Chuyên đề Phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thông quan của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Trước hết là việc thực hiện các loại hình bảo lãnh mới liên quan thủ tục thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu như: -Thứ nhất : ngân hàng có thể thực hiện các dịch vụ giống như các đại lý thủ tục hải quan: thay mặt hoàn toàn cho doanh nghiệp làm các công việc liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá với cơ quan hải quan. Về phía doanh nghiệp không phải mất thời gian tự mình làm các thủ tục xuất nhập khẩu. Với một công việc đã được chuyên nghiệp hóa, với các thông tin sẵn có trong quá trình làm việc với doanh nghiệp, ngân hàng có khả năng thực hiện các thủ tục thông quan nhanh chóng hơn doanh nghiệp tự mình làm, hơn nữa với vai trò bảo lãnh của ngân hàng, cơ quan hải quan sẽ rút ngắn thời gian tìm hiểu thông tin hàng hóa, giảm sai sót . Phương pháp này cũng hạn chế được tiêu cực trong khai báo về trị giá hải quan khi doanh nghiệp làm thủ tục xuất nhập khẩu trực tiếp với công chức hải quan. -Thứ hai : ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh “ nghiệp vụ ra quyết định trước” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc khai báo hải quan. Quyết định trước là văn bản của cơ quan Hải quan quyết định về phân loại hàng hóa, xác định xuất xứ và trị giá hải quan đối với hàng hoá dự kiến xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở đề nghị và các thông tin do doanh nghiệp cung cấp. Về trách nhiệm của cơ quan Hải quan: Khi nhận được yêu cầu ra quyết định trước của doanh nghiệp, cơ quan hải quan phải: tiếp nhận yêu cầu Quyết định trước của Người yêu cầu; tiến hành kiểm tra các thông tin do Người yêu cầu cung cấp, nếu thiếu thì đề nghị Người yêu cầu bổ sung, nếu từ chối, phải có thông báo cho người yêu cầu và nêu rõ lý do từ chối; ban hành Quyết định trước đối với hàng hóa dự kiến xuất khẩu, nhập khẩu theo đề nghị của Người yêu cầu trong thời hạn quy định.như vậy để thực hiện được việc ra quyết định trước thì cơ quan hải quan cần có thời gian nhất định để kiểm tra thông tin doanh nghiệp đưa ra, về phía doanh nghiệp cũng phải chờ đợi, mất công sức chi phí cho việc đi lại làm thủ tục. Với uy tín của mình ngân hàng có thể đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp truớc cơ quan hải quan về độ xác thực và đúng đắn của các thông tin đã được doanh nghiệp đưa ra. Điều này giúp cho việc ra quyết định trước được thực hiện nhanh chóng hơn, làm giảm bớt công việc cho cơ quan hải quan, cũng như giảm thiểu chi phí và công sức đi lại cho doanh nghiệp, rút ngắn được thời gian làm thủ tục. Hoặc là với những giai đoạn như : “Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian chờ kết quả giám định để xác định có được xuất khẩu, nhập khẩu hay không, nếu chủ hàng có yêu cầu đưa hàng hoá về bảo quản thì Chi cục trưởng Hải quan chỉ chấp nhận trong trường hợp đáp ứng yêu cầu giám sát hải quan” cũng là những giai đoạn ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp. Để làm được tất cả những điều này, việc cần thiết là phải thực hiện kết nối thanh toán, kết nối thông tin giữa ngành ngân hàng và hải quan giúp cho doanh nghiệp có thể phát huy được tối đa thế mạnh của bảo lãnh ngân hàng và thủ tục thông quan điện tử của hải quan. Một vai trò không thể thiếu là vai trò của các nhà làm luật. Phải có một hệ thống luật thống nhất và hoàn chỉnh quy định các vấn đề về bảo lãnh ngân hàng nói chung cũng như bảo lãnh thông quan nói riêng,

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thông quan của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang Lời nói đầu 1 Phần 1: Lý luận chung về nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại 3 1.1 Những nét chung về bảo lãnh ngân hàng 3 1.2 Khái niệm bảo lãnh ngân hàng 3 1.3 Đặc điểm bảo lãnh ngân hàng 4 1.4 Vai trò và chức năng của bảo lãnh ngân hàng 5 1.5 Phân loại bảo lãnh ngân hàng 8 1.6 Phân biệt bảo lãnh với các công cụ khác 12 Phần 2: Bảo lãnh thông quan – hình thức bảo lãnh đang phát triển trên thị trường Việt Nam 14 2.1 Tổng quan về nghiệp vụ bảo lãnh của các NHTM Việt Nam 14 2.2 Thực trạng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thông quan của các ngân hàng thương mại Việt Nam 17 2.2.1 Bảo lãnh thông quan – nghiệp vụ bảo lãnh nhiều triển vọng 17 2.2.2 Thành công 18 2.2.3 Hạn chế 23 2.2.4 Nguyên nhân của những hạn chế 24 2.3 Các biện pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thông quan của các NHTM Việt Nam 26 Kết luận 29 Tài liệu tham khảo 30 Lời nói đầu Như chúng ta đã biết, ngân hàng từ khi xuất hiện dưới hình thức đầu tiên của nó - ngân hàng của các thợ vàng, của những kẻ cho vay nặng lãi – cho tới nay khi đã phát triển thành một hệ thống ngân hàng hoàn thiện là một quá trình lâu dài với rất nhiều những thay đổi. Từ những nghiệp vụ đầu tiên là nhận giữ tiền đi lên cho vay và ngày nay ngân hàng đã thực hiện rất nhiều những nghiệp vụ khác. Đặc biệt trong đó là sự ra đời của các nghiệp vụ ngoại bảng – những nghiệp vụ không chỉ mang lại thu nhập cho ngân hàng mà còn là những nghiệp vụ có ít rủi ro, đảm bảo sự cân bằng cho hoạt động của ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng là một trong những nghiệp vụ như vậy. Trong kinh doanh ngày nay, bảo lãnh ngân hàng luôn được xem như tấm giấy thông hành cho doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Do đó cùng với sự phát triển với quy mô ngày càng lớn của các hoạt động thương mại, bảo lãnh ngân hàng cũng ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của nó. Tuy nhiên bảo lãnh ngân hàng không chỉ tồn tại ở hình thức ban đầu mà nó luôn có những điều chỉnh để có sự phù hợp nhất với những yêu cầu ngày càng cao của các doanh nghiệp. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn của nền kinh tế toàn cầu hóa, các hoạt động thương mại diễn ra không chỉ trong phạm vi quốc gia. Hầu như tất cả các doanh nghiệp đều có mối quan hệ với đối tác nước ngoài, khoảng cách về không gian địa lý làm các doanh nghiệp này không đủ khả năng ( thời gian, chi phí…) để tìm hiểu đối tác của mình, do đó việc có một ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho các hoạt động thương mại này có thể giải quyết rất nhiều khó khăn và vướng mắc cho doanh nghiệp. Cũng với xu hướng toàn cầu hóa, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa diễn ra với khối lượng cũng như mật độ lớn hơn trước rất nhiều. Việc nghiên cứu, áp dụng và mở rộng các nghiệp vụ bảo lãnh liên quan hoạt động xuất nhập khẩu trở thành một đề tài mang tính thực tế cao. Đó là lý do tôi chọn đề tài : Phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thông quan của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, đề án đã đưa ra một số lý luận về bảo lãnh ngân hàng nói chung cũng như bảo lãnh thông quan nói riêng. Trên cơ sở đó, đề án đã phân tích thực trạng hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng thương mại Việt Nam cùng với thực trạng của hoạt động bảo lãnh thông quan, những thành công cũng như mặt còn hạn chế và một số giải pháp phát triển hoạt động dịch vụ này. Kết cấu của đề án gồm hai phần chính: Phần 1: Lý luận chung về nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại Phần 2: Bảo lãnh thông quan – hình thức bảo lãnh đang phát triển trên thị trường Việt Nam Do sự nghiên cứu có nhiều hạn chế và một số yếu tố khách quan khác, đề án vẫn chưa thật hoàn chỉnh và còn nhiều thiếu sót. Vì vậy rất mong nhận được sự góp ý và thu nhận của các thầy cô giáo và bạn đọc quan tâm đến vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn! Phần 1: Lý luận chung về nghiệp vụ bảo lãnh của NHTM 1.1 Những nét chung về bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh ra đời từ rất sớm, từ thời trung cổ Hi Lạp, dưới hình thức giao dịch cá nhân trong cuộc sống. Bảo lãnh ngân hàng là một dạng dịch vụ của thị trường hiện đại, xuất hiện vào giữa những năm 60 ở một thị trường nội địa nước Mỹ. Sau đó vào đầu những năm 70 bảo lãnh ngân hàng bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế, kể từ đó bảo lãnh ngân hàng phát triển mạnh mẽ cho đến nay. Trong những năm nội chiến ở Iran( 1979- 1980) hàng loạt các thư bảo lãnh và thư tín dụng dự phòng được phát hành theo lệnh của các cơ quan Iran do không được thanh toán nên bị các nước phương tây tới tấp kiện. Từ đó người ta mới thấy được sự cần thiết phải có những quy định về bảo lãnh, trên thế giới mới chú trọng việc xây dựng một hệ thống luật hoàn chỉnh về bảo lãnh. 1.2 Khái niệm bảo lãnh ngân hàng Theo phòng thương mại quốc tế ICC định nghĩa: bảo lãnh độc lập là bất cứ bảo lãnh, cam kết hay cam kết thanh toán, dù được gọi hay miêu tả thế nào, của ngân hàng, công ty bảo hiểm hay pháp nhân hoặc thể nhân bằng văn bản thanh toán một số tiền khi được xuất trình theo đúng quy định của cam kết, bản đòi tiền và các chứng từ khác. Pháp luật Việt Nam quy định: Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay ( Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) 1.3 Đặc điểm bảo lãnh ngân hàng 1.3.1 Bảo lãnh thường có 3 bên: Bên hưởng bảo lãnh ( bên thứ 3): là các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng bảo lãnh của tổ chức tín dụng. Bên được bảo lãnh: là khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh. Khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài. Tổ chức tín dụng không được bảo lãnh đối với người sau đây: a Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc( Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc( Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng. b Cán bộ nhân viên của tổ chức tín dụng đó thực hiên thẩm định, quyết định bảo lãnh. c Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc( Giám đốc), Phó Tổng Giảm đốc( Phó Giám đốc). d Việc áp dụng quy định tại điểm c khoản này đối với người được bảo lãnh là bố, mẹ, vợ, chồng, con của Giám đốc, Phó Giám đốc chi nhánh của tổ chức tín dụng do tổ chức tín dụng xem xét quyết định. Việc hạn chế bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với các khách hàng thực hiện theo quy định tại điều 78 Luật các tổ chức tín dụng Bên bảo lãnh: là tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa là ngân hàng là bên bảo lãnh. Tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh: - Các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng. - Các ngân hàng được ngân hàng Nhà nước cho phép hoạt động thanh toán quốc tế được thực hiện các loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân nước ngoài. 1.3.2 Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. 1.3.3 Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín, ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy, bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản “xấu” trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy bảo lãnh cũng chứa đựng các loại rủi ro như một khoản cho vay, đòi hỏi ngân hàng phải phân tích khách hàng như khi cho vay. 1.3.4 Bảo lãnh của ngân hàng tạo mối liên hệ trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của ngân hàng là thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa ngân hàng với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện các cam kết, bảo lãnh cũng góp phần giảm bớt các thiệp hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. 1.3.5 Ngân hàng cố gắng tìm kiếm các khoản thu từ bảo lãnh nhằm bù đắp chi phí. Phí bảo lãnh được tính theo tỷ lệ phần trăm trên số tiền bảo lãnh. Ngoài phí ngân hàng còn có thể yêu cầu khách hàng phải ký quỹ, tạo nguồn tiền thanh toán cho ngân hàng với mức lãi suất rất thấp. Bảo lãnh cũng góp phần mở rộng các dịch vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, tư vấn, thanh toán… 1.4 Vai trò và chức năng của bảo lãnh ngân hàng 1.4.1 Vai trò của bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung cũng như đối với hoạt động ngân hàng nói riêng. Đối với nền kinh tế bảo lãnh ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, phát triển và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh thể hiện ở hai mặt: Người nhận bảo lãnh có tài trợ tài chính Thúc đẩy kinh tế mũi nhọn, hạn chế lĩnh vực hoạt động kém hiệu quả Đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng : bảo lãnh giúp ngân hàng đa dạng hóa sản phẩm, tăng doanh thu từ thu phí bảo lãnh, mở rộng quan hệ đại lý nhất là trên thị trường quốc tế. 1.4.2 Chức năng của bảo lãnh ngân hàng Chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng là đảm bảo khả năng thanh toán của bên yêu cầu bảo lãnh trong trường hợp hợp đồng không được thực hiện. Bằng việc cam kết chi trả bồi thường khi xảy ra sự cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, các ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra một sự đảm bảo chắc chắn cho người nhận bảo lãnh. Chính sự đảm bảo này tạo ra sự tin tưởng khiến cho các hợp đồng được ký kết một cách dễ dàng và thuận lợi. Đây cũng là sự khác biệt của bảo lãnh so với tín dụng chứng từ. Ngoài ra bảo lãnh ngân hàng còn có các chức năng khác như: Chức năng thanh khoản : bên thụ hưởng ngay lập tức nhận được khoản thanh toán khi có được bằng chứng chứng nhận sự vi phạm của bên yêu cầu bảo lãnh. Chức năng hạn chế rủi ro : trong các giao dịch thương mại luôn luôn tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ rủi ro, bao gồm cả những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan. Bảo lãnh ngân hàng thực hiện chức năng hạn chế rủi ro ngay từ khâu đầu tiên của quá trình thực hiện bảo lãnh, đó là việc ngân hàng kiểm tra độ tin cậy và mức độ rủi ro của người được bảo lãnh. Đối với người thụ hưởng bảo lãnh, bảo lãnh giúp họ khắc phục, giảm nhẹ, bù đắp được những tổn thất khi rủi ro xảy ra. Chức năng tài trợ : bảo lãnh ngân hàng là một hình thức ngân hàng tài trợ cho người được bảo lãnh. Thông qua bảo lãnh người được bảo lãnh không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc được kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ…Do vậy mặc dù không trực tiếp cấp vốn như trong tín dụng nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp cho khách hàng được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như trong trường hợp cho vay. Chức năng thực hiên hợp đồng : bằng khả năng đòi tiền vi phạm hợp đồng theo nội dung thư bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh có khả năng tạo áp lực đốc thúc việc thực hiện hợp đồng, theo yêu cầu của họ từ phía bên được bảo lãnh. 1.5 Phân loại bảo lãnh ngân hàng 1.5.1 Căn cứ bản chất bảo lãnh người ta chia bảo lãnh ngân hàng thành hai loại Bảo lãnh đồng nghĩa vụ ( còn gọi là bảo lãnh bổ sung ) : là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng và người được bảo lãnh được xem là có cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên nghĩa vụ của người được bảo lãnh là nghĩa vụ đầu tiên, nghĩa vụ của ngân hàng chỉ là nghĩa vụ bổ sung, chỉ được thực hiện khi có bằng cứ xác nhận là nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải can thiệp khá sâu vào giao dịch hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng. Do vậy chủ yếu được sử dụng trong phạm vi nội địa mà ít được sử dụng trong quan hệ quốc tế. Bảo lãnh độc lập : là loại bảo lãnh hiện đại, trong đó nghĩa vụ của ngân hàng và người được bảo lãnh hoàn toàn tách rời nhau, việc thực hiện thanh toán chỉ căn cứ vào những điều kiện, điều khoản quy định trong văn bản bảo lãnh được thỏa mãn mà thôi. Tuy nhiên tính độc lập của loại bảo lãnh này không hoàn toàn tuyệt đối mà phụ thuộc các điều kiện thanh toán đã được quy định trong văn bản bảo lãnh giữa ngân hàng và người thụ hưởng bảo lãnh. 1.5.2 Căn cứ phương thức phát hành người ta chia bảo lãnh ra thành bảo lãnh trực tiếp và bảo lãnh gián tiếp Bảo lãnh trực tiếp : ngân hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh, người được bảo lãnh chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh. Trong loại bảo lãnh này thường có 3 bên tham gia. Bảo lãnh gián tiếp : ngân hàng bảo lãnh đã phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. trong loại bảo lãnh này người được bảo lãnh không phải bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chính ngân hàng trung gian chịu trách nhiệm bồi hoàn. Do vậy bảo lãnh gián tiếp thường có ít nhất 4 bên : Ngân hàng phát hành bảo lãnh Ngân hàng trung gian Người được bảo lãnh Người hưởng bảo lãnh Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp người thụ hưởng là người nước ngoài và ngân hàng phát hành ở ngay tại quốc gia của người thụ hưởng, do vậy quyền lợi của người thụ hưởng được đảm bảo chắc chắn hơn. 1.5.3 Phân loại theo phạm vi lãnh thổ người ta chia bảo lãnh ngân hàng ra thành: Bảo lãnh trong nước Bảo lãnh ngoài nước 1.5.4 Phân loại theo mức độ rủi ro bảo lãnh ngân hàng gồm Bảo lãnh theo hình thức cấp tín dụng : bảo lãnh vay vồn và thư tín dụng dự phòng. Là loại bảo lãnh gắn với nghĩa vụ trả nợ của người được bảo lãnh đối với tổ chức tín dụng khác. Bảo lãnh theo hình thức cung cấp dịch vụ : gắn với hoạt động cung cấp hàng hóa dịch vụ như bảo lãnh đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng. 1.5.5 Phân loại theo mục tiêu bảo lãnh người ta chia bảo lãnh thành các loại sau Bảo lãnh vay vốn ( bảo lãnh bảo đảm hoàn trả vốn vay) Nhiều tổ chức tín dụng khi cho vay đòi hỏi phài có đảm bảo hoặc bằng hàng hóa, chứng khoán, bất động sản hoặc bằng bảo lãnh của người thứ ba ( tín chấp)…hoặc Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức tín dụng có nhu cầu vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu, tuy nhiên nếu uy tín của người vay trên thị trường đó chưa cao, việc phát hành sẽ rất khó khăn. Trước thực tế đó bảo lãnh vay vốn ra đời. Bảo lãnh vay vốn là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, về việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn nợ vay đối với bên nhận bảo lãnh. Có hai loại hình bảo lãnh vay vốn : - Bảo lãnh vay vốn trong nước - Bảo lãnh vay vốn nước ngoài Bảo lãnh thanh toán Bảo lãnh thanh toán là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của mình khi đến hạn. Bảo lãnh dự thầu Trong hoạt động kinh tế rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu thầu như đấu thầu cung cấp thiết bị, xây dựng. Để tìm kiếm được các nhà thầu có đủ năng lực và hạn chế những rủi ro khi nhà thầu vi phạm các điều khoản tham gia dự thầu như trúng thầu song không thực hiện hợp đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ đầu tư…chủ đầu tư thường yêu cầu bên thực hiện hợp đồng phải ký quỹ ( đặt cọc) dự thầu. Nếu vi phạm, bên dự thầu sẽ bị mất quyền ký quỹ. Do ký quỹ gây ra nhiều thủ tục phiền phức cho cả hai bên, đặc biệt làm tồn đọng vốn của bên tham gia dự thầu, nhiều chủ thầu yêu cầu thay thế tiền ký quỹ bằng bảo lãnh của ngân hàng. Vậy bảo lãnh dự thầu là cam kết của tổ chức tín dụng với bên mời thầu, để đảm bảo nghĩa vụ tham dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng phải nộp phạt do vi phạm quy định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp đồng cung cấp hàng hóa, xây dựng, thiết kế… Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không đúng hạn, không đúng chất lượng cam kết…đều có thể gây tổn thất lớn cho bên thứ ba . Bảo lãnh của ngân hàng một mặt bù đắp một phần tổn thất cho bên thứ ba, mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm túc thực hiện hợp đồng. Vậy bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay. Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm Là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay. Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước Nhiều người cung cấp yêu cầu khách hàng ( người mua hàng hóa dịch vụ ) phải đặt trước một phần tiền trong giá trị hợp đồng cung cấp. Tiền đặt cọc vừa giúp bên cung cấp có một phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua phải mua hàng đã đặt. Tuy nhiên đề phòng người cung câp không cung cấp hàng đồng thời không trả tiền đặt cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp phải có bảo lãnh của ngân hàng về việc sẽ trả tiền ứng trước. Vậy, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng trước mà không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay. Bảo lãnh đối ứng Là cam kết của tổ chức tín dụng ( bên bảo lãnh đối ứng ) với bên bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh, trong trường hợp bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh và phải trả thay cho khách hàng của bên bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh. Xác nhận bảo lãnh Là cam kết của tổ chức tín dụng ( bên xác nhận bảo lãnh) đối với bên nhận bảo lãnh, về việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh đối với khách hàng. Một số loại bảo lãnh khác Bảo lãnh nộp thuế nhập khẩu đối với hàng tiêu dùng của các tổ chức tín dụng ( được thực hiện ở một số ngân hàng như BIDV, ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn…) : là các sự cam kết của tổ chức tín dụng đối với cơ quan thu thuế ( bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thay cho khách hàng là bên nhập khẩu ( bên được bảo lãnh ) trong trường hợp khách hàng không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu cho cơ quan thu thuế trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo chính thức của cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp. Bảo lãnh khoản tiền còn lại ( được thực hiện tại VCB ) : là cam kết của ngân hàng với bên thụ hưởng bảo lãnh về việc sẽ thanh toán lại cho bên thụ hưởng bảo lãnh số tiền mà khách hàng của ngân hàng giữ lại của bên thụ hưởng bảo lãnh để đảm bảo nghĩa vụ của bên thụ hưởng bảo lãnh đối với khách hàng theo hợp đồng đã ký kết, khi bên thụ hưởng bảo lãnh đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà khách hàng không hoàn trả số tiền họ giữ lại. Ý nghĩa phân loại : sự đa dạng hóa các loại hình phân loại giúp đáp ứng nhu cầu tìm nguồn tài trợ, mua hàng hóa và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh đa dạng của khách hàng. Từ đó, ngân hàng tìm kiếm được các khoản thu từ bảo lãnh nhằm bù đắp chi phí. 1.6 Phân biệt bảo lãnh với các công cụ khác Bảo lãnh khác thư tín dụng và thư tín dụng dự phòng : - Nghĩa vụ bảo lãnh chỉ phải thực hiện sau khi rủi ro xảy ra. - Đối với thư tín dụng và thư tín dụng dự phòng là nghĩa vụ bắt buộc phải thanh toán cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng thực hiện giao hàng theo đúng hợp đồng. Bảo lãnh khác bảo hiểm : - Bảo lãnh lấy tiền của bên vi phạm trả cho người thụ hưởng. Bảo hiểm là sự phân chia tổn thất. - Bảo lãnh trả tiền khi có yêu cầu đầu tiên đến với ngân hàng. Bảo hiểm yêu cầu phải thông qua quá trình kiểm tra, thu thập bằng chứng, chứng cớ. Bảo lãnh khác thư bồi hoàn - Thư bồi hoàn là thư của người phát hành gửi cho người thụ hưởng yêu cầu người thụ hưởng phải thực hiện một công việc nào đó và kèm theo cam kết nếu xảy ra thiệt hại liên quan đến việc người thụ hưởng thực hiện công việc đó thì người bồi hoàn sẽ thanh toán cho người thụ hưởng ( hai bên) . Điều đó có nghĩa là trách nhiệm đầu tiên không phụ thuộc hành vi có hay không vi phạm hợp đồng. - Bảo lãnh chỉ được thực hiện khi có vi phạm hợp đồng xảy ra ( có rủi ro) Bảo lãnh khác tái bảo lãnh : - Tái bảo lãnh là việc ngân hàng phát hành thư bảo lãnh chuyển giao toàn bộ hoặc một phần quyền lợi của mình về việc phát hành thư bảo lãnh cho một ngân hàng khác. Khi đó ngân hàng ban đầu chỉ có vai trò trung gian. Ngân hàng thứ hai sẽ chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Phần 2 : bảo lãnh thông quan - hình thức bảo lãnh đang phát triển trên thị trường Việt Nam 2.1. Tổng quan về nghiệp vụ bảo lãnh của các NHTM Việt Nam Hiện tại ở Việt Nam các ngân hàng thương mại mới chỉ thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp lớn và có khả năng thế chấp. Với mức tăng trưởng trung bình 20%/năm, tổng dư nợ nghiệp vụ bảo lãnh của 10 ngân hàng thương mại lớn vào khoản 43 ngàn tỷ đồng ( 2005). Không “ồn ào” như cuộc chạy đua lãi suất nhưng “ cuộc chiến” giành thị phần bảo lãnh giữa các ngân hàng thương mại đang ngày một quyết liệt. Việc ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ( BIDV) ký được hợp đồng bảo lãnh trọn gói cung ứng tín dụng và các dịch vụ ngân hàng cho hai tổng công ty lớn là Vinashin với hạn mức tín dụng lên tới 1.200 tỷ đồng và làm đầu mối cho các dự án đồng tài trợ là 2.000 tỷ đồng, và Vinamotor: hạn mức tín dụng 700 tỷ đồng và hạn mức bảo lãnh 200 tỷ đồng, đã khiến không ít đối thủ cạnh tranh mất ăn mất ngủ. Dịch vụ bảo lãnh đang dần trở thành nguồn thu đáng kể trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Theo báo cáo thường niên của ngân hàng BIDV trong năm 2006 tổng số dư bảo lãnh – bao gồm các cam kết L/C – đến 31/12/2006 là 40.824 tỷ VND, tăng trưởng 82 % so với 31/12/2005. Nguồn thu từ phí bảo lãnh – gồm cả L/C – 181.7 tỷ VND, chiếm 38.05% tổng thu phí dịch vụ, đứng thứ hai sau nguồn thu từ phí dịch vụ thanh toán (47.4% tổng thu phí dịch vụ) Cũng theo BIDV, kết quả đạt được trong quan hệ thanh toán, tín dụng và dịch vụ tại thời điểm cuối Quý III/ 2008 có 17.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa đang có quan hệ với BIDV với tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh, L/C là 43.527 tỷ đồng, bằng 21,5% tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh, mở L/C của toàn hệ thống BIDV. Như vậy tính đến thời điểm cuối Quý 3/2008, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa có quan hệ tín dụng tại hệ thống BIDV tăng thêm 1.368 doanh nghiệp (tương đương tăng trưởng 12,7%) so với thời điểm cuối năm 2007. Nếu xét về quy mô quan hệ tín dụng đối với khối doanh nghiệp nhỏ và vừa: Tại thời điểm cuối Quý 3/2008, dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh, L/C của khối doanh nghiệp nhỏ và vừa tại BIDV tăng 6.346 tỷ đồng (tương đương tăng trưởng 17,1%) so với thời điểm cuối năm 2007. Mở rộng hoạt động bảo lãnh đã giúp chuyển mạnh hoạt động ngân hàng theo hướng phát triển dịch vụ, tăng tỷ trọng thu dịch vụ trong tổng nguồn thu. Tuy nhiên, trên thực tế việc ký kết các hợp đồng bảo lãnh gây nhiều phiền toái cho khách hàng. Thứ nhất nó làm phát sinh thêm hồ sơ giấy tờ mà đối với khách hàng họ cho là phiền phức. Thứ hai, để có được một hợp đồng bảo lãnh thực sự mất rất nhiều thời gian. Khách hàng phải cung cấp cho ngân hàng toàn bộ hồ sơ pháp lý ( đối với giao dịch lần đầu) và hồ sơ bảo lãnh liên quan. Vì một lý do nào đó hợp đồng cấp bảo lãnh có sai sót ( có thể do khách hàng cũng có thể do ngân hàng) thì ngân hàng và khách hàng phải tiến hành lại trình tự như trên làm mất một khoảng thời gian đáng kể. Hơn nữa đối với bảo lãnh ký quỹ đủ 100% giá trị bảo lãnh, hầu như không có rủi ro về phía ngân hàng vì nếu có thanh toán theo khiếu nại đòi tiền bảo lãnh, ngân hàng sẽ dùng nguồn tiền từ tài khoản ký quỹ tương ứng của khách hàng. Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, một số loại hình bảo lãnh của các ngân hàng thương mại như : bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh hợp đồng, bảo lãnh bảo hành…thường xuyên xảy ra đã góp phần cho việc thực hiện thành công trong quan hệ hợp đồng. Ngân hàng với tư cách là người bảo lãnh cho nhà thầu một khoản tiền theo quy định, cam kết với chủ đầu tư về việc thực hiện hợp đồng của nhà thầu. Nếu nhà thầu vi phạm hợp đồng, gây thiệt hại trong quá trình xây dựng thì ngân hàng sẽ đứng ra trả tiền cho chủ đầu tư với số tiền đã bảo lãnh. Tuy nhiên hiện nay do một số chính sách không đồng bộ nên việc thực hiện bảo lãnh chưa phát huy hết tác dụng của nó, vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Điều này đòi hỏi các nhà làm chính sách phải nghiên cứu kịp thời, để sớm trình cấp thẩm quyền ban hành một số chính sách đồng bộ, chặt chẽ, phù hợp với nhu cầu phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Đối với bảo lãnh dự thầu : do việc quy định mức bảo lãnh dự thầu và việc thực hiện mức bảo lãnh dự thầu hiện nay là tương đối thấp ( thường là 1%) nên một số nhà thầu chấp nhận ứng ra số tiền trên để thực hiện tham gia đấu thầu không lành mạnh. Cụ thể là: - Tham gia đấu thầu để tạo ra sự cạnh tranh giả tạo, nhằm kiếm lợi nhuận thông qua thỏa thuận với nhà thầu thực sự tham gia đấu thầu. - Sẵn sàng đứng tên đấu thầu giúp nhà thầu nào đó thắng thầu với giá thầu thấp. Đối với bảo lãnh hợp đồng vấn đề phát sinh ở chỗ: xét về mặt tài chính, khi trúng thầu, nhà thầu chỉ cần ngân hàng bảo lãnh 5% nhưng được ứng 20% giá trị trúng thầu. Nếu nhà thầu không quyết tâm thực hiện công trình, sau khi được ứng 20% rồi không thực hiện hợp đồng, thì chủ đầu tư sẽ bị thiệt hại 15%. Nếu giải quyết được số tiền này thì cũng mất nhiều thời gian, có khi bị thiệt hại mà công trình bị buộc phải dừng lại chờ xử lý. Đối với bảo lãnh chất lượng sản phẩm : thời gian bảo hành, tùy theo công trình mà quy mô dài ngắn khác nhau, nhưng thường là một năm. Như vậy, để đảm bảo cho nhà thầu bỏ chi phí ra sửa chữa trong thời gian bảo hành, chủ đầu tư phải ràng buộc nhà thầu bằng một trong hai cách: - thanh toán cho nhà thầu 90 -95% giá trị công trình. - thanh toán cho nhà thầu 100% giá trị công trình nhưng với điều kiện phải có bảo lãnh của ngân hàng về chất lượng công trình khoảng 5 -10% giá trị công trình. Trong thời gian bảo hành nếu chất lượng công trình không đảm bảo, nhà thầu không sửa chữa thì chủ đầu tư sẽ dùng số tiền 5 -10% đó để bù đắp chi phí sửa chữa. Như vậy việc bảo lãnh bảo hành là nhằm buộc nhà thầu phải thi công đảm bảo chất lượng công trình. Mặc dù quá trình thi công có đơn vị giám sát nhưng nếu nhà thầu không tự giác, không vì uy tín cá nhân mà chạy theo lợi nhuận, sẽ không tránh khỏi ăn bớt vật tư, làm dối, làm không đúng quy trình kết cấu , sử dụng vật tư không đồng bộ…dẫn tới chất lượng công trình giảm, dễ bị hư hỏng… Tuy nhiên thời gian bảo hành một năm là chưa phù hợp, vì tuổi thọ của một số công trình rất lớn, nên trong vòng một năm chưa thể phát hiện, đánh giá được chất lượng công trình. Ngoài ra, với mức bảo lãnh từ 5 -10% thì chỉ đủ để sửa chữa nhưng hư hỏng nhỏ. Nếu hư hỏng lớn, chi phí vượt quá tỷ lệ nói trên thì chủ đầu tư cũng rất khó buộc nhà thầu bỏ ra thêm chi phí để sửa chữa như đã cam kết. 2.2. Thực trạng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thông quan của các ngân hàng thương mại Việt Nam 2.2.1 Bảo lãnh thông quan – nghiệp vụ bảo lãnh nhiều triển vọng Hiện nay xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, chi phối hầu như toàn bộ các hoạt động kinh tế xã hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong xu thế đó, thương mại quốc tế diễn ra một cách liên tục, với khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng gia tăng. Những thủ tục hải quan phức tạp cùng với các loại thuế xuất nhập khẩu là một trong những nguyên nhân rất lớn làm chậm lại quá trình lưu thông hàng hóa này, gây khó khăn và thiệt hại rất nhiều cho các doanh nghiệp. Nếu lúc này doanh ngiệp có ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho việc nộp thuế và làm các thủ tục hải quan, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí và công sức. Mặt khác đối với ngân hàng, bảo lãnh thông quan là một trong những nghiệp vụ có ít rủi ro, lại mang lại thu nhập cho ngân hàng nhờ thu phí bảo lãnh. Như vậy, với những tiện ích có thể mang lại cho khách hàng và ngân hàng, cùng với xu thế kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ, bảo lãnh thông quan đã trở thành một nghiệp vụ bảo lãnh mới nhiều triển vọng cho các ngân hàng thương mại. 2.2.2 Thành công Ở Việt Nam hiện nay, bảo lãnh thông quan được thực hiện với hình thức chính là bảo lãnh nộp thuế, được thực hiện ở nhiều ngân hàng thương mại. Về mặt nguyên tắc, thuế xuất nhập khẩu phải được nộp trước khi thông quan để người xuất khẩu có thể giao hàng hóa cho người chuyên chở hay người nhập khẩu có thể đưa mặt hàng nhập khẩu vào lưu thông trong nội địa, trừ khi có các chính sách ân hạn thuế hay có bảo lãnh nộp thuế, nên chúng có thể coi là một trong những loại thuế dễ thu nhất, và chi phí để thu thuế xuất - nhập khẩu là khá nhỏ đối với hàng hóa nhập khẩu vào trong khối. Tuy nhiên các thủ tục nộp thuế lại chính là nguyên nhân làm chậm quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa, điều này có thể làm chậm thời gian giao hàng, gia tăng chi phí bảo quản, lưu kho trong thời gian chờ làm thủ tục, trì hoãn quá trình sản xuất, dẫn đến hậu quả lớn đối với doanh nghiệp, đặc biệt không phù hợp đối với hàng hóa dễ bị hư hỏng. Và cũng có khi doanh nghiệp phải nộp thuế khi đang ở trong giai đoạn tình hình tài chính chưa cho phép. Do đó bảo lãnh nộp thuế xuất nhập khẩu của ngân hàng đối với doanh nghiệp là một biện pháp dễ dàng và có hiệu quả để khắc phục những hạn chế này. Theo thông tư số : 02/TT-NHNN14 về hướng dẫn việc bảo lãnh nộp thuế nhập khẩu đối với hàng tiêu dùng của các tổ chức tín dụng. “ a. Bảo lãnh nộp thuế nhập khẩu hàng tiêu dùng của các tổ chức tín dụng là sự cam kết của tổ chức tín dụng đối với cơ quan thu thuế (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thay cho khách hàng không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu cho cơ quan thu thuế trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo chính thức của cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp. b. Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng, bao gồm: Các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng Đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, Ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng hợp tác, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước  ngoài tại Việt Nam và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh (sau đây gọi là các tổ chức tín dụng). Các tổ chức tín dụng được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình. c. Bên được bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, được phép nhập khẩu hàng tiêu dùng và phải nộp thuế nhập khẩu hàng tiêu dùng theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (gọi tắt là khách hàng). d. Bên nhận bảo lãnh là cơ quan Hải quan hoặc các cơ quan thu thuế khác theo Luật định, có trách nhiệm thu thuế nhập khẩu hàng tiêu dùng 2. Hàng hóa nhập khẩu được bảo lãnh nộp thuế là các mặt hàng tiêu dùng được phép nhập khẩu theo danh mục hàng tiêu dùng ban hành kèm theo Quyết định số 1655/1998/QĐ-BTM ngày 25/12/1998 của Bộ Thương mại. 11. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của cơ quan thu thuế, Bên được bảo lãnh phải có trách nhiệm nộp thuế cho cơ quan thuế theo đúng các quy định hiện hành. Trường hợp quá thời hạn nộp, nếu bên được bảo lãnh chưa nộp đầy đủ số tiền thuế thì khi nhận được thông báo yêu cầu trả nợ thay của cơ quan thu thuế, bên bảo lãnh phải trả thay cho bên được bảo lãnh, đồng thời bên được bảo lãnh sẽ đương nhiên nợ bên bảo lãnh về khoản tiền bên bảo lãnh đã trả thay và phải chịu lãi suất nợ quá hạn.” Như vậy, bảo lãnh nộp thuế là một hình thức bảo lãnh quan trọng, đã được quy định trong các văn bản luật nhằm đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, tính pháp lý của nó, tạo điều kiện cho ngân hàng và doanh nghiệp thực hiện một cách rộng rãi. Đặc biệt, Quyết định số 149/2005/QĐ-TTg ngày 20-6-2005 của Thủ tướng Chính phủ ra đời quy định việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử và các Quyết định 50/2005/QĐ-BTC, Quyết định 52/2007/QĐ-BTC tạo tiền đề cho việc triển khai rộng rãi thủ tục Hải quan Điện tử  trong toàn Ngành Hải quan trong thời gian tới đã đem lại những lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp trong hoạt động thương mại : tiết kiệm thời gian và chi phí, thay vì phải đến tận chi cục hải quan và mất rất nhiều thời gian để làm các thủ tục xuất, nhập khẩu hàng hoá như trước đây, doanh nghiệp chỉ cần khai báo qua hệ thống mạng điện tử và việc thông quan sẽ được hoàn tất trong vài chục phút. Như vậy gần như các qui trình đều được thực hiện trên máy, chỉ còn việc nộp thuế và lệ phí hải quan. Nếu như trong khâu này doanh ngiệp có được sự giúp đỡ của ngân hàng thì việc thông quan sẽ được thực hiện nhanh chóng và tiện lợi hơn rất nhiều. Về vấn đề này Hải quan cũng có những quy định rõ ràng : “Đối với hàng hóa phải nộp thuế ngay, sau khi cơ quan hải quan chấp nhận thông tin khai điện tử và cấp số tờ khai hải quan doanh nghiệp đi nộp thuế và xuất trình chứng từ nộp thuế hoặc bảo lãnh của tổ chức tín dụng hay tổ chức khác được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp cho Chi cục Hải quan điện tử trước khi thông quan.” Mặt khác đối với việc xác định rủi ro, đánh giá doanh nghiệp để tiến hành chấp nhận, từ chối bảo lãnh, ngân hàng cũng có được sự giúp đữ của cơ quan thuế theo quy định của Thông tư liên tịch 01/2006/TTLT – BTC – NHNN, QĐ 1269/BTngày 04/01/2006 2. Đối với ngân hàng: Ngân hàng được đề nghị cơ quan thuế cung cấp những thông tin liên quan đến khách hàng, bao gồm các trường hợp sau: - Tổ chức, cá nhân đề nghị vay vốn ngân hàng hoặc đang vay vốn ngân hàng mà ngân hàng cần xem xét năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân đó... 7.2. Cơ quan thuế được cung cấp cho ngân hàng những thông tin, tài liệu sau đây: - Thông tin chung về tổ chức, cá nhân kinh doanh: tên, địa chỉ (số điện thoại, fax nếu có) của tổ chức, cá nhân kinh doanh mới đăng ký hoạt động đã có mã số thuế; tổ chức, cá nhân kinh doanh ngừng hoạt động, giải thể, phá sản, đổi tên, đổi mã số, chuyển địa bàn hoạt động; - Tình hình thực hiện nghĩa vụ thuế của của tổ chức, cá nhân. - Bộ hồ sơ hải quan của tổ chức, cá nhân kinh doanh để làm căn cứ cho ngân hàng phối hợp với cơ quan thuế trong việc đối chiếu, xác nhận trong trường hợp cần thiết nhằm bảo đảm thu hồi các khoản nợ của tổ chức, cá nhân đó. 12. Trong quá trình phối hợp công tác, trường hợp phát hiện tổ chức, cá nhân là khách hàng của mình có dấu hiệu mất khả năng thanh toán, ngân hàng chủ động thông báo cho cơ quan thuế biết để có biện pháp ngăn ngừa các hành vi trốn thuế. Ngược lại, khi phát hiện tổ chức, cá nhân kinh doanh có dấu hiệu phá sản, giải thể, cơ quan thuế chủ động thông báo cho ngân hàng biết để kịp thời thu hồi nợ vay. Có được sự phối hợp như vậy sẽ làm giảm chi phí và rủi ro của ngân hàng trong đánh giá doanh nghiệp. Trên thực tế, các doanh nghiệp đã sử dụng dịch vụ bảo lãnh này một cách khá phổ biến : BIDV, HSBC… Trên trang web ngân hàng HSBC có giới thiệu về dịch vụ bảo lãnh thuế nhập khẩu như sau: “HSBC cung cấp dịch vụ bảo lãnh thanh toán thuế nhập khẩu/VAT cho doanh nghiệp - cam kết khả năng thanh toán các nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp. Trong trường hợp doanh nghiệp - bên được bảo lãnh - không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ thuế - ngân hàng sẽ thực hiện các nghĩa vụ tài chính đã được quy định trong thư bảo lãnh thay cho doanh nghiệp.” Trên trang web giới thiệu Theo quy định của pháp luật, chủ hàng hoá xuất nhập khẩu được phép chậm nộp thuế khi thông quan hàng hoá bằng bảo lãnh thanh toán thuế của ngân hàng. Nếu quý khách hàng là chủ hàng hoá xuất nhập khẩu, sản phẩm “bảo l ãnh thanh toán thuế” của LienVietBank sẽ là công cụ tài chính hiệu quả giúp Quý khách hàng chủ động hơn trong lưu thông hàng hoá giao thương quốc tế.  Đặc điểm - Bảo lãnh cho nghĩa vụ nộp thuế xuất/nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. - Loại tiền bảo lãnh: VNĐ hoặc ngoại tệ được cơ quan quản lý thuế chấp thuận. - Số tiền bảo lãnh: tối đa 100% giá trị thuế xuất/nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng mà khách hàng phải nộp. - Thời hạn bảo lãnh: thông thường là 30 ngày kể từ khi đăng ký Tờ khai hải quan. Các trường hợp thời hạn bảo lãnh khác: phù hợp với pháp luật hải quan, có ưu đãi theo chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước Việt nam. Về kết quả hoạt động kinh doanh bảo lãnh cuả một số ngân hàng như sau, trong 6 tháng đầu năm 2008, các Ngân hàng thương mại trên địa bàn Móng Cái đã bảo lãnh trên 4 tỷ đồng tiền thuế xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp, giúp cho việc thông quan hàng hóa được nhanh chóng. 2.2.3. Hạn chế Đối với thủ tục bảo lãnh thuế cho các doanh nghiệp, hiện nay, những quy định về bảo lãnh thời hạn nộp thuế vẫn chưa rõ ràng và thống nhất giữa các ngân hàng. Có ngân hàng bảo lãnh 30 ngày (bằng thời hạn ân hạn thuế của hải quan cho chủ hàng), có ngân hàng bảo lãnh dài hơn. Sự không thống nhất đó gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn ngân hàng nào cho phù hợp, và nó cũng tạo nên tâm lý không yên tâm cho doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Đối với các ngân hàng, sự không thống nhất này cũng có thể trở thành nguyên nhân khiến ngân hàng không giữ được khách hàng. Mặt khác khi hết thời gian ân hạn thuế, hải quan đề nghị ngân hàng trả tiền thay cho chủ hàng thì ngân hàng yêu cầu phải có thông báo và xác nhận của kho bạc nơi hải quan có tài khoản về chữ ký của người ký giấy đòi tiền, rồi là những thông báo cam đoan là doanh nghiệp chưa nộp thuế....như vậy thì tất cả các thủ tục của ngân hàng cũng phức tạp không kém gì so với các thủ tục của hải quan. Bản thân các mẫu cam kết bảo lãnh thuế của ngân hàng cho doanh nghiệp cũng không được thống nhất gây không ít khó khăn trong công tác thu hồi thuế của hải quan. Hơn nữa việc thanh toán và bảo lãnh thuế XNK cho các doanh nghiệp vẫn phát sinh một số bất cập như khi chuyển tiền nộp thuế thì thường ngân hàng chỉ chuyển tổng số tiền thuế mà doanh nghiệp phải nộp cho nhiều lô hàng và nhiều loại thuế, sau đó, khi hải quan hạch toán thuế thì phải tách bạch cho từng tờ khai và từng loại thuế. Như vậy, hải quan phải mất thời gian rà soát cân đối lại các khoản thuế cho từng tờ khai, từng doanh nghiệp. Một vấn đề quan trọng nữa là tuy đã thực hiện thông quan điện tử nhưng các thủ tục hải quan vẫn không phải không phức tập và mất ít thơi gian, tuy nhiên ngân hàng vẫn chỉ thực hiện một nghiệp vụ bảo lãnh là bảo lãnh nộp thuế, còn các giai đoạn khác trong thủ tục hải quan - cũng là những đối tượng có thể thực hiện bảo lãnh thì các ngân hàng lại chưa làm được. 2.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế Tuy đã có nhưng quy định và thông tư huớng dẫn việc thực hiện bảo lãnh thông quan cho các ngân hàng và doanh nghiệp thực hiện theo nhưng những quy định này mới chỉ dừng lại ở mức huớng dẫn thực hiện bảo lãnh thuế nhập khẩu hàng tiêu dùng. Trong khi đó những lĩnh vực mà doanh nghiệp cần được bảo lãnh thì rất nhiều. Hơn nữa các quy định này vẫn chưa quy định một cách đầy đủ những vấn đề cần thiết, như ví dụ về việc thời hạn bảo lãnh nộp thuế hay các mẫu cam kết bảo lãnh nộp thuế như đã nói ở trên. Những quy định về trách nhiệm và những ràng buộc giữa ngành Hải quan và ngân hàng vẫn còn lỏng lẻo, chưa có được sự trao đổi thông tin thật sự giữa ngân hàng và Hải quan. Việc thu thập thông tin về doanh nghiệp để xác định rủi ro thì Hải quan và ngân hàng vẫn mạnh ai nấy làm nên các quy trình kiểm tra cho phép doanh nghiệp xuất nhập khẩu của hải quan cũng như quy trình kiểm tra mức tin cậy, rủi ro của doanh nghiệp để ngân hàng ra quyết định bảo lãnh cũng còn nhiều phức tạp, mất thời gian. Về phía doanh nghiệp, có nhiều doanh nghiệp lợi dụng bảo lãnh của ngân hàng để trốn thuế, lậu thuế gây rủi ro lớn cho ngân hàng cũng như khó khăn cho việc thu hồi thuế của hải quan. Cũng có nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thực sự biết tới nghiệp vụ này của ngân hàng, do đó vẫn phải bỏ thời gian công sức cho các thủ tục hải quan, đặc biệt là với những doanh nghiệp ít thực hiện xuất nhập khẩu hàng hóa. Việc thực hiện các hình thức khác của bảo lãnh thông quan cũng không phải đơn giản, một sớm một chiều vì những lý do như tâm lý doanh nghiêp : tâm lý e ngại trước những sản phẩm dịch vụ mới, tâm lý của người Việt Nam thường không tin tưởng người khác mà thường tự làm mọi việc nhất là những công việc liên quan tới giấy tờ. Hoặc lý do cũng có thể ngay từ bản thân ngân hàng, với đội ngũ cán bộ chưa thực sự chuyên nghiệp hóa, chưa có những hiểu biết sâu về các lĩnh vực liên quan tới thuế quan… Một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa đồng bộ, không tạo được sự thống nhất, không bổ sung cho nhau, đôi khi còn có những mâu thuẫn. Thường là luật đi sau thực tế một thời gian dài với rất nhiều lấn sửa đổi, điều này tạo tâm lý e ngại cho ngân hàng khi phát triển những dịch vụ mới. 2.3. Các biện pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thông quan của các NHTM Việt Nam Trước hết là việc thực hiện các loại hình bảo lãnh mới liên quan thủ tục thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu như: -Thứ nhất : ngân hàng có thể thực hiện các dịch vụ giống như các đại lý thủ tục hải quan: thay mặt hoàn toàn cho doanh nghiệp làm các công việc liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá với cơ quan hải quan. Về phía doanh nghiệp không phải mất thời gian tự mình làm các thủ tục xuất nhập khẩu. Với một công việc đã được chuyên nghiệp hóa, với các thông tin sẵn có trong quá trình làm việc với doanh nghiệp, ngân hàng có khả năng thực hiện các thủ tục thông quan nhanh chóng hơn doanh nghiệp tự mình làm, hơn nữa với vai trò bảo lãnh của ngân hàng, cơ quan hải quan sẽ rút ngắn thời gian tìm hiểu thông tin hàng hóa, giảm sai sót . Phương pháp này cũng hạn chế được tiêu cực trong khai báo về trị giá hải quan khi doanh nghiệp làm thủ tục xuất nhập khẩu trực tiếp với công chức hải quan.     -Thứ hai : ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh “ nghiệp vụ ra quyết định trước” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc khai báo hải quan. Quyết định trước là văn bản của cơ quan Hải quan quyết định về phân loại hàng hóa, xác định xuất xứ và trị giá hải quan đối với hàng hoá dự kiến xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở đề nghị và các thông tin do doanh nghiệp cung cấp. Về trách nhiệm của cơ quan Hải quan: Khi nhận được yêu cầu ra quyết định trước của doanh nghiệp, cơ quan hải quan phải: tiếp nhận yêu cầu Quyết định trước của Người yêu cầu; tiến hành kiểm tra các thông tin do Người yêu cầu cung cấp, nếu thiếu thì đề nghị Người yêu cầu bổ sung, nếu từ chối, phải có thông báo cho người yêu cầu và nêu rõ lý do từ chối; ban hành Quyết định trước đối với hàng hóa dự kiến xuất khẩu, nhập khẩu theo đề nghị của Người yêu cầu trong thời hạn quy định...như vậy để thực hiện được việc ra quyết định trước thì cơ quan hải quan cần có thời gian nhất định để kiểm tra thông tin doanh nghiệp đưa ra, về phía doanh nghiệp cũng phải chờ đợi, mất công sức chi phí cho việc đi lại làm thủ tục. Với uy tín của mình ngân hàng có thể đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp truớc cơ quan hải quan về độ xác thực và đúng đắn của các thông tin đã được doanh nghiệp đưa ra. Điều này giúp cho việc ra quyết định trước được thực hiện nhanh chóng hơn, làm giảm bớt công việc cho cơ quan hải quan, cũng như giảm thiểu chi phí và công sức đi lại cho doanh nghiệp, rút ngắn được thời gian làm thủ tục. Hoặc là với những giai đoạn như : “Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian chờ kết quả giám định để xác định có được xuất khẩu, nhập khẩu hay không, nếu chủ hàng có yêu cầu đưa hàng hoá về bảo quản thì Chi cục trưởng Hải quan chỉ chấp nhận trong trường hợp đáp ứng yêu cầu giám sát hải quan” cũng là những giai đoạn ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp... Để làm được tất cả những điều này, việc cần thiết là phải thực hiện kết nối thanh toán, kết nối thông tin giữa ngành ngân hàng và hải quan giúp cho doanh nghiệp có thể phát huy được tối đa thế mạnh của bảo lãnh ngân hàng và thủ tục thông quan điện tử của hải quan. Một vai trò không thể thiếu là vai trò của các nhà làm luật. Phải có một hệ thống luật thống nhất và hoàn chỉnh quy định các vấn đề về bảo lãnh ngân hàng nói chung cũng như bảo lãnh thông quan nói riêng, Bản thân các ngân hàng cũng cần chú trọng việc đào tạo đội ngũ nhân viên, nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức hải quan và các vấn đề liên quan. Không chỉ vậy, việc tiếp xúc, giới thiệu, nâng cao nhận thức của khách hàng về vai trò của các nghiệp vụ bảo lãnh nói riêng và bảo lãnh thông quan nói riêng, thông qua nhữn buổi giới thiệu sản phẩm, những lớp học cho các doanh nhân cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc đưa các sản phẩm dịch vụ này đến với khách hàng. Kết luận Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế, tất cả các chủ thể của nền kinh tế thế giới luôn phải không ngừng tự hoàn thiện mình đế có thể đứng vững trước những thay đổi đang diễn ra từng ngày. Đặc biệt ngân hàng thương mai, một chủ thể mà sự ổn định và vững vàng của nó ảnh hưởng tới không chỉ sự ổn định của nền kinh tế một quốc gia mà còn ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu. Do đó việc mở rộng, phát triển, hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thương mại là một trong những vấn đề đáng lưu tâm. Trong quá trình nghiên cứu, đề án đã làm rõ vai trò của bảo lãnh trong hoạt động của ngân hàng cũng như đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Đặc biệt đề án chú trọng tới hoạt động bảo lãnh thông quan của ngân hàng thương mại vì những lý do như đã nói ở trên. Tuy nhiên việc mở rộng hay phát phát triển một nghiệp vụ bao giờ cũng là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian dài. Hơn nữa ở Việt Nam hiện nay, chính sách quản lý vĩ mô cũng như hành lang pháp lý của Nhà nước còn chưa đồng bộ, bước đầu ra nhập WTO, các doanh nghiệp và ngay cả bản thân ngân hàng đều phải thay đổi và hoàn thiện rất nhiều mới có thể “quen” với xu thế làm việc mới này – xu thế toàn cầu. Vì vậy ngoài những đóng góp nhỏ bé của đề án, còn có nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu rộng hơn, hoàn chỉnh hơn để góp phần hoàn thiện sản phẩm dịch vụ ngân hàng đầy mới mẻ và khó khăn này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - NXB Thống kê- Hà Nội năm 2002 Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính - Frederic S. Mishkin- NXB Khoa học kỹ thuật -Hà Nội năm 1999. Giáo trình Ngân hàng thương mại – NXB Thống kê- Hà Nội năm 2006 Giáo trình Nghiệp vụ ngân hàng thương mại – trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Thông tư số : 02/TT-NHNN14 Quyết định số 1655/1998/QĐ-BTM ngày 25/12/1998 của Bộ Thương mại. Thông tư liên tịch 01/2006/TTLT – BTC – NHNN, QĐ 1269/BTngày 04/01/2006 Quyết định số 149/2005/QĐ-TTg ngày 20-6-2005 của Thủ tướng Chính phủ Quyết định 50/2005/QĐ-BTC, Quyết định 52/2007/QĐ-BTC Các trang web:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22035.doc
Tài liệu liên quan