nghiệp trên thế giới. Việc quản lý doanh nghiệp dựa theo những tiêu chuẩn này giúp doanh nghiệp tư nhân có những định hướng trong các hoạt động, từ đó khâu quản lý cũng dễ dàng hơn. Trong doanh nghiệp tư nhân áp dụng các hệ thống quản lý, hình thức được áp dụng chủ yếu là ISO 9000. Hệ thống này đưa ra những quy định, thủ tục nhằm đảm bảo quy trình đầu ra cho một sản phẩm chất lượng. Tại Việt Nam, trong 10 năm trở lại đây, có ít nhất ba hệ thống quản lý được quan tâm triển khai trong các doanh nghiệp là: hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm (ISO 9000), hệ thống hoạch định nguồn lực DN (ERP) và mới đây là hệ thống quản lý quan hệ khách hàng (CRM). Doanh nghiệp tư nhân nên nghiên cứu và áp dụng những tiêu chuẩn này trong hoạt động của doanh nghiệp để tăng hiệu quả quản lý cũng như sản xuất kinh doanh.
Đồng thời với việc áp dụng những tiêu chuẩn chung trong quản lý, doanh nghiệp tư nhân cần xây dựng văn hóa riêng cho doanh nghiệp. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa doanh nghiệp, nhưng tựu chung lại, văn hóa doanh nghiệp là các giá trị mà các thế hệ thành viên của doanh nghiệp tạo dựng nên và nó ảnh hưởng đến cách hành xử của các thành viên trong doanh nghiệp đó. Trong thời điểm hiện nay, các doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh tiềm lực về vốn, công nghệ, nhân lực, tài sản,… mà còn cạnh tranh và chiến thắng nhau bằng văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp không đơn thuần chỉ là hoạt động phong trào bề nổi mà còn là phần chìm với sức lan tỏa mạnh mẽ. Nếu như phần nổi chỉ chiếm 17% trong tảng băng văn hóa thì phần chìm khó định lượng, định tính nhưng lại chiếm tới 83% làm nên sức mạnh nội tại của mỗi doanh nghiệp.
Có thể chia văn hóa doanh nghiệp thành các tầng bậc khác nhau. Trong đó, tầng 1 chính là bề nổi, bao gồm cách bài trí nơi làm việc, logo, trang phục của nhân viên,… Tầng 2 (bề chìm) gồm những giá trị được chia sẻ, chấp nhận và tuyên bố như chiến lược kinh doanh, mục tiêu, quy tắc, triết lý kinh doanh, quy chuẩn đạo đức,… Tầng 3 là tầng sâu nhất gồm các quan niệm chung như giá trị nền tảng, cốt lõi của một doanh nghiệp… Cấu trúc văn hóa doanh nghiệp thể hiện qua phong cách của lãnh đạo, nhân viên, cách ứng xử với cộng đồng.
Văn hóa doanh nghiệp là phần hồn của mỗi doanh nghiệp và có những tác động tích cực tới hoạt động kinh doanh cũng như môi trường làm việc chung của công ty. Chính văn hóa doanh nghiệp góp phần đắc lực tạo nên bản sắc; tạo ra một môi trường làm việc thân thiện, hiệu quả; mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Kết luận
Năng lực cạnh tranh là vấn đề quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của mọi doanh nghiệp khi tham gia trên thị trường cạnh tranh. Đối với doanh nghiệp tư nhân, quy mô nhỏ, tiềm lực yếu thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh là một vấn đề cấp thiết, đặc biệt trong giai đoạn mà cạnh tranh ngày càng gay gắt bởi sự gia nhập của các tập đoàn lớn từ nước ngoài, những tập đoàn mà quy mô, tiềm lực cũng như kinh nghiệm đều vượt trội so với doanh nghiệp tư nhân. Chính vì vậy, xuyên suốt những phân tích trong toàn bộ chuyên đề là những luận điểm nhằm đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân với mục đích đưa ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp này, góp phần giúp doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh một cách sòng phẳng trên thị trường.
Chuyên đề đã giải quyết vấn đề này từ góc độ vi mô, phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân từ góc độ bên trong doanh nghiệp. Việc phân tích những yếu tố nội hàm bên trong doanh nghiệp, tìm ra những vấn đề yếu kém từ bên trong doanh nghiệp tư nhân sẽ là cơ sở để giải quyết một cách hiệu quả và triệt để những nguyên nhân làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân.
Nhưng cũng chính vì chỉ tiếp cận dưới góc độ vi mô, chuyên đề không đánh giá và đưa ra những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân từ góc độ vĩ mô, tức là các yếu tố tác động từ bên ngoài tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân. Đây là một trong những mặt hạn chế của chuyên đề, chưa đánh giá được năng lực cạnh tranh của doanh nghệp tư nhân một cách tổng thể. Một điểm khác, do điều kiện hạn chế về thời gian và kiến thức, những luận điểm trong chuyên đề nhiều chỗ còn chưa đầy đủ về số liệu, dẫn chứng và phân tích.
Tuy còn những hạn chế nhất định, chuyên đề hi vọng đã đưa ra được những đánh giá có chất lượng về thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn hiện nay cũng như những giải pháp có thể góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn tới.
Cuối cùng, một lần nữa xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Viện Kinh tế Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện chuyên đề. Đặc biệt, cảm ơn Th.S Nguyễn Thị Hoa đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thành chuyên đề này!
Tài liệu tham khảo
1. Mai Ngọc, Nâng cao năng lực cạnh tranh của thương mại nội địa Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu và trao đổi, Số 9 (153) năm 2008
2. Nguyễn Nga, Hợp sức để đứng vững trên thị trường nội địa, Báo điện tử VietNamnet, 21:26' 07/01/2009
3. Nguyễn Trần Quang, 5 công cụ để xây dựng thương hiệu,
4. Nguyễn Vĩnh Thanh, Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 2006
5. PGS.TS Nguyễn Đình Thọ và Th.S Nguyễn Thị Mai Trang, Năng lực động của doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, Tạp chí phát triển kinh tế, trang 2-6,số 208, năm 2008
6. PGS.TS Nguyễn Thành Độ, TS Nguyễn Ngọc Huyền, Giáo trình Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp, Nhà xuất bản lao động-xã hội, Hà Nội, 2002
7. PGS_TS Lê Xuân Bá, Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí quản lý kinh tế, trang 11-21, số 12, 2007
8. PGS_TS Trần Đình Thiên, Gia nhập WTO: Cơ hội và thách thức cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 8, 2006
9. Sổ tay thương mại điện tử cho doanh nghiệp, Thương mại điện tử với Doanh nghiệp, 2007
10. Theo VOV, Hệ thống phân phối trước ngưỡng cửa WTO- Liên kết để cùng tồn tại, 15:16', 15/6/ 2006
11. Tổng cục thống kê ,Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2005, 2006,2007, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2008
12. Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê các năm
13. Viện Kinh tế Việt Nam, Báo cáo: Thách thức trong việc điều chỉnh ở mức doanh nghiệp, năng suất và phúc lợi lao động dưới ảnh hưởng của toàn cầu hóa: nghiên cứu trường hợp và đề xuất chình sách, 2008
14. Viện kinh tế Việt Nam, Gia nhập WTO và vấn đề phát triển thị trường nội địa, Đề tài khoa học cấp Viện, 2006
15. Viện kinh tế Việt Nam, Số liệu từ cuộc điều tra 670 doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, 2008
Mục lục
Danh mục các bảng…………………………………………………………....…1
Danh mục các đồ thị…………………………………………………………..….2
Danh mục ký hiệu viết tắt…………………………………………………….….3
Lời mở đầu………………………………………………………………….….4
Kết luận………………………………………………………………………..78
Tài liệu tham khảo
Nhận xét, đánh giá chuyên đề của cơ quan thực tập
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21871.doc