Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH cũng ngày càng được nâng cao để đáp ứng yêu cầu chung của thời đại. Để thực hiện và quản lý có hiệu quả các hoạt động BHXH trong thời gian tới thì một yêu cầu tất yếu đặt ra là phải có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin trong việc giải quyết các chế độ nói riêng cũng như quản lý hoạt động của BHXH nói chung. Mặc dù việc quản lý bằng công nghệ thông tin ở nước ta còn mới mẻ nhưng hiệu quả đạt được trong những năm qua đã chứng tỏ cho chúng ta thấy so với phương thức quản lý cũ ( mang tính thủ công) việc quản lý bằng công nghệ thông tin đã đẩy nhanh công tác quản lý lên một bước, không chỉ đảm bảo trên phương diện thống kê, lưu trữ mà nó còn phục vụ cho hoạt động tác nghiệp xử lý công việc và thông tin nhanh tróng, chính xác, giảm bớt những thao tác không cần thiết, tạo thời gian cho cán bộ chuyên tâm nghiên cứu nghiệp vụ.
Việc đưa công nghệ thông tin vào quản lý toàn bộ người lao động tham gia và đóng BHXH để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ theo quy định của Luật BHXH. Quản lý mức lương, phụ cấp và điều kiện làm việc của từng người lao động trong toàn bộ quá trình tham gia và đóng BHXH trong mọi trường hợp. Cung cấp số liệu làm căn cứ để giải quyết chế độ BHXH cũng như các vấn đề khác liên quan đến việc hoạch định phát triển cơ cấu xã hội có sự tham gia của người lao động. Thực hiện việc quản lý quỹ BHXH bằng việc quản lý số tiền thu, nộp BHXH của đơn vị sử dụng lao động và người lao động trích nộp.
Tóm lại, việc nghiên cứu đưa công nghệ thông tin vào quản lý còn là điều kiện quan trọng để nghành BHXH đẩy mạnh cải cách hành chính trong các hoạt động của nghành nhất là trong công tác quản lý hoạt động thu, chi và quản lý quỹ BHXH, giải quyết chế độ chính sách trong thời kỳ hội nhập nện kinh tế thế giới như hiện nay.
76 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1727 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BHXH mang tính nguyên tắc, thiếu chi tiết cụ thể nên thường phải có Nghị định kèm theo. Nghị định cũng chưa cụ thể nên phải có thông tư liên bộ hoặc của bộ, nghành có liên quan mới thực hiện được. Các văn bản pháp luật thường chậm trễ thiếu đồng bộ ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện. Vì vậy trong 5 năm có 8 luật mà cần đến 51 thông tư và 35 công văn.
Một số văn bản Luật về BHXH còn đan xen với những quy định thuộc phạm vi chính sách của nhà nước.
Ba là: số lượng văn bản thì nhiều mà hiệu quả thì ít. Mặc dù hệ thống văn bản về chế độ, chính sách BHXH tương đối nhiều nhưng vẫn chưa mang lại hiệu quả mong muốn cho người lao động. Phạm vi, đối tượng trong các văn bản đề cập đến chưa bao hàm được đầy đủ các lực lượng lao động trong xã hội.
Chế độ BHXH tự nguyện đã có hiệu lực từ năm 2008 nhưng các văn bản hướng dẫn còn lan man, thiếu cụ thể dẫn đến việc lúng túng trong thực hiện ở các địa phương. Văn bản có nhưng việc quản lý BHXH tự nguyện còn nhiều sơ hở gây khó khăn trong việc quản lý.
Bốn là: một số nội dung quy định về điều kiện hưởng, mức hưởng thuộc chế độ BHXH bắt buộc còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với yêu cầu của thực tế. Ví dụ, chế độ ốm đau, thai sản chưa quy định thời gian tối thiểu đóng BHXH trước khi được hưởng, do đó không ít người lao động thời gian đóng BHXH chưa nhiều nhưng đã được hưởng nhiều hơn mức đóng, tạo ra sự mất công bằng.
Năm là: Luật BHXH tự nguyện mới chỉ áp dụng 2 chế độ hưu trí và tử tuất. BHXH thất nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề và hỗ trợ tìm kiếm việc làm. Phạm vi chế độ còn hẹp, các chế độ BHXH thất nghiệp chưa cụ thể thiết thực với người lao động thất nghiệp. Điều này, chưa đáp ứng được yêu cầu của người lao động nằm trong đối tượng 2 loại hình BHXH này.
Nguyên nhân của những hạn chế trong việc xây dựng, ban hành và sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật BHXH:
Việc hạn chế trong việc ban hành, thực hiện Luật BHXH và các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH là do BHXH liên quan trực tiếp đến việc làm, thất nghiệp, tiền lương, tiền công ... Các quy định việc làm, tiền lương, tiền công, ... nằm trong nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như lao động, dân số, doanh nghiệp, cán bộ, công chức, viên chức, giáo dục đào tạo hoặc các quy định về bảo vệ sức khỏe nhân dân, ... Vì vậy, Luật BHXH không thể tách rời các lĩnh vực nói trên. Hay nói cách khác Luật BHXH phải đi sau – là hệ quả của các lĩnh vực kinh tế - xã hội đó.
Mặt khác, chúng ta chưa tích luỹ được kinh nghiệm để xây dựng một hệ thống pháp luật có hiệu lực, hiệu quả để quan lý để quản lý nền kinh tế thị trường với nhiều cơ chế phức tạp, lại không ngừng thay đổi. Trong khi đó xu thế hội nhập, toàn cầu hoá lại diễn ra hết sức nhanh tróng. Với bối cảnh đó, không riêng gì Luật BHXH mà cả hệ thống Luật quản lý kinh tế - xã hội của chúng ta được xây dựng trên cơ sở vừa tìm tòi, vừa học hỏi và vừa rút kinh nghiệm nên khó tránh khỏi những hạn chế bất cập.
2. Thực trạng tổ chức quản lý và thực hiện chính sách của nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội trong những năm qua
Theo tổng hợp báo cáo tổng kết hàng năm của cơ quan BHXH Việt Nam trong BHXH Việt Nam phát triển và hội nhập ( TS. Đỗ Văn Sinh – Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam ): năm 1995 mới có 2,85 triệu người thì đến cuối năm 2007 số người tham gia BHXH là 7.99 triệu người, riêng số tiền thu BHXH năm 2007 đạt khoảng 23.000 tỷ đồng. Bình quân mỗi năm tăng thêm 47 vạn người mới tham gia BHXH. Năm 2003 mới có 3,7 triệu người tham gia BHYT thì đến năm 2007 tăng lên khoảng 37,85 triệu người, chiếm khoảng 45% dân số cả nước, trong đó 9.32 triệu người tham gia BHYT tự nguyện. Tổng số thu toàn nghành được 29.805 tỷ đồng, trong đó thu BHXH, BHYT bắt buộc 28.991 tỷ đồng; thu BHYT tự nguyện 814 tỷ đồng.
Chi trả trợ cấp hàng tháng của các chế độ: hưu trí, tử tuất, mất sức lao động cho hơn 2 triệu người với số tiền chi hàng tháng là hơn 2,2 nghìn tỷ đồng (năm 2007), đảm bảo đúng đối tượng, đủ số lượng, kịp thời và giao tận tay từng người; không còn tình trạng nợ đọng lương hưu như thời kỳ bao cấp. Số người hưởng trợ cấp hàng tháng tử quỹ BHXH chi trả sẽ tăng nhanh theo các năm sau và đồng thời nguồn quỹ chi trả từ ngân sách nhà nước sẽ giảm dần cho đến khi chỉ còn những đối tượng hưởng các chế độ BHXH từ nguồn quy BHXH.
Hàng năm có hàng triệu lượt người được nhận các khoản trợ cấp khi bản thân bị ốm hay con ốm, khi thai sản, khi bị tai nạn lao động hoăc bệnh nghề nghiệp. Chất lượng chăm sóc sức khoẻ ban đầu, khám chữa bệnh nội trú, ngoại trú của người có thẻ BHYT ngày càng được nâng cao. Người bệnh ngày càng được tiếp cận với các dịch vụ y tế với trình độ khoa học tiên tiến và hiện đại. Công tác quản lý và thực hiện chính sách đối với hoạt động BHXH ngày càng hoàn thiện, cụ thể về các mặt như sau:
a. Quản lý và ngày càng mở rộng đối tượng áp dụng: Đối tượng áp dụng được quy định ở điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội
Việc ban hành Luật BHXH đã mở rộng đối tượng BHXH hơn so với trước rất nhiều. Sự tồn tại của BHXH tự nguyện song song với BHXH bắt buộc đã đảm bảo mọi người dân đều có thể tham gia BHXH nếu có nhu cầu. Vấn đề quản lý đối tượng tham gia và hưởng chế độ BHXH được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý trực tiếp (điều 8 khoản 2 Luật BHXH) có sự phối hợp với cơ quan BHXH Việt Nam binh và có sự chỉ đạo BHXH tỉnh, thành phố quản lý đối tượng trong phạm vi địa lý hành chính của mình. Hàng quý, hàng năm báo cáo Chính phủ về tình hình quản lý và mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Sau đây là tình hình tham gia và quản lý đối tượng tham gia BHXH trong những năm qua.
Bảng 1: Đối tượng tham gia BHXH ở Việt Nam từ 2003 - 2007
Số liệu
Năm
Tổng số LĐ tham gia BHXH (người)
Tổng số LĐ trong độ tuổi lao động
(người)
Tốc độ tăng tổng số LĐ tham gia BHXH (%)
Tỷ lệ LĐ tham gia BHXH so với tổng số lao động (%)
Qúi IV/1995
2.840.404
2003
5.319.547
39.525.854
13,46
2004
5.820.012
40.517.836
9,41
14,36
2005
6.105.159
44.385.000
4,90
13,76
2006
6.718.110
45.400.000
10,04
14,80
2007
7.992.212
46.325.000
18,96
17,25
(Nguồn: Lấy từ báo cáo tổng kết hàng năm của BHXH Việt Nam)
Tốc độ số lao động tham gia BHXH liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước. Số lao động tham gia bảo hiểm xã hội năm 2007 đạt 7,992 triệu đạt mức cao nhất từ trước tới nay, người gấp 2,83 lần so với năm 1995 (tương ứng tăng 5,152 triệu người) và tăng 19% so với năm 2006 ( tương ứng tăng 1,274 triệu người ). Đây là kết quả của việc không ngừng sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước và cũng là thành quả của việc sâu sát, tăng cường công tác thống kê, thu thập thông tin nhu cầu nguyện vọng của người lao động trong những năm qua. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội quản lý trực tiếp tổng số lao động đã kết hợp với BHXH Việt Nam tiến hành chỉ đạo các sở Lao động – Thương binh và xã hội kết hợp với BHXH tỉnh tiến hành quản lý lực lượng lao động trong phạm vi quản lý và tiến hành buộc chủ sử dụng lao động đóng BHXH cho người lao động. Luật BHXH có hiệu lực, phạm vi đối tượng được tham gia tăng lên cao nhất từ trước đến nay ( 1,274 triệu người), gần bằng 50% tổng đối tượng tham gia BHXH năm 1995 ( 2,85 triệu người).
Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động tham gia BHXH cũng tăng: năm 2005 là 13,76% thì đến năm 2006 là 14,8% ( tăng 1,04% ); năm 2007 là 17,25% tăng cao nhất trong các năm ( 2,45% so với năm 2006), nhưng tăng chậm do tốc độ tăng dân số những năm thập kỷ 90 cao dẫn đến thời điểm này lực lượng lao động trong độ tuổi tăng nhanh. Chính vì vậy tỷ lệ % lao động trong độ tuổi tham gia BHXH tuy có tăng nhưng tốc độ tăng không cao, trung bình tăng khoảng 2% mỗi năm.
Hàng năm, số lao động tham gia BHXH liên tục gia tăng. Nhưng thực tế vẫn còn nhiều lao động chưa được tham gia, nhất là trong khu vực kinh tế tư nhân. Nguyên nhân chủ yếu là nhiều cơ sở lao động chủ sử dụng lao động chưa khai báo đúng số lao động, hoặc dung các thủ đoạn thêu lao động thời hạn dưới 3 tháng ( hợp đồng lao động mang tính thời vụ) để chốn việc đóng BHXH cho người lao động.Vì vậy tuy số lao động tham gia BHXH qua các năm đều tăng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ thấp so với số người trong độ tuổi lao động. Vấn đề này đặt ra muốn bảo vệ quyền lợi cho người lao động được tham gia BHXH theo đúng quy định của pháp luật đồng thời giúp cho công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH được thuận tiện đòi hỏi công tác quản lý lao động, quản lý các cơ sở sử dụng lao động cần được tăng cường hơn nữa, đặc biệt là các cơ sở sử dụng lao động tư nhân.
b. Quản lý và phát triển Quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sửa dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BHXH thất nghiệp. Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quỹ BHXH và mọi hoạt động tài chính BHXH, và được cụ thể hoá cho bộ phận thực hiện chức năng sự nghiệp là Ban Thu và Ban Chi thuộc BHXH Việt Nam. Sau đây là thực trạng đóng góp Quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội
Theo Luật Bảo hiểm xã hội thì nguồn hình thành quỹ bao gồm:
Hàng tháng, người sửa dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của người lao động là :3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó người sửa dụng lao động giữ lại 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ ốm đau và chế độ thai sản và thực hiện quyết toán hàng quý với tổ chức bảo hiểm xã hội. 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất. Tổng cộng người sửa dụng lao động đóng 15% quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của người lao động.
Hàng tháng, người lao động đóng 5% mức tiền công, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất;
B¶ng 2: Tỷ lệ đóng góp (%) trên tổng quỹ lương qua các thời kỳ
Các thời kỳ
Tỷ lệ đóng góp quỹ lương
Cho các chế độ trợ cấp BHXH dài hạn
Cho các chế độ trợ cấp BHXH ngắn hạn
01/1961-9/1985
1%
3,7%
10/1985-2/1988
8%
5%
3/1988-3/1993
10%
5%
4/1993-nay
( Theo Luật BHXH)
15% chia ra
5%
10% chủ sử dụng lao động đóng
5% NLĐ đóng
(Nguån: trÝch tõ ph¸p luËt BHXH qua c¸c thêi kú)
Nhận xét: Trong thời kỳ bao cấp việc đóng BHXH là do Nhà nước đảm nhiệm hoàn toàn. Tỷ lệ đóng góp vào Quỹ BHXH ngày càng tăng theo thời gian: tổng mức đóng của thời kỳ 1988 – 1993 là 10% trên tổng quỹ lương thì đến thời kỳ sau 1993 tăng lên 15% ( trong đó người sử dụng lao động đóng 10% và người lao động đóng 5%). Hiện nay mức đóng BHXH được chia cho cả người sửa dụng lao động và người lao động, điều này phù hợp với quy luật phát triển của BHXH ở các nước phát triển. Tuy vậy mức đóng của chủ sửa dụng lao động và người lao động chưa tương xứng với mức hưởng. Tuy rằng pháp luật BHXH hiện hành đã quy định tỷ lệ đóng BHXH trên tổng quỹ lương cao hơn các thời kỳ trước đây nhưng vẫn còn thấp so với mức hưởng.
Tình hình thu, chi, sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH cùng với phần tài trợ của ngân sách nhà nước được dung để chi trả BHXH cho người lao động theo quy định của pháp luật.
Bảng 3: Tỷ lệ chi các chế độ BHXH từ nguồn quỹ BHXH và từ Ngân sách Nhà nước
Số liệu
Năm
Chi từ Ngân sách Nhà nước (%)
Chi từ quỹ BHXH
QuýIV/1995
96,4
3,6
2004
80,37
19,63
2005
79,44
21,56
2006
74,22
25,78
(Nguồn: Lấy từ báo cáo tổng kết hàng năm của BHXH Việt Nam)
So với năm 1995 thì chi các chế độ từ Ngân sách Nhà nước năm 2006 đã giảm đi rất nhiều: Chi Ngân sách Nhà nước năm 1995 chiếm tỷ trọng 96,4% thì đến năm 2006 chỉ là 74,22%. Điều đó chứng tỏ các chính sách BHXH và tình hình quản lý quỹ BHXH đã và đang có hiệu quả. Tuy tỷ lệ chi các chế độ BHXH từ nguồn Quỹ BHXH ngày càng chiếm tỷ trọng lớn nhưng nhìn trung vẫn thấp( cao nhất mới chiếm 1/4 tổng số phải chi = 25%), Ngân sách Nhà nước vẫn phải bù rất nhiều ( khoảng 75%). Đây là vấn đề cần được chú ý nhằm làm giảm bớt gánh nặng của Ngân sách Nhà nước và thực hiện thành công chủ trương sớm đưa tách Quỹ BHXH ra khỏi ngân sách Nhà nước. Điều này đòi hỏi không những phải tăng cường công tác quản lý đối tượng lao động mà còn phải tăng cường công tác quản lý quỹ BHXH ngày càng hiệu quả hơn.
Bảng 4: Tình hình thu Quỹ BHXH ở Việt Nam từ năm 2004 - 2007
Số liệu
Năm
Tổng thu Quỹ BHXH
(Triệu đồng)
Lượng tăng tuyệt đối
(Triệu người)
Tốc độ tăng liên hoàn
(%)
2004
15.839.900
2.405.500
2005
20.245.500
4.105.600
25,92
2006
22.500.822
2.255.322
10,99
2007
24.984.159
2.483.337
11,04
(Nguồn: Lấy từ báo cáo tổng kết hàng năm của BHXH Việt Nam)
Thu Quỹ BHXH ngày càng tăng và đặc biệt tăng vọt trong năm 2007. Năm 2004 thu Quỹ BHXH mới chỉ đạt trên 15 nghìn tỷ thì đến cuối năm 2007 thu Quỹ BHXH,BHYT đạt 29.805 tỷ đồng, tăng 26,4% so với năm 2006 và vượt 5,1% so với chỉ tiêu được giao.Trong đó thu BHXH đạt trên 24 nghìn tỷ đồng gấp 1,58 lần so với năm 2004. Riêng năm 2007 thu BHXH đạt mức tăng cao nhất. Đây là kết quả của việc thực hiện hàng loạt các biện pháp nhằm đưa BHXH là một sản phẩm tất yếu gắn với người lao động và hàng loạt các biện pháp giám sát, thanh tra và kiểm tra việc thực hiện chế độ BHXH cho người lao động.
B¶ng 5: Bảng tổng hợp lãi từ đầu tư quỹ BHXH giai đoạn 2000 - 2005
Số liệu
Năm
Lãi thu từ đầu tư phần tiền nhàn rỗi của quỹ
(Triệu đồng)
Kết dư quỹ
(Triệu đồng)
QuýIV/1995
2000
824.164
16.285.418
2001
864.992
21.690.177
2002
1.605.762
25.273.636
2003
1.825.000
35.180.200
2004
1.343.258
X
2005
1.786.325
X
2006
3.800.000
X
2007
4.358.631
X
(Nguồn: Lấy từ báo cáo tổng kết hàng năm của BHXH Việt Nam
Hơn 10 năm qua, nguồn quỹ BHXH đã góp phần rất quan trọng để tham gia đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động. Tổng số tiền sinh lời của Quỹ BHXH qua 10 năm (1998 – 2007) là khoảng 18.000 tỷ đồng, riêng tiền lãi năm 2006 ước đạt 3.800 và năm 2007 là trên 4.000 tỷ đồng. Đây cũng là kết quả của việc thực hiện đồng loạt các biện pháp tăng cường quản lý và phát triển quỹ BHXH trong thời gian này của nhà nước. Sự bền vững của nguồn quỹ là sự đảm bảo vững chắc quyền lợi cho người tham gia BHXH. Tuy vậy tình hình nợ đọng lại không khả quan cho lắm. Sau đây là tình hình nợ đọng BHXH trong thời gian vừa qua.
Bảng 6: Tình hình nợ đọng BHXH
Sè liÖu
N¨m
Số phải thu
(Triệu đồng)
Tæng sè thu BHXH
(TriÖu ®ång)
Số nợ
(Triệu đồng)
Tỷ lệ nợ
(%)
2004
15.239.900
15.839.900
465.669
3,06
2005
17.285.500
20.245.500
659.600
3,82
2006
19.015.900
22.500.822
817.683
4,3
2007
23.771.800
24.984.159
1.243.791
5,23
(Nguồn: Lấy từ báo cáo tổng kết hàng năm của BHXH Việt Nam)
Tình hình nợ đọng BHXH có xu hướng ra tăng. So với năm 2004 nợ đọng BHXH năm 2007 tăng 2,6 lần (1.243.791 triệu đồng năm 2007 so với 465.669 triệu đồng năm 2004). Tỷ lệ nợ đọng liên tục gia tăng trong các năm từ 3,06% năm 2004 lên 4,3% năm 2006 và tiếp tục tăng lên 5,23% năm 2007. Bình quân tình hình nợ đọng tăng lê 1%. Đây là dấu hỏi lớn đối với vấn đề quản lý quỹ BHXH vì số người tham gia BHXH liên tục tăng đáng nhẽ tổng thu BHXH phải tăng lên, tình hình nợ đọng phải giảm đi? Đặc biệt tình hình này trở nên gay gắt tại một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố HCM, Đà Nẵng, Thanh Hoá ...
Tuy thu Quỹ BHXH tăng cao trong những năm gần đây nhưng tình hình nợ đọng BHXH cũng có chiều hướng gia tăng và có tốc độ ngày càng cao. Tình hình nợ đọng Quỹ BHXH ngày càng gia tăng, là một vấn đề lớn cần được giải quyết. Điều này đỏi hỏi cần phải tăng cường quản lý hơn nữa, tăng cường giám sát, kiểm tra hơn nữa và có các biện pháp nặng hơn nhằm quản lý có hiệu quả vấn đề thu, chi, quản lý quỹ BHXH trong thời gian tới.
Công việc quản lý quỹ BHXH vẫn ở trình độ kém do hạn chế về công nghệ ( vẫn quản lý theo phương pháp thống kê, điều tra, khai báo thủ công ), con người nên tình trạng quản lý quỹ, quản lý đối tượng tham gia BHXH còn nhiều hạn chế, khó tránh được sự thiết sót. Việc thu hồi nợ đọng, và chi sai BHXH gặp nhiều khó khăn và hầu như không thu hồi được vì phần lớn các công ty này, và các đối tượng không có khả năng hoàn trả.
Nguyên nhân của những hạn chế về quản lý và phát triển quỹ BHXH
Do chưa nhận thức đầy đủ vai trò của nhà nước trong quản lý hoạt động BHXH trong nhân dân và trong một bộ phân không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Một bộ phận chưa chuyển biến kịp với yêu cầu đổi mới. Tư duy tập trung bao cấp đã ăn sâu vào tiềm thức khó thay đổi ngày một, ngày hai. Đặc biệt một số nơi người lao động thấy sai mà không dám đấu tranh vì sợ mất việc, thấy đúng nhưng không thực hiện để tồn đọng kéo dài thành sai phạm lớn.
Thêm vào đó nhà nước chưa quan tâm đầy đủ tới việc kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý BHXH. Chưa quan tâm đúng mức tới nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm nhiệm vụ quản lý hoạt BHXH về kiến thức luật, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực tổ chức thực hiện việc quản lý công tác thu, chi và quản lý quỹ BHXH; Chậm cải cách hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính trong qui trình giải quyết chế độ BHXH còn rườm rà, phức tạp chưa thực sự tạo thuận lợi cho người lao động.
Tóm lại, nhờ tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động thu, chi và phát triển quỹ mà quỹ BHXH không ngừng tăng trong các năm, lãi đầu tư từ quỹ cũng năm sau tăng nhanh hơn năm trước. Tuy vậy, tình hình nợ đọng BHXH tăng lên đòi hỏi vai trò quản lý của Bộ tài chính, sự phối kết hợp của Bộ tài chính và Ban Thu BHXH Việt Nam cùng với BHXH tỉnh thành, phố cần chặt chẽ hơn nữa.
3. Thực trạng thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH; Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về BHXH.
Chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH được thực hiện độc lập với chức năng sự nghiệp BHXH, do đó công tác kiểm tra, thanh tra và sử lý vi phạm chính sách BHXH của các cơ quan quản lý nhà nước về BHXH cũng được thực hiện có hiệu quả hơn.
Theo ph©n cÊp, hµng n¨m BHXH c¸c tØnh, thµnh phè ®· thùc hiÖn ®îc trung b×nh tõ 15 ®Õn 20 cuéc kiÓm tra viÖc thùc hiÖn ph¸p luËt BHXH ë trung b×nh tõ 70 ®Õn 75 ®¬n vÞ thùc hiÖn ph¸p luËt BHXH.
Sau khi có Luật BHXH 27 tháng 12 năm 2006 Tổng Giám đốc BHXHVN đã ban hành 02 Quyết định số 3591/QĐ – BHXH và Quyết định số 3592/QĐ – BHXH quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục trong hoạt động kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo của BHXHVN
Theo báo cáo tổng kết hàng năm của Ban Thanh tra – BHXH Việt Nam thì năm 2007 các đoàn BHXH Trung ương, BHXH Tỉnh đã phối hợp với thanh tra nghành Lao động – Thương binh và Xã hội, thanh tra y tế, Liên đoàn lao động và các cơ quan có chức năng liên quan khác tiến hành kiểm tra tại 11 BHXH tỉnh, Thành phố, 230 BHXH huyện, 2764 đơn vị sửa dụng lao động, 289 đại lý chi trả, 481 cơ sơ khám chữa bệnh.
Kiểm tra 99464 sổ BHXH, phát hiện sai 5540 sổ, thu hồi 2323 sổ
Năm 2007 BHXHVN và các tỉnh đã tiếp 11.344 lượt công dân đến hỏi về chế độ chính sách và đề nghị xem xét việc hưởng các chế độ BHXH, BHYT. Tiếp nhận 6.071 đơn thư, giải quyết 6029 đơn, đạt 99,3% [Báo cáo hàng năm Ban Thanh tra - BHXHVN].
Ngoài những sai phạm trên thanh tra BHXH còn phát hiện các một số sai phạm mang tính cố ý chuộc lợi một cách tinh vi của người sử dụng lao động như: khai sai quỹ lương làm căn cứ đóng BHXH, chỉ đóng BHXH theo mức lương tối thiểu ( phổ biến ở các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp); hợp pháp hoá hồ sơ để đủ điều kiện giải quyết hưu, giảm lao động cho doanh nghiệp; hợp pháp hoá hồ sơ để hưởng các chế độ: tử tuất, tai nạn lao động hành tháng
Nhận xét: Nhà nước đã khá quan tâm tới công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện một cách khá thường xuyên và nghiêm túc có biện pháp xử lý vi phạm nghiêm nhằm bảo vệ lợi ích cho người lao động và hạn chế tổn thất quỹ BHXH. Vì vậy tình trạng sai phạm về BHXH được khắc phục một phần. Tuy vậy, công tác thanh tra kiểm tra sử lý vi phạm Luật BHXH Thực tế cho thấy rằng công tác thanh tra, kiểm tra nhìn chung còn mỏng, đôi khi còn buông lỏng, có lúc có nơi còn chồng chéo, chưa có cơ chế phối hợp nên việc nhiều cơ quan vào thanh tra, kiểm tra một đơn vị trong cùng một thời gian đã làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Mặt khác, hình thức, nội dung, phương pháp tiến hành thanh tra, kiểm tra cũng cần được nghiên cứu để phù hợp với yêu cầu thực tế. Thêm vào đó phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra.
4. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội
Từ thực trạng phân tích chủ thể quản lý hoạt động BHXH ở trên nhìn chung hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về BHXH đã dần được hoàn thiện, có sự phân cấp rõ rệt, bước đã đáp ứng yêu cầu tách bạch chức năng quản lý nhà nước khỏi chức năng quản lý sự nghiệp.
Tuy vậy, do cơ chế chính sách và hệ thống tổ chức hành chính ở Việt Nam hiện nay nên hệ thống tổ chức quản lý nhà nước không những trong lĩnh vực BHXH mà trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác vẫn thiếu tập trung, việc phân công chức năng, nhiệm vụ quản lý còn chồng chéo trong quá trình thực hiện ví dụ như:
Theo điều 8 khoản 2 Luật BHXH thì Bộ Lao động – Thương binh và xã hội chịu trách nhiệm trươc Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về BHXH, nhưng trong thực tế nhiệm vụ này bị phân tán cho nhiều cơ quan như:
+ Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ xây dựng và trình Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật BHXH đối với lực lượng vũ trang ( theo Nghị định 45/ CP);
+ Bộ tài chính được giao nhiệm vụ hướng dẫn quản lý thu, chi và quản lý quỹ BHXH;
+ Bộ Nội vụ quy định chính sách BHXH, BHYT đối với cán bộ xã, phường, thị trấn ( theo Nghị định 121/ NĐ - CP)
+ ...
Trong khi đó theo điều 108 khoản 3 thì Hội đồng quản lý có thẩm quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách, pháp luật về BHXH, chiến lược phát triển ngành, kiện toàn hệ thống tổ chức của tổ chức BHXH, cơ chế quản lý và sử dụng quỹ BHXH.
Trong khi đó mọi hoạt động BHXH lại được thực hiện từ cơ quan BHXH Việt Nam. Điều này có vẻ bất hợp lý khi cơ quan chuyên trách lại không có thẩm quyền quản lý.Vấn đề này dễ gây hiểu lầm giữa BHXH Việt Nam đối với cơ quan quản lý BHXH ( Bộ Lao động – Thương binh và xã hội) về vấn đề thực hiện chế độ, chính sách và việc hoạch định chế độ, chính sách.
Đôi khi các văn bản quản lý bị chồng chéo vì BHXH tỉnh thành phố là cơ quan thực hiện hầu hết các vấn đề liên quan đến BHXH lại bị chỉ đạo của quá nhiều bộ, ngành.
Trong những năm qua công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế sau:
Thứ nhất, Số lượng văn bản quy phạm pháp luật về chính sách BHXH còn quá nhiều, chậm sử đổi, bổ xung dẫn đến việc các cơ quan BHXH, người sử dụng lao động và người lao động gặp không ít khó khăn trong việc hiểu và nắm vững chính sách; gây khó khăn cho việc theo dõi, kiểm tra, giám sát. Hệ thống văn bả chế độ, chính sách BHXH tương đối nhiều nhưng vẫn chưa đảm bảo che chắn rủi ro cho người lao động. Hiện nay Luật BHXH tự nguyện đã có hiệu lực nhưng vẫn rất ít các quy định cụ thể để cụ thể hoá một cách rộng rãi gây khó khăn cho việc áp dụng và quản lý.
Thứ hai, Công tác chỉ đạo, tuyên truyền chấp hành Luật BHXH của các cơ quan nhà nước, các nghành, các cấp chưa thực hiện một cách thường xuyên liên tục, thường theo phong trào; có lúc rầm rộ, quyết liệt có khi lại thả nổi buông lỏng. Chính vì vậy dẫn đến tình trạng hiểu biết và áp dụng Luật BHXH của người lao động và người lao động còn hạn chế. Người lao động trong doanh nghiệp còn tư tưởng ỷ lại, chờ bao cấp của nhà nước, chưa quen với tư duy đóng – có hưởng, cơ chế hạch toán quỹ. Thậm chí chưa hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ BHXH dẫn đến việc chủ sử dụng lao động cố tình không đóng BHXH cho mình mà cũng không biết.
Thực tế cho thấy, trong công tác chỉ đạo hoạt động BHXH ở địa phương, cơ quan có thẩm quyền như: tỉnh uỷ, UBND tỉnh, BHXH tỉnh hay sở lao động thương binh và xã hội chỉ cần có ý kiến chỉ đạo hoặc nhắc nhở thì các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn còn chậm trễ hoặc chây ỳ sẽ nhận thức ngay được trách nhiệm của mình và có chuyển biến bằng hành động tích cực ...
Thứ ba, Việc thực hiện quản lý quỹ và chi trả các chế độ trợ câp còn nhiều bất cập
Thực trạng chiếm dụng, gây nợ đọng quỹ BHXH trở nên phổ biến. Việc nợ đọng BHXH gây khó khăn cho nghành BHXH và Nhà nước trong việc thực hiện chế độ BHXH đồng thời làm giảm sự uy nghiêm của Pháp luật. Tình hình nợ đọng có su hướng gia tăng trong thời gian qua, đặc biệt nổi cộm ở một số thành phố lớn. Cũng trong thời gian qua tình hình tránh né việc đăng ký BHXH hoặc có đăng ký thì khai man, chốn đóng BHXH cho người lao động ngày càng tăng. Người sử dụng lao động, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, công ty liên doanh có nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi nhằm chiếm dụng quỹ BHXH, chiếm đoạt tiền lương của người lao động. Điển hình là hai Thành phố lớn nhất nước là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay Thành phố Hồ Chí minh có khoảng trên 50.000 ngoài quốc doanh nhưng theo báo cáo của BHXH Thành phố Hồ Chí Minh thì đến hết quý I/2008 mới có 9.817 doanh nghiệp đăng ký tham gia BHXH, chỉ chiếm 19,63%[ Báo cáo Ban Thu BHXHVN].
Theo thống kê chưa đầy đủ thì trên địa bàn Hà Nội có khoảng 5.800 đơn vị ngoài quốc doanh, nhưng đơn vị đăng ký tham gia BHXH chỉ mới có 3188 đơn vị, chiếm 54,97%. Tình hình nợ đọng BHXH kéo dài còn rất phổ biến. Năm 2007 trong số trên 1243,791 tỷ đồng nợ đọng của cả nước thì Hà Nội chiếm 10% [ Ban Thu BHXHVN - 2007].
Nếu không giải quyết rứt điểm tình trạng này dễ dẫn đến tình trạng “trai lì” trở thành hiện tượng phổ biến. Tuy khả việc chi trả các chế độ, chính sách từ quỹ BHXH chiếm tỷ lệ ngày một cao nhưng so với khả năng và sự phát triển chung thì vẫn còn thấp gây khó khăn trong việc sớm đưa quỹ BHXH tự cân đối thu – chi.
Vấn để chi trả và quản lý các chế độ trợ cấp BHXH còn nhiều bất cập. Thủ tục hành chính để chi trả, giải quyết các chế độ còn phức tạp, chưa ngọn nhẹ. Vấn đề chi trả gặp nhiều khó khăn trong công tác thẩm định. Người lao động nhiều khi vẫn phải chịu thiệt thòi từ người sử dụng lao động thậm chí từ các cấp thực thi Luật và chế độ chính sách BHXH. Công đoàn cơ sở yếu kém, không làm hết trách nhiệm và nhiệm của mình làm cho tiếng nói của người lao động bị răn đe, lợi ích của người lao động bị xâm phạm nghiêm trọng.
Thư tư, các văn bản quy định về giải quyết tranh chấp và sử lý vi phạm BHXH chưa đồng bộ, nghị định hướng dẫn chưa kịp thời, những chế tài quy định không đủ mạnh. Nhiều kết luận, quyết định sử lý sau thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện nghiêm túc đặc biệt là các chủ sử dụng lao động. Công tác thanh tra, kiểm tra thiếu sự quan tâm, đôn đốc thường xuyên của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và thiếu sự phối kết hợp chặt chẽ của các cơ quan nhà nước chức năng, thường phó mặc cho cơ quan BHXH.
PHẦN 3GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
I. QUAN ĐIỂM VỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
Bảo hiểm xã hội đã là một sản phẩm không thể thiếu đối với người lao động, gắn liền với sự phát triển của xã hội. Việc không ngừng phát triển và hoàn thiện hệ thống chính sách BHXH được Đảng, Nhà nước ta đề cập liên tục trong các kỳ Đại hội, trong các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ cụ thể. Gần đây nhất trong Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X về phần phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 nêu rõ:
“...Đổi mới hệ thống BHXH, đa dạng hoá hình thức bảo hiểm phù hợp với kinh tế thị trường; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp...
Trong chiến lược phát triển kinh tế 2001-1010, Đảng ta đã xác định: “ Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống BHXH và ASXH. Tiến tới áp dụng chế độ cho mọi người, cho mọi tầng lớp nhân dân”.
Riêng vấn đề cải tổ, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước là vấn đề cấp thiết luôn được đề cập trong mọi thời kỳ không chỉ riêng trong lĩnh vực BHXH mà còn trong bất cứ hoạt động kinh tế - xã hội nào. Điều 9 Luật BHXH nêu rõ quan điểm hiện đại hoá quản lý BHXH như sau:
Nhà nước khuyến khích đầu tư phát triển công nghệ và phương tiện kỹ thuật tiên tiến để đảm bảo áp dụng phương pháp quản lý BHXH hiện đại.
Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý BHXH.
Như vậy nhà nước, chính phủ luôn khuyến khích đổi mới quản lý nhà nước đối với BHXH. Nhà nước tạo mọi điều kiện để có thể áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại nhất như công nghệ thông tin nhằm hiện đại hoá công tác quản lý hoạt động BHXH. Trong Hội thảo quốc gia “BHXH trong tiến trình hội nhập quốc tế” TS. ĐỖ VĂN SINH, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam trong mục tiêu cần phải đạt được của hệ thống BHXH cũng đã nêu lên mục tiêu hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH như sau: “ Tiếp tục hoàn thiện mô hình quản lý nhà nước và nâng cao năng lực quản lý của hệ thống tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam”.
Ngay sau khi Luật BHXH có hiệu lực, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Y tế ... đã ban hành hàng chục Quyết định, nghị định, thông tư liên bộ... quy định và hướng dẫn việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH. Quan điểm, nội dung tăng cường hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH ở Việt Nam hiện nay được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật trên và nêu rõ trong Hội thảo Quốc gia với tiêu đề “ Bảo hiểm xã hội trong tiến trình hội nhập quốc tế” được cụ thể hóa thành 4 điểm như sau:
Nhận thức về vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH, quản lý phát triển BHXH
BHXH là hoạt động sự nghiệp dịch vụ công - một trong những chức năng của quản lý Nhà nước. Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, tăng trưởng ngày càng cao thì nguy cơ phân hóa giầu nghèo, bất bình đẳng xã hội, nạn thất nghiệp gia tăng, tiềm ẩn bất ổn định xã hội hội lớn ... dó đó việc tăng cường quản lý Nhà nước với hệ thống chính sách BHXH phù hợp là cơ sở để tạo ra ổn định kinh tế - xã hội, xã hội đồng thuận, người lao động yên tâm làm việc góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững.
Cần quán triệt các nguyên tắc cơ bản của BHXH là mở rộng mọi thành viên xã hội tham gia BHXH; đảm bảo tính bền vững của quĩ BHXH; tính ổn định về thể chế tổ chức BHXH (ổn định lâu dài, quản lý hiệu quả ); tính chuyên nghiệp và hiện đại; Nhà nước giữ vai trò đóng góp và bảo trợ rủi ro.
Đổi mới và hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý hoạt động BHXH, hoàn thiện mô hình tổ chức bên trong của BHXH Việt Nam trên cơ sở đảm bảo tính kế thừa và phát triển, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong khu vực và thế giới.
Quản lý chặt chẽ nhằm bảo toàn và phát triển quỹ BHXH trong khuôn khổ pháp luật và rủi ro nhỏ nhất. Đảm bảo quỹ luôn tăng trưởng và làm yên lòng người tham gia BHXH.
Thực hiện quản lý chặt chẽ các chế độ BHXH bắt buộc theo quy định của Luật BHXH, triển khai kịp thời và quản lý có hiệu quả chế độ BHXH thất nghiệp, chế độ BHXH tự nguyện.
II. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BHXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đối với BHXH bắt buộc đồng thời xây dựng và hoàn thiện Luật BHXH Thất nghiệp và BHXH Tự nguyện.
Luật BHXH đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2007, BHXH Tự nguyện cũng đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2008. Đến nay, BHXH đã đi vào đời sống ngườ lao động làm công ăn lương. Tuy vậy, các chế độ BHXH Tự nguyện vẫn còn khá mới mẻ và xã lạ đối với người lao động, đặc biệt là người lao động làm những công việc không ổn định, mang tính chất mùa vụ ... Vì vậy đối với hai loại hình BHXH bắt buộc và BHXH Tự nguyện đòi hỏi Nhà Nước cần hoàn thiện cơ chế pháp lý để đưa hai loại hình BHXH này thực sự đi vào đời sống người lao động đồng thời là cơ sở để nhà nước quản lý có hiệu quả đối với hoạt động của hai loại hình BHXH này.
Loại hình BHXH Thất nghiệp sẽ có hiệu lực vào ngày 01/01/2009. Đây là một điều đáng mừng đối với người lao động nhưng cũng là nỗi lo âu của các nhà quản lý vì phải làm sao thực sự đưa BHXH Thất nghiệp chính là loại hình BHXH đảm bảo sự yên tâm nhất đối với người lao động, tạo cho họ tâm lý thoải mái khi lao động. Muốn làm được điều này trước hết đòi hỏi các nhà quản lý tiếp tục xây dựng hệ thống chế độ BHXH Tự nguyện cho hoàn thiện để khi BHXH Tự nguyện có hiệu lực lập tức phát huy vai trò của nó, tránh tình trạng lúng túng do thiếu các văn bản chỉ đạo cụ thể việc thi hành và quản lý như đã từng xảy ra đối với loại hình BHXH Tự nguyện trong thời gian qua.
2. Tiếp tục mở rộng và tăng cường quản lý có hiệu quả đối tượng tham gia BHXH trong thời gian tới.
Với chế độ BHXH bắt buộc, cần thiết mở rộng hình thức BHXH Tự nguyện để bổ xung, mở rộng đối tượng tham gia BHXH đến mọi người lao động. Có như vậy mới đảm bảo vai trò của chính sách BHXH đối với phần lớn người lao động, thực hiện quyền bình đẳng giữa những người lao động trong các thành phần kinh tế, mặt khác để đảm bảo nguồn thu quỹ BHXH ngày càng tăng, tồn tích của quỹ nhiều, thêm lãi đầu tư, đảm bảo quỹ BHXH cân đối và ổn định lâu dài.
Để đảm bảo mục tiêu trên cần thiết, trước mắt cần tập trung vào một số giải pháp sau để tăng nhanh số lao động tham gia BHXH, đó là:
Phối hợp với các cơ quan, ban nghành chức năng ở địa phương khảo sát, điều tra, xác định đầy đủ số lượng đơn vị và lao động thuộc khu vực ngoài nhà nước thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo luật định. Các cơ quan BHXH các cấp thường xuyên phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước, ban, nghành, đoàn thể có liên quan để triển khai công tác này có hiệu quả hơn; có những biện pháp tích cực xử lý những tồn đọng, vướng mắc với những đơn vị, người lao động không tham gia BHXH.
Tăng cường, mở rộng về phạm vi, hình thức và nội dung thông tin tuyên truyền đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Tập trung trọng điểm các đối tượng là người lao động trong các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp có sử dụng dưới 10 lao động, hộ sản xuất kinh doanh cá thể; người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp động lao động trong các hợp tác xã.
Để tăng cường hiệu quả quản lý đối tượng tham gia cần tiếp tục phân cấp cho BHXH Tỉnh, BHXH huyện nhằm tạo sự chủ động cho việc nâng cao ý thức trách nhiệm thực thi nhiệm vụ. Củng cố BHXH cấp huyện để vươn tới quản lý hoạt động BHXH ở cấp phường, xã thị trấn nhằm thực hiện chủ trương mở rộng đối tượng tham gia BHXH đồng thời nâng cao quản lý nhà nước đối với các đối tượng tham gia BHXH một cách cụ thể sâu sát và thực sự hiệu quả.
Để quản lý có hiệu quả các đối tượng tham gia BHXH cần thiết phân ra các đối tượng ra thành các nhóm ( nhóm đối tượng hưởng chế độ BHXH dài hạn, nhóm đối tượng hưởng chế độ BHXH ngắn hạn và nhóm đối tượng hưởng chế độ 1 lần) đồng thời áp dụng việc theo dõi đối tượng tham gia băng công nghệ thông tin.
3. Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động quản lý và phát triển quỹ BHXH
Quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất và ngày càng phát triển, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để đảm bảo chi trả đầy đủ và kịp thời các chế độ BHXH. Để quỹ BHXH luôn ổn định và phát triển cần hoàn thiện từ công tác quản lý thu BHXH đến công tác quản lý chi BHXH nhằm quản lý một cách có hiệu quả việc cân đối thu – chi và phát triển quỹ BHXH trong thời gian tới.
a. Hoàn thiện quy trình quản lý thu BHXH phù hợp với từng loại đối tượng tham gia BHXH.
Điều vướng mắc lớn nhất trong công tác quản lý thu BHXH hiện nay là đối tượng tham gia rất lớn, quy trình thu còn nhiều điểm chưa phù hợp; các biện pháp thực hiện thu BHXH đạt hiệu quả chưa cao, còn có những lỗ hổng để đơn vị sử dụng lao động tìm cách né tránh nộp BHXH cho người lao động. Vì vậy việc hoàn thiện quy trình quản lý thu BHXH là đưa ra các biện pháp cụ thể theo từng loại hình quản lý. Quy trình thu phải được điều chỉnh phù hợp từ các khâu đăng ký, thực hiện cũng như việc quản lý tiền thu; đối chiếu kiểm tra số tiền thu của từng đơn vị và của từng người lao động trong cac khu vực khác nhau nhằm giảm tới mức thấp nhất trong công tác quản lý thu BHXH, cụ thể như sau:
Đối tượng thuộc khu vực hành chính sự nghiệp:
Đối tượng tham gia BHXH trong khu vực này được hưởng tiền lương từ nguồn ngân sách Nhà nước. Do vậy xây dựng quy trình thu BHXH phải quy định thêm việc kết hợp chặt chẽ với hệ thống kho bạc để nắm bắt kịp thời điểm cấp phát lương để đốc thu BHXH, hoặc xây dựng thêm hình thức uỷ nhiệm thu thông qua kho bác ( trích trừ trực tiếp từ hệ thống kho bạc Nhà nước) để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu BHXH.
Đối tượng thuộc khu vực doanh nghiệp
Kiến nghị với cơ quan Nhà nước trong việc xác định mức tiền lương làm căn cứ thu BHXH của người lao động là mức tiền lương thực mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Đồng thời xây dựng quy trình thu BHXH dựa trên mức tiền lương thực nhận này. Có như vậy, khi doanh nghiệp thực hiện đóng BHXH trên tổng quỹ tiền lương thực tế, tức là không có điều kiện gian lận BHXH nữa, thì cũng không còn cơ chế chốn tránh việc ký hợp động lao động, để ghi hạ mức lương trong hợp động lao động, do vậy mức tiền lương ghi trong hợp đồng lao động sẽ là mức tiền lương thực tế.Xét cho cùng chỉ có mức tiền lương thực tế mới là căn cứ chuẩn xác để thực hiện chế độ trích nộp BHXH với mục đích nhằm: đảm bảo cho toàn bộ số lao động trong doanh nghiệp được tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH; tăng cường nguồn quỹ để đảm bảo nhu cầu thanh toán các chế độ BHXH một cách lâu dài
Đối tượng thuộc khu vực Hợp tác xã, hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác.
Do đặc điểm của khu vực này có số lượng lao động ít thường dưới 10 lao động, không có tài khoản, không có con dấu, có những người vừa làm chủ đơn vị vừa là người lao động... Vì vậy phải xây dựng quy trình thu BHXH khác phù hợp với đặc điểm của khu vực này như: quy định mức lương làm căn cứ trích nộp theo đăng ký của người lao động với cơ quan BHXH, hoặc có thể quy định phương thức nộp BHXH 3 tháng, 6 tháng một lần...
b. Nâng cao hiệu quả công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH
Với thực trạng nhiều sai phạm về sổ BHXH như vừa qua, cần phải có những thay đổi phù hợp với yêu cầu của quản lý nhà nước, tăng cường hiện đại hoá bằng công cụ tin học, có như vậy mới đảm bảo yêu cầu quản lý, thuận tiện cho người lao động; đảm bảo sổ BHXH làm căn cứ để giải quyết các chế độ BHXH cho người tham gia BHXH theo quy định của Luật BHXH. Cụ thể cần áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý sổ BHXH . Từ đó mọi biến động của người lao động đều được quản lý, theo dõi, theo dõi thống nhất trên toàn quốc, đảm bảo mỗi người lao động trong suốt quá trình tham gia BHXH chỉ có một sổ BHXH. Người lao động, người sử dụng lao động và các cơ quan chức năng khi cần thiết có thể yêu cầu cơ quan BHXH có thể cung cấp ngay được nội dung cần thiết liên quan đến quá trình làm việc và đóng BHXH của người lao động.
Trong quá trình, sử dụng sổ BHXH phải được nâng giá trị sử dụng , phải được coi như là một chứng từ có giá trị như tiền, có thể chuyển nhượng, thế chấp khi cần thiết.
c. Tăng cường công tác quản lý chi BHXH
Để công tác chi trả và quản lý việc chi trả các chế độ BHXH được thuận tiện và nhanh tróng chúng ta cần nghiên cứu xem xét hình thức chi trả thông qua tài khoản cá nhân ở ngân hàng và tổ chức tín dụng nơi đối tượng hưởng BHXH đang cư trú. Về hình thức này đang được áp dụng thí điểm ở một số thành phố lớn, đang có nhiều khó khăn. Cụ thể khác với các nước trên thế giới, các đối tượng tham gia và hưởng BHXH hầu hết chưa có tài khoản cá nhân ở các ngân hàng hay tổ chức tín dụng, nhất là ở nông thông và các tỉnh miền núi. Nhưng không phải vì vậy mà không tổ chức thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Để thực hiện được cơ quan BHXH cần phối hợp với hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng hướng dẫn người lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH mở tài khoản cá nhân ở các ngân hàng và tổ chức tín dụng.
Hình thức chi trả này đang được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới, nhất là các nước có số lượng đối tượng hưởng BHXH như: Mỹ, Đức, Anh, pháp... Thực hiện hình thức này sẽ làm giảm đáng kể khối lượng tiền mặt trong lưu thông đồng thời tăng hiệu quả đối với quản lý công tác quản chi trả các chế độ BHXH.
d. Tăng cường phát triển quỹ BHXH
Để quỹ BHXH không những được bảo toàn mà còn ngày càng phát triển thì không những chỉ đầu tư quỹ BHXH thông qua ngân hàng nhà nước, mà cần thiết cho các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng vay để đầu tư; hoặc có thể đầu tư quỹ BHXH tam thời gian rỗi trên các thị trường tiền tệ như trái phiếu, cổ phiếu, thành lập ngân hàng BHXH. Làm như vậy không vừa làm tăng quỹ BHXH mà tận dụng được số tiền rất lớn vào công cuộc xây dựng đất nước.
4. Hoàn thiện tổ chưc bộ máy, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH, công tác quản lý và theo dõi hoạt động BHXH ở cơ sở.
Trước hết, cần phải phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về BHXH của các bộ liên quan. Tăng cường hiệu quả quản trong việc phối kết hợp của các cơ quan quản lý nhà nước( Thanh tra, Tài chính, Lao động – Thương binh và xã hội, Kế hoạch đầu tư ...) về việc chỉ đạo, kiểm tra và thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động khu vực kinh tế tư nhân nhằm mục đích: Tạo sự thống nhất quan điểm thực hiện chính sách đối với người lao động thuộc khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn từng tỉnh, thành phố, từng quận huyện, thị xã. Đặc biệt điều đầu tiên là phải có sự thống nhất thông suốt từ cấp uỷ và chính quyền địa phương; Thống nhất cơ chế phối hợp từng nghành, từng cấp trong mọi lĩnh vực liên quan đến người lao động và BHXH trong các đơn vị đặc biệt là các đơn vị kinh tế tư nhân như phối hợp nghành Kế hoạch - Đầu tư với UBND xã, chính quyền Thị trấn để nắm đầu vào đầu ra của các đơn vị với nghành Lao động – Thương binh và Xã hội; Tài chính để xác định đối tượng thu, mức thu với các nghành thuế, Thanh tra, Kiểm soát, Công đoàn để đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thu nộp BHXH. Xây dựng văn bản liên nghành rất cụ thể, chi tiết; Tăng cường thông tin giữa các nghành với BHXH và ngược lại. Trên cơ sở đó hướng dẫn đôn đốc thực thi khi doanh nghiệp mới thành lập; vừa kịp thời giải quyết những tồn đọng về BHXH khi doanh nghiệp giải thể; Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hành Luật BHXH.
Cấp uỷ, chính quyền các cấp cần chỉ đạo sự phối kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương với cơ quan BHXH; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện về chính sách BHXH. Đưa công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện BHXH vào chỉ tiêu thi đua hàng năm của các nghành, các cấp và các đơn vị hoặc là một trong các chỉ tiêu bình xét chi bộ, Đảng bộ “ trong sạch vững mạnh hàng năm”. Tạo điều kiện cho kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân phát triển theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Các cơ quan thông tin đại chúng, các đơn vị, tổ chức đoàn thể kể cả các đơn vị sử dụng lao động tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách BHXH với nhiều hình thức, trên mọi phương tiện, mọi lúc, mọi nơi.
Tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức BHXH để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, cơ quan BHXH mới có bộ máy tổ chức đến cấp huyện. Vì vậy bộ máy tổ chức này cần được hoàn thiện theo hướng bổ xung thêm chức năng, nhiệm vụ đồng thời mỗi xã, phường thị trấn nên có ít nhất một người làm công tác BHXH chuyên trách hoặc bán chuyên trách nhằm thống kê, quản lý chung hoạt động BHXH ở từng xã, phường, Thị trấn đặc biệt là những nơi có nhiều khu công nghiệp đóng trên địa bàn.
Không ngừng nâng cao trình độ tác nghiệp, trình độ quản lý và đặc biệt là những hiểu biết về công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác BHXH thông qua việc đào tạo mới, đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ công chức từ Trung ương đến địa phương để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng tăng của công tác BHXH trong giai đoạn mới.
5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra và sử lý vi phạm Luật BHXH.
Giao cho BHXH Việt Nam nhiệm vụ thanh tra, xử phạt trong những trường hợp trốn tránh, trây ỳ, nợ đọng hoặc khai man để hưởng chế độ BHXH nhằm tránh sự chồng chéo như hiện giờ.
Để khắc phục những sai phạm về đóng, chi quản lý quỹ BHXH của các cơ quan BHXH đặc biệt là tình hình nợ đọng, chốn tránh đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động thì biện pháp trước mắt là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra liên nghành; thanh tra lao động; thanh tra tài chính; thanh tra y tế và của cơ quan BHXH, kiểm tra của tổ chức công đoàn. Việc tổ chức thanh tra, kiểm tra liên nghành sẽ tránh được hiện tượng chồng chéo, trùng lặp thường xảy ra trong thanh tra, kiểm tra; mặt khác sẽ tập trung được việc thanh tra, kiểm tra vào các đơn vị trọng điểm có dấu hiệu vi phạm Luật BHXH. Và vấn đề quan trọng hơn nữa là kết quả thanh tra, kiểm tra có hiệu lực ngay sau khi thanh tra, kiểm tra không cần “ chờ ” ý kiến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới thực hiện, vì ở đây cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp tham gia đoàn thanh tra, kiểm tra.
Nếu vi phạm Luật BHXH thì kiên quyết xử lý nghiêm minh thậm chí truy cứu trách nhiệm trước pháp luật. Khi có tranh chấp trong quan hệ BHXH thì cơ quan BHXH cũng cần giải quyết theo pháp luật.
6. Ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH cũng ngày càng được nâng cao để đáp ứng yêu cầu chung của thời đại. Để thực hiện và quản lý có hiệu quả các hoạt động BHXH trong thời gian tới thì một yêu cầu tất yếu đặt ra là phải có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin trong việc giải quyết các chế độ nói riêng cũng như quản lý hoạt động của BHXH nói chung. Mặc dù việc quản lý bằng công nghệ thông tin ở nước ta còn mới mẻ nhưng hiệu quả đạt được trong những năm qua đã chứng tỏ cho chúng ta thấy so với phương thức quản lý cũ ( mang tính thủ công) việc quản lý bằng công nghệ thông tin đã đẩy nhanh công tác quản lý lên một bước, không chỉ đảm bảo trên phương diện thống kê, lưu trữ mà nó còn phục vụ cho hoạt động tác nghiệp xử lý công việc và thông tin nhanh tróng, chính xác, giảm bớt những thao tác không cần thiết, tạo thời gian cho cán bộ chuyên tâm nghiên cứu nghiệp vụ.
Việc đưa công nghệ thông tin vào quản lý toàn bộ người lao động tham gia và đóng BHXH để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ theo quy định của Luật BHXH. Quản lý mức lương, phụ cấp và điều kiện làm việc của từng người lao động trong toàn bộ quá trình tham gia và đóng BHXH trong mọi trường hợp. Cung cấp số liệu làm căn cứ để giải quyết chế độ BHXH cũng như các vấn đề khác liên quan đến việc hoạch định phát triển cơ cấu xã hội có sự tham gia của người lao động. Thực hiện việc quản lý quỹ BHXH bằng việc quản lý số tiền thu, nộp BHXH của đơn vị sử dụng lao động và người lao động trích nộp.
Tóm lại, việc nghiên cứu đưa công nghệ thông tin vào quản lý còn là điều kiện quan trọng để nghành BHXH đẩy mạnh cải cách hành chính trong các hoạt động của nghành nhất là trong công tác quản lý hoạt động thu, chi và quản lý quỹ BHXH, giải quyết chế độ chính sách trong thời kỳ hội nhập nện kinh tế thế giới như hiện nay.
KẾT LUẬN
Trải qua hơn một nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, BHXH đã khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong đời sống của mỗi người lao động cũng như trong các chính sách xã hội của các nước trên thế giới. Quyền tham gia và được hưởng BHXH theo các chế độ đã trở thành một trong những quyền cơ bản của con người gắn liền với việc làm và thu nhập. BHXH thực sự là sự tương trợ cộng động, là sự chia sẻ những mất mát của xã hội đối với những người lao động không may bị giảm hoặc mất thu nhập ro gặp phải những rủi ro không may trong cuộc sống. Nhờ đó mà làm giảm bớt những bất bình đẳng trong xã hội, bảo đảm cuộc sống vật chất và tinh thần của mọi thành viên tron xã hội và hướng tới mục đích cao nhất vì cuộc sống tốt đẹp của cả cộng đồng.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH ở Việt Nam hiện nay cũng nhằm mục đích cuối cùng như trên.
Vì vậy, trong thời gian tới vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH cần được hết sức quan tâm nhằm dần biến BHXH trở thành một món ăn không thể thiếu đối với quá trình làm việc và nghỉ ngơi của người lao động.
Trong thời kỳ mới - thời kỳ kinh tế thị trường và hội nhập, vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH ở nước ta có nhiều thuận lợi mới đồng thời cũng có nhiều thử thách ác liệt do nền kinh tế thị trường đem lại. Cho nên muốn thực hiện được mục tiêu trên của BHXH đòi hỏi toàn Đảng, toàn Dân ta phải một lòng kiên trì, từng bước giải quyết các hạn chế, nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong hoạt động BHXH trong thời gian tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
HiÕn ph¸p n¨m 1992.
V¨n kiÖn §¹i héi §¶ng kho¸ VIII (1996) - NXB ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi.
V¨n kiÖn §¹i héi §¶ng kho¸ IX (2001) - NXB ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi.
V¨n kiÖn §¹i héi §¶ng kho¸ VII (1991) - NXB ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi.
BHXH - nh÷ng ®iÒu cÇn biÕt (2001)- NXB Thèng kª - Hµ Néi
BHXHVN (2/2007)- Hội thảo quốc gia - Bảo hiểm xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế.
Luật bảo hiểm xã hội (2007) – NXB Chính trị quốc gia.
Chính phủ (1995), Nghị định số 19/CP ngày 26/01/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam; Công báo, NXB Văn phòng Chính phủ.
Chính phủ (2002), Nghị định số 100/2002/NĐ-CP ngày 06/12/2002 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam; Công báo, NXB Văn phòng Chính phủ.
BHXHVN (2008)- NXB Tạp chí BHXH số 1/2008
Chính phủ (1995) - Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 về việc ban hành Điều lệ BHXH; Công báo, NXB Văn phòng Chính phủ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
(BẢN THẢO)
Tên đề tài: TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn : PGS. TS TRẦN XUÂN CẦU
Họ và tên sinh viên : NGUYỄN DANH LONG
HÀ NỘI, NĂM 2008
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Tên đề tài: TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Họ và tên sinh viên : NGUYỄN DANH LONG
Chuyên nghành : KINH TẾ LAO ĐỘNG
Lớp : KINH TẾ LAO ĐỘNG 46A
Khoá : 46
Hệ : CHÍNH QUY
Giảng viên hướng dẫn : PGS. TS TRẦN XUÂN CẦU
HÀ NỘI, NĂM 2008
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10688.doc