Chuyên đề Thanh toán vốn giữa các ngân hàng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lý Nhân

Muốn phát triển các sản phẩm, dịch vụ hiện đại, tăng tính tiện ích cho khách hàng thì trước hết hệ thống ngân hàng phải làm tốt công tác thanh toán vốn với nhau, kết nối để trở thành một hệ thống trung gian thanh toán thống nhất, liên tục đảm bảo vốn được chu chuyển nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Khi nền kinh tế phát triển, hệ thống thanh toán trở thành xương sống, là mạch máu của nền kinh tế đó. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, trước thềm hội nhập, hoàn thiện hệ thống thanh toán phải được đặt lên hàng đầu. Là một bộ phận quan trọng trong hệ thống đó, các NHTM Việt Nam cần phải nhận thức rõ sự cần thiết của việc liên kết các ngân hàng với nhau, NHNN phải đứng ra điều hành hệ thống đó.

doc81 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2176 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thanh toán vốn giữa các ngân hàng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lý Nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở chi tiết cho từng CNNH cấp 1 và luôn phải duy trì một số dư Có nhất định theo quy định. Như vậy việc thanh toán vốn giữa NHNo Lý Nhân với NHNo khác ngoại tỉnh cũng được giải thích tương tự như mô hình thanh toán nội tỉnh trên. Việc thanh toán chỉ đơn giản là việc truyền chuyển tiếp lệnh chuyển Có, ghi Nợ - Có tương ứng vào TK Điều chuyển vốn nội bộ chi tiết cho từng chi nhánh ngân hàng mở tại ngân hàng cấp trực thuộc (CN cấp 1 mở tại Trụ sở chính, CN cấp 2 mở tại CN cấp 1). Các TK Điều chuyển vốn này luôn phải duy trì một số dư Có theo quy định - đó là cơ sở để thanh toán vốn giữa các NH trong cùng một hệ thống. Nếu thiếu so với quy định sẽ phải điều chuyển để bổ sung cho đủ, nếu thừa sẽ là căn cứ để quyết định điều chuyển xuống cho chi nhánh có đủ tiền mặt tại quỹ để hoạt động. Giao dịch phát sinh 2: NHNo huyện Lý Nhân nhận được lệnh chuyển Có đến ngoại tỉnh từ NHNo tỉnh Hà Nam, theo đó thanh toán hộ NHNo ngoại tỉnh cho khách hàng của họ. Quy trình diễn ra tương tự nhưng hoán đổi vị trí NHNo huyện Lý Nhân với NHNo quận, huyện thuộc TP, tỉnh khác; hoán đổi vị trí NHNo tỉnh Hà Nam với NHNo TP khác, tỉnh khác. NHNo huyện Lý Nhân là đơn vị thanh toán cho khách hàng hộ NHNo ngoại tỉnh và được thanh toán lại qua việc ghi Có và do đó tăng dư Có TK Điều chuyển vốn nội bộ mở tại NHNo tỉnh Hà Nam. Nếu thiếu tiền mặt tại quỹ để hoạt động NHNo Lý Nhân có thể xin NHNo tỉnh điều chuyển xuống căn cứ vào số dư Có vượt quá này so với quy định. 2.2.3.3. Thanh toán vốn với NH khác hệ thống NHNo Áp dụng phương thức TTLCNNH (CTĐT nội tỉnh) để NHNo tỉnh Hà Nam thanh toán bù trừ qua chi nhánh NHNN tỉnh Hà Nam. Giao dịch phát sinh 1: Khách hàng đến NHNo Lý Nhân yêu cầu chuyển tiền cho người thụ hưởng nhận tại ngân hàng khác hệ thống NHNo cùng hoặc khác địa bàn tỉnh Hà Nam. Quy trình: tương tự như chuyển tiền điện tử nội tỉnh NHNo huyện Lý Nhân lập Lệnh chuyển Có đi bù trừ gửi đến NHNo tỉnh Hà Nam (3”) NHNo tỉnh Hà Nam nhận được lệnh chuyển Có đi bù trừ, hạch toán: Nợ TK 519121- Mã NHNo Lý Nhân Có TK thanh toán bù trừ 501201- Mã NHNo tỉnh Hà Nam mở tại CN NHNN tỉnh Hà Nam (12) NHNo tỉnh Hà Nam là thành viên tham gia thanh toán bù trừ tại NHNH tỉnh Hà Nam (trên địa bàn tỉnh Hà Nam có hệ thống NH Ngoại thương, Đầu tư, Công thương tham gia TTBT, NHNN tỉnh Hà Nam là NH chủ trì). NHNo tỉnh Hà Nam phân loại và xử lý chứng từ, lập bản kê, đến giờ cán bộ chuyên trách mang chứng từ, bảng kê, sổ giao nhận chứng từ đến NHNN tỉnh Hà Nam để tiến hành TTBT giấy (tại CN NHNN tỉnh Hà Nam mới chỉ là thanh toán bù trừ giấy, mỗi ngày 2 phiên). (13) Tại CN NHNN tỉnh Hà Nam tiến hành thanh toán bù trừ, sau đó hạch toán ghi kết quả bù trừ vào TKTG của NHNo tỉnh Hà Nam, đồng thời giao kết quả bù trừ chi tiết cho từng chi nhánh NHNo huyện thuộc tỉnh Hà Nam để làm căn cứ cho NHNo tỉnh Hà Nam hạch toán vào TK 501201-Mã chi tiết từng chi nhánh NHNo huyện thuộc tỉnh Hà Nam. Nếu NHNo tỉnh Hà Nam phát sinh quan hệ thanh toán với NH không thuộc hệ thống NH là thành viên tham gia TTBT tại NHNN tỉnh Hà Nam thì NHNN tỉnh Hà Nam phải sử dụng tiếp phương thức TTLCNNH của hệ thống NHNN để thanh toán cho NH thuộc hệ thống NH kia. CN NHNN tỉnh Hà Nam cũng hạch toán tương tự cho các NH khác hệ thống NHNo trên địa bàn tỉnh Hà Nam để các NH này hạch toán tương tự cho các chi nhánh trực thuộc của mình. Các thành viên tham gia thanh toán bù trừ tại NHNN tỉnh Hà Nam đều phải mở TKTG tại NHNN. Với việc ghi Nợ, Có tương ứng vào TKTG của thành viên tham gia thanh toán bù trừ, NHNN tỉnh Hà Nam đã thực hiện thanh toán vốn giữa các hệ thống NH khác nhau. Giao dịch phát sinh 2: NHNo huyện Lý Nhân nhận được Lệnh chuyển Có bù trừ từ NHNo tỉnh Hà Nam chuyển đến (trong phiên thanh toán bù trừ NHNo tỉnh Hà Nam nhận được các chứng từ thanh toán cho ngân hàng mình và các chi nhánh ngân hàng trực thuộc, từ đó NHNo tỉnh Hà Nam sẽ truyền lệnh chuyển Có đến các chi nhánh ngân hàng huyện). NHNo huyện Lý Nhân là đơn vị trả tiền cho khách hàng trong khi không được sử dụng số tiền đó. NHNo huyện Lý Nhân nhận thanh toán bằng việc được ghi Có vào tài khoản Điều chuyển vốn mở chi tiết cho NHNo huyện Lý Nhân tại NHNo tỉnh Hà Nam. NHNo tỉnh Hà Nam thanh toán với ngân hàng khác hệ thống qua TKTG tại NH chủ trì – NHNN tỉnh Hà Nam. 2.2.3.4. Thanh toán với NHNo cấp 3 (chợ Chanh, chợ Cầu) Quá trình thanh toán này có thể tóm tắt như sau: khách hàng có nhu cầu chuyển tiền viết giấy ủy nhiệm chi, giấy nộp tiền tại NHNo cấp 3. NHNo cấp 3 hạch toán ghi sổ, sau đó chuyển chứng từ giấy trực tiếp cho NHNo huyện Lý Nhân, gộp chứng từ thanh toán vào một lần và cử cán bộ chuyển lên chậm nhất là 2h để NHNo huyện Lý Nhân kịp lập Lệnh chuyển Có gửi cho NHNo tỉnh Hà Nam. Đồng thời cán bộ này nhận chứng từ “Lệnh chuyển Có đến” từ NHNo tỉnh Hà Nam đã được NHNo Lý Nhân in ra. Việc thanh toán với chi nhánh NHNo cấp 3 này cũng được hiểu như thanh toán giữa NHNo huyện Lý Nhân với NHNo tỉnh Hà Nam. Nếu thiếu tiền mặt tại quỹ NHNo cấp 3 xin cấp từ NHNo huyện Lý Nhân và ngược lại nếu thừa sẽ nộp lên. Hai mẫu lệnh chuyển Có đi NHNo tỉnh Hà Nam, Lệnh chuyển Có nhận từ NHNo tỉnh Hà Nam: Lệnh chuyển Có đi NHNo tỉnh Hà Nam Lệnh chuyển Có đi nội tỉnh Số lệnh mã lệnh và số lệnh Ngày lập: 16/03/2007 SBT: 76 NH gửi lệnh NHNo&PTNT huyện Lý Nhân Mã NH:5309 NH nhận lệnh NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam Mã NH:5310 Người phát lệnh: tên khách hàng yêu cầu chuyển Địa chỉ/ Số CMT: địa chỉ của khách hàng, số CMT không bắt buộc Tài khoản: số tài khoản (nếu có) Tại 5309 NHNo&PTNT huyện Lý Nhân Người nhận lệnh: tên khách hàng thụ hưởng Địa chỉ/ Số CMT: ghi rõ số CMT, ngày cấp, nơi cấp Tài khoản: ghi rõ số tài khoản(nếu có) tại NHNo nào Số tiền Nội dung: Chuyển tiền cho (tên khách hàng yêu cầu chuyển) đi CTĐT nội tỉnh, (ngoại tỉnh), (bù trừ) Số tiền bằng số: Bằng chữ: ghi rõ số tiền bằng chữ KTGD KTC.Tiền Kiểm soát Các lệnh chuyển Có đi phải được lập và truyền đi trước thời điểm Trung tâm thanh toán ngừng chuyển lệnh thanh toán (3h30 chiều). Lệnh chuyển Có nhận từ NHNo tỉnh Hà Nam Lệnh chuyển Có đến nội tỉnh Số lệnh: mã lệnh, số lệnh theo quy định Ngày lập: 16/03/2007 SBT: 86 NH gửi lệnh NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam Mã NH:5310 NH nhận lệnh NHNo&PTNT huyện Lý Nhân Mã NH:5309 Người phát lệnh: tên khách hàng yêu cầu chuyển tiền Địa chỉ/ Số CMT: địa chỉ của khách hàng yêu cầu chuyển tiền Tài khoản: số tài khoản (nếu có) tại NHNo phục vụ người yêu cầu chuyển, ghi rõ mã NHNo đó Người nhận lệnh: tên người thụ hưởng Địa chỉ/ Số CMT: ghi rõ số CMT, ngày cấp, nơi cấp Tài khoản: số tài khoản (nếu có) Tại 5309 NHNo&PTNT huyện Lý Nhân Số tiền Nội dung: Chuyển tiền cho (tên người yêu cầu chuyển) đi CTĐT nội tỉnh, (CTĐT ngoại tỉnh), (CTĐT nội tỉnh đi bù trừ) Số tiền bằng số: Bằng chữ: ghi rõ số tiền yêu cầu chuyển bằng chữ KTGD KTC.Tiền Kiểm soát NHNo huyện Lý Nhân là thành viên của hệ thống chuyển tiền điện tử nội tỉnh (có các thành viên là Trung tâm xử lý tỉnh Hà Nam,các NHNo huyện thuộc tỉnh Hà Nam), NHNo tỉnh Hà Nam là thành viên của hệ thống chuyển tiền ngoại tỉnh (có các thành viên là Trụ sở chính, các NHNo tỉnh, thành phố), NHNo tỉnh Hà Nam là thành viên của hệ thống thanh toán bù trừ giấy (có các thành viên là NHNN tỉnh Hà Nam, các NH thuộc các hệ thống khác nhau trên địa bàn tỉnh Hà Nam), NHNN tỉnh Hà Nam là thành viên của hệ thống TTLCNNH của hệ thống NHNN. Với việc kết hợp các hệ thống thanh toán này, NHNo huyện Lý Nhân chỉ cần mở một tài khoản Điều chuyển vốn tại NHNo tỉnh Hà Nam là có thể thanh toán với các ngân hàng có phát sinh liên quan. 2.2.4. Kết quả thanh toán vốn giữa NHNo huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác NHNo&PTNT huyện Lý Nhân thanh toán vốn với các ngân hàng khác thông qua tài khoản Điều chuyển vốn nội tỉnh 519121 – mở chi tiết cho NHNo Lý Nhân tại NHNo tỉnh Hà Nam. Bằng cách ghi Nợ, ghi Có vào tài khoản này. Để duy trì hoạt động thanh toán của mình NHNo huyện Lý NHân luôn phải duy trì số dư Có để đảm bảo đủ thanh toán. Do đó kết quả thanh toán vốn với các ngân hàng khác đều được phản ánh trên tài khoản Điều chuyển vốn nội bộ. Bảng 2.7. Kết quả xử lý Lệnh chuyển Có đi 2006 2005 2004 2003 2002 2001 Số món (món) Trung bình một ngày 22 17 14 12 11 9 Cả năm 5.720 4.420 3.640 3.120 2.860 2.340 Số tiền (triệu đồng) Trung bình một ngày 654 503 402 336 279 254 Cả năm 170.300 130.780 104.520 87.360 72.540 66.040 Nguồn: Báo cáo liên hàng qua các năm từ 2001 đến 2006. Bảng 2.8. Kết quả xử lý Lệnh chuyển Có đến 2006 2005 2004 2003 2002 2001 Số món (món) Trung bình một ngày 25 20 16 13 11 9 Cả năm 6.500 5.200 4.160 3.380 2.864 2.345 Số tiền (triệu đồng) Trung bình một ngày 423 333 266 335 279 254 Cả năm 109.980 86.580 69.160 87.100 72.840 66.030 Nguồn: Báo cáo liên hàng qua các năm 2001-2006. Qua hai bảng số liệu trên ta thấy trung bình mỗi ngày NHNo Lý Nhân xử lý khoảng 30 – 47 Lệnh chuyển Có cả đi và đến, cả năm xử lý khoảng 7.800 – 12.220 các lệnh với doanh số đạt khoảng 280 tỷ đồng cả năm và trung bình hơn 1 tỷ đồng/ngày, hàng năm tăng khoảng 20 – 30% cả về số món và số tiền. Đây là kết khá tốt ở một chi nhánh ngân hàng cấp 2 với dự trữ tiền mặt tại quỹ luôn phải duy trì là 2 tỷ VNĐ và 2.000 USD. Trong đó qua các năm ta thấy về số tiền chuyển đi đa phần lớn hơn số tiền chuyển đến – điều đó có nghĩa là NHNo Lý Nhân thường xuyên có số dư tiền mặt tại quỹ, ngân hàng luôn có đầy đủ vốn để hoạt động, là nguồn vốn rẻ để ngân hàng phát triển hoạt động tín dụng của mình. Nhưng cũng vì thế mà ngân hàng thường xuyên phải điều chuyển vốn lên Ngân hàng tỉnh để bổ sung đảm bảo thanh toán. Lý do số tiền chuyển đi thường xuyên lớn hơn số tiền chuyển đến là vì tại địa bàn huyện Lý Nhân, chuyển tiền qua ngân hàng là phương tiện hiệu quả, an toàn và rẻ nhất đồng thời so với chuyển tiền qua bưu điện thì với hệ thống chuyển tiền điện tử trong hệ thống NHNo, chuyển tiền qua ngân hàng nhanh hơn rất nhiều. Nếu một người đến ngân hàng yêu cầu chuyển tiền trước 9h sáng cho người thụ hưởng cùng hệ thống tại bất kỳ đâu thì đến chiều người nhận sẽ nhận được tiền, còn nếu sau đó đến trước 3h30 chiều thì sẽ nhận được vào sáng ngày hôm sau. Tại đây người dân không chỉ gửi tiền cho cá nhân mà còn thông qua ngân hàng để đóng phí bảo hiểm Prudential hàng tháng. Như vậy người dân đã quen thuộc và tin tưởng vào kênh chuyển tiền qua ngân hàng, NHNo Lý Nhân hoạt động tốt chức năng trung gian thanh toán, làm cho vốn của toàn hệ thống NHNo chu chuyển nhanh, Trụ sở chính điều hòa được vốn của hệ thống mình. Với hoạt động này cũng đem lại một khoản thu cho ngân hàng từ phí chuyển tiền. Biểu phí chuyển tiền hiện nay áp dụng như sau: Các món chuyển tiền thu phí tối thiểu là 22.000đ/món. Các món chuyển tiền số tiền không vượt quá 22 triệu: thu phí 22.000đ/món. Các món chuyển tiền số tiền lớn hơn 22 triệu: thu phí 0,1% số tiền chuyển/món. Nếu chuyển tiền từ tài khoản (khách hàng viết giấy ủy nhiệm chi), căn cứ vào số tiền chuyển và số dư tài khoản để thu phí. Khi nhận giấy ủy nhiệm chi của khách hàng, kế toán giao dịch phải đối chiếu mẫu chữ ký của chủ tài khoản xem có đúng không, sau đó kiểm tra số dư có đủ để chuyển không, đối chiếu số tiền chuyển với số dư, nếu chủ tài khoản gửi tiền vào tài khoản trong vòng 3 ngày sau đó chuyển đi thì chỉ thu phí 0,05% số tiền chuyển nhưng vẫn đảm bảo thu số tiền tối thiểu là 22.000đ/món. Nếu chủ tài khoản gửi vào và chuyển đi trong vòng không quá 2 ngày thì thu phí 0,1% số tiền chuyển. Bảng 2.9. Kết quả từ hoạt động thu phí chuyển tiền 2006 2005 2004 2003 2002 2001 Số tiền phí thu được/ngày(nghìn đồng) 700 526 405 316 253 210 Cả năm (triệu đồng) 182 137 106 82 66 55 Nguồn: Báo cáo kết quả liên hàng qua các năm 2001-2006. Với nhu cầu chuyển tiền đi tương đối lớn tại địa bàn đã mang lại một khoản thu nhập cho ngân hàng, doanh số cả năm đạt trung bình khoảng 100 triệu đồng, năm 2006 đã tăng lên đến gần 200 triệu đồng. Số phí này NHNo huyện Lý Nhân phải chia sẻ phí cho các thành viên tham gia chuyển tiền điện tử nội tỉnh theo Quy định về chia sẻ phí thanh toán trong hệ thống NHNo&PTNT số 2301/NHNo-TCKT của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT-VN có hiệu lực từ ngày 1/8/2006. NHNo&PTNT huyện Lý Nhân là một thành viên của hệ thống chuyển tiền điện tử nội tỉnh. Các đơn vị tham gia vào việc chia sẻ phí bao gồm: Ngân hàng A là chi nhánh NHNo nhận chứng từ và khởi tạo lệnh thanh toán cho khách hàng, ngân hàng B là chi nhánh NHNo nhận lệnh thanh toán để phục vụ người thụ hưởng theo chỉ dẫn của lệnh thanh toán (hai chi nhánh ngân hàng này đều là NHNo huyện cùn tỉnh), Trung tâm xử lý tỉnh. Tỷ lệ chia sẻ phí dịch vụ thanh toán giữa các đơn vị như sau: Chi nhánh NHNo A: 60% Chi nhánh NHNo B: 30% Trung tâm xử lý: 10% Đối với chuyển tiền điện tử nội tỉnh, Trung tâm xử lý là Hội sở ngân hàng tỉnh (Bộ phận xử lý tại Hội sở ngân hàng tỉnh). Việc chia sẻ phí thanh toán nhằm mục đích khuyến khích các chi nhánh NHNo thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán của ngân hàng, tăng thu dịch vụ, đồng thời gắn trách nhiệm đối với các thành viên tham gia vào giao dịch chuyển tiền và bù đắp một phần chi phí cho Trung tâm xử lý (Hội sở ngân hàng tỉnh, bộ phận xử lý tại Trụ sở chính) để bảo trì, nâng cấp hệ thống và trả phí của đơn vị đầu mối cho các hệ thống ngân hàng khác (thanh toán song phương, thanh toán liên hàng…) NHNo Lý Nhân thanh toán khoản phí chia sẻ này qua tài khoản Điều chuyển vốn tại NHNo tỉnh Hà Nam. Theo số liệu tại NHNo tỉnh Hà Nam, NHNo huyện Lý Nhân là chi nhánh hoạt động tốt, dư Có tài khoản Điều chuyển vốn mở tại NHNo tỉnh luôn đảm bảo đủ số dư phải duy trì và đảm bảo đủ để thanh toán. Do phạm vi địa bàn hoạt động rộng, NHNo Lý Nhân đã mở thêm hai chi nhánh ngân hàng cấp 3 chợ Chanh và chợ Cầu. Tại hai chi nhánh này hiện chưa áp dụng hệ thống chuyển tiền điện tử, nên việc giao nhận chứng từ liên hàng theo cách truyền thống: giao nhận trực tiếp chứng từ giấy. Do đó hiệu quả hoạt động không cao, việc thanh toán cho khách hàng cũng như phục vụ chuyển tiền cho khách hàng chậm hơn do mất thời gian lưu chuyển chứng từ giấy. Kết quả hoạt động như sau: Bảng 2.10. Kết quả hoạt động liên hàng của ngân hàng cấp 3 2006 2005 2004 2003 2002 2001 Chợ Chanh Số món (món) Một ngày 2 2 1 1 1 1 Cả năm 520 501 487 465 432 399 Số tiền (triệu đồng) Một ngày 40 35 33 30 28 25 Cả năm 10.400 9.100 8.580 7.800 7.280 6.500 Chợ Cầu Số món (món) Một ngày 2 1 1 1 1 1 Cả năm 512 498 467 452 431 400 Số tiền (triệu đồng) Một ngày 42 32 30 29 28 23 Cả năm 10.920 8.320 7.800 7.540 7.278 5.980 Trung bình mỗi ngày các ngân hàng cấp 3 này chỉ xử lý khoảng 1 – 2 giao dịch, với số tiền 30-35 triệu đồng, có ngày không phát sinh giao dịch nào, nhu cầu chuyển đi ít với số tiền nhỏ, chủ yếu là liên hàng chuyển đến. Tuy doanh số hoạt động chưa cao nhưng với hai chi nhánh này NHNo huyện Lý Nhân phục vụ khách hàng tốt hơn và nhanh hơn, giảm việc đi lại, mất mát tài sản của người dân ở xa. 2.3. Đánh giá về thực trạng hoạt động thanh toán vốn giữa NHNo&PTNT huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác 2.3.1. Thành tựu Về khả năng phục vụ khách hàng: Tại địa bàn huyện Lý Nhân, NHNo huyện Lý Nhân là đơn vị duy nhất áp dụng hệ thống chuyển tiền điện tử nhận chuyển tiền đi cho tất cả các đối tượng có nhu cầu chuyển tiền đi tại bất kỳ đâu trong phạm vi cả nước, tăng thu nhập cho ngân hàng từ thu phí chuyển tiền. NHNo huyện Lý Nhân cũng nhận thanh toán hộ các NH khác đã qua trung tâm xử lý tỉnh Hà Nam, phục vụ cho khách hàng mình nhận được tiền chuyển đến nhanh chóng, đầy đủ. NHNo&PTNT huyện Lý Nhân là chi nhánh thuộc hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam – hệ thống Ngân hàng có mạng lưới chi nhánh rộng nhất trong các TCTD Việt Nam. Trong giai đoạn 1 của dự án hiện đại hóa hệ thống thanh toán ngân hàng do WB tài trợ, NHNo&PTNT Việt Nam đã hoàn thiện xong và đang khẩn trương tiến hành giai đoạn 2. Khi hệ thống IPACS chưa được áp dụng tại NHNo tỉnh Hà Nam thì với việc chi nhánh rộng tạo điều kiện cho NHNo huyện Lý Nhân phục vụ nhu cầu chuyển tiền mọi nơi cho khách hàng. NHNo Lý Nhân cũng mở rộng thêm hai chi nhánh ngân hàng cấp 3 trực thuộc nên khả năng phục vụ khách hàng tốt hơn. Về tính an toàn, chính xác: Do áp dụng kỹ thuật điện tử trong chuyển tiền nên đã giúp cho việc chuyển tiền được nhanh chóng, chính xác, an toàn tài sản, tiết kiệm vốn và giúp cho các hệ thống ngân hàng điều hòa vốn trong toàn hệ thống đạt hiệu quả cao. NHNo huyện Lý Nhân chỉ cần mở một tài khoản tại NHNo tỉnh Hà Nam là có thể thanh toán với các ngân hàng phát sinh liên quan, do đó vốn của NHNo Lý Nhân không bị phân tán, hiệu quả sử dụng vốn cao. Chuyển tiền điện tử áp dụng phương thức “kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung”. Do việc kiểm soát và đối chiếu được tập trung tại Trung tâm xử lý tỉnh và kết thúc ngay trong ngày nên đã đảm bảo tất cả các chuyển tiền được kiểm soát trước khi trả tiền cho khách hàng, từ đó đảm bảo an toàn tài sản. Về quy trình xử lý chuyển tiền điện tử nội tỉnh: Một nguyên tắc trong CTĐT đó là sai sót ở đâu phải sửa ở đó, bộ phận nào phát hiện sai sót phải điện tra soát xử lý ngay. NHNo huyện Lý Nhân đã phân quyền, trách nhiệm cho từng cán bộ thực hiện chuyển tiền, thực hiện nghiêm túc quy trình lập một lệnh chuyển tiền điện tử, cụ thể như sau: Một lệnh chuyển Có đi nội tỉnh được lập theo 3 bước, được phân quyền cho 3 người, mỗi người có một chữ ký điện tử riêng để vào hệ thống và thực hiện những nhiệm vụ được phân quyền, trách nhiệm. Bước 1: Kế toán giao dịch (cô Hoa) dùng chữ ký điện tử của mình vào hệ thống chuyển tiền điện tử, nhập vào máy vi tính (tạo) các yếu tố sau đây theo chứng từ gốc chuyển tiền: - Tên, địa chỉ người phát lệnh (người yêu cầu chuyển tiền); số tài khoản, tại NHNo&PTNT huyện Lý Nhân (nếu người yêu cầu chuyển tiền từ tài khoản của họ). - Tên, địa chỉ/ số CMT người nhận lệnh (ghi rõ số CMT, ngày cấp, nơi cấp) hoặc số tài khoản, tại Ngân hàng nào. - Nội dung chuyển tiền - Số tiền bằng số, bằng chữ Kiểm soát lại các dữ liệu đã nhập và ký vào chứng từ, sau đó chuyển chứng từ giấy và file dữ liệu chuyển tiền cho kế toán viên chuyển tiền xử lý tiếp. Bước 2: Kế toán viên chuyển tiền (chị Mai) dùng chữ ký điện tử của mình vào hệ thống chuyển tiền điện tử, kiểm soát lại các dữ liệu kế toán giao dịch nhập, chữ ký của kế toán giao dịch. Nếu phát hiện bất kỳ sai sót gì trên chứng từ hoặc dữ liệu phải chuyển chứng từ lại cho kế toán viên giao dịch để xử lý lại. Kế toán viên chuyển tiền không được tự ý sửa chữa bất kỳ yếu tố nào trên chứng từ giấy cũng như dữ liệu đã nhập của kế toán viên giao dịch. Sau khi kiểm soát xong, kế toán viên chuyển tiền bổ sung thêm các dữ liệu quy định còn lại để hoàn chỉnh Lệnh chuyển tiền theo đúng mẫu quy định. Các dữ liệu này bao gồm: - Số lệnh - Ngày lập lệnh - Mã chứng từ và loại nghiệp vụ - Mã ngân hàng của các ngân hàng có liên quan - Số tiền (nhập lại để kiểm soát) Sau khi đã vào đầy đủ và kiểm soát lại các dữ liệu, kế toán viên chuyển tiền phải ký theo quy định và chuyển chứng từ giấy và file (tệp) dữ liệu chuyển tiền cho người kiểm soát để kiểm soát và ký duyệt cho chuyển đi. Bước 3: Xử lý của người kiểm soát (cô Điệp), người kiểm soát sử dụng chữ ký điện tử của mình để vào chương trình, kiểm soát các dữ liệu của lệnh chuyển tiền vừa lập, đảm bảo dữ liệu đã được nhập đầy đủ, chính xác, theo đúng mẫu biểu, khớp đúng với chứng từ chuyển tiền khách hàng nộp vào và chữ ký của kế toán viên giao dịch, kế toán viên chuyển tiền theo quy định. Nếu có sai lệch thì phải chuyển lại cho kế toán viên giao dịch hoặc kế toán viên chuyển tiền để xử lý lại. Người kiểm soát không được tự ý sửa chữa bất kỳ yếu tố nào trên chứng từ gốc chuyển tiền cũng như dữ liệu của lệnh chuyển tiền (chương trình không cho phép). Nếu đúng, người kiểm soát duyệt (ghi chữ ký điện tử vào lệnh chuyển tiền) để chuyển đi. Việc lập một lệnh chuyển tiền theo các bước như thế đảm bảo cho Lệnh chuyển tiền không có sai sót gì, khách hàng thụ hưởng nhanh chóng nhận được tiền. 2.3.2. Hạn chế: Về dịch vụ cung cấp: Hiện tại NHNo huyện Lý Nhân mới thực hiện chuyển lệnh chuyển Có đi và nhận lệnh chuyển Có đến, chưa có hoạt động chuyển lệnh chuyển Nợ, do đó không phát huy được hết chức năng của hệ thống chuyển tiền điện tử, phát triển hệ thống thanh toán trong toàn hệ thống. Nhưng nguyên nhân này không phải từ phía ngân hàng mà là do hoạt động kinh doanh của địa bàn chủ yếu là nông nghiệp nên chưa có nhu cầu. Về cơ sở vật chất kỹ thuật hỗ trợ, con người thực hiện: NHNo Lý Nhân đã được NHNo tỉnh lắp đặt phần mềm chương trình chuyển tiền điện tử nhưng tại cơ sở thiếu cán bộ tin học nên mỗi lần gặp sự cố lại phải đợi cán bộ tỉnh xuống sửa. Quy trình chuyển tiền điện tử đã được phân quyền trách nhiệm cho từng cán bộ cụ thể nhưng do tại ngân hàng vẫn giao dịch theo mô hình một cửa nên cả ngân hàng thực hiện toàn bộ quy trình chuyển tiền điện tử trên một máy tính (phòng kế toán có tất cả 7 máy tính), do đó tính độc lập trong lập lệnh chuyển tiền giảm. Để lập lệnh chuyển tiền vẫn phải có đầy đủ ba chữ ký điện tử của ba người như trên nhưng do thực hiện trên cùng một máy nhiều khi khách hàng đông, một người tiện thể làm luôn do biết được mật mã, chữ ký của người kia, tính kiểm soát trong trường hợp này không thực hiện được. Về hiệu quả của toàn bộ hoạt động thanh toán vốn giữa NHNo tỉnh Hà Nam với các ngân hàng khác: Trong quy trình thanh toán đó, NHNo Lý Nhân chỉ cần mở một tài khoản Điều chuyển vốn tại NHNNo tỉnh Hà Nam nhưng để tiến hành tiếp quá trình thanh toán NHNo tỉnh phải mở hai tài khoản thanh toán: Một là, TKTG tại CN.NHNN tỉnh Hà Nam để thanh toán bù trừ các lệnh thanh toán của NHNo tỉnh Hà Nam và các CN.NHNo huyện trực thuộc với các NH khác hệ thống NHNo. Hai là, tài khoản Điều chuyển vốn mở tại Trụ sở chính NHNo&PTNT – VN để chuyển các lệnh thanh toán của NHNo tỉnh, các NHNo huyện trực thuộc với các NHNo tỉnh khác, các CN.NHNo huyện khác thuộc tỉnh khác. Điều này dẫn đến vốn của NHNo tỉnh Hà Nam bị phân tán, Trụ sở chính không kiểm soát được các giao dịch thanh toán với các NH khác hệ thống NHNo tại tỉnh Hà Nam. Những hạn chế này sẽ được khắc phục khi giai đoạn 2 của dự án WB hoàn thành. Hai chi nhánh ngân hàng nông nghiệp cấp 3 trực thuộc của NHNNo Lý Nhân chưa áp dụng hệ thống chuyển tiền điện tử mà mới chỉ là chuyển chứng từ liên hàng giấy – điều này làm chậm quá trình thanh toán cho khách hàng. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN THANH TOÁN VỐN TẠI NHNo&PTNT HUYỆN LÝ NHÂN 3.1. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán vốn của chi nhánh ngân hàng huyện Lý Nhân 3.1.1. Định hướng phát triển hệ thống thanh toán của Ngân hàng VN Nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống thanh toán ngân hàng đối với nền kinh tế, ngay từ những năm đổi mới, chuyển sang ngân hàng hai cấp, ngành Ngân hàng đã xác định đầu tư cho hiện đại hóa hệ thống thanh toán là trọng tâm của hiện đại hóa ngân hàng. Với định hướng phát triển đúng đắn đó, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã ưu tiên nhiều nguồn lực, cùng với sự tài trợ của WB đầu tư để xây dựng hệ thống TTĐTLNH và các hệ thống Corbanking của các NHTM. Với sự trợ giúp của các chuyên gia hàng đầu về hệ thống thanh toán hiện đại của WB, Ngân hàng Việt Nam đã lựa chọn được mô hình hệ thống cho riêng mình, dựa trên kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Các hệ thống này được thiết kế và xây dựng theo giải pháp tập trung hóa tài khoản kết nối trực tuyến qua các mạng diện rộng (WAN), xử lý tức thời (Online). Kể từ khi hình thành dự án đến khi kết thúc là một thời gian dài và không ít khó khăn phải vượt qua. Nhưng khó khăn không phải là yếu tố kỹ thuật mà do phải học hỏi kinh nghiệm quản lý và triển khai dự án, công tác cải tiến các cơ chế nghiệp vụ cho phù hợp với ứng dụng công nghệ hiện đại, thiết lập hệ thống pháp lý cho hệ thống hoạt động theo phương thức điện tử, xác định mô hình quản lý vận hành. Thực tế, hệ thống kỹ thuật công nghệ mới đã tạo ra một bước nhảy vọt về công nghệ ngân hàng, quan trọng hơn, nó còn là tác nhân làm thay đổi cơ bản hệ thống tổ chức và quản trị ngân hàng theo phương pháp thủ công trước đây. Nhiều bộ phận thuộc cơ cấu bộ máy ngân hàng bị xóa bỏ hoặc thay thế, nhiều bộ phận mới ra đời và phát triển. Đặc điểm này rất đáng lưu tâm cho các nhà hoạch định chính sách và cơ cấu lại hoạt động ngân hàng khi yếu tố kỹ thuật, công nghệ đã trở thành một phần không thể thiếu đối với hoạt động ngân hàng. Định hướng chiến lược về hiện đại hóa ngân hàng nói chung và hệ thống thanh toán nói riêng hoàn toàn chính xác, phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều đó được minh chứng bằng các hệ thống kỹ thuật, công nghệ trong khuôn khổ dự án do WB tài trợ được xây dựng và triển khai thành công đã đưa vào hoạt động từ năm 2002 đến nay. Hệ thống thanh toán Ngân hàng Việt Nam trong tương lai: Trong 5 hệ thống thanh toán hiện nay, có 3 hệ thống sẽ bị triệt tiêu khi hệ thống thanh toán mới đã hoàn thiện. Hệ thống CTĐT và bù trừ tại các tỉnh, thành phố sẽ không còn tồn tại khi hệ thống TTĐTLNH giai đoạn 2 hoàn thành. Với qui mô dự án được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt, WB đã tài trợ 106 triệu USD khoản vốn vay ưu đãi cho 5 tiểu dự án, trong đó mở rộng tiểu dự án TTĐTLNH ra phạm vi cả nước và 4 tiểu dự án của các NHTM. Theo thiết kế ban đầu, hệ thống TTĐTLNH gồm 4 cấu phần: Thanh toán giá trị cao (quyết toán tổng tức thời), thanh toán giá trị thấp (bù trừ theo lô), cổng kết nối với hệ thống cũ và hệ thống xử lý tài khoản và quyết toán vốn. Theo đó, cấu phần thanh toán giá trị cao sẽ mở rộng và dần thay thế hệ thống CTĐT (giai đoạn 1 mới triển khai được 5 tỉnh, thành phố lớn), cấu phần thanh toán giá trị thấp sẽ thay thế hệ thống TTBT tại tỉnh, thành phố. Hệ thống CTĐT hiện nay của các NHTM cũng sẽ bị tiệt triêu khi hệ thống Corbanking tập trung hóa tài khoản đã phủ sóng tới tất cả các chi nhánh của mỗi ngân hàng. Khi đó, trong mỗi NHTM, thực hiện thanh toán giữa các chi nhánh với Hội sở chính và giữa các chi nhánh với nhau chỉ đơn giản là việc thực hiện các bút toán nội bộ trực tiếp tức thời. Như vậy, khi hoàn thành giai đoạn 2 của dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán (kế hoạch vào 2008), về cơ bản, hệ thống ngân hàng Việt Nam chỉ còn tồn tại hai hệ thống thanh toán (trừ những ngân hàng chưa xây dựng được hệ thống Corbanking Online vẫn phải duy trì hệ thống chuyển tiền nội bộ) là: hệ thống TTĐTLNH và hệ thống chuyển tiền quốc tế (SWIFT). Tuy nhiên, với những dịch vụ bán lẻ trong khu vực dân cư ngày càng phát triển, khối lượng thanh toán nhỏ qua ngân hàng tăng nhanh thông qua việc sử dụng các hệ thống máy tự động đầu cuối, ngân hàng sẽ có những trung tâm chuyển mạch để liên kết các thiết bị này nhằm thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau. Những trung tâm này liên kết các thiết bị đầu cuối của các ngân hàng chỉ thực hiện các khoản thanh toán nhỏ lẻ, nó sẽ hoạt động như một vệ tinh trong hệ thống TTĐTLNH thông qua việc xử lý quyết toán vốn bù trừ giữa các thành viên. Như vậy, mô hình hệ thống thanh toán của Ngân hàng Việt Nam đã được xác định từ những năm 90 và đã triển khai thành công cách đây 5 năm, đang ngày đêm hoạt động phục cho phát triển kinh tế đất nước và đang được nâng cấp, mở rộng bằng dự án giai đoạn 2 để thay thế các hệ thống thanh toán mang tính quá độ. 3.1.2. Định hướng phát triển chung của NHNo&PTNT VN Với phương châm vì sự thịnh vượng và phát triển bền vững của khách hàng và ngân hàng, mục tiêu của AGRIBANK là tiếp tục giữ vững vị trí ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế. AGRIBANK kiên trì với định hướng chiến lược phát triển là: Tiếp tục triển khai mạnh mẽ đề án tái cơ cấu, Kiện toàn một bước về tổ chức bộ máy và cán bộ theo hướng: giảm cầu cấp trung gian; cải cách khâu kế toán; nâng cao chất lượng cán bộ tham mưu tại Trụ sở chính; tập trung đào tạo lại tay nghề cho đội ngũ cán bộ nhân viên; đẩy nhanh ứng dụng công nghệ tin học; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ; rà soát, bổ sung quy chế điều hành ở các cấp vừa đảm bảo thực hiện đúng quy trình tác nghiệp, vừa xác định rõ công việc và trách nhiệm của mỗi cán bộ, nhân viên, Đảm bảo đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, tăng cường hợp tác, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước, các tổ chức tài chính-ngân hàng quốc tế đảm bảo hoạt động đạt hiệu quả cao, ổn định và phát triển bền vững. Năm 2007, phấn đấu tăng tổng nguồn vốn từ 30-35%/năm, tổng dư nợ từ 25-30%/năm, trong đó tỷ trọng tín dụng trung dài hạn tối đa chiếm 45% tổng dư nợ trên cơ sở cân đối nguồn vốn cho phép, nợ quá hạn dưới 1% tổng dư nợ, lợi nhuận tối thiểu tăng 10%. Coi trọng công tác huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn huy động từ dân cư, nguồn vốn trung và dài hạn để tạo thế ổn định. Đồng thời đẩy mạnh quan hệ đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn ủy thác đầu tư, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Coi trọng ứng dụng tin học vào hoạt động ngân hàng. Tập trung đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng và dịch vụ ngân hàng cũng như các đối tượng khách hàng để nâng cao tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ. Tập trung nâng cao chất lượng tín dụng, có chính sách thích hợp nhằm ngăn chặn rủi ro tín dụng. Tăng cường năng lực tài chính thông qua thực hiện cơ chế lãi suất thực dương và thực hiện chỉ huy lãi suất tập trung tại Trụ sở chính. Áp dụng lãi suất huy động và cho vay tại các vùng có cạnh tranh cao. Kiện toàn cơ chế khoán tài chính đến từng người lao động. 3.1.3. Định hướng phát triển của NHNo&PTNT huyện Lý Nhân Ngày 10/1/2007 Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT huyện Lý Nhân đã tổ chức tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh năm 2006, trên cơ sở đó đặt ra kế hoạch cho năm tiếp theo, cụ thể một số chỉ tiêu sau: 1. Nguồn vốn huy động đạt 250 tỷ, tăng 34-35% so với năm 2006. 2. Dư nợ đạt 260 tỷ, tăng 33% so với năm 2006 3. Tỷ lệ nợ xấu giảm chỉ chiếm 0,5% 4. Phấn đấu thu ngoài tín dụng đạt 5% 5. Tăng thu nhập 9% so với năm 2006 Qua đây Ban lãnh đạo và các phòng chức năng đã đề ra một số giải pháp trọng tâm để thực hiện: 1. Phòng kế hoạch-tín dụng dự báo tình hình kinh tế - xã hội và thị trường trên địa bàn mình và đề ra chương trình hành động cụ thể, phấn đấu hoàn thành kế hoạch năm. 2. Thực hiện chủ động đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, hướng tới khách hàng là dân cư kết hợp với việc mở rộng mạng lưới tại những địa bàn đủ điều kiện để tạo nguồn vốn ổn định, giảm dần nguồn vốn nhận từ ngân hàng tỉnh. 3. Kiên quyết thực hiện việc tăng trưởng tín dụng phải trên cơ sở tăng trưởng nguồn vốn và kiểm soát rủi ro. Điều hành tín dụng theo hướng nâng cao chất lượng tín dụng, cho vay phải kiểm soát được hiệu quả vốn đầu tư. Cán bộ tín dụng phải thường xuyên phân tích đánh giá khả năng thu hồi vốn và quản lý rủi ro nhằm phản ánh đúng chất lượng tín dụng. Tập trung nâng cao chất lượng phân loại nợ, nhất là đánh giá các khoản nợ theo định tính nhằm đánh giá đúng chất lượng tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro theo đúng quy định 493. Chuyển mạch hướng đầu tư, ưu tiên cho hộ sản xuất và các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chọn lọc các dự án kinh doanh có hiệu quả, khả thi, phù hợp với chuyển đổi cơ cấu kinh tế của địa phương. 4. Thường xuyên rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ - công nhân viên, đổi mới tác phong, lề lối làm việc, các quan hệ tiếp xúc với khách hàng. 5. Tăng cường quảng bá thương hiệu, quảng cáo các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng với khách hàng, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng để đáp ứng cho phù hợp 6. Về tài chính: tăng thu, tiết kiệm chi, có giải pháp tích cực thu hồi nợ sau xử lý rủi ro. Ngân hàng xây dựng chương trình hành động thực hành tiết kiệm, chống lãng phí một cách cụ thể. Thực hiện phân tích tài chính hàng tháng, quý nhằm phát hiện sớm các vấn đề nảy sinh làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. 7. Chủ động quản lý thanh khoản, quản lý hạn mức dư nợ, dư có tài khoản điều chuyển vốn nhằm thực hiện tốt việc chu chuyển tiền tệ và thanh toán vốn ở tất cả các thời điểm trong năm. 3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh toán vốn giữa NHNo&PTNT huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác NHNo&PTNT huyện Lý Nhân là chi nhánh cấp 2 trực thuộc NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam, do đó hệ thống thanh toán vốn với các NH khác phải tuân theo hệ thống thanh toán chung của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, tuân theo hệ thống thanh toán vốn mà NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam tham gia và áp dụng cho các chi nhánh cấp 2 của mình. Do đó giải pháp để phát triển thanh toán vốn tại chi nhánh NH huyện Lý Nhân phụ thuộc vào giải pháp phát triển thanh toán vốn chung của NHNo tỉnh Hà Nam và của NHNo Việt Nam cũng như toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Từ những thành tựu và hạn chế của thực trạng thanh toán vốn giữa NHNo huyện Lý Nhân với các ngân hàng khác, xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này. Về cơ sở vật chất kỹ thuật hỗ trợ: - Hiện nay NHNo huyện Lý Nhân thanh toán vốn với 2 chi nhánh NH cấp 3 của mình bằng chuyển chứng từ giấy trực tiếp, chưa kết nối mạng với các chi nhánh này do đó làm giảm hiệu quả chu chuyển vốn. Để đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn NHNo huyện Lý Nhân nên đầu tư cơ sở hạ tầng máy móc cho chi nhánh cấp 3, kết nội mạng cục bộ để chuyển việc giao nhận chứng từ giấy trực tiếp sang giao nhận chứng từ điện tử. - Tại NHNo huyện Lý Nhân nên trang bị thêm máy tính cài đặt chương trình chuyển tiền điện tử cho từng người chịu trách nhiệm thực hiện lệnh chuyển tiền để tách biệt đảm bảo tính độc lập trong lập lệnh. Về mô hình tổ chức, giao dịch: Tuy phòng kế toán và ngân quỹ hiện nay đã sát nhập làm một phòng, nhưng giao dịch tại ngân hàng hiện nay vẫn là giao dịch 2 cửa (tức việc sát nhập chỉ là sát nhập về 1 phòng làm việc, còn hoạt động vẫn là 2 phòng riêng biệt). Giao dịch 2 cửa làm tăng công việc cho cán bộ nhân viên, gây phiền hà cho khách hàng, khách hàng phải giao dịch tại 2 bộ phận mới hoàn thành xong giao dịch của mình. Do đó NH nên tiến hành giao dịch một cửa, đầu ngày thủ quỹ cấp cho mỗi giao dịch viên một hạn mức tiền mặt, các giao dịch viên giao dịch với khách hàng theo hạn mức đó, khi có giao dịch vượt quá hạn mức phải xin cấp phép của thủ quỹ. Để tiến hành giao dịch một cửa NH cũng phải đầu tư cho mỗi giao dịch viên một máy kiểm đếm tiền, một máy tính kết nối nội bộ. Khi đó khách hàng đến giao dịch với ngân hàng chỉ giao dịch tại một cửa với một cán bộ ngân hàng. Về đội ngũ cán bộ nhân viên thực hiện: Giao dịch một cửa tăng hiệu quả công việc, giảm bớt luân chuyển chứng từ giấy, giảm bớt công việc cho cán bộ nhân viên, nhưng để tiến hành giao dịch một cửa trước hết phải tổ chức đào tạo, hướng dẫn nhân viên của mình vốn đã quen với làm việc theo giao dịch hai cửa. Hiện tại NHNo huyện Lý Nhân chưa có cán bộ tin học, mỗi khi hệ thống CTĐT gặp sự cố, NHNo huyện Lý Nhân lại điện NHNo tỉnh Hà Nam điều cán bộ của tỉnh xuống để xử lý. Để nâng cao hiệu quả NHNo huyện Lý Nhân nên bổ sung thêm cán bộ tin học vào đội ngũ nhân viên của mình. 3.3. Một số kiến nghị nhằm phát triển thanh toán vốn giữa các ngân hàng 3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước: 1. Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt để khuyến khích công chúng giảm bớt các giao dịch thanh toán bằng tiền mặt (sớm hoàn thiện để triển khai đề án thanh toán không dùng tiền mặt 2006-2010 và tầm nhìn 2020). Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ tin học nhằm đẩy mạnh việc cải tiến quy trình kỹ thuật thanh toán góp phần thúc đẩy sự phát triển dịch vụ thanh toán mới trong hệ thống Ngân hàng. Cụ thể, hiện nay phần lớn các chi nhánh NHTM ở các địa phương đều duy trì tài khoản tiền gửi tại chi nhánh NHNN các tỉnh, thành phố mà chi nhánh ngân hàng đó có trụ sở. Mặt khác, cơ cấu quản lý tài khoản là phi tập trung nên các ngân hàng khó có khả năng quản lý có hiệu quả vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng mình trên cơ sở toàn quốc. Đồng thời, NHNN cũng khó có thể dự đoán chính xác tổng phương tiện thanh toán trên tất cả 64 tỉnh, thành phố và như vậy làm hạn chế tính hiệu quả của việc thực thi chính sách tiền tệ. Chính vì thế, NHTW cần phối hợp với các NHTM nghiên cứu để có hệ thống tài khoản quyết toán tập trung duy nhất trực tuyến tại Sở giao dịch NHNN Trung ương cho dù các chi nhánh NHTM không phải duy trì tài khoản tiền gửi tại các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Hệ thống này phải được thiết kế sao cho tích hợp được với các hệ thống kế toán và xử lý nội bộ của từng hệ thống ngân hàng cho mục đích cung cấp các dịch vụ thanh toán và quyết toán. Các ngân hàng có hệ thống quản lý tài khoản thống nhất trong toàn hệ thống sẽ quản lý các trạng thái tiền mặt sao cho có lợi nhất. Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước cần tích cực nghiên cứu, xây dựng theo hướng cả nước chỉ có một trung tâm chuyển mạch quốc gia để kết nối các giao dịch thanh toán thẻ giữa các ngân hàng với nhau, góp phần tăng thêm tính linh hoạt và tiện lợi trong hoạt động thanh toán của hệ thống ngân hàng cho khách hàng. 2. Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp đẩy mạnh công tác thanh toán qua tài khoản đối với tất cả các đối tượng trong xã hội. Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu để hệ thống thanh toán giá trị cao và hệ thống quyết toán chứng khoán có thể tương tác được với nhau nhằm tăng cường tính hiệu quả và giảm thiểu rủi ro đối với luồng tiền thanh toán chứng khoán và việc chuyển giao chứng khoán. Để làm được điều này, NHNN cần có những thỏa thuận và thu xếp về cơ sở hạ tầng mạng lưới đối với những tổ chức cung cấp dịch vụ giao dịch chứng khoán, đăng ký và lưu ký chứng khoán cũng như dịch vụ bù trừ và quyết toán chứng khoán. 3. Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các cơ sở pháp lý liên quan đến tổ chức bộ máy chuyên nghiệp quản lý hoạt động thanh toán, hoàn thiện hệ thống pháp luật giao dịch điện tử trong nền kinh tế nói chung và trong ngân hàng nói riêng. Ngân hàng Nhà nước phải là người chủ trì điều hành hệ thống thanh toán tập trung. 3.3.2. Đối với hệ thống NHTM 1. Đối với từng hệ thống NHTM cần tích cực nghiên cứu để đưa ra những sản phẩm và dịch vụ thanh toán mới. Để làm được điều này, các ngân hàng cần chú trọng đến việc đầu tư nâng cấp trang thiết bị sử dụng công nghệ hiện đại sẵn có cũng như cải tiến quy trình cung cấp dịch vụ ngân hàng cho khách hàng như đẩy mạnh hình thức giao dịch một cửa, giảm thiểu sự phiền hà cho khách hàng. Các ngân hàng cũng cần thực hiện phát triển hệ thống xử lý thanh toán và quản lý tài khoản nội bộ cũng như thực hiện đàm phán thu xếp kết nối giữa các mạng lưới dịch vụ cơ sở hạ tầng thanh toán chẳng hạn như hệ thống ATM. Các NHTM cũng cần hợp tác với nhau để đầu tư cơ sở vật chất và cùng xây dựng các qui định thống nhất về thể chế mới, đặc biệt là những thu xếp về thị trường cho việc cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Có thể lấy ví dụ về những thu xếp về việc sử dụng mạng lưới ATM chung cho toàn hệ thống NHTM trên cơ sở tích hợp tài nguyên sẵn có và đầu tư những máy ATM mới theo tỷ lệ góp vốn mà các ngân hàng thương lượng cụ thể với nhau, qua đó tạo sự dễ dàng hơn cho khách hàng trong việc rút tiền cũng như gửi tiền. Trước mắt, có thể thực hiện thu một lệ phí nhất định đối với người rút tiền ở những máy ATM của NH không phải là NH phát hành loại thẻ đó. Hiện nay ở Việt Nam đã có hệ thống liên minh thẻ của Vietcombank với 16 ngân hàng khác trong nước nhưng sự liên minh này còn nhiều bất cập gây phân tán vốn của các ngân hàng này. Cần có một trung tâm chuyển mạch quốc gia và phải do NHNN chủ trì quản lý. 2. Mỗi hệ thống ngân hàng hoàn thiện hệ thống thanh toán nội bộ của mình theo hướng tập trung tài khoản, các tiểu dự án của 6 ngân hàng thương mại quốc doanh cần đẩy nhanh trong giai đoạn 2. 3. Cùng với việc hoàn thiện bộ máy và tổ chức quản lý chuyên nghiệp về lĩnh vực thanh toán, cần chú trọng khâu đào tạo để nâng cao trình độ cho cán bộ chuyên trách, đặc biệt là lĩnh vực thanh toán thông qua sự trợ giúp của các tổ chức tài chính quốc tế. Xúc tiến các cuộc khảo sát kinh nghiệm thực tiễn của các nước phát triển và các nước trong khu vực về lĩnh vực thanh toán. Đây chính là con đường ngắn nhất để chúng ta có thể đưa hệ thống thanh toán Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản và các chuẩn mực thanh toán quốc tế. 3.3.3. Đối với Chính phủ 1. Chính phủ cần có các giải pháp tổng thể để phát triển thanh toán trong nền kinh tế. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm chính trong việc giám sát hệ thống thanh toán quốc gia nhưng không phải là cơ quan duy nhất có ảnh hưởng đến hệ thống thanh toán. Các cơ quan khác của chính phủ có thể ảnh hưởng đến tính hiệu quả và cạnh tranh của thị trường dịch vụ thanh toán cũng như các nghiệp vụ quản trị rủi ro và quan hệ khách hàng của các định chế tài chính cung cấp dịch vụ thanh toán, do đó NHNN cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan khác của Chính phủ như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Tài chính và các ngành v.v..tạo ra một phương pháp mới, một cách thức mới trong giao dich thanh toán của nền kinh tế. 2. Để tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về thanh toán không dùng tiền mặt, Chính phủ nên sớm ban hành văn bản pháp quy về phạm vi và khối lượng giá trị được thanh toán bằng tiền mặt. Khuyến khích việc thanh toán không dùng tiền mặt giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp với các đơn vị hành chính sự nghiệp, giữa nhân dân với doanh nghiệp hoặc đơn vị hành chính sự nghiệp và thanh toán giữa nhân dân với nhân dân có giá trị lớn như mua bán nhà, chuyển quyền sử dụng đất, các tài sản vật dụng đắt tiền… Muốn làm được điều này, trước tiên là đội ngũ công chức Nhà nước, lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước phải mỏ TKTG tại chi nhánh NHTM hoặc Kho bạc nhà nước. Tất cả các khoản thu nhập bằng tiền của mỗi cá nhân, phải thể hiện trên TKTG của mình. Điều này không xa lạ với mỗi công dân trong nền kinh tế phát triển và Việt Nam phải sớm làm quen với phương thức này. 3.3.4. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam NHNo&PTNT Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thành giai đoạn 2 của dự án WB, mở rộng hệ thống IPCAS để các chi nhánh NHNo các cấp thực hiện chuyển tiền chỉ đơn giản là thực hiện bút toán hạch toán trực tiếp với nhau. 3.3.5. Đối với NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam Tiến hành thanh toán tập trung một tài khoản qua TKTG của Trụ sở chính (chủ tài khoản là Trung tâm thanh toán) tại Sở Giao dịch NHNN. Hiện tại NHNo tỉnh Hà Nam phải mở hai tài khoản thanh toán: Một là, TKTG tại CN.NHNN tỉnh Hà Nam để thanh toán bù trừ các lệnh thanh toán của NHNo tỉnh Hà Nam và các CN.NHNo huyện trực thuộc với các NH khác hệ thống NHNo. Giao dịch nộp, lĩnh tiền mặt với NHNN tỉnh Hà Nam cũng phản ánh qua tài khoản này. Hai là, tài khoản Điều chuyển vốn mở tại Trụ sở chính NHNo&PTNT – VN để chuyển các lệnh thanh toán của NHNo tỉnh, các NHNo huyện trực thuộc với các NHNo tỉnh khác, các CN.NHNo huyện khác thuộc tỉnh khác. Giao dịch nộp, lĩnh tiền mặt với Trụ sở chính NHNo&PTNT – VN cũng phản ánh qua tài khoản này. Điều này dẫn đến vốn của NHNo tỉnh Hà Nam bị phân tán, Trụ sở chính không kiểm soát được các giao dịch thanh toán với các NH khác hệ thống NHNo tại tỉnh Hà Nam. Theo nghiệp vụ thanh toán tập trung một tài khoản, NHNo tỉnh Hà Nam sẽ không phải mở TKTG tại NHNN tỉnh Hà Nam, chỉ mở một tài khoản duy nhất tại Trụ sở chính NHNo&PTNT Việt Nam. Quy trình nghiệp vụ này như sau: * NHNo tỉnh Hà Nam có văn bản trình Tổng Giám đốc NHNo&PTNT – VN về việc tham gia thực hiện nghiệp vụ thanh toán tập trung một tài khoản. Tổng GĐ trình Thống đốc NHNN. Khi nhận được văn bản chấp thuận của Thống đốc NHNN, Tổng GĐ NHNo&PTNT-VN sẽ thông báo cụ thể thời điểm triển khai cho NHNo tỉnh Hà Nam. * Trên cơ sở giá trị giấy tờ có giá của NHNo&PTNT – VN cầm cố tại Sở GD NHNN và nhu cầu thanh toán của NHNo tỉnh Hà Nam qua NHNN tỉnh Hà Nam, hàng quý Trụ sở chính sẽ thông báo hạn mức thanh toán NHNo tỉnh Hà Nam (hạn mức này sẽ được Trụ sở chính NHNo thông báo điều chỉnh nếu có thay đổi). * NHNo tỉnh Hà Nam được NHNN tỉnh Hà Nam mở tài khoản phải thu và phải trả để hạch toán các GD phát sinh trong ngày (thay cho TKTG tại NHNN trước đây), cụ thể: +) Chênh lệch phải thu trong thanh toán bù trừ phản ánh vào tài khoản phải trả mở tại NHNN tỉnh Hà Nam. +) Chênh lệch phải trả trong thanh toán bù trừ phản ánh vào tài khoản phải thu mở tại NHNN tỉnh Hà Nam. * NHNo tỉnh Hà Nam vẫn lập bảng kê chứng từ, bảng kê TTBT cùng các chứng từ gửi NHNN tỉnh. NHNN tỉnh tính toán kết quả TTBT, chênh lệch phải thu, phải trả cho NHNo tỉnh Hà Nam tương tự như cách tính trong TTBT mục * Số dư trên tài khoản phải thu, phải trả cuối ngày giao dịch (theo giờ thông báo của NHNN tỉnh Hà Nam) được tất toán và phần chênh lệch số dư trên tài khoản phải thu, phải trả của NHNo tỉnh Hà Nam tại NHNN tỉnh Hà Nam sẽ được kết chuyển về TKTG của NHNo&PTNT – VN mở tại Sở GD NHNN (tài khoản này do TTTT NHNo làm chủ tài khoản). * Sở GD NHNN gửi báo Có (nếu NHNo tỉnh Hà Nam kết chuyển dư có cuối ngày), báo Nợ (nếu kết chuyển dư nợ cuối ngày) cho Trụ sở chính. Nhận được báo Có, báo Nợ, TTTT hạch toán vào tài khoản điều chuyển vốn với Trụ sở chính (mở chi tiết cho NHNo tỉnh Hà Nam) – Tài khoản đối ứng với tài khoản này là TKTG tại NHNN của Trụ sở chính NHNo&PTNT. * Toàn bộ các giao dịch thanh toán qua NHNN tỉnh Hà Nam trong ngày giao dịch, NHNo tỉnh Hà Nam hạch toán vào tài khoản 519101 – Điều chuyển vốn với Trụ sở chính NHNo&PTNT VN. * Số tiền NHNo tỉnh Hà Nam được nhận, hay phải trả từ kết quả chênh lệch TTBT việc lĩnh, nộp tiền mặt kết quả này trực tiếp tại NHNN tỉnh Hà Nam, và hạch toán vào tài khoản Điều chuyển vốn với Trụ sở chính. * NHNo tỉnh Hà Nam phải tuân thủ hạn mức thanh toán qua NHNN tỉnh Hà Nam do Trụ sở chính thông báo, trong ngày đảm bảo chênh lệch giữa dư Nợ tài khoản phải thu và dư Có tài khoản phải trả tại NHNN tỉnh không lớn hơn hạn mức thanh toán do Trụ sở chính thông báo. * Hàng ngày NHNN tỉnh gửi sổ kế toán chi tiết tài khoản phải thu, phải trả cho NHNo tỉnh Hà Nam để thực hiện đối chiếu. * Trụ sở chính cũng gửi sổ kế toán chi tiết tài khoản điều chuyển vốn nội tệ cho NHNo tỉnh Hà Nam để tiến hành đối chiếu đảm bảo số kết chuyển số dư cuối ngày của NHNo tỉnh Hà Nam về TKTG của NHNo&PTNT VN mở tại Sở GD NHNN được hạch toán chính xác. Với mô hình này NHNo tỉnh Hà Nam vốn bị phân tán, Trụ sở chính quản lý được vốn của CNNH mình và của toàn hệ thống, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hệ thống NHNo. 3.3.6. Đối với CN.NHNN tỉnh Hà Nam Tổ chức thanh toán bù trừ điện tử trên địa bàn tỉnh Hà Nam để giảm bớt quá trình luân chuyển chứng từ giấy của các ngân hàng khác hệ thống, thực hiện thanh toán nhanh chóng, nâng cao hiệu quả công tác thanh toán. KẾT LUẬN Muốn phát triển các sản phẩm, dịch vụ hiện đại, tăng tính tiện ích cho khách hàng thì trước hết hệ thống ngân hàng phải làm tốt công tác thanh toán vốn với nhau, kết nối để trở thành một hệ thống trung gian thanh toán thống nhất, liên tục đảm bảo vốn được chu chuyển nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Khi nền kinh tế phát triển, hệ thống thanh toán trở thành xương sống, là mạch máu của nền kinh tế đó. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, trước thềm hội nhập, hoàn thiện hệ thống thanh toán phải được đặt lên hàng đầu. Là một bộ phận quan trọng trong hệ thống đó, các NHTM Việt Nam cần phải nhận thức rõ sự cần thiết của việc liên kết các ngân hàng với nhau, NHNN phải đứng ra điều hành hệ thống đó. Trước mắt các ngân hàng Việt Nam còn nhiều việc phải làm nhưng việc quan trọng đầu tiên cần làm ngay trong giai đoạn hiện nay đó là xây dựng trung tâm chuyển mạch quốc gia để có thể kết nối các máy ATM của các ngân hàng, để khách hàng chỉ cần sử dụng một thẻ chung thống nhất. Bài viết đưa ra một vấn đề khá mới mẻ của công nghệ ngân hàng Việt Nam hiện nay nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả hy vọng sẽ nhận được sự đóng góp của bạn đọc quan tâm. Sắp tới giữa tháng 7 Việt Nam tổ chức hội thảo Banking, vấn đề “hiện đại hệ thống thanh toán giữa các ngân hàng” sẽ là vấn đề được đưa ra thảo luận nhiều nhất, tại đây các nhà chức trách cần phải đặt ra những bước đi phù hợp. Hà Nội, ngày 2, tháng 5, năm 2007 Sinh viên thực hiện: Đỗ Thị Nhung TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kế toán ngân hàng, Học viện ngân hàng, Nhà xuất bản thống kê Hà Nội, 2005. Tài liệu tập huấn công tác kế toán năm 2006, NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam, chi nhánh huyện Lý Nhân. Hệ thống hóa các văn bản định chế của NHNo&PTNT Việt Nam, tập V Quyết định số 353/QĐ/1997/NHNN ngày 22/10/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành “Quy chế chuyển tiền điện tử”. Văn bản số 1595/NHNo-TTTT, ngày 15/5/2006 của NHNo&PTNT Việt Nam về việc “Hướng dẫn quy trình nghiệp vụ thanh toán tập trung một tài khoản qua tài khoản tiền gửi của Trụ sở chính tại Sở Giao dịch NHNN. Quyết định số 995/QĐ/NHNo/TCKT, ngày 15/7/2005 của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam về việc “Ban hành biểu phí dịch vụ ngân hàng”. Văn bản số 2390/NHNo-TCKT của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT VN về việc “Phổ biến một số nội dung hội nghị Tập huấn công tác Tài chính kế toán ngân quỹ, Thanh toán, Công nghệ thông tin và Nghiệp vụ thẻ năm 2006”. Báo cáo kết quả liên hàng qua các năm 2001-2006. Bài “Bàn về mô hình hệ thống thanh toán Ngân hàng Việt Nam trong xu hướng hội nhập quốc tế” của TS.Tạ Quang Tiến – Cục trưởng Cục Công nghệ Tin học Ngân hàng đăng trên website www.sbv.gov.vn, ngày 4/4/2007. Bài ‘Công nghệ thông tin Việt Nam 2006: Bức tranh sang màu nhìn thấy cả thế giới”, đăng trên website www.sbv.gov.vn ngày 13/3/2007.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32116.doc
Tài liệu liên quan