Chuyên đề Rủi ro tín dụng Ngân hàng trong bước hội nhập và phát triển của Ngân hàng vào nền kinh tế thị trường

Trên đây là một vài giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng cần thiết được rút ra từ thực tế tình hình hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng Ngân hàng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. Hoạt động tín dụng và phòng chống rủi ro tín dụng là vấn đề mà bất cứ Ngân hàng nào cũng quan tâm. Mặt khác, với vai trò là một Ngân hàng "phát triển" thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Một trong bốn Ngân hàng quốc doanh của Nhà nước, đây là vấn đề cần thiết được quan tâm hàng đầu. Tôi rất mong rằng những ý kiến đóng góp trên đây giúp ích được phần nào cho hoạt động tín dụng tại ngân hàng: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và ngăn ngừa rủi ro tín dụng phát sinh trong kinh doanh tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung. Nhiệm vụ trước mắt và tương lai hết sức nặng nề và đầy thử thách mới nhưng trước những thành công mà Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đã đạt được chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng vào tương lai của Ngân hàng. Đồng thời, cùng với sự năng động nhiệt tình của Ban lãnh đạo và sự làm việc tận tình của tất cả các đồng nghiệp của bản thân mình Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tin tưởng vững bước trên con đường phát triển xứng đáng là một trong bốn Ngân hàng quốc doanh hàng đầu của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, phát triển cùng với sự phát triển chung của sự nghiệp công nghiệp hoá trên toàn đất nước. Phần cuối của chuyên đề tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các thày cô giáo của học viện Ngân hàng. Đặc biệt với sự quan tâm và nhiệt tình giúp đỡ của thày giáo, các anh, chị của các phòng ban tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, tôi đã hoàn thành bài viết này. Do còn hạn chế về mặt thời gian cùng năng lực nghiên cứu của bản thân, bài viết chắc chắn sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định, tôi mong rằng sẽ nhận được những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của toàn thể thầy cô và các bạn.

doc102 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1074 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Rủi ro tín dụng Ngân hàng trong bước hội nhập và phát triển của Ngân hàng vào nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y càng nhỏ thì tình hình tài chính của doanh nghiệp càng tồi tệ và dễ đi đến vỡ nợ. */ Năng lực đi vay: Năng lực đi vay là khả năng của một doanh nghiệp kêu gọi xin vay và được tính bằng công thức sau: Nguồn vốn doanh nghiệp tự có Năng lực đi vay = ----------------------------------------- Nguồn vốn thường xuyên Một doanh nghiệp có khả năng tự chủ tài chính cao (hệ số tài trợ lớn) thường có năng lực đi vay lớn vì doanh nghiệp này có thể đáp ứng được các khoản nợ khi đến hạn thanh toán. Người ta đã tính rằng nếu doanh nghiệp có tỷ số này lớn hơn 2/3 thì doanh nghiệp có năng lực đi vay rất lớn. Ngược lại nếu thông số nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp đạt mức bảo hoà của năng lực đi vay. Vì vậy đối với doanh nghiệp này thì Ngân hàng không được cho vay. */ Khả năng thanh toán: Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn, khả năng thanh toán phản ánh tình tình của doanh nghiệp nên ta cần xem xét phân tích các chỉ tiêu: Khả năng thanh toán chung, khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán cuối cùng. - Khả năng thanh toán chung: Đây là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khái quát tình hình khả năng thanh toán của doanh nghiệp: Số tiền dùng để thanh toán Khả năng thanh toán = ------------------------------------------------- Số tiền doanh nghiệp phải thanh toán Trong đó: Số tiền dùng để thanh toán gồm vốn bằng tiền và các khoản có thể chuyển hoá thành tiền (các khoản phải thu, thành phẩm hàng hoá còn tồn kho). Số tiền doanh nghiệp phải thanh toán gồm các khoản phải trả người bán, người mua, các khoản phải trả cho cán bộ công nhân viên, các khoản nợ ngân hàng và các tổ chức kinh tế, và các khoản phải trả khác. Nếu hệ số khả năng thanh toán chung lớn hơn hoặc bằng 1 chứng tỏ khả năng thanh toán là bình thường, khả quan. Nếu doanh nghiệp để khả năng thanh toán nhỏ hơn 1 thể hiện doanh nghiệp có khả năng thanh toán nợ trong điều kiện không bình thường, thực trạng của doanh nghiệp có vấn đề. Tuỳ thuộc vào mức độ của các khoản nợ không thanh toán được để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp ỏ mức độ: - Không đủ vốn bằng tiền để thanh toán ngay các khoản nợ ( tình hình bắt đầu xấu đi). - Mất khả năng thanh toán các khoản nợ Ngân hàng đến hạn (tình hình tài chính căng thẳng). - Xuất hiện nợ quá hạn phải trả người bán. - Không hoàn thành nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước, nợ lương cán bộ công nhân viên ( tình hình trở nên nghiêm trọng) Căn cứ vào nhận xét chung, ta tiếp tục xem xét mức độ linh hoạt của doanh nghiệp trong việc giải quyết các khoản nợ qua các chỉ tiêu: Khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng thanh toán nhanh. - Khả năng thanh toán ngắn hạn: Là khả năng thanh toán đối với các khoản nợ ngắn hạn Vốn bằng tiền + Các khoản phải thu Khả năng thanh toán ngắn hạn = -------------------------------------------- Nợ ngắn hạn NH + Các khoản và các TCTD khác phải trả Nhìn chung hệ số lớn hơn hoặc bằng 1, doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. - Khả năng thanh toán nhanh: Chỉ tiêu này chỉ có ở doanh nghiệp có nguồn tài chính dồi dào, doanh nghiệp có thể chủ động thanh toán được bất cứ khoản nợ nào khi đến hạn thanh toán. Vốn bằng tiền Khả năng thanh toán nhanh = ------------------------------ Các khoản nợ đến hạn Nếu hệ số lớn hơn hoặc bằng 1, doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh. Qua thực tiễn thấy rằng nếu doanh nghiệp có tỷ lệ giữa vốn bằng tiền và các khoản nợ phải trả lớn hơn 0,5 đều có khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ khi đến hạn. Nếu hệ số càng nhỏ hơn 1, doanh nghiệp càng khó có khả năng thanh toán nhanh. Trong trường hợp này doanh nghiệp phải tính toán trước được các khoản nợ sẽ đến hạn thanh toán, có biện pháp thích hợp để cân đối số vốn bằng tiền đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn (tăng mức tiêu thụ sản phảm hàng hoá, đôn đốc thu các khoản phải thu ...) Để có kết luận chính xác ta phải xét khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác ( tình hình sử dụng vốn vay ngân hàng, tình hình công nợ phải thu, phải trả). Nếu trong quá trình hoạt động doanh nghiệp không có phát sinh nợ quá hạn phải trả đối với người bán chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động tốt, có khả năng điều hành nợ. */ Tình hình công nợ Xét tình hình công nợ doanh nghiệp trong mối quan hệ với ngân hàng, các tổ chức kinh tế khác, với người bán, người mua và thanh toán với ngân sách. - Tình hình sử dụng vốn vay: Nhận xét tình hình sử dụng vốn vay ngân hàng trên các khía cạnh: + Doanh số cho vay, thu nợ có phát sinh đều đặn không? + Có nợ quá hạn không? Nếu nợ quá hạn càng lớn, tình hình tài chính càng xấu. đối với các doanh nghiệp này khi cho vay cần phải xem xét kỹ các hoạt động tài chính của doanh nghiệp, thường diễn ra ba trường hợp sau: + Không có nợ quá hạn (ngắn và trung hạn) + Có một loại nợ quá hạn (ngắn và trung hạn) + Có hai loại nợ quá hạn ( cả ngắn và trung hạn) Khi xét nợ quá hạn, ta phải so sánh kỳ này với kỳ trước để thấy được xu thế phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nợ phải trả, nợ phải thu thường phát sinh thường xuyên, tuy nhiên để nhận xét cụ thể tình hình công nợ của doanh nghiệp có bình thường hay không, ta phải xem xét cụ thể từng trường hợp. Chú ý: Nếu số phải thu > Số phải trả > Vốn lưu động hoặc số phải trả > số phải thu + Vốn lưu động. Điều đó thể hiện tình hình tài chính của doanh nghiệp có vấn đề, trường hợp nàyphải xem xét cụ thể trong mối quan hệ với bạn hàng của doanh nghiệp kết hợp với tình hình sản xuất, kinh doanh trong những thời gian trước đó. - Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước. Thực chất là phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp đối với ngân sách nhà nước về nộp thuế, lợi nhuận và các khoản phải nộp ngân sách khác. Việc phân tích đánh giá căn cứ vào tỷ lệ thanh toán với ngân sách nhà nước của doanh nghiệp về các khoản phải nộp. Số đã nộp Tỷ lệ thanh toán ngân sách = ---------------------- Số phải nộp */ Khả năng thanh toán cuối cùng: Đây là chỉ tiêu bổ sung, làm căn cứ để cán bộ tín dụng xem xét có thể cho vay được hay không khi các chỉ tiêu trên chưa đủ tiêu chuẩn để xét cho vay. Do vậy chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp có quá trình hoạt động tốt. Tài sản có Tài sản thiếu Chênh lệch tỷ giá và lưu động - chờ xử lý - chỉ số giá chưa xử lý Khả năng thanh toán = ------------------------------------------------------------------------------ Nợ ngắn hạn NH + Các khoản và các TCKT khác phải trả Tài sản có lưu động gồm tài sản lưu động và tài sản thanh toán. Nếu hệ số nhỏ hơn 1, tình hình tài chính của doanh nghiệp rất xấu, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp cũng không đủ để trả nợ. Trường hợp này không nên cấp tín dụng. c- Đánh giá phân tích kết quả tài chính: Kết quả tài chính của khách hàng phản ánh chất lượng hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua chỉ tiêu lãi, lỗ thực tế. Hoạt động tín dụng Ngân hàng chỉ được đảm bảo mang lại hiệu quả khi đầu tư cho những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi. Quá trình đánh giá kết quả tài chính của khách hàng cần đi sâu nghiên cứu xem kinh doanh có lãi hay lỗ ở khâu nào. Từ đó chú trọng đầu tư tín dụng cho những sản phẩm đem lại lợi nhuận, không cho vay những sản phẩm kinh doanh lỗ hoặc chưa có biện pháp khắc phục tình trạng lỗ. d- Đánh giá khả năng và tình hình trả nợ vay ngân hàng: Tức là xem xét xem khách hàng có luôn luôn thực hiện đúng mọi quy định trong thể lệ tín dụng thanh toán của Ngân hàng hay không, uy tín của khách hàng đối với Ngân hàng qua việc vay trả thường xuyên ổn định, ít phát sinh nợ quá hạn hoặc phát hành séc quá số dư, đồng thời kiểm tra sự tôn trọng nguyên tắc về vay vốn tín dụng. Dựa vào phân tích tính toán các chỉ tiêu đã trình bày ở trên chúng ta có thể tiến hành phân loại doanh nghiệp tốt, khá, trung bình hoặc yếu kếm, tuỳ thuộc vào mức độ thực hiện các chỉ tiêu bằng cách tính điểm. Chú ý đối với các doanh nghiệp khi xét có các đặc điểm sau cần phải xem xét kỹ trước khi quyết định tín dụng. + Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp nhỏ hơn lãi suất tiền vay Ngân hàng + Tỷ lệ tài trợ nhỏ hơn 0,5 + Khả năng thanh toán cuối cùng nhỏ hơn 1. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Nhưng từ trước tới nay công tác này chưa được coi trọng và chú ý đúng mức hoặc không được tiến hành thường xuyên, đối tượng phân tích không rộng, dẫn tới nhiều khoản vay kém hiệu quả, người vay không trả nợ Ngân hàng, làm cho Ngân hàng thiếu vốn, đi đến phá sản. Vì vậy, để việc đầu tư tín dụng có hiệu quả và đúng hướng thì việc phân tích tình hình tài chính các đối tác của mình trước khi cung cấp tín dụng là cần thiết, không thể thiếu được đối với Ngân hàng, nhất là bước chuyển đổi sang kinh doanh thương mại thực sự trong cơ chế thị trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế ở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội. 1.1.2 - Thẩm định dự án Mục đích của dự án đầu tư là bổ sung vốn cho khách hàng phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vì vậy, trong quan hệ với ngân hàng, khách hàng phải giải trình dự án hoặc kế hoạch sản xuất của mình để xin vay vốn. Đánh giá tính khả thi của dự án kinh doanh cũng là một việc làm không thể thiếu được đối với Ngân hàng trưóc khi ra quyết định cho vay. Chất lượng đánh giá càng cao thì tính mạo hiểm trong cho vay càng giảm. Những vấn đề cần phân tích khi đánh giá một dự án sản xuất kinh doanh gồm: a- Để đánh giá cơ hội đầu tư có thuận lợi hay không cần dựa vào một số căn cứ sau: Một là: Chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước trong giai đoạn đầu tư; nghiên cứu xem Nhà nước đang khuyến khích hay đang hạn chế sự phát triển lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp chủ trương đầu tư. Hai là: Về nguồn tài nguyên thiên nhiên, khả năng khai thác chế biến vận chuyển để tạo ra nguyên liệu sản xuất. Ba là: Trình độ phát triển của các ngành cung cấp nguyên nhiên vật liệu và điều kiện tự nhiên ảnh hưởng tới ngành này. Bốn là: Nhu cầu tương lai về sản phẩm hàng hoá. Trong đó có nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Nhu cầu càng lớn thì khả năng giải quyết đầu ra của dự án càng thuận tiện. Năm là: Khả năng sản xuất ra các sản phẩm thay thế một số hàng hoá phải nhập. Khả năng cho phép đầu tư vào một số ngành đòi hỏi nguyên liệu phải nhập khẩu. Sáu là: Mối quan hệ ngành công nghệ trong nước và nước ngoài, biểu hiện qua việc cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm. Bảy là: Khả năng mở rộng hiện đại hoá. b- Nghiên cứu tính khả thi: - Sự tính toán mọi hoạt động trong tương lai - Những điều kiện để dự án có hiệu quả nhất - Đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên phù hợp c- Nghiên cứu kỹ nội dung cơ bản của dự án Nội dung cơ bản của dự án gồm các mặt sau: - Những căn cứ đầu tư dự án - Sản phẩm - Thị trường - Khả năng đảm bảo và cung cấp các yếu tố đầu vào - Xác định số vốn cần thiết cho dự án - Dự kiến doanh thu, chi phí, lợi nhuận Thứ nhất: Căn cứ đầu tư dự án gồm những căn cứ pháp lý và căn cứ thực tế. + Về pháp lý: Hệ thống luật, các văn bản pháp lý, các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. + Căn cứ thực tế: Bối cảnh, tình hình mục tiêu và năng lực đầu tư khả năng về vốn công nghệ cung cấp và tiêu thụ. Thứ hai: Nội dung sản phẩm của dự án đề cập đến các vấn đề tính năng công dụng, quy cách chất lượng. Thứ ba: Thị trường cần nghiên cứu - Nhu cầu sản phẩm hiện tại trên các địa bàn. - Dự báo nhu cầu trong tương lai. - Các nguồn đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai. - Dự báo về cạnh tranh, mức độ cạnh tranh và đối thủ cạnh tranh. Các yếu tố của cạnh tranh như: Giá cả, chất lượng, quy cách, bai bì, mẫu mã, phương pháp cung cấp, phương thức thanh toán. Dự tính khối lượng sản phẩm bán ra hàng năm, phân tích mức độ thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm trong suốt thời gian dự án tồn tại. Trên cơ sở phân tích các yếu tốnêu trên phải đề ra: + Chiến lược sản phẩm, chất lượng, hình thức trình bày và dịch vụ sau khi bán. + Chiến lược giá cả, lợi nhuận. + Biện pháp mở rộng quan hệ với thị trường. + Quảng cáo và các biện pháp xúc tiến. Thứ tư: Khả năng đảm bảo và cung cấp các yếu tố đầu vào chủ yếu như nguyên nhiên vật liệu, năng lượng ... Nêu rõ nguồn và phương thức cung cấp các yếu tố đó. Thứ năm: Dự tính doanh thu thuế, chi phí và lợi nhuận dự án đem lại các khâu sản xuất chính, phụ, xác định thời hạn thu hồi vốn, thời hạn trả nợ vay và nguồn trả. 1.2- Những dữ liệu vô hình: ( Những mặt định tính trong phân tích tín dụng) Như đánh giá tư cách người xin vay, khả năng quản lý, phân tích ngành, nền kinh tế và những người đi vay. Đây là điều đang bị coi nhẹ và ít được thực hiện nhất, trong thực tế cho vay thương mại gần đây. Ta có thể coi đây là "nghệ thuật cho vay". Để đánh giá được loại dữ liệu này, cán bộ tín dụng thường phải có kinh nghiệm, nó sẽ giúp cho cán bộ tín dụng có được cái nhìn chủ quan chân thực về năng lực cũng như khả năng sinh lời nói chung của doanh nghiệp. Các yếu tố để đánh giá dữ liệu này gồm: a- Người lãnh đạo doanh nghiệp Người lãnh đạo ở đây không đơn thuần chỉ là nhà quản lý mà còn phải là người có khả năng lãnh đạo doanh nghiệp, có sự ảnh hưởnglớn tới những người xung quanh bằng lời nói và hành động. Những người này thường có khả năng đưa ra những quyết định rõ ràng, dứt khoát khi có tình huống xấu xảy ra. Xét trong hoàn cảnh cho vay, một người lãnh đạo giỏi sẽ giúp giảm bớt rủi ro khi xuất hiện một khoản tín dụng có vấn đề do hậu quả của sự kém năng động hay không có khả năng đối phó trước một thị trường thay đổi hoặc một sự kiện bất thường nào đó. b- Chiều sâu của bộ máy quản lý: Mọi cán bộ tín dụng khi bắt đầu thực hiện một quan hệ tín dụng mới đều có dự kiến duy trì quan hệ đó trong một thời gian dài. Do những nhận xét ban đầu về sức mạnh quản lý của doanh nghiệp thường chỉ tập trung vào giám đốc, ngay từ khi đặt quan hệ, cán bộ tín dụng nhất thiết phải tìm ra và nhận định một cách chủ quan lớp cán bộ lãnh đạo kế cận ở những lĩnh vực như tài chính, sản xuất, tiêu thụ. Những phân tích mang tính phòng ngừa này giúp tránh được những chi phí tốn kém để thanh lý công ty hay các biện pháp xử lý khi doanh nghiệp khiếm khuyết giám đốc do các nguyên nhân bất thường. c- Sự đa dạng về kinh nghiệm Một trong những dấu hiệu rõ nhất chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động tốt là sự đa dạng về các kinh nghiệm kinh tế, kỹ thuật, xã hội của "bộ khung" quản lý trong doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp có khả năng chống đỡ trước những biến động bất ngờ của nền kinh tế. Với một hệ thống những người lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm, sẽ làm cho người cho vay đặt niềm tin vào sự an toàn cũng như hiệu quả của đồng vốn đầu tư. d- Tầm nhìn của người lãnh đạo: Tầm nhìn của người lãnh đạo thể hiện trong những bảng kế hoạch, đường lối chiến lược của doanh nghiệp trong tương lai. Do sự phát triển không ngừng của công nghệ, xã hội không ngừng biến đổi do vậy công ty ít nhất cũng phải quan tâm chú ý đến những sự kiện sẽ sảy ra để theo kịp những vận hội mới và xác định được các nguy cơ đe doạ có thể xảy ra. Ngoài việc xuống tận các doanh nghiệp, các cán bộ tín dụng có thể thu thập thông tin từ các cơ quan cung cấp thông tin để thu được cái nhìn toàn diện về các yếu tố trên của doanh nghiệp. Đó là các cơ quan chuyên theo dõi thông tin tín dụng của các doanh nghiệp trong nước. Nếu Ngân hàng có yêu cầu về thông tin tín dụng của doanh nghiệp nào đó, cơ quan này sẵn sàng đáp ứng trên cơ sở phải trả chi phí. Chẳng hạn ở Mỹ có cơ quan DUN, ở Việt Nam có trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro TPR. Thông tin từ các cơ quan này thường gồm các thành phần chủ yếu sau: Phần I: Họ tên, địa chỉ doanh nghiệp, số liệu tiêu chuẩn công nghiệp, mã số hệ thống dữ liệu, loại hình doanh nghiệp, đánh giá tín dụng tổng hợp, năm thành lập, doanh số bán, vốn tự có, số lượng lạo động, lịch sử doanh nghiệp bằng con số hoặc một lời nhận xét tốt hay xấu. Phần II: Các thông tin từ những người cung cấp và tiêu thụ, Tình hình thanh toán của doanh nghiệp. Phần III: Các số liệu mới nhất của bảng tổng kết tài sản, doanh thu lợi nhuận. Các thông tin về phạm vi bảo hiểm thuê mua khuynh hướng bán hàng và lợi nhuận, khuynh hướng phát triển gần đây của doanh nghiệp. Phần IV: Thông tin về các khoản vốn bằng tiền và tình hình chi trả tín dụng. Phần V: Thông tin quan trọng về tiểu sử của các chủ doanh nghiệp; kinh nghiệm làm ăn, các mối quan hệ kinh doanh, các khó khăn trong quá khứ và hiện tại. Phần VI: Mô tả một số chỉ tiêu mang tính bản chất công việc kinh doanh của doanh nghiệp, các khách hàng có quan hệ, các tiện nghi vật chất. Việc đánh giá những yếu tố này không dễ dàng và tự chúng không thể đưa ra được một câu trả lời rõ ràng, minh bạch. Trong mỗi trường hợp, những kết quả này trực tiếp thu được từ khả năng của cán bộ tín dụng trong việc đánh giá một cách chủ quan những khía cạnh vô hình của doanh nghiệp. Dù hoàn toàn không có một công thức khoa học nào để đưa ra những kết luận này nhưng cán bộ tín dụng và Ngân hàng không được vì thế mà không tập trung sự chú ý, cố gắng và đào tạo vào lĩnh vực quan trọng bậc nhất này của quá trình cho vay. Để có một khoản tín dụng tốt thì có rất nhiều điều ngoài một báo cáo tài chính vững mạnh. Bằng việc tập trung và xây dựng một đội ngũ cán bộ tín dụng vững mạnh về kỹ thuật và trực giác nhạy bén, sắc sảo, Ngân hàng có thể đạt được những tiến bộ lớn trong việc đầu tư cho vay có hiệu quả. 2- Những dấu hiệu nhận biết về các khoản cho vay có vấn đề. Có nhiều dấu hiệu về các khoản cho vay có vấn đề, nhưng không có một mô hình nhất định về các biến cố thường xuyên để có thể công bố đó là các khoản cho vay có vấn đề. Trong lĩnh vực cho vay kinh doanh, một hoặc nhiều dấu hiệu sau sẽ ám chỉ khó khăn tài chính , cụ thể là những dấu hiệu chủ yếu sau: - Việc trì hoãn nộp các báo cáo tài chính. - Chậm trễ trong việc dàn xếp những cuộc viếng thăm doanh nghiệp và sự suy đồi trong mối quan hệ tồn tại giữa đội ngũ nhân sự của Ngân hàng và người vay. Sự suy giảm bầu không khí tin cậy và hợp tác. - Số dư tiền gửi ký thác giảm sút, xuất hiện séc rút quá số dư hoặc bị trả lại. - Một sự gia tăng bất thường hàng tồn kho và sự gia tăng các khoản nợ thương mại. - Chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp giảm sút, khách hàng không còn tín nhiệm như trước nữa , dẫn đến phải bán hàng với thời hạn trả tiền dài hơn, hoặc bán cho cả doanh nghiệp yếu kém về tài chính, khả năng thanh toán thấp. - Hoàn trả nợ vay Ngân hàng chậm hoặc quá hạn. - Sự bành trướng qua việc hợp nhất hoặc mua; thảo luận sự hợp nhất với một doanh nghiệp khác. - Sự thay đổi nhà quản lý hoặc sự từ chức của nhân sự chủ chốt. Các khó khăn lao động, sự thay đổi về các nguyền tắc cư sử xã hội phát sinh. - Các bố trí tài chính mới hoặc các khoản nợ mới. - Các thảm hoạ về thiên nhiên như bảo lụt, hoả hoạn. 3- Đa dạng hoá khách hàng: Mục tiêu chủ yếu của việc đa dạng hoá khách hàng là sự kết hợp duy trì quan hệ khách hàng lâu dài. Đa dạng hoá khách hàng là một chiến lược không thể thiếu được trong hoạt động tín dụng Ngân hàng của một Ngân hàng thương mại. Đáp ứng nhu cầu mọi khách hàng bất kể khách hàng thuộc thành phần kinh tế nào hay thuộc loại hình kinh doanh nào là nhiệm vụ của Ngân hàng. Bước sang giai đoạn mới với chức năng một Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội cần phải mở rộng, đa dạng hoá mọi đối tượng , lấy khách hàng làm mục tiêu. Kết hợp đặc điểm riêng vốn có của Ngân hàng (tín dụng doanh nghiệp Nhà nước và tín dụng hộ sản xuất, hộ tiêu dùng tại trung tâm kinh tế của đất nước) và nhiệm vụ mới (phát triển hoạt động theo hướng kinh doanh thương mại) đa dạng hoá khách hàng cần có nội dung chủ yếu sau: - Củng cố và phát triển khách hàng truyền thống, các khách hàng vay vốn đầu tư trung và dài hạn. - Phát triển khách hàng lớn trong khu vực sản xuất, kinh doanh và hỗ trợ đầu tư phát triển. - Ưu tiên khách hàng vừa và nhỏ, khách hàng làm hàng xuất khẩu, trong cả lĩnh vực đầu tư phát triển và sản xuất kinh doanh. - Phát triển khách hàng là đối tượng đầu tư trọn gói đồng bộ (cả tín dụng đầu tư và vay vốn lưu động sản xuất). - Phát triển khách hàng được đồng tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau. - Phát triển khách hàng ngoài quốc doanh thuộc mọi ngành nghề. Chỉ trong tương lai, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh sẽ phát triển rất mạnh. Vì vậy, ta phải nhanh chóng nắm bắt được đối tượng khách hàng này. Trước hết phải xoá bỏ mặc cảm đối với thành phần kinh tế này, đối sử thật bình đẳng với họ. Muốn mở rộng thị trường đầu ra ,Ngân hàng phải vươn tới cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tất nhiên phải có chính sách thể lệ rõ ràng, phải nhanh chóng thu hút họ nếu không trong tương lai họ sẽ quan hệ làm ăn với các Ngân hàng khác. Do đó Ngân hàng phải tạo ra một cơ chế vừa thông thoáng, vừa chặt chẽ. Phương thức cho vay phải đa dạng, phong phú, phù hợp với tính chất, qui mô, đặc điểm của từng loại hình sản xuất kinh doanh tạo cho người vay chủ động trong sử dụng vốn, trả nợ tín dụng , quay vòng nhanh mang lại hiệu quả cao cho người vay và Ngân hàng. Ngoài việc cho vay, thu nợ gọn những món vay, từng khế ước, có lẽ Ngân hàng nên qui định thêm một số phương thức vay linh hoạt hơn như: + Trên cơ sở tài sản thế chấp, Ngân hàng và khách hàng thoả thuận mức dư nợ. Từ đó có thể cho vay theo "tài khoản đặc biệt" đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (mở cho họ một tài khoản tiền vay) có thu nhập thường xuyên , trên cơ sở đó các doanh nghiệp, các hộ sản xuất có thể chủ động rút tiền vay và nộp tiền vay vào trả nợ hàng ngày, nhưng mức dư nợ không quá mức đã thoả thuận trước giữa Ngân hàng và khách hàng. + Từng bước cho các đơn vị này sử dụng séc thanh toán, điều này tạo điều kiện thuận lợi không chỉ cho khách hàng dễ dàng sử dụng nguồn vốn một cách linh hoạt mà còn năng cao khả năng quản lý khoản vay, tránh sử dụng sai mục đích của Nhà Ngân hàng. Đi đôi với việc đa dạng hoá khách hàng thì vấn đề duy trì quan hệ khách hàng lâu dài cũng như tạo điều kiện cho việc giám sát của Ngân hàng tốt hơn. Khách hàng quan hệ lâu dài vừa có lợi cho khách hàng cũng như cho cả Ngân hàng. Một khách hàng quen thuộc thì dễ được vay hơn, bởi vì Ngân hàng tốn ít thời gian để xác định người vay này sử dụng tiền vay như thế nào? Khách hàng quan hệ lâu dài giúp cho ngân hàng có thể đối phó với những rủi ro bất ngờ mà ngay cả Ngân hàng cũng không thể lường trước được, vì khách hàng muốn giữ gìn quan hệ lâu dài (gợi ra sự gắn bó chặt chẽ hơn và có lợi cho cả hai bên) với Ngân hàng để có những ưu đãi trong vay vốn. Phương pháp để tạo ra sự gắn bó chặt chẽ này đối với các Ngân hàng là nắm giữ một số cổ phần của công ty mà Ngân hàng cho vay tiền, đồng thời có những thành viên trong ban giám đốc quản lý. Do đó các công ty này là người đại diện cho Ngân hàng. Cuối cùng một biện pháp vô cùng quan trọng để thu hút khách hàng là phải từng bước trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho Ngân hàng, thể hiện là luôn luôn làm cho bộ mặt trụ sở Ngân hàng khang trang, trang bị nội thất gọn gàng sạch đẹp, các phương tiện tính toán truyền tin hiện đại, thái độ phục vụ văn minh lịch sự, số lượng và chất lượng dịch vụ đảm bảo. Đây là những điều kiện thể hiện sức mạnh và sự an toàn của Ngân hàng có sức lôi cuốn khách hàng rất lớn. 4- Giải pháp san sẻ rủi ro Giải pháp san sẻ rủi ro nhằm phân tán rủi ro bất khả kháng, khó tránh khỏi như thiên tai, bão lụt, hoả hoạn ... các biện pháp san sẻ rủi ro gồm có tránh dồn vốn, liên kết đầu tư và bảo hiểm tín dụng. a- Tránh dồn vốn Cách phân phối tín dụng một cách tốt nhất đối với một Ngân hàng muốn tránh rrủi ro là rải tiền của mình vào nhiều khoản đầu tư, nhiều khách hàng khác nhau. Để thực hiện biện pháp này cần quán triệt hai vấn đề: - Cho vay nhiều đối tượng thuộc các loại hình sản xuất khác nhau. Không cho vay quá nhiều để sản xuất kinh doanh một thứ sản phẩm hàng hoá, đặc biệt là những hàng hoá mang tính không thiết yếu, Nhà nước khuyến khích sản xuất; nhu cầu, năng lực cạnh tranh không ổn định, trong sản xuất kinh doanh dễ gặp rủi ro. Không đầu tư một số tiền lớn cho một khách hàng mà phải san ra nhiều khách hàng trong cùng một ngành sản xuất kinh doanh, nhất là sản phẩm kinh doanh những mặt hàng nói trên. Đây là phân tán hệ số rủi ro trên số món vay. b- Đa dạng hoá sản phẩm Ngân hàng Ngân hàng cần thiết phải nghiên cứu thị trường để tiến hành tìm ra cho mình những sản phẩm mới để phục vụ cho những nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Và sự đa dạng về sản phẩm Ngân hàng cũng là một phương pháp tốt nhất để san sẻ bớt rủi ro cho Ngân hàng. Bởi nếu một hoạt động nào đó của Ngân hàng yếu kém thì sẽ có những hoạt động khác hỗ trợ, giúp cho ngân hàng không lâm vào tình trạnh bế tắc. c- Liên kết đầu tư Liên kết đầu tư nhằm cung cấp những khoản tín dụng lớn mà một Ngân hàng không đủ khả năng cho vay, khó xác định mức độ rủi ro mạo hiểm. Nhiều Ngân hàng sẽ kết hợp với nhau thành nhóm cùng xem xét đánh giá khách hàng, phân tích khả năng sinh lời của dự án đầu tư. Các Ngân hàng tham gia đầu tư phải liên kết đầu tư nêu rõ trách nhiệm của từng thành viên. d- Bảo hiểm tín dụng Bảo hiểm là một biện pháp hết sức quan trọng nhằm dàn trải rủi ro. Bảo hiểm có lợi về mặt kinh tế cho mọi người, nó làm giảm mất mát thiệt hại của cải, ở Việt Nam nói chung bảo hiểm chưa đi sâu vào đời sống xã hội. Bảo hiểm tín dụng lại càng mới lạ hơn. Trong cơ chế kế hoạch hoá, hoạt động tín dụng của Ngân hàng không được coi là một ngành kinh doanh. Khi phát sinh rủi ro tín dụng , Ngân hàng thường dùng những biện pháp phi kinh tế để ngăn chặn như không cho các tổ chức và cá nhân rút tiền và phát hành thêm tiền để bù đắp... Vấn đề bảo hiểm tín dụng không được đề ra. Chuyển sang cơ chế thị trường, hoạt động tín dụng được coi là một ngành kinh doanh. Sản phẩm của Ngân hàng là quyền sử dụng vốn tín dụng của khách hàng trong những thời hạn nhất định. Quân hệ giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp, cá nhân là quan hệ bạn hàng bình đẳng. Để ngăn chặn những bất trắc xấu đối với những hoạt động tín dụng đã đến lúc cần thiết bàn về bảo hiểm tín dụng. Có ba hình thức bảo hiểm tín dụng như sau: Một là khách hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm cho ngành nghề mà họ kinh doanh vì vậy, nếu khoản tín dụng trong trường hợp này coi như cũng được bảo hiểm một cách gián tiếp. Phương pháp này không làm phát sinh thêm thao tác nghiệp vụ cho Ngân hàng. Để sử dụng tốt hình thức này về phía Ngân hàng cần có chính sách ưu tiên cho vay vốn với khối lượng lãi suất đối với các doanh nghiệp, cá nhân đã mua bảo hiểm. Hai là sử dụng biện pháp bảo lưu có nghĩa Ngân hàng tự bảo hiểm cho chính mình, bằng cách lập tín dụng phòng để bù đắp những thiệt hại khi gặp rủi ro tín dụng. Từ đó hạn chế những hậu quả xấu có thể xảy ra, mà vẫn bảo đảm được tình hình tài chính của Ngân hàng. Còn nếu rủi ro không sảy ra thì số tiền quỹ dự phòng coi như là một khoản lợi nhuận của Ngân hàng. Quỹ dự phòng sẽ ngày càng lớn qua các năm và khả năng của nó lại càng lớn. Ba là Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp. ở nước ta hiện nay chưa thực hiện bảo hiểm tín dụng cho nên câu hỏi được đặt ra là ngành Ngân hàng mua bảo hiểm ở đâu? để giải quyết vấn đề này, giải pháp đang được đặt ra là thành lập tổ chức bảo hiểm tín dụng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. Đối tượng bảo hiểm là tất cả các khoản tín dụng đầu tư ở Việt Nam. Để có khả năng bảo hiểm ngày càng lớn tổ chức bảo hiểm tín dụng có thể mua lại bảo hiểm của các tổ chức quốc tế về bảo hiểm. Sự ra đời của tổ chức này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc ngăn ngừa rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ tín dụng. 5- Giải pháp về các bảo đảm tín dụng a- Bảo lãnh Là hoạt động quan trọng đa dạng trong đời sống kinh tế xã hội nói chung và trong kinh doanh tiền tệ nói riêng. Thực hiện bảo lãnh sẽ tạo thêm khả năng các giao dịch vay nợ tăng cường sự ổn định, giảm thiểu rủi ro trong quan hệ vay mượn. Bảo lãnh được coi như là một hình thức bảo đảm nợ. Trong cam kết trách nhiệm của mình, người bảo lãnh luôn thể hiện việc thực hiện nghĩa vụ hầu như là "bất khả kháng" trước chủ nợ. Bảo lãnh được thực hiện nhằm thực hiện khả năngvay nợ. Việc bảo lãnh được thực hiện bằng văn bản hoặc hợp đồng bảo lãnh hợp pháp của chủ tài khoản đứng bảo lãnh. Bảo lãnh trở thành một trong những phương thức xét cho vay của Ngân hàng là cần thiết Ngân hàng sẽ yên tâm hơn, giảm bớt thời gian, chi phí để tìm hiểu khách hàng khi họ được bảo lãnh bởi một doanh nghiệp có uy tín hay một tổ chức tín dụng khác. Do đó, rủi ro phát sinh trong quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và người được bảo lãnh vay vốn sẽ giảm. Tuy nhiên, rủi ro cũng có thể xảy ra do tình trạng của chính người bảo lãnh. Cho nên, người bảo lãnh cần phải có những điều kiện sau: + Có tư cách pháp nhân + Có đủ điều kiện và có đủ nguồn vốn để trả nợ Ngân hàng khi người vay không trả được nợ. Thường là những cá nhân hay tổ chức kinh tế có uy tín trên thương trường đứng ra bảo lãnh. + Người bảo lãnh phải tôn trọng những qui định, giới hạn bảo lãnh (mức tối đa) của pháp luật qui định. Mặt khác thiết lập những ràng buộc trách nhiệm nhất định đối với người được bảo lãnh. b- Cầm cố Cầm cố tài sản là việc bên vay đưa tài sản của mình cho Ngân hàng giữ để đảm bảo việc trả nợ. Nếu đến hạn bên vay trả hết nợ thì Ngân hàng trả lại tài sản cầm cố. Nếu bên vay không trả hết nợ gốc và lãi thì tài sản cầm cố được xử lý theo phương thức hai bên đã ký kết trong Hợp đồng tín dụng và hợp đồng cầm cố tài sản. Giống như thế chấp tài sản vay vốn, việc cầm cố tài sản vay vốn cũng phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ chủng loại, số lượng, giá trị ... Việc định giá và kiểm định tài sản cầm cố như tài sản thế chấp. Còn lãi suất cầm cố do giám đốc chi nhánh Ngân hàng cho vay quyết định, phù hợp với lãi suất thị trường ở địa phương và mức chi phí bảo quản tài sản cầm cố nhưng không nhỏ hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn cùng kỳ. Khi cầm cố, Ngân hàng cũng phải có trách nhiệm bảo quản không được sử dụng vào mục đích khác. Khác với tài sản thế chấp, tài sản cầm cố chỉ là động sản thuộc quyền sở hữu của bên vay và bán được trên thị trường, chứng từ có giá đem cầm cố có thể là trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước, kỳ phiếu, thẻ tiết kiện của các Ngân hàng thương mại quốc doanh. c- Tín chấp Đối với những doanh nghiệp đã có quan hệ tín dụng thường xuyên với Ngân hàng, vay trả sòng phẳng, có tài khoản tiền gửi tại chi nhánh mà số dư tài khoản tiền gửi thường xuyên đủ khả năng trả nợ và lãi trong từng kỳ hạn, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có lãi thì Ngân hàng có thể tiến hành cho vay theo phương thức tín chấp. d- Thế chấp Hiện nay hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế với sự chuyển hướng sang hạch toán kinh doanh độc lập là một điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong vấn đề bảo đảm an toàn và phát triển vốn. Với nền kinh tế thị trường, các Ngân hàng quốc doanh nói chung và chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội nói riêng không còn phải thực hiện các nghiệp vụ bao cấp về vốn cho các doanh nghiệp nữa. Do vậy vị trí hoạt động cho vay thế chấp càng trở nên hết sức quan trọng, nhất là đối với thành phần ngoài quốc doanh, thành phầm chiếm tới 15.3% tổng dư nợ tín dụng - đây là đối tượng tín dụng đông đảo, phong phú đang có chiều hướng phát triển mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vậy phải thực hiện thế chấp như thế nào để đồng vốn đạt hiệu quả nhất, đảm bảo sự an toàn và phát triển vốn. Tài sản thế chấp phải đủ các yêu cầu sau: - Phải có đủ giấy tờ chứng minh thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay, không thuộc loại pháp luật cấm buôn bán chuyển nhượng, không phải là tài sản đang thế chấp ở Ngân hàng khác hay có tranh chấp. - Tài sản phải có giá trị là hàng hoá khi phát mại. Khi xét đến giá trị của tài sản, Ngân hàng nên lưu ý đến giá trị của nó tại thời điểm khoản vay hết hạn. B - Các giải pháp khắc phục rủi ro tín dụng Những giải pháp nêu trên có tác dụng phòng ngừa rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, khi rủi ro đã xuất hiện, Ngân hàng cũng có những giải pháp thích ứng nhằm hạn chế tối đa tổn thất do rủi ro này đem lại. 1- Phương pháp thu hồi những khoản nợ khó đòi Việc cho vay của Ngân hàng thương mại thường xuyên xuất hiện rủi ro và các Ngân hàng chỉ quết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thận các yếu tố có liên quan đến tính chân thật và khả năng của người vay trong việc hoàn trả nợ. Tuy nhiên sự phân tích tín dụng không đạt đến mức ta có thể dự đoán hoàn toàn chính xác về một khoản cho vay có được hoàn trả như đã thoả thuận hay không. Tính chân thật và khả năng hoàn trả của người đi vay có thể thay đổi sau khi khoản vay đã được thực hiện. Việc này là nguyên nhân tạo ra những khoản vay có vấn đề hoặc đã dẫn đến sự tổn thất. Tuỳ thuộc vào quy mô của các Ngân hàng mà nhân sự hoặc bộ phận chịu trách nhiệm xử lý những khoản cho vay có vấn đề được bố trí khác nhau, ở những ngân hàng nhỏ, những cán bộ cho vay trước đây tiến hành xử lý, dưới sự cố vấn của Luật sư. Nhiều ngân hàng đặc biệt là Ngân hàng lớn, cho rằng một bộ phận riêng với đội ngũ cán bộ được huấn luyện sẽ có nhiều kinh nghiệm và chuyên môn để xử lý các khoản cho vay có vấn đề. Để bộ phận này giúp giải quyết các khoản cho vay có vấn đề sẽ tốt hơn các cán bộ đã thực hiện những khoản cho vay lúc ban đầu. Các tổ chức xử lý này sẽ có phương pháp đánh giá mới, tốt đẹp hơn. Hơn nữa cán bộ cho vay có thể phát triển một mối quan hệ riêng gắn bó với người vay đến nỗi khó có sự phân tích khoa học và vô tư, và do đó có thể thiếu sự cương quyết cần thiết trong việc xử lý các khoản cho vay. 1.1- Ngăn ngừa những khoản cho vay khó đòi và tổn thất tín dụng Các Ngân hàng thương mại rất quan tâm đến các biện pháp ngăn ngừa và các biện pháp đề phòng giảm bớt thiệt hại bao gồm tăng cường sự giám sát, tăng chi phí thu nợ ... Ngay khi có dấu hiệu là những người người vay đã gặp khó khăn về tài chính, nhà Ngân hàng phải áp dụng kịp thời các biện pháp để điều chỉnh tình huống và bảo vệ lợi ích của Ngân hàng. Một trong những biện pháp sau đây hoặc một sự liên kết có thể được áp dụng, để cứu lấy người vay và khôi phục sức mạnh tài chính của họ. Cố vấn, nhân viên Ngân hàng có thể cho những lời khuyên về nhiều vấn đề như bán hàng, thu tiền, sản xuất ... - Tăng thêm vốn - Ngân hàng có thể đề nghị các chủ doanh nghiệp cấp thêm vốn. Nếu là công ty cổ phần thì khuyến khích bán thêm cổ phiếu và như vậy tăng thêm nguồn vốn mới. - Hợp nhất - Ngân hàng có thể khuyến khích người vay hợp nhất với một đơn vị khác. Điều này chỉ có thể được đề nghị sau khi nghiên cứu và định giá cẩn thận tất cả các yếu tố có ảnh hưởng. Bản chất của biện pháp này là hình thức tín chấp. Nhưng đặc điểm riêng biệt của nó là cho phép Ngân hàng san sẻ bớt mức độ rủi ro cao của khoản tín dụng mà vẫn tạo điều kiện thuận lợi về nguồn vốn cho các doanh nghiệp hoạt động tạm thời chưa có hiệu quả. - Giảm bớt kế hoạch mở rộng - Nếu kế hoạch mở rộng đang được trù tính , người vay nên loại bỏ chúng cho đến khi doanh nghiệp đã cải thiện tình hình tài chính của nó. - Khuyến khích thu hồi các khoản đầu tư chưa đến hạn, công nợ. - Giảm tồn kho bằng việc cải tiến phương thức bán hàng, hạ giá bán, ... nhằm tăng doanh thu bán hàng. - Nhận thêm vật thế chấp bảo đảm cho khoản vay. - Nhận sự bảo lãnh của cổ đông chủ chốt, người cung ứng hay người mua sản phẩm. - Gia hạn nợ, giảm mức thu của các kỳ hạn nợ. - Tăng thêm các khoản cho vay. Thông thường các Ngân hàng không muốn tăng thêm vốn vay cho một doanh nghiệp đang khó khăn về hoàn trả tín dụng mặc dù nó là một giải pháp khá hấp dẫn nhằm khắc phục khó khăn cho khách hàng tạo điều kiện cho khách hàng có khả năng thanh toán các khoản tín dụng trước đó. Nó chỉ được thực hiện sau khi tất cả các điều kiện do Ngân hàng ấn định đã được đáp ứng và rõ ràng là doanh nghiệp ấy có thể được phục hồi. 1.2 - Xử lý khoản nợ có vấn đề Trong xử lý các khoản nợ cho vay khó đòi Ngân hàng thương mại có hai sự lựa chọn tổng quát khai thác hoặc thanh lý và trong mỗi sự lựa chọn có những cách khác nhau. Khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoản vay được trả một phần hay toàn bộ mà không dựa vào các công cụ pháp lý để ép buộc thu nợ. Thanh lý là ép người vay thuân theo các điều khoản của hợp đồng tín dụng, áp dụng và thực hiện tất cả các biện pháp hợp lý để đạt mục đích. */ Tổ chức khai thác Khi người vay gặp khó khăn về tài chính, ngân hàng có thể và thường tổ chức khai thác, dĩ nhiên là phải đặt trong giả thiết là người vay thật thà và thái độ của họ đối với khoản nợ là chi trả thoả đáng. Điều này đặc biệt đúng, nếu như người vay có số vốn lớn trong doanh nghiệp, một tài sản cố định giá trị. Một tổ chức có thẻ tạo lợi nhuận đủ số lượng để chi trả khoản cho vay đáng nghi vấn, cũng như những khoản cho vay khách cần cho việc duy trì doanh nghiệp và trong quá khứ đã cho thấy có sự quản lý lành mạnh. Tuy nhiên, nếu người vay không thể trả được nợ, theo nghĩa của sự vỡ nợ thì thật sai lầm nếu Ngân hàng không thực hiện việc thanh lý. Hầu hết những khoản cho vay khó đòi tại các Ngân hàng thương mại các nước được xử lý bằng phương pháp khai thác, nghĩa là cho người vay được phép tự khắc phục các khó khăn tài chính và hoàn trả các khoản nợ Ngân hàng càng nhanh càng tốt. áp dụng phương pháp khai thác để xử lý các khoản cho vay có vấn dề có thể được mô tả như một chương trình phục hồi để áp đặt lên người vay với sự thoả thuận và cộng tác của họ. Vì tổ chức khai thác không phải là công cụ pháp lý, nó có thể có vài hình thức khác nhau giữa những khoản cho vay. Ngân hàng "thực hiện bằng tài" và áp dụng một chương trình phù hợp nhất với một tình huống đặc biệt. Các biện pháp có thể bằng lời khuyên trên nhiều chủ đề, để nhằm tác động đến khả năng tạo ra lợi nhuận của người vay, gia hạn hoặc chỉnh hợp đồng cho vay, cho vay thêm, Ngân hàng nắm phần chủ động trong hoạt động kinh doanh hay thậm chí, ngân hàng đảm nhận việc kinh doanh và điều hành nó, cho đến khi bảo đảm rằng, khoản cho vay sẽ được hoàn trả. Đối với một doanh nghiệp, có thể khuyên thực hiện lại một chương trình mở rộng sản xuất, cải tiến phương thức bán, tăng thêm sản phẩm bán và lợi nhuận và như vậy tăng khả năng trả nợ của người vay. Có thể đề nghị loại bỏ một số hoạt động không sinh lời hoặc không có viễn cảnh sáng sủa. */ Thanh lý các khoản nợ khó đòi Nếu Ngân hàng thấy rõ là việc khai thác không tiên lợi, sự thanh lý dưới một trong vài hình thức có thể được coi là cách hay nhất để xử lý một khoản cho vay đã trở thành nợ khó đòi. Khi phương pháp này được lựa chọn, có nghĩa là Ngân hàng đã quyết định, sau khi cân nhắc tất cả mọi yếu tố kể trên và nhận thấy rằng khả năng cải thiện tình hình tài chính của người vay là xa vời. Việc gia hạn hợp đồng hay cấp thêm vốn sẽ là mạo hiểm, biện pháp thanh lý là tối ưu nhất. Trong nhiều trường hợp việc thanh lý chỉ thực hiện sau khi đã thực hiện một vài hình thức khai thác nào đó, nhưng không cho thấy khả năng thành công. Sự thanh lý thường được nhanh chóng thực hiện trong những trường hợp tư tưởng không sẵn lòng chi trả đã rõ, hành động lừa đảo hay không thật thà đã bộc lộ, tình trạng vỡ nợ đã hiện ra tình hình tài chính của người vay là vô vọng. Thanh lý là biện pháp cuối cùng của Ngân hàng và khách hàng. Có nhiều trường hợp khoản vay có bảo đảm, có thể trong một giai đoạn nào đó vật thế chấp mất giá trị đáng kể, do người sử dụng sai hoặc bảo quản không tốt. Hơn nữa, khi vật thế chấp được bán với giá tịch biên, nó thường không mang lại như mức giá thị trường hợp lý. Tuy nhiên, trong trường hợp khối lượng nhận được từ vật bán thế chấp không đủ thanh toán nợ, Ngân hàng có thể nhận phán quyết của toà án về khoản chênh lệch, cho phép Ngân hàng quyền thu thêm , nếu người vay có tài sản. Có một số biện pháp thực hiện thanh lý, cán bộ Ngân hàng có thể thực hiện với sự giúp đỡ của các chuyên gia tư vấn pháp luật, bộ phận liên quan đến những khoản cho vay có vấn đề, ở các nước có những hãng chuyên làm dịch vụ đòi thuê, xử lý nợ khó đòi. C- Một số những kiến nghị Như trên ta đã nêu những giải pháp mà Ngân hàng đã và đang thực hiện. Đây là những hoạt động thường ngày không thể thiếu được trong mỗi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Ngân hàng. Tuy nhiên, để hoàn thiện hoạt động tín dụng đồng thời hạn chế những hậu quả do rủi ro tín dụng, do thể lệ và chính sách tín dụng nêu ra, em xin đưa ra một số kiến nghị sau: 1. Kiến nghị đối với các chính sách của Chính phủ Hiện nay nền kinh tế cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng vẫn tiếp tục bị tác động bởi cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, sản xuất, lưu thông hàng hoá tăng trưởng chậm, nhiều sản phẩm trong nước bị hàng ngoại cạnh tranh nên tiêu thụ chậm, do đó các doanh nghiệp của chúng ta hiện nay hoạt động cầm chừng, thu hẹp lại hoặc tạm ngừng sản xuất, người lao động thiếu việc làm, thu nhập thấp dẫn tới đời sống một số lớn dân cư gặp khó khăn, trong đó các tệ nạn tiêu cực xã hội lại gia tăng... Cho nên Nhà nước cần chỉ đạo cấc cấp, các ngành tiếp tục tháo gỡ khó khăn nhất là đối với các doanh nghiệp thua lỗ, có sản phẩm ứ đọng và có nợ quá hạn Ngân hàng không có khả năng trả nợ. - Các cơ quan chức năng cần kiểm tra và chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, chỉ cấp một bản gốc duy nhất nhằm ngăn chặn việc dùng tài sản thế chấp nhiều nơi để vay vốn gây thất thoát vốn của Ngân hàng. - Bộ tài chính cần tổ chức thực hiện tốt việc kiểm tra buộc các doanh nghiệp tiến hành hạch toán đúng theo pháp lệnh Hạch toán kế toán và Thống kê,đảm bảo số liệu chính xác, trung thực và kịp thời. Nhằm giúp cho các Ngân hàng có được các thông tin tài chính giúp cho việc phân tích tín dụng được chính xác. - Cần đề cao trách nhiệm của cơ quan quản lý về xuất nhập khẩu. Trước hết phải đảm bảo cân đối, tránh cho nhập tràn lan hoặc hạn chế quá mức gây ra những biến động thị trường. Hai là chính sách xuất nhập khẩu phải ổn định tương đối lâu dài, tránh tình trạng khi vốn tín dụng đã đầu tư cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, chưa kịp thu hồi thì lại có sự thay đổi chính sách, khiến cho nợ Ngân hàng không thu hồi được. - Cần chấn chỉnh hoạt động của các cấp có thẩm quyền duyệt dự án theo hướng nâng cao trách nhiệm hơn nữa đối với sự phát triển kinh tế. Tránh tình trạng, các dự án được duyệt thiếu căn cứ khoa học, không thực tiễn nên không phát huy được hiệu quả, hoạt động bị đình đốn, lãng phí hàng ngàn tỷ đồng, nợ ngân hàng khó đòi. Điển hình là hàng loạt dự án đầu tư chế biến lương thực, thực phẩm không sản xuất được do sản phẩm khó tiêu thụ. - Luật pháp hoá các quy định về an toàn trong hoạt động Ngân hàng, thường xuyên kiểm tra, giám sát và bắt buộc các Ngân hàng phải thực hiện đầy đủ các qui định của pháp luật trong hoạt động tín dụng. Cần hết sức thận trọng trong việc xét đủ điều kiện khi thành lập các Ngân hàng cổ phần, nâng cao tính ổn định và vững chắc của Ngân hàng hiện có. - Nhà nước phải tôn trọng quyền độc lập tự chủ trong kinh doanh của Ngân hàng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các Ngân hàng. 2- Đối với Ngân hàng Nhà nước Năm 2001 Chính sách tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm hướng các tổ chức tín dụng thực hiện theo Luật Các tổ chức tín dụng. Về huy động vốn, các tổ chức tín dụng căn cứ vào trần lãi suất cho vay của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định để tự ấn định các mức lãi suất huy động phù hợp với tình hình cung cầu vốn tín dụng. Về nghiệp vụ cho vay, Thống đốc ra quyết định 324/2000/QĐ-NHNN1 ngày 30/9/2000 về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, quy định việc cho vay bằng Đồng Việt Nam và Ngoại tệ và thay thế cho các thể lệ tín dụng quy định tại các văn bản ban hành trong thời gian thực hiện pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính. Quy chế cho vay 324 chỉ quy định khung pháp lý có tính nguyên tắc, để các tổ chức tín dụng hướng dẫn thực hiện cho phù hợp với điều kiện, đặc điểm và điều lệ hoạt động của mình. Chính sách đổi mới này đã nâng cao được quyền tự chủ cho TCTD, đồng thời xoá bỏ cơ chế xin, cho và sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quyền tự chủ kinh doanh của TCTD. Chính sách tín dụng năm 2001 nhìn chung đã tạo điều kiện để cho các TCTD mở rộng được đầu tư cho vay đối với các thành phần kinh tế góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Song bên cạnh đó thì còn một số yếu tố như việc định lãi suất đầu vào, đầu ra chưa thực sự phù hợp với tình hình thị trường của từng địa bàn. Nên thiết nghĩ Ngân hàng Nhà nước có thể giao quyền định lãi suất đầu vào, đầu ra phù hợp với tình hình của thị trường trên từng địa bàn. - Hiện nay, nghị định về đảm bảo tiền vay đã ra đời, Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành các thông tư hướng dẫn để tạo thuận lợi cho các ngân hàng trong việc cầm cố, thế chấp tài sản vay vốn, và xử lý các khoản rủi ro để kịp thời thu hồi vốn khi khách hàng không trả được nợ vay. - Thực hiện các chính sách bảo hiểm đối với khách hàng và các Ngân hàng như mở Quỹ bảo hiểm tiền gửi, cho khách hàng để tạo lập một phần vốn cho các Ngân hàng, nâng cao trách nhiệm trong huy động của Ngân hàng. hoặc thực hiện các hình thức bảo hiểm tài sản Ngân hàng,bảo hiểm trách nhiệm nhân viên Ngân hàng, bảo hiểm các giấy tờ có giá của Ngân hàng. 3- Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Quyết định số 67 của Chính phủ đã mở ra cho hoạt động Ngân hàng thực sự đi vào đời sống nhân dân, tạo điều kiện để Ngân hàng gần dân sát dân hơn, tạo điều kiện cho dân vay vốn để phát triển kinh tế. Song hiện nay ở một số vùng làm kinh tế trang trại, nông lâm trường lại đang rất khó khăn trong việc vay vốn vì họ chỉ có Biên bản giao thầu đất mà không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, nếu cho vay thế chấp biên bản giao thầu đất là không đúng với chế độ, mà nếu cho vay thì họ có thể vay được từ nhiều nguồn sẽ không đảm bảo chất lượng tín dụng. Vậy nên Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cần có những giải pháp để giúp đỡ các thành phần kinh tế nói trên. 4- Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội - Kiến nghị thứ nhất: Thay đổi cơ cấu tín dụng Hoạt động chính của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội là hoạt động đi vay để cho vay, do vậy để tăng quy mô tín dụng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng phải có hiệu quả cao. Ngân hàng nên áp dụng chính sách lãi suất phù hợp để thu hút các nguồn huy động trung hạn, dài hạn để có thể đầu tư tín dụng trung và dài hạn nhằm thu lợi nhuận cao. Hiện nay ngân hàng mới chỉ tập trung chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng trong khi Hà Nội đang có xu hướng phát triển mạnh về lĩnh vực dịch vụ, do vậy trong tương lai, tất yếu Ngân hàng phải mở rộng đầu tư tín dụng vào lĩnh vực này. - Kiến nghị thứ hai: Khuyếch trương hoạt động quảng cáo trong Ngân hàng Hiện nay do việc mất cân đối giữa các nguồn huy động cũng như các nguồn cho vay ngắn hạn và trung dài hạn (không có cho vay dài hạn), đối với khách hàng đến gửi tiền, ngoài việc thực hiện các hoạt động giao dịch nhanh chóng, thuận tiện cho khách hàng, Ngân hàng nên có hình thức quảng cáo và nghiên cứu thị trường ngay tại chỗ. Ví dụ, có thể gửi cho khách hàng khi ra về một tờ thông báo về các mức lãi suất huy động, lãi suất và các hình thức cho vay của Ngân hàng, các chi nhánh Ngân hàng cấp 4 mà khách hàng có thể đến giao dịch thuận tiện nhất. Đồng thời, khi tiến hành các thủ tục gửi tiền, nhân viên giao dịch có thể đưa ra những câu hỏi về ý thích , đặc đểm của hình thức gửi tiền của khách hàng, để có được một cái nhìn chung nhất về xu hướng, nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Kiến nghị thứ ba: Hoạt động đào tạo cán bộ tín dụng Do hoạt động tín dụng của Ngân hàng bao hàm rất nhiều thành phần kinh tế cũng như các lĩnh vực kinh doanh, do vậy, Ngân hàng nên thực hiện đào tạo các cán bộ tín dụng theo các lĩnh vực tín dụng như lương thực, vật liệu xây dựng, tiêu dùng, dịch vụ, đánh giá tài sản thế chấp... để tránh những sai lầm không đáng có đối với các cán bộ tín dụng, đồng thời tạo được sự thành thạo, nhanh chóng khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, tạo sự thuận lợi và hài lòng cho khách hàng. Kết luận Trên đây là một vài giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng cần thiết được rút ra từ thực tế tình hình hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng Ngân hàng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. Hoạt động tín dụng và phòng chống rủi ro tín dụng là vấn đề mà bất cứ Ngân hàng nào cũng quan tâm. Mặt khác, với vai trò là một Ngân hàng "phát triển" thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Một trong bốn Ngân hàng quốc doanh của Nhà nước, đây là vấn đề cần thiết được quan tâm hàng đầu. Tôi rất mong rằng những ý kiến đóng góp trên đây giúp ích được phần nào cho hoạt động tín dụng tại ngân hàng: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và ngăn ngừa rủi ro tín dụng phát sinh trong kinh doanh tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung. Nhiệm vụ trước mắt và tương lai hết sức nặng nề và đầy thử thách mới nhưng trước những thành công mà Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đã đạt được chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng vào tương lai của Ngân hàng. Đồng thời, cùng với sự năng động nhiệt tình của Ban lãnh đạo và sự làm việc tận tình của tất cả các đồng nghiệp của bản thân mình Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tin tưởng vững bước trên con đường phát triển xứng đáng là một trong bốn Ngân hàng quốc doanh hàng đầu của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, phát triển cùng với sự phát triển chung của sự nghiệp công nghiệp hoá trên toàn đất nước. Phần cuối của chuyên đề tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các thày cô giáo của học viện Ngân hàng. Đặc biệt với sự quan tâm và nhiệt tình giúp đỡ của thày giáo, các anh, chị của các phòng ban tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, tôi đã hoàn thành bài viết này. Do còn hạn chế về mặt thời gian cùng năng lực nghiên cứu của bản thân, bài viết chắc chắn sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định, tôi mong rằng sẽ nhận được những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của toàn thể thầy cô và các bạn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0011.doc
Tài liệu liên quan