Chuyên đề Phân tích hiệu quả tín dụng công thương nghiệp tại Chi nhánh NHNN&PTNT Hà Thành

Qua việc phân tích hiệu quả tín dụng công thương nghiệp đã cho ta thấy được cái nhìn khái quát về hoạt động cho vay của NHNN&PTNT Chi Nhánh Hà Thành,đồng thời cũng đưa ra các giải pháp khắc phục những hạn chế của ngân hàng.Thông qua các số liệu đánh giá từ các năm 2007,2008,2009,có thể thấy Chi Nhánh Hà Thành tuy mới thành lập nhưng đã có những kết quả rất tốt,khắc phục được những khó khăn hiện tại Chi Nhánh đã hoàn thành vuợt mức các chỉ tiêu trên giao.Có thể nhận thấy tín dụng công thương nghiệp giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng do đó ngân hàng cần phát triển quy trình cho vay thật chặt chẽ nhằm tránh các rủi ro cho ngân hàng.Tuy vậy vẫn còn các nhược điểm mà ngân hàng cần khắc phục là cơ cấu không cân xứng của các khoản vay,chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn do đó chưa phát huy hết hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn,thêm nữa ngân hàng huy động vốn rất nhiều trong khi đó lượng khách hàng vẫn chưa cao. Tuy nhiên dưới sự điều hành của NHNN&PTNT Việt Nam và định hướng của NHNNViệt Nam trong những năm tiếp theo Ngân hàng sẽ có điều chỉnh kịp thời phù hợp với xu thế của thị trường khai thác tối đa nguồn lục hiện có để phát triển bền vững.

doc78 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1716 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích hiệu quả tín dụng công thương nghiệp tại Chi nhánh NHNN&PTNT Hà Thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỉnh kịp thời không chỉ giúp chi nhánh tránh khỏi những tác động của khủng hoảng kinh tế mà còn thu được kết quả rất khả quan. -Năm 2009 dư nợ ngắn hạn tăng 14.821 trđ tăng so với năm 2008 là 6,03% đạt 67,33% so với tổng dư nợ của cả năm. Xét về dư nợ trung và dài hạn: - So với hình thức cấp tín dụng ngắn hạn thì hình thức tín dụng trung và dài hạn chiếm một tỷ lệ nhỏ hơn rất nhiều.Tuy nhiên trong năm 2009 mức cho vay trung hạn đã đạt 106.132 trđ chiếm tới 27,42% so với tổng dư nợ của cả năm.Như vậy đây là một chuyển biến mới trong hình thức tín dụng của ngân hàng với chính sách phát triển, đa dạng hoá phương thức cho vay của chi nhánh tạo điều kiện tiếp cận được nhiều đối tượng khách hàng hơn, thoát gỡ nhiều khó khăn trong thời điểm đáy của cuộc khủng hoảng. 2.4.4.2.Dư nợ theo thành phần kinh tế. ĐV: trđ Chỉ tiêu Năm2007 Năm 2008 Năm 2009 DN Tỷ trọng DN Tỷ trọng DN Tỷ trọng DNNN 90.959 33.24% 63.424 30.69% 99.203 25.63% DNTN&CTCP 182.683 66.76% 237.086 69.31% 287.857 74.37% Tổng cộng 273.642 300.510 387.060 (Nguồn: Phòng KH&KD) B8. Tình hình dư nợ theo thành phần kinh tế. Đứng từ góc độ thành phần kinh tế thì mức dư nợ tại Ngân hàng có những sự chuyển biến sau: Qua các năm 2007,2008,2009 tình hình dư nợ của thành phần kinh tế tư nhân và công ty cổ phần luôn chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng dư nợ của cả năm.Cho thấy chiến lược kinh doanh của chi nhánh là chú trọng vào loại hình doanh nghiệp này tuy nhiên không phải vì vậy mà Ngân hàng bỏ lỡ việc khai thác nguồn lợi từ thành phần kinh tế nhà nước.Điều này được thể hiện qua con số thực tế mà Ngân hàng đã đạt được trong việc duy trì mức dư nợ tại Chi nhánh: năm 2007, dư nợ 90.959(trđ); năm 2007 giảm 27.535trđ với năm 2007, đạt 63.424trđ; nhưng năm 2009 đã tăng trở lại và đạt mức 99.203 trđ.Còn đối với khư vực kinh tế tư nhân , trong những năm gần đây đã có những chuyển biến tích cực về cả quy mô và chất lượng, ngày càng có nhiều DNTN và CTCP được thành lập.Nắm bắt được sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà chi nhánh trong nhiều năm qua đã xác định đây là thị trường mục tiêu và tiến hành chiến lược khai thác, phân khúc thị trường và thu được nhiều kết quả tốt.Đây có thể coi là hướng đi đúng đắn của Chi nhánh và cần tiếp tục phát huy trong những năm tiếp theo. 2.4.5.Tình hình nợ quá hạn CTN. Hiện nay Chi nhánh đã tiến hành phân loại nợ và dự phòng trích lập rủi ro tín dụng tuy nhiên thực tế vẫn chưa giả quyết được tận gốc rủi ro cho chi nhánh. Nợ quá hạn luôn là nỗi lo của mỗi ngân hàng, do đó để đánh giá được hiệu quả tín dụng thì nợ quá hạn cũng là một chỉ tiêu cầm được đánh giá. - Năm 2007 nợ quá hạn công thương nghiệp là 50 trđ .Đây là một con số lý tưởng mà ngân hàng đã đạt được, thông qua việc nâng cao chất lượng dịch vụ và thẩm định hàng. - Năm 2008 nợ quá hạn 900 trđ trong đó nợ quá hạn công thương nghiệp là 350 trđ. Như vậy so với năm 2007, con số nợ quá hạn là 300 trđ tăng gấp 6 lần .Nguyên nhân của tình trạng trên là do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới đã ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp, do đó dẫn đến tình trạng nợ quá hạn tăng đột biến.Đây là nguyên nhân khách quan chứ không phải là do bản thân khâu thẩm định khách hàng không tốt. Ngoài ra trong năm ngân hàng đã trích lập dự phòng là 167 trđ, như vậy rủi ro cho ngân hàng cũng sẽ giảm bớt khi gia tăng các khoản nợ xấu. - Năm 2009 tỷ lệ nợ quá hạn đạt 17.600 trđ mức tăng lớn nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên tỷ trọng của nợ xấu CTN chỉ là 400trđ chiếm 2,3% tổng nợ quá hạn cả năm. Như vậy nguyên nhân chính nợ quá hạn năm 2009 là do các khoản vay tiêu dùng không thu hồi được. ĐV: Trđ. H4.Tình hình nợ quá hạn từ năm 2007 -2009 2.4.5.1. Tình hình nợ quá hạn CTN theo thời hạn tín dụng. Đv: trđ Chỉ tiêu 2007 2008 2009 DS Tỷ trọng DS Tỷ trọng DS Tỷ trọng Ngắn hạn 37 74% 198 56,6% 203 50,75% Trung hạn 13 26% 84 24% 95 23,75% Dài hạn 0 0% 68 19,4% 102 25,5% Tổng cộng 50 350 400 (Nguồn : Phòng KH& KHD) B9. Tình hình nợ quá hạn CTN theo thời hạn tín dụng. Ngắn hạn: - Năm 2007 mức nợ quá hạn là 37 trđ chiếm 74% so với nợ quá hạn cả năm . - Năm 2008 nợ quá hạn lên tới 198 trđ chiếm 56,6% so với nợ quá hạn cả năm, tăng so với năm 2007 là 124trđ gấp 3 lấn so với năm trước. - Năm 2009 nợ quá hạn tăng so với năm 2008 là 10 trđ (5,1%) chiếm hơn 50% trong tổng mức nợ quá hạn của cả năm. Như vậy xu hướng biến động tỷ trọng nợ quá hạn (ngắn hạn) ngày càng giảm trong khi đó mức nợ quá hạn ngày càng tăng.Như vậy đây là xu hướng không tốt cho ngân hàng.Tuy mức cho vay ngắn hạn tăng mạnh nhưng sự gia tăng nợ quá hạn là dấu hiệu không tốt cho thấy công tác quản lý nợ tại chi nhánh chưa hiệu quả cần có những biện pháp kịp thời để hạn chế tình trạng này. Trung và dài hạn. Dựa vào bảng số liệu ở trên, ta thấy nợ quá hạn (trung và dài hạn) tăng rất nhanh trong năm 2008 và năm 2009 trong khi đó mức cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động tín dụng CTN. Mức nợ quá hạn (dài hạn) CTN năm 2007 là không có đến năm 2008 đã tăng lên 68 trđ, năm 2009 là 102 trđ gấp đôi so với năm 2008 trong khi đó mức tín dụng CTN (dài hạn) chỉ tăng gấp 1,05% so với năm trước. Nguyên nhân của thực trạng trên là do năm 2008 và 2009 nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp vay vốn làm ăn không hiệu quả dẫn tới tình trạng nợ đến hạn trả nhưng DN vẫn chưa có đủ tiền để thanh toán.Tuy nhiên Chi nhánh cũng cần xem xét lại quy trình thẩm định khách hàng cần chặt chẽ hơn nữa, tổ chức đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng để đưa ra quyết định chính xác nhất, giảm thiểu rủi ro cho Ngân hàng. 2.4.5.2.Tình hình nợ quá hạn CTN theo thánh phần kinh tế. ĐV: trđ Chỉ tiêu 2007 2008 2009 DS Tỷ trọng DS Tỷ trọng DS Tỷ trọng DNNN 0 0% 50 14,3% 124 31% DNTN& CTCP 50 100% 300 85,7% 276 69% Tổng cộng 50 100% 350 100% 400 100% Nguồn: Phòng KH&KD B10.Tình hình Nợ quá hạn CTN theo thành phần kinh tế - Năm 2007 do tình hình nền kinh tế ổn định do vậy mà nợ quá hạn của Chi nhánh chi là 50 trđ trong đó khu vực kinh tế nhà nước không có khoản nợ quá hạn nào, khu vực kinh tế tư nhân chiêm 100% trong tổng nợ quá hạn . - Năm 2008 có sự gia tăng đáng kể mức nợ quá hạn tại hai khu vực kinh tế trong đó mức tăng nợ quá hạn trong khu vực kinh tế nhà nước chiếm 14,3% tỷ trọng còn khu vực kinh tế tư nhân giảm xuống là 85,7% tuy nhiên mức nợ quá hạn lại tăng gấp 6 làn so với năm trước. - Năm 2009 mức nợ quá hạn tại khu vực DNTN&CTCP có xu hướng giảm tuy nhiên mức nợ quá hạn của các DNNN lại tăng hơn 2 lần so với năm trước. H5. TÌnh hình Nợ quá hạn năm 2007- 2009. 2.4.6.Phân tích tỷ lệ thu lãi. Lãi thu từ hoạt động tín dụng luôn chiếm một tỷ trọng rất cao trong thu nhập của ngân hàng.Tình hình thu lãi cũng phản ánh được hoạt động tín dụng của ngân hàng có tốt hay không.Theo nguồn tài liệu từ phòng kế hoạch kinh doanh của chi nhánh ta có bảng thống kê sau: Đv: trđ Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Tổng lãi thu trong năm 103.694 182.105 294.737 Lãi thu tín dụng 98.384 175.821 290.674 Lãi thu từ TDCTN 74.928 112.913 219.926 Tỷ trọng lãi thu TDCTN/lãi TD 76,16% 64,22% 75,66% B11. Tỷ lệ thu lãi TDCTN năm 2007- 2009 (Nguồn: Phòng KH&KD) Năm 2008 khủng hoảng kinh tế đã kiến cho ngân hàng phải tăng cường cung ứng các dịch vụ khác nhằm bù đắp nhứng tổn thất do nền kinh tế khó khăn đem lại vì vậy tỷ trọng của lãi thu được từ hoạt động TDCTN giảm mạnh so với năm 2007.Tuy nhiên trong năm 2008 điểm đáng nổi bật đó là tổng thu lãi tăng 78.411 trđ tương ứng 75,62% so với năm 2007.Năm 2009 mức thu lãi đạt 294.737 trđ trong đó lãi thu từ hoạt động tín dụng là 290.674 trđ, lãi thu từ hoạt động tín dụng CTN là 219.926 trđ tăng so với năm 2008 là 107.013 trđ tăng 94,77%.Kết quả thu được là do nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu phục hồi sau thời gian khung hoảng vào nửa đầu quý 3 năm 2009, do vậy nhu cầu vốn tái thiết hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là rất lớn kèm theo đó là gói hỗ trợ lãi suất của chính phủ tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp sử dụng vốn của ngân hàng hơn .Do vậy mà nguồn thu lãi từ hoạt động tín dụng công thương nghiệp tăng rất mạnh so với các năm trước.Tuy vậy tỷ trọng của hoạt động này có giảm chút ít so với năm 2007- đây có thể là chính sách của ban lãnh đạo chi nhánh.Khi nền kinh tế nước ta hội nhập sau hơn vào nền kinh tế thế giới, hệ quả của nó là những biến cố của nền kinh tế toàn cầu sẽ ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế trong nước.Do vậy ngân hàng không chỉ đơn thuần là chỉ đi vay và cho vay, để giảm thiểu những rủi ro đem lại cần thực hiện việc mở rộng nhiều hình thức đem lại nguồn thu nhập bằng cách cung ứng nhiều loại hình dịch vụ. Điều này không chỉ thu hút thêm nhiều khách hàng tạo thêm nhiều lợi nhuận cho ngân hàng mà còn giúp ngân hàng cạnh tranh với các ngân hàng khác. Tuy vậy nguồn thu từ hoạt động cho vay công thương nghiệp vẫn là hoạt động chủ yếu do đó ngân hàng nên một mặt vẫn duy trì mức tăng trưởng cho vay mặt khác tiếp tục phát triển và cung ứng nhiều loại hình dịch vụ khác giúp ngân hàng phát triển bền vững. 2.4.7.Phân tích tỷ lệ nợ quá hạn. Nợ quá hạn luôn là nỗi lo của mỗi Ngân hàng, bởi việc gia tăng của nợ quá hạn trong mức dư nợ sẽ gây ảnh hưởng xấu đến mọi hoạt động của Ngân hàng, từ đó làm cho khả năng thanh toán của Ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn. Phân tích tỷ lệ nợ quá hạn giúp cho ngân hàng đánh giá được rủi ro đối với ngân hàng. Đv: Trđ Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Nợ quá hạn CTN 50 350 400 Tổng dư nợ CTN 273.642 300.510 387.060 Tỷ lệ nợ quá hạn 0,018% 0,116% 0,103% B12.Tỷ lệ nợ quá hạn CTN năm 2007 -2009. (Nguồn: Phòng KH&KD) Bảng báo cáo cho ta thấy rằng nợ quá hạn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong mức dư nợ hiện có tại Chi nhánh. Trong 3 năm tỷ lệ nợ quá hạn chỉ o mức trên dưới 0,1%,cho thấy tình hình cho vay và thu nợ tại ngân hàng diễn ra rất tốt,, mức tồn dư các khoản nợ quá hạn luôn được ổn định và nằm trong phạm vi cho phép về tỷ lệ an toàn vốn trong cho vay. Tuy nhiên như ta đã thấy rằng tình hình kinh tế hiện nay vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp, việc gia nhập vào tổ chức kinh tế thế giới sẽ mang lại nhiều cơ hội cho các Doanh nghiệp trong nước mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình ra thị trường thế giới nhưng nó cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro, bởi rủi ro và tỷ suất sinh lời là hai phạm trù luôn đi liền với nhau. Điều này đưa đến nguy cơ phá sản các doanh nghiệp yếu kém và chậm tiến, do đó sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ tại Ngân hàng, và như vậy Ngân hàng sẽ có nguy cơ đối diện với sự gia tăng của tỷ lệ nợ xấu xảy ra. Chính vì vậy, Ngân hàng cần phải thường xuyên quan tâm đến việc quản lý và thu hồi nợ của mình để có những biện pháp xử lý kịp thời khi có những dấu hiệu làm gia tăng mức dư nợ quá hạn tại Chi nhánh, từ đó góp phần ổn định hoạt động trong tương lai . 2.5.Đánh giá chung. Trong những năm gần đây hoạt động của Ngân hàng ngày càng phát triển phong phú và đa dạng tuy nhiên vai trò của hoạt động tín dụng trong ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ đạo, tạo ra nguồn thu lớn nhất cho Ngân hàng. Khi nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu hơn vào sân chơi quốc tế, các Ngân hàng nước ngoài đang dần được tự do hoá hoạt động trên thị trường tiền tệ Việt Nam làm cho thị trường này càng trở nên nỏng bỏng và khắc nghiệt hơn.Trước những diễn biến phức tạp của thị trường tiền tệ và sức ép cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh, Chi nhánh trong những năm qua đã có những bước phát triển nhanh chóng, đặc biệt trong công tác tín dụng CTN. Đv: Trđ Chỉ tiêu 2007 2008 2009 chênh lệch 2008/2007 chênh lệch 2009/2008 Tuyệt đối Tương đối Tuyệt đối Tương đối Tổng thu nhập 268.821 182.165 295.045 -86.656 -32,24% 112.880 61,96%% Tổng chi phí 257.054 160.452 271,102 -96.602 -37,58% 110.650 68,96%% LN trước thuế 11.767 21.731 23.943 9.964 84.68% 2.212 10,18%% B13. Bảng kết quả kinh doanh của Chi nhánh từ năm 2007- 2009 Bảng báo cáo trên cho thấy tình hình hoạt động của Chi nhánh qua các năm đều tăng trưởng và ổn định, lợi nhuận tăng đều qua các năm ngay cả trong thời kì khó khăn của nền kinh tế như năm 2008. Trong năm 2009 khi nền kinh tế bắt đầu khôi phục trở lại tổng thu nhập của Chi nhánh tăng thêm 112.880 trđ, tuy tổng chi phí cũng tăng lên 110.650 trđ nhưng lợi nhuận trước thuế vẫn tăng là 2.212 trđ so với năm 2008.Qua nhứng số liệu đã phân tích ở trên có thể thấy trong 3 năm qua Chi nhánh đã lỗ lực không ngừng trong việc tìm kiếm và phát triển thị trường, đưa ra được chính sách và hướng đi phù hợp với xu thế thực tiễn, trình độ của cán bộ nhân viên ngày càng được nâng cao từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ đối với khách hàng và tối đa hoá mức độ nhu cầu của mọi đối tượng. Bên cạnh những mặt đã làm được, Chi nhánh trong những năm tiếp theo cần chú trọng phát triển hoạt động tín dụng CTN hơn nữa không chỉ dừng lại ở việc mở rộng quy mô tín dụng mà cần phát triển về chiều sâu, xây dựng quy trình tín dụng nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro cho từng khoản mực cho vay. Đồng thời để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng cần xây dựng chiến lược kinh doanh cụ thể cho từng giai đoạn và cung cấp các sản phẩm dịch vụ đem lại tiện ích tối đa cho khách hàng. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO VÀ HẠN CHẾ RUỈ RO TÍN DỤNG CÔNG THƯƠNG NGHIỆP TẠI CHI NHÁNH NHNN &PTNT HÀ THÀNH. 3.1.Định hướng ,mục tiêu và nhiệm vụ kinh doanh năm 2010. Thực hiện định hướng, mục tiêu chung của NHNN&PTNT Việt Nam trên cơ sở kết quả kinh doanh năm 2009 và định hướng phát triển của Chi nhánh.Chi nhánh NHNN&PTNT Hà Thành xác định nhiệm vụ kinh doanh năm 2010 như sau: *Tiếp tục kiện toàn, hoàn chỉnh công tác tổ chức nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh. *Phấn đấu hoàn thành tốt kế hoạch kinh doanh năm 2010 NHNN&PTNT Việt Nam giao, cụ thể: Theo dõi nắm bắt thường xuyên những tác động, diễn biến tình hình tài chính thế giới, trong nước để chủ động cân đối nguồn vốn.Tiếp tục thực hiện việc khoán các chỉ tiêu huy động đối với nhóm và người lao động. Chú trọng tìm kiếm các nguồn vốn có tính ổn định. Rà soát lại cơ cấu lãi suất các khoản tiền gửi của các tổ chức theo phương châm vừa giữ được nguồn vốn vừa có lãi suất đầu vào hợp lý. Tăng cường tín dụng trên cơ sở tăng cường nguồn vốn ổn định và trên cơ sở kế hoạch TW giao.Đầu tư tín dụng có chọn lọc, có trọng tâm, ưu tiên các khách hàng truyền thống, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có đối ứng nguồn vốn, dịch vụ…Chú trọng đầu tư phát triển nông nghiệp, nông dân nông thôn và các DN vừa và nhỏ trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu. Nâng cao chất lượng tín dụng, phấn đáu tỷ lệ nợ xấu dưới 1%. Phấn đấu đạt kế hoạch kinh doanh TW giao năm 2010 (bao gồm kế hoạch nguồn vốn, kế hoạch dư nợ, kế hoạch tài chính). 3.2.Nguyên nhân rủi ro tín dụng. Bất cứ hoạt động kinh doanh nào của nền kinh tế thị trường đều gặp rủi ro.Đặc biệt hoạt động kinh doanh ngân hàng lại là một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm thì việc tránh gặp phải các rủi ro lại rất khó tránh khỏi.Hơn nữa rủi ro luôn tiềm ẩn lớn gây ra những tổn thất ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.Vậy nguyên nhân chính nào gây ra rủi ro? 3.2.1.Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan từ môi trường kinh doanh . Rủi ro do sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng. Trong thời kì hội nhập hiện nay, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt, nguồn vốn ngày càng có xu hướng tập trung vào chứng khoán và bất động sản, mặt khác sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài lại càng làm cho việc cạnh tranh trong huy động vốn ngày càng trở nên gay gắt.Do đó để thu hút được các khách hàng về phía mình các ngân hàng có rất nhiều các biện pháp khác nhau, như việc chạy đua lãi suất, cho vay lỏng hơn….chính điều này đã là nguyên nhân gây lên rủi ro tín dụng cho các ngân hàng.Có thể lấy ví dụ về cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008 xuất phát từ việc cho vay dưới chuẩn của các ngân hàng Mỹ, các hợp đồng tín dụng được đảm bảo bằng các bất động sản.Khi thị trường bất động sản ảm đạm người vay không có khả năng trả nợ ,việc bán các bất động sản cũng vô cùng khó khăn hoặc với giá rất thấp…một hệ luỵ liên tiếp đã gây ra sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng, gây ra cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2007 -2008. Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định, sự biến động quá nhanh và không dự đoán của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế Việt Nam còn phụ thuộc quá nhiều sản xuất nông nghiêp,công nghiệp sản xuất chủ yếu phục vụ nông nghiệp.Ngành nông nghiệp lại phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố về thời tiết và giá cả thế giới.Do vậy khi có sự biến động của thị trường thế giới, rất dễ bị tác động gây ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh. Ngành dệt may trong nhiều năm gần đây bị ảnh hưởng không nhỏ và gặp rất nhiều khó khăn vì bị khống chế hạn nghạch làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và các Ngân hàng nói chung.Nghành thuỷ sản cũng lao đao ví các vụ bán phá giá gây thiệt hai không nhỏ cho các nghành này từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của các doanh nghiệp.Nếu tình trạng này kéo dài sẽ có thể làm cho các doanh nghiệp này lâm vào tình trạng phá sản và không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Không chỉ có các mặt hàng xuất khẩu dễ bị tổn thương mà các nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng không kém.Khi mặt hàng nhập khẩu tăng cao làm đẩy giá thành trong nước cũng tăng cao, khiến các nghành sản xuất trong nước bị đình trệ do chi phí giá hàng rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm. Tất cả những khó khăn trên sẽ đẩy các ngân hàng gặp phải rủi ro tín dung khi mà các DN không có khả năng trả nợ. Rủi ro do sự tấn công của hàng nhập lậu. Toàn cầu hoá tạo điều kiện cho thương mại giao dịch ngày càng phát triển,tự do hoá thương mại tạo điều kiện cho các mặt hàng tràn vào trong nứoc mà không gặp bất cứ rào cản kinh tế nào.Các nghành sản xuất trong nước cạnh tranh đã rất khó khăn nay còn phải tiếp tục cạnh tranh với các mặt hàng từ các nước khác trên thế giới với chủng loại mẫu mã đa dạng…Thị trường ngày càng bị chia nhỏ,gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp thêm nữa phải đối mặt với các mặt hàng buôn lậu ,không bị đanh thuế do đó giá cả rất rẻ mạt,..Ở nước ta các mặt hàng buôn lậu chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc-vốn được coi là công xưởng của thế giới,giá cả các mặt hàng này rất thấp và phù hợp với thị hiếu của người Việt Nam .Do vậy mà cạnh tranh của các DN trong nước là vô cùng khó khăn.Nhiều doanh nghiêp không có chiến lược phát triển kinh doanh hợp lý dễ dàng bị sụp đổ nhanh chóng.Hậu quả là rủi ro tin dụng dối với ngân hàng khi cung cấp vốn cho các DN này.Mặt khác trong giao đoạn hiện nay ,khi canh tranh giữa các ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt việc tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hàng dễ dàng hơn trước đây khi DN gặp rủi ro,các ngân hàng co thể không thu hồi đựoc nợ và có thể dẫn đén phá sản. Rủi ro do sự thanh tra, kiểm tra, giám sát không hiệu qủa của NHNN và sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật tại địa phương. Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: Trong những hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế, các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng NHTM không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng. Mặt khác hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng.Các cán bộ thanh tra giám sát trình độ chưa đáp ứng các yều cầu thực tế do sự biến động không ngừng của nền kinh tế thị trường lạm phát sinh thêm một số nghiệp vụ kinh doanh mới và công nghệ mới kiến cho một số cán bộ thanh tra ngân hàng chưa thể nắm bắt kịp thời.Hiện nay các phương pháp thanh tra giám sát vẫn chưa được cập nhập thường xuyên chưa gắn kết với hệ thống thông tin một cách hữu hiện để giảm bớt các khâu trong quá trình kiểm tra giám sát.Thanh tra giám sát tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, mặc dù đã có những phương pháp giám sát từ xa tuy nhiên vẫn còn bộc lộ những hạn chế và nếu có thể giám sát được toàn bộ thị trường tiền tệ và nhận định các rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra thì vẫn chưa thực hiện được.Việc thanh tra giám sát còn mang tính thụ động, thêm vào đó mô hình tổ chức thanh tra còn nhiều bất cập, do vậy những sai phạm và rủi ro vẫn có thể xảy ra.Như vậy tác động không có hiệu quả của thanh tra ngân hàng không hiệu quả có thể gây ảnh hưởng rất lớn cho các NHTM, do đó có thể gây nên khủng hoảng kinh tế bất cứ lúc nào. Hệ thống quản lý thông tin còn nhiều bất cập. Hiện nay ở VN chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật và ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web – CIC qua đường X25 của Chi cục tin học ngân hàng còn nhiều trục trặc, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.  Mất cân xứng trong hoạt động đầu tư. Trong giai đoạn hiện nay khi có sự chuyển dịch cơ cấu ngành thương mại dịch vụ chiếm tỷ trong rất cao.Các nhà đầu tư thường có xu hướng chuyển dịch sang các ngành mang lại nhiều lợi ích và bỏ ngỏ các ngành kém hiệu quả.Sự tập trung quá nhiều vào những ngành nghề đem lại lợi nhuận cao gây ra sự mất cân xứng trong đầu tư và kèm theo đó là các rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra.Mặt khác công tác quản lý điều tiết vĩ mô quy hoạch của nhà nước chưa đồng bộ và đạt hiệu quả cao ,việc phát triển quá nóng của một số nghành gây cho viêc phân bổ nguồn lực,chuyên môn hoá lao động khó khăn….gây ra khủng hoảng thừa cho một số ngành mất cân đối trong nền kinh tế. Hậu quả là các ngân hàng cho vay các DN này cũng bị ảnh hưởng ,hoạt động tín dụng có thể bị đình trệ….. 3.2.2.Rủi ro tín dụng từ nguyên nhân chủ quan. 3.2.2.1.Nguyên nhân rủi ro từ phía khách hàng. DN sử dụng vốn vay sai mục đích và không có thiện chí trong việc trả nợ. Khi tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng các khách hàng đều có phương án sản xuất kinh doanh cụ thể.Tuy nhiên trong quá trình giản ngân nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh không phải lúc nào cũng thực hiện theo đúng kế hoạch đã định, mặt khác những biến cố không lường của nền kinh tế kiến các DN sử dụng vốn sai mục đích, không có kế hoạch có thể dẫn đến việc kinh doanh thất bại.DN không có khả năng trả nợ cho ngân hàng.Mặt khác một số các DN thành lập với mục đích lừa đảo điều này mặc dù không nhiều nhưng những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề liên quan đến uy tín của cán bộ tín dụng, làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của ngân hàng. Khả năng kinh doanh kém. Ở Viêt Nam hiện nay đa số các DN vẫn chú trọng đầu tư vào khâu sản xuất mà ít các DN tập trung vốn để phát triển khâu quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính theo đúng chuẩn mực.Một số các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn thành lập theo hướng tự phát, việc thành lập doanh nghiệp chủ yếu dựa vào xu thế phát triển ngành tại một thời điểm nhất định, cơ cấu tổ chức bộ máy đơn giản và mang tính chất đối phó với quy định của nhà nước. Việc mở rộng quy mô sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong ngành, và công tác bổ sung các kiến thức liên quan đến ngành nghề kinh doanh hạn chế nên sự phát triển của nền kinh tế khiến cho trình độ quản lý và kiến thức chuyên môn của cán bộ và nhân viên trong công ty ngày càng bị tụt hậu xa hơn. Do đó tập trung nguồn vốn vay ngân hàng để mở rộng sản xuất kinh doanh theo chiều rộng về tài sản vật chất nhưng lại thiếu quan tâm đến việc bồi dưỡng cho nguồn nhân lực sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến khả năng thu lợi nhuận không tương xứng với nguồn vốn đầu tư của đơn vị. Nếu tình trạng này kéo dài, rủi ro về nguy cơ phá sản rất có khả năng đến với doanh nghiệp, và như vậy nguồn vốn đầu tư lớn mà Ngân hàng cung cấp cho doanh nghiệp sẽ khó có khả năng được hoàn trả kịp thời và đầy đủ. Tình hình tài chính của DN yếu kém thiếu minh bạch. Minh bạch và công khai tài chính trong các DN là một trong những cơ sở quan trọng để giữa vững, phát triển DN, đồng thời DN dễ dàng tiếp cận nguồn vốn trên thị trường.Thế nhưng các DNVN, tính minh bạch lại đang bị bóp méo vì nhiều nguyên nhân.Các DN cung cấp cho các cán bộ thẩm định chỉ là các báo cáo tài chính đã được sửa đổi nên do đó việc phân tích tình hình tài chính của DN còn thiếu tính thực tế và xác thực.Các ngân hàng hiện nay vẫn coi tài sản đảm bảo là hình thức thế chấp quan trọng nguyên nhân cũng là do tính minh bạch của các báo cáo tài chính mà DN cung cấp.Để hạn chế được những rủi ro tín dụng cho ngân hàng không chỉ là từ phía các DN mà các ngân hàng thường xuyên đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ nâng cao trình độ để có thể đành giá được chính xác nhất khả năng tài chính của khách hàng, nhằm giảm thiệt hại thấp nhất cho ngân hàng. 3.2.2.2.Rủi ro từ phía ngân hàng. Khâu quản lý giám sát quá trình sử dụng vốn của DN chưa hiệu quả. Hiện nay trong quy trình cho vay của Ngân hàng thì khâu thẩm định được đành giá là quan trọng nhất, tuy nhiên có rất ít các ngân hàng chú trọng xem xét các DN sử dụng vốn có hiệu quả hay không.Khi vốn được rót vào doanh nghiệp, các Ngân hàng thường yên tâm là vốn sẽ được sử dụng hiệu quả và DN sẽ thanh toán đúng hạn cho Ngân hàng.Tuy nhiên khâu đánh giá khả năng tài chính của Ngân hàng không phải lúc nào cũng chính xác, các DN không phải lúc nào cũng sử dụng vốn hiệu quả do vậy Ngân hàng cần thường xuyên giám sát quá trình sử dụng vốn của DN nếu phát hiện những sai sót Ngân hàng sẽ lập tức thu hồi vốn lại nhằm tránh rủi ro cho Ngân hàng. Kết hợp hoạt động của các NHTM còn lỏng lẻo. Trong xu thế hiện nay canh tranh giữa các Ngân hàng là vô cùng gay gắt, trên cùng một sân chơi các Ngân hàng không chỉ cùng cạnh tranh để phát triển mà cần hợp tác kết hợp hoạt động nhằm tránh các rủi ro có thể ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống Ngân hàng.. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều Ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tốt đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một Ngân hàng nào. Kĩ thuật cấp tín dụng của ngân hàng cò nhiều hạn chế. Công tác thẩm định khách hàng của các cán bộ tín dụng thường chỉ dựa vào các con số báo cáo tài chính dựa vào kinh nghiệm và chưa có sự phân định rạch ròi giữa khâu thẩm định và khâu cho vay.Chính vì vậy khả năng đành giá hồ sơ có nhiều hạn chế, phần lớn các khách hàng đều được cấp tín dụng nên rủi ro không thể tránh khỏi khi phương án sản xuất kinh doanh không khả thi.Thêm vào đó do kĩ thuật cấp tín dụng tại các ngân hàng thương mại chưa hiện đại và đa dạng nên việc xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời gian cho vay chưa phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3.3.Các biện pháp nâng cao và hạn chế rủi ro tín dụng CTN. 3.3.1.Tăng cường công tác thẩm định nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Thẩm định là khâu quan trọng nhất trong quá trình cho vay, do đó nhằm hạn chế rủi ro các ngân hàng cần tăng cường công tác thẩm định.Mặc dù tỷ lệ rủi ro của Ngân hàng rất thấp và đang ở mức độ an toàn cho phép, nhưng trước diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới và trong nước trong thời gian hiện nay và cả trong tương lai sẽ gây ra tình trạng phá sản của của nhiều các doanh nghiệp lớn nhỏ, đặc biệt là các DN trong lĩnh vực công thương nghiệp vốn đã rất nhạy cảm với sự biến động của thị trường. Do đó công tác thẩm định khách hàng vay vốn cũng cần được quan tâm đúng mức và không ngừng hoàn thiện những tiêu chí nhằm đánh giá đúng thực lực tài chính và khả năng thanh toán nợ của khách hàng, có như vậy Ngân hàng mới có thể giảm thiểu được rủi ro cho chính mình. Công thương nghiệp là lĩnh vực hoạt động rất rộng và có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế.Các mối liện hệ trong các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực này cũng khá phức tạp.Do đó để đánh giá đúng thực tế hoạt động của các DN này các cán bộ tín dụng cần tiếp cận thực tế, có thể đến tận các DN để kiểm tra nắm vững tình hình sản xuất kinh doanh để đưa ra được đánh giá chính xác nhất.Ngoài việc thấm định tư cách pháp lý của khách hàng, đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh…các Ngân hàng còn nên đánh giá khả năng phát huy hiệu quả sau khi cho vay vốn.Trong suốt quá trình cho vay các Ngân hàng thường xuyên kiểm tra giám sát mục đích sử dụng vốn nhằm phát hiện kịp thời các rủi ro tiềm ẩn và đưa ra các phương án giải quyết phù hợp nhất.Nếu có dấu hiệu nghi ngờ trong việc sử dụng sai mục đích cần có tác động đối với các DN hoặc có thể ngừng cấp tín dụng ,xác định rõ mục đích của DN trước khi đưa ra quyết định trong trường hợp này,nếu trường hợp nghiêm trọng có thể gửi báo cáo nên cấp trên. Quy trình thẩm định là bước ra quyết định cho vay hay không?Nói chung trong bước thẩm định NHNN&PTNT Hà Thành đã thực hiện khá tốt.Trước một hồ sơ xin vay Ngân hàng cần yêu cầu DN nói rõ mục đích vay mượn sau đó thẩm định tính chính xác của mục đích đó.Ví dụ: khi DN đến xin vay vốn Ngân hàng thì DN cần trình hoá đơn mua của mình ra ,mua của ai,trả bao nhiêu?....sau khi kiểm tra chính xác thông tin đó ngân hàng gửi thông tin đến cho người bán như vậy quá trình sẽ trở nên chặt chẽ và hiệu quả hơn.Đây là bước quan trọng của dự án vì nếu DN sử dụng vốn vào sản xuất kinh doanh ắt sẽ có dòng tiền vào và sẽ thanh toán cho Ngân hàng .Tuy nhiên vì lý do khách quan nào đó mà khách hàng gặp khó khăn Ngân hàng có thể gia hạn nợ cho khách hàng đồng thời tạo niềm tin cho khách hàng.Ngoài ra Ngân hàng còn nên tiến hành thẩm định thêm các bước sau: Thẩm định về phương diện thị trường: Đối với cho vay công thương nghiệp cần xác định xem ngành nghề đó sản xuất kinh doanh mặt hàng gì,thị trường kinh doanh mặt hàng đó ra sao, lượng tiêu thụ như thế nào từ đó đánh giá được nguồn thu nhập của DN. Thẩm định về phương diện kĩ thuật: phải xem xét quy mô dự án có phù hợp với năng lực tiêu thụ sản phẩm hay không, khả năng cung cấp nguyên vật liệu, quản lý DN có hiệu quả hay không?.Cần xem xét các thiêt bị công nghệ đầu tư đạt hiệu quả tối ưu hay không ?…. Thẩm định tính khả thi của dự án : Đây là yếu tố rất quan trọng để đánh giá một dự án. Ngân hàng có thể sử dụng các chỉ tiêu như:IRR.NPV,Lợi nhuận ròng….Nguồn trả nợ tốt nhất nếu thu được từ hiệu quả của dự án tuy nhiên ngân hàng cũng cần tinh đến thời điểm ban đầu có thể dự án chưa tạo ra lợi nhuận thì cần xem xét DN có nguồn nào bù đắp thay thế hay không. Ngoài ra ngân hàng cũng nên chú ý tới việc thẩm định về công tác quản lý điều hành DN,về môi trường xã hội…. Đây là bước rất quan trọng trong quá trình cho vay song nó có ý nghĩa nhiều về mặt lý thuyết,trên thực tế có nhiều yếu tố khách quan tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của DN do đó trong quá trình cho vay Ngân hàng thường xuyên cử cán bộ xuống thực tế kiểm tra để nắm bắt tình hình. 3.3.2.Đa dạng hình thức tín dụng của ngân hàng, kết hợp nhiều loại hình dịch vụ khác. Ngân hàng nên thoả thuận với khách hàng về hình thức vay vốn.Theo QĐ số 217/2002/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 thì tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng vay vốn theo các phương thức sau: Vay theo hạn mức tín dụng Vay từng lần. Vay trả góp. Vay theo dự án đầu tư. Cho vay hợp vốn. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng. Cho vay thông qua nghiệp cụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Cho vay theo hạn mức thấu chi. Theo các phương thức cho vay khác mà pháp luật Việt Nam không cần phù hợp với quy chế này và các điều kiện hoạt động của tổ chức tín dụng và khả năng kinh doanh của khách hàng. Hiện nay tại NHNN&PTNT Chi Nhánh Hà Thành hoạt động tín dụng chủ yếu là hình thức truyền thống chưa phản ánh đúng khả năng phát triển của ngân hàng.Ngân hàng cần tiến hành việc xem xét nâng cao hiệu quả của hoật động tín dụng truyền thống đồng thời tiến hành lập kế hoạch đưa các sản phẩm tín dụng mới vào danh mục sản phẩm của mình đồng thời giới thiệu với các khách hàng. Đồng thời cũng do các yêu cầu của sản phẩm này về trình độ chuyên môn đối với cán bộ tín dụng và điều kiện kỹ thuật quá cao so với khả năng hiệu có tại Chi nhánh, do đó mà tình trạng các sản phẩm dịch vụ mới tại Ngân hàng bị bỏ “xó” là điều khó tránh khỏi. Minh chứng cho trường hợp này ta có thể lấy ví dụ về dịch vụ Bao Thanh Toán tại Ngân hàng, theo quyết định từ Hội sở chính thì nghiệp vụ Bao Thanh Toán đã chính thức có mặt trong danh mục các sản phẩm dịch vụ của mình, song từ khi có quyết định triển khai thực hiện đến nay doanh số của hoạt động này vẫn là con số 0. Nhưng thiết nghĩ, theo đặc điểm các loại hình Doanh nghiệp trong nước và xu thể mở rộng quan hệ với tổ chức kinh tế nước ngoài hiện nay thì song song với việc tìm kiếm và phát triển thêm các loại sản phẩm mới khác thì Ngân hàng nên chú ý đến việc đưa hoạt động Bao Thanh Toán vào phục vụ càng sớm càng tốt. Bởi hoạt động này rất phù hợp với đặc điểm về quy mô hoạt động của Doanh nghiệp Việt Nam đồng thời cũng phù hợp với tình hình hoạt động của Chi nhánh trong thời gian hiện nay, và hoạt động này cũng hứa hẹn sẽ mang lại cho Ngân hàng nhiều lợi ích lớn.Thực tế cho thấy hình thức bao thanh toán có rất nhiều ưu điểm: - Do đặc điểm sản xuất kinh doanh của các DN trong lĩnh vực công thuơng để duy trì quan hệ sản xuất lâu năm với các bạn hàng thường đòi hỏi các DN nới lỏng các chính sách về bán hàng.Do nhu cầu về vốn để tái sản xuất nên nhu cầu vốn luôn là ưu tiên với các DN này do đó để giải quyết khó khăn các DN có thể dùng các khoản mà DN đã cho các DN khác nợ để vay vốn ngân hàng.hàng.Mặt khác ,hiện nay khi thương mại không chỉ bó hẹp trong mối quốc gia,nên hoạt động xuất nhập khẩu càng trở nên phát triển vì vậy để thực hiện hoạt động thanh toán cũng như có được đánh giá chính xác vời đối tác của mình thì nhu cầu giao dịch với ngân hàng và nhu cầu được bảo hiểm cho những rủi ro phát sinh trong quan hệ mua bán là hết sứ cần thiết. - Xét về lợi ích của ngân hàng khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán là hoạt động bao thanh toán sẽ góp phần cân đối hai hoạt động tạo nguồn và hoạt động sử dụng nguồn tại Chi nhánh. Từ đó làm giảm chi phí và đồng thời tăng doanh thu cho Ngân hàng. -Đa dạng hoá sản phẩm tạo điều kiện thu hút khách hàng và mở rộng mạng lưới hoạt động của Ngân hàng. - Ngoài ra Bao Thanh Toán còn đem lại một lượng ngoai tệ lớn cho Ngân hàng làm giảm ảnh hưởng xấu từ biến động tỷ giá trên thi trường ,mở rộng được quan hệ với các Ngân hàng lớn trên thế giới nắm bắt được sự phát triển dịch vụ của,hội nhập sâu hơn trong lĩnh vực Ngân hàng. Hiện nay NHNN&PTNT Chi Nhánh Hà Thành cạnh tranh chủ yếu về lãi suất cho vay, điều này sẽ gây khó khăn và rủi ro cho Ngân hàng khi lạm phát xảy ra và tăng cao, vì nó có thể làm cho lợi nhuận thu được âm. Hoạt động bao thanh toán giúp Ngân hàng khắc phục được cuộc đua về lãi suất cho vay, vì khi đa dạng hóa được các sản phẩm dịch vụ sẽ giảm được áp lực về việc cân đối các khoản cho vay với nguồn vốn huy động. Khắc phục tình trạng cho vay dựa trên tài sản thế chấp của tín dụng Ngân hàng. Khi một khách hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán khoản vay , thì Ngân hàng được quyền phát mại tài sản thế chấp của khách hàng. Song thủ tục giải quyết và thời gian thu lý tài sản kéo dài rất lâu, điều này sẽ làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận của Ngân hàng do đó hiệu quả hoạt động cũng giảm theo. Đối với bao thanh toán, Ngân hàng nhận cung cấp dịch vụ chỉ cần giữ hợp đồng mua bán hàng hóa của hai tổ chức thương mại và đến hạn thì theo hợp đồng ký kết đến thu nợ của người mua. Khi có tranh chấp phát sinh thì được trọng tài kinh tế đứng ra giải quyết do đó mọi thủ tục liên quan sẽ đơn giản hơn rất nhiều. Như vậy từ những phân tích và đánh giá trên, ta có thể thấy rằng việc phát triển sản phẩm dịch vụ mới là hết sức quan trọng đối với Chi nhánh NHNNo&PTNT Hà Thành đặc biệt khi gắn với sự phát triển kinh tế trong thời kỳ hiện nay. Các Doanh nghiệp cần phải phát huy được những thế mạnh của mình, không ngừng sáng tạo và đưa ra những đột phá trong hoạt động của mình để nhằm mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa sự thỏa mãn của khách hàng, và như các nhà kinh tế học đã nói: “sản xuất những thứ mà thị trường cần”. Chi nhánh NHNNo&PTNT cũng không nằm ngoài quy luật nói trên, hơn thế nữa lĩnh vực kinh doanh của Ngân hàng là một hoạt động đặc biệt và hết sức nhạy cảm, do đó để tổn tại phát triển đồng thời giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động thì Ngân hàng nên chú ý đến vấn đề mở rộng danh mục sản phẩm của mình hơn nữa trong tương lai gần đây. 3.3.3.Thực hiện bảo hiểm tín dụng. Hình thức bảo hiểm tín dụng là hình thức bảo hiểm số vốn tín dụng mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng vay,bảo hiểm tài sản mà người vay đem thế chấp cho Ngân hàng.Có các hình thức bảo hiểm như sau: Khách hàng vay vốn mua bảo hiểm tín dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.Trong trường hợp này họ đã gián tiếp bảo hiểm vốn cho Ngân hàng vì khi DN gặp rủi ro kinh doanh họ có thể dùng nguồn thu từ bảo hiểm để thanh toán cho ngân hàng.Phương pháp này không làm cho Ngân hàng phát sinh thêm nghiệp cụ và cũng khá an toàn.Do đó Ngân hàng nên khuyến khích các DN tham gia hình thức hoạt động này vừa có lợi ích doanh nghiệp đồng thời giảm thiểu việc khách hàng không thanh toán được nợ. Ngân hàng hình thành quỹ dự phòng cho trường hợp nợ quá hạn phát sinh,do đó khi có biến cố xảy ra sẽ không làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh .Mặc dù Ngân hàng có thể lấy vốn tự có để bù đắp rủi ro tuy nhiên vốn tự có là cơ sở để huy động thêm vốn do đó cần trích lập vốn dự phòng để tránh rủi ro cho ngân hàng là cần thiết .Tuy nhiên cấn chú trọng tới việc sử dụng nguồn nào để trích lập quỹ và cách thức trích lập ra sao vừa để phán ánh kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh vừa nâng cao chất lượng. Ngân hàng mua bảo hiểm tại các tổ chức chuyên nghiệp đối với các khoản cho vay của mình .Với hình thức này Ngân hàng phải trả cho công ty bảo hiểm một khoản chi phí ,do dó biện pháp này nên sử dụng với các hợp đồng tín dụng lớn,có tính rủi ro cao,có thời hạn dài… 3.3.4.Tích cực xử lý nợ quá hạn,xây dựng cơ chế tín dụng phù hợp. Để nâng cao chất lượng tín dụng song song với việc hạn chế nợ quá hạn nên tiến hành tích cực xử lý các khoản nợ quá hạn,nhằm thu hồi nguồn vốn cho Ngân hàng.Việc cần tiến hành là viêc phân tích các khoản nợ quá hạn của DN tìm kiếm nguyên nhân và giải pháp thu hồi các khoản nợ đó.Theo nghị định 178/NĐ-CP về việc tạo điều kiện cho các DN phát mại tài sản thế chấp,cầm cố cho Ngân hàng tuy nhiên nhiều trường hợp trong thực tế việc phát mại tài sản rất khó khăn do thời gian quá dài hoặc giá trị của tài sản đảm bảo không đủ so với nguồn vốn đã cho vay .Trong trường hợp này Ngân hàng cần xủ lý theo các biện pháp sau: Dùng tài sản thế chấp cho thuê và đứng ra thu tiền. Dùng tài sản đó tham gia góp vốn liên doanh. Dung tài sản đó bán lại cho các tổ chức cần mua. Thực tế cho thấy các Ngân hàng khi đối mặt với các khoản nợ quá hạn thường có các giải pháp là gia hạn nợ hoặc khoanh nợ …Vậy để giảm thấp nợ quá hạn trong thời gian tới ,các Ngân hàng nên chú trọng việc thu hồi các khoản nợ quá hạn và tiếp tục thẩm định các món vay chặt chẽ hơn để tránh các khoản nợ quá hạn tiếp theo. Mặt khác để khắc phục những rủi ro tín dụng có thể xảy ra các NHNN&PTNT Chi Nhánh Hà Thành nên xây dựng một cơ chế tín dụng phù hợp với các DN đặc biệt là DN hoạt động trong lĩnh vực công thương nghiệp .Do đặc thù của loại hình sản xuất kinh doanh nên các Ngân hàng cần có các chính sách tín dụng hợp lý nhằm tạo điều kiện cho DN có thể tiêp xúc được nguồn vốn của ngân hàng,đồng thời hạn chế tối thiểu các rủi ro có thể. Việc xây dựng cơ chế, chính sách cần phải có quan điểm kinh doanh và phục vụ rõ ràng không được coi trọng mặt này xem nhẹ việc kia. Do đó những cán bộ làm cơ chế phải tôn trọng quan điểm này, để khi xác định mục tiêu hay nội dung của chính sách cơ chế phải nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của mình một cách tốt nhất. Đối với khách hàng nói chung và nhất là khách hàng tín dụng Công thương nghiệp nói riêng: cơ chế tín dụng Ngân hàng phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng nới lãi suất và kỳ hạn hợp ký, thủ tục đơn giản thuận tiện thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo được lợi ích Ngân hàng. Đối với hoạt động kinh doanh: phạm vi, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hiệu quả và an toàn. Đổi mới quy chế và xây dựng các khung lãi xuất phù hợp nhằm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu cho khách hàng vay vốn. Tăng cường áp dụng hình thức cho vay với lãi suất thả nổi theo từng thương vụ để giảm thiểu rủi ro khi có sự biến đổi bất thường về lãi suất và lạm phát, đồng thời tạo nhiều cơ hội đầu tư cho khách hàng và cả Ngân hàng. 3.3.5.Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng,nâng cao chất lượng mang lưới thông tin. Yếu tố con người trong bất cứ nghành nghề nào cũng đóng vai trò rất quan trọng,trong ngành Ngân hàng cũng vậy.Việc xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao thôi không chưa đủ,bới ngành Ngân hàng là kinh doanh ‘lòng tin’ do vậy các cán bộ cần có cả đạo đức nghề nghiệp.Các cán bộ trước hết phải có đạo đức tốt, luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân .Một cán bộ như vậy sẽ xử lý mọi công việc trên phương diện đúng đắn nhất.Thực tế đã chứng minh nhiều vụ việc xảy ra liên quan đến đạo đức nghề nghiệp, các cán bộ tín dụng không suy xét thật kĩ đã bị kẻ xấu lợi dụng gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động của Ngân hàng.Tuy nhiên đi đôi với phẩm chất đạo đức tốt các cán bộ tín dụng cần có trính độ chuyên môn ,khả năng phân tích tốt và quan sát thực tế.Do vậy Ngân hàng nên có kế hoạch đào tạo cán bộ, sớm đề ra các tiêu chuẩn,đồng thời tạo điều kiện chocác cán bộ tín dụng học tập các kinh nghiêm thực thế bằng việc tổ chức các buổi hội thảo giao lưu giúp các cán bộ tín dụng có thể chia sẻ các kinh nghiệm đồng thời học hỏi từ các Ngân hàng khác . Song song với việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng thì Ngân hàng cũng nên tiến hành liên doanh, liên kết và hợp tác với các tổ chức trong nước và nước ngoài về kinh doanh, nghiên cứu phát triển dịch vụ đồng thời cũng để học hỏi kinh nghiệm quản lý để nhanh chóng tiếp cận công nghệ mới, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Đẩy mạnh việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến phù hợp với trình độ phát triển của Chi nhánh, phát triển hệ thống giao dịch trực tuyến và từng bước mở rộng mô hình giao dịch một cửa. Hoàn thiện và chuẩn hóa quy trình tác nghiệp và quản lý nghiệp vụ Ngân hàng, nhất là những nghiệp vụ ngân hàng cơ bản theo hướng tự động hóa, ưu tiên các nghiệp vụ thanh toán, tín dụng, kế toán, quản lý rủi ro và hệ thống thông tin quản lý. Cùng với việc đổi mới về công nghệ, Chi nhánh cần chú ý đến việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ tín dụng sao cho phù hợp với sự tiên tiến của công nghệ đó nhằm tạo ra sự cân đối về các nguồn lực sẵn có tại Ngân hàng. Nguồn lực con người có thể nói là nguồn lực quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển và tồn tại của Ngân hàng. Nguồn nhân lực có tốt mới có thể tạo ra và hoàn thành tốt các nhiệm vụ phát triển đồng thời duy trì sự tồn tại của Ngân hàng trong thời buổi cạnh tranh gây gắt hiện nay. 3.3.6.Đẩy mạnh công tác marketing và áp dụng chính sách khách hàng hợp lý. Thực tế NHNN&PTNT Chi Nhánh Hà Thành đã xây dựng cho mình phòng ban chuyên trách về hoạt động marketing tuy nhiên nhiệm vụ của phong ban là tìm kiếm và giới thiệu sản phẩm tới khách hàng chưa hoạt động hiệu quả.Do đó Ngân hàng cần có nhưng điêu chỉnh hơn nữa để hoạt động của marketing thực sự là hoạt động tạo hiệu quả cao cho.Để hoạt động marketing không chỉ là hoạt động để quoảng bá hình ảnh mà nên tập trung nghiên cứu khách hàng phát triển thị trường tiềm năng,định vị hình ảnh, nâng cao chất lượng dịch vụ của Ngân hàng.Do đó các nhà quản trị cần nhìn nhận tư duy mới về hoạt động marketing lấy hoạt động marketing làm động lực hỗ trợ cho hoạt động tín dụng. Về chính sách khách hàng, Ngân hàng cần có chiến lược khách hàng lâu dài,Ngân hàng và khách hàng luôn tồn tại cùng với nhau .Ngân hàng cần đánh giá cao và có nhưng điều kiện ưu tiên cho các khách hàng là truyền thống.Đối với các doanh nghiệp mới cần tạo lập uy tín và và mở rộng có chọn lọc. Khách hàng truyền thống là khách hàng gắn bó lâu dài về cả thời gian cũng như và nội dung hoạt động.Đối với khách hàng có uy tín rủi ro tín dụng là rất nhỏ,có chăng là những yếu tố do sự biến động thị trường mang lại,tuy nhiên Ngân hàng cũng nên có những biện pháp phòng ngừa khi có rủi ro thực sự xảy ra.Còn với các khách hàng mới,Ngân hàng cần tạo dựng niềm tin ,quoảng bá các sản phẩm dịch vụ ,đồng thời tiến hành có chọn lọc với các doanh nghiệp mới chưa nắm bắt được các thông tin về doanh nghiệp.Do đó Ngân hàng cần xây dựng chính sách nhằm hạn chế rủi ro thấp nhất đồng thời thu hút các khách hàng tiềm năng,phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn mà Ngân hàng có được. 3.4.Một số kiến nghị. 3.4.1.Kiến nghị đối với NHNN&PTNT Việt Nam. Chi nhánh NHNN&PTNT Hà Thành là một chi nhánh mới thành lập và hoạt động trên địa bàn chịu nhiều sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng khác,đặc biệt trong công tác huy động vốn và đầu tư tín dụng.Chênh lệch giữa lãi suất đầu vào,đầu ra thấp nên ảnh hưởng rất nhiều đến tài chính của Chi Nhánh trong bối cảnh hiện tại nguồn thu từ tín dụng là chủ yếu. Chi nhánh đã xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2010 dựa trên kết quả thực hiện KHKD năm 2009,định hướng phát triển kinh doanh,kế hoạch tài chính cho năm 2010 và phù hợp với khả năng của chi nhánh.Để thực hiện kế hoạch kinh doanh trên ,Chi Nhánh đã chủ động tiếp cận khách hàng có nguồn tiền gửi lớn,các dự án đầu tư có hiệu quả để làm tiền đề phát triển cho năm 2010 và cho các năm tiếp theo. Theo KHKD NHNN&PTNT Việt Nam giao cho Chi Nhánh năm 2009 (dư nợ mội tệ 690 tỷ,ngoại tệ 5534 ngàn USD) là quá thấp đối với Chi Nhánh cấp I trên địa bàn Hà Nội.Từ đó ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch tài chính cũng như mở rộng thị trường và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh cho các năm tiếp theo của Chi nhánh. Để việc điều hành kế hoạch kinh doanh năm 2010 tại Chi nhánh được thông suốt,đảm bảo khả năng tài chính,thu nhập của cán bộ công nhân viên và uy tín của ngân hàng trước khách hàng.Căn cứ vào khả năng tăng trưởng nguồn vốn ,định hướng và thực hiện đầu tư tín dụng của Chi Nhánh. 3.4.2.Kiến nghị đối với NHNN&PTNT Chi Nhánh Hà Thành. Cần nghiên cứu và tìm kiếm các sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế và đặc điểm kinh doanh của Ngân hàng: cả về quy mô hoạt động lẫn đối tượng khách hàng mục tiêu. Nâng cao năng lực quản trị và trình độ của các cán bộ nhân viên trong mọi lĩnh vực cho phù hợp với quy mô hoạt động của Chi nhánh. Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ trong Chi nhánh để kịp thời phát hiện những sai phạm có thể dẫn tới rủi ro cho hoạt động tại Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Nên áp dụng cơ chế giao dịch một cửa, nhằm đơn giản hóa một số thủ tục, tiết kiệm thời gian và cũng để nâng cao trách nhiệm của từng cán bộ tín dụng với khách hàng của mình. KẾT LUẬN Qua việc phân tích hiệu quả tín dụng công thương nghiệp đã cho ta thấy được cái nhìn khái quát về hoạt động cho vay của NHNN&PTNT Chi Nhánh Hà Thành,đồng thời cũng đưa ra các giải pháp khắc phục những hạn chế của ngân hàng.Thông qua các số liệu đánh giá từ các năm 2007,2008,2009,có thể thấy Chi Nhánh Hà Thành tuy mới thành lập nhưng đã có những kết quả rất tốt,khắc phục được những khó khăn hiện tại Chi Nhánh đã hoàn thành vuợt mức các chỉ tiêu trên giao.Có thể nhận thấy tín dụng công thương nghiệp giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng do đó ngân hàng cần phát triển quy trình cho vay thật chặt chẽ nhằm tránh các rủi ro cho ngân hàng.Tuy vậy vẫn còn các nhược điểm mà ngân hàng cần khắc phục là cơ cấu không cân xứng của các khoản vay,chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn do đó chưa phát huy hết hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn,thêm nữa ngân hàng huy động vốn rất nhiều trong khi đó lượng khách hàng vẫn chưa cao. Tuy nhiên dưới sự điều hành của NHNN&PTNT Việt Nam và định hướng của NHNNViệt Nam trong những năm tiếp theo Ngân hàng sẽ có điều chỉnh kịp thời phù hợp với xu thế của thị trường khai thác tối đa nguồn lục hiện có để phát triển bền vững. LỜI CẢM ƠN Trong thời gian thực tập ở chi nhánh,đựơc sự giúp đỡ rất nhiều của các anh, chị trong phòng kế hoạch và kinh doanh, em đã hoàn thành chuyên đề này. Bên cạnh đó, em đã được tiếp cận thực tế làm việc tại chi nhánh và được trang bị những kiến thức thực tế rất bổ ích cho công việc sau này.Em chân thành cảm ơn chi nhánh đã tạo điều kiện cho em hoàn thành đợt thực tập này! Sinh viên thực tập LỜI CAM KẾT Qua thơi gian thực tập tại Chi nhánh em đã được tiếp xúc thực tế và thu được nhiều kiến thức thực tế .Em xin cam kết chuyên đề "Phân tích hiệu quả tín dụng công thương nghiệp tại NHNo& PTNT Chi nhánh Hà Thành" số liệu là hoàn toàn trung thực. Sinh viên thực tập:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26088.doc
Tài liệu liên quan