Chuyên đề Tìm hiểu giai đoạn thực hiện kiểm toán trong quy trình kiểm toán báo cáo quyết toán đầu tư xây dựng cơ bản của kiểm toán Nhà nước

Từ những thành tựu đạt được trong thời kì đổi mới, hiện nay đất nước ta đang tiến vào thời kì đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Từ xuất phát điểm rất thấp đất nước ta ngày nay đã đạt được những thành tựu ban đầu to lớn cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục.Đảng- Nhà nước vẫn kiên trì thực hiện con đường đã chọn đó là đưa nước ta tiến lên là một nước XHCN phát triển. Và để thực hiện điều đó Đảng-Nhà nước ta đang nỗ lực đầu tư các chương trình, dự án nói chung và các dự án đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng, nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước. Phục vụ cho dân sinh, phát triển kinh tế- xã hội.Ngày càng có nhiều những dự án khánh thành hay dự án mới đầu tư. Song với một thực tế ở nước ta hiện nay đó là các dự án đưa vào khai thác sử dụng còn chưa mang lại hiêu quả hoặc có nhiều dự án đầu tư còn gây lãng phí, thất thoát tiền của, công sức. Điều này đòi hỏi Nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ hơn nữa đối với các hoạt động này, bởi đây có thể nói là hoạt động cơ bản để phát triển đất nước. Với chức năng là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, kiểm toán Nhà nước nói chung và Vụ kiểm toán đầu tư cơ bản nói riêng cần phải nỗ lực hơn nữa các hoạt động của mình để thực hiện tốt hơn nữa chức năng nhiệm vụ được giao. Để làm được điều này kiểm toán Nhà nước vẫn đang ngiêm túc nghiên cứu để hoàn thiện việc thực hiện các công tác kiểm toán của mình.

doc34 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1730 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tìm hiểu giai đoạn thực hiện kiểm toán trong quy trình kiểm toán báo cáo quyết toán đầu tư xây dựng cơ bản của kiểm toán Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kết quả thí nghiệm vật liệu, bê tông, kết cấu...: Thiếu biên bản nghiệm thu từng phần, nhật ký công trình không ghi đầy đủ diễn biến phát sinh và sự cố trong quá trình thi công... 2.2. Nội dung kiểm toán tuân thủ giai đoạn thực hiện và kết thúc đầu tư. Trong giai đoạn này kiểm toán Nhà nước tiến hành việc kiểm tra xem xét tính hợp pháp, hợp lệ của các cơ quan tham gia lập thủ tục đầu tư (khảo sát, thiết kế, tư vấn về tư cách pháp nhân và giấy phép kinh doanh hành nghề phù hợp với việc nhận thầu) Kiểm toán Nhà nước cũng xem xét việc chấp hành trình tự, thủ tục đầu tư như báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi và báo cáo đầu tư phải được lập, thẩm định, phê duyệt đúng quy định trình tự và nội dung không; Trình tự thiết kế công trình theo các bước đã được quy định có được tuân thủ không như: việc thực hiện thiết kế sơ bộ trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi; thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công đối với trường hợp thiết kế 2 bước; thiết kế kỹ thuật thi công đối với trường hợp thiết kế 1 bước; Các bước thẩm định thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán phải có được thực hiện trước khi phê duyệt không. Kiểm tra việc chấp hành quy định về thẩm quyền của cơ quan thẩm định, thẩm quyền của cơ quan ra quyết định phê duyệt hoặc cấp giấy phép cũng như tính đúng đắn hợp pháp của hồ sơ thủ tục đấu thầu về giá thầu, đối tượng tham gia đấu thầu.... Kiểm tra giá trị dự toán công trình (chỉ định thầu) về khối lượng xây lắp theo đúng thiết kế; đơn giá, phụ phí đúng chế độ quy định. Kiểm tra nội dung các văn bản thủ tục đầu tư về yêu cầu, mục lục, chỉ tiêu, mẫu biểu... theo quy định. Kiểm toán Nhà nước thực hiện việc so sánh về quy mô, mức độ, chỉ tiêu với các văn bản thủ tục khác của dự án đầu tư đã ra trước có tính pháp lý cao hơn. Cụ thể như là: thiết kế bản vẽ thi công phù hợp với thiết kế kỹ thuật, dự toán phải phù hợp với tổng mức vốn đầu tư công trình, hợp đồng thi công phải phù hợp với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các căn cứ thủ tục đầu tư của dự án đã được duyệt: giá thầu đối với công trình đấu thầu hoặc dự toán đối với công trình chỉ định thầu về số lượng, chất lượng, chủng loại, quy cách, mỹ thuật sản phẩm, thời gian nghiệm thu bàn giao thanh toán. Có nghĩa là thiết kế kỹ thuật phải phù hợp với chủ trương, mục tiêu đầu tư ghi trong quyết định đầu tư và thiết kế sơ bộ trong báo cáo nghiên cứu khả thi được duyệt về: quy mô, công nghệ, công suất, cấp công trình, mục tiêu, quy chuẩn xây dựng... Xem xét nội dung của hồ sơ nghiệm thu, hồ sơ hoàn thành công trình. Hồ sơ nghiệm thu phải đầy đủ các biên bản nghiệm thu từng phần, các kết quả kiểm tra thí nghiệm khối lượng và chất lượng vật liệu, thiết bị của bộ phận công trình hoặc toàn bộ công trình được nghệm thu; Hồ sơ hoàn thành công trình phải đầy đủ tài liệu theo quy định của điều lệ quản lý chất lượng công trình xây dựng. 2.3. kỹ thuật sử dụng Trong giai đoạn này kiểm toán Nhà nước cũng áp dụng những thủ tục, phương pháp kiểm toán tương tự như những phương pháp đã sử dụng cho giai đoạn chuẩn bị đầu tư để thu thập bằng chứng kiểm toán nhằm thực hiện mục tiêu của mình trong giai đoạn này. B. Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành. 1. Mục tiêu và rủi ro kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành. Báo cáo quyết toán vốn đầu tư dự án công trình hoàn thành theo chế độ báo cáo tài chính bao gồm các nội dung chính như sau: vốn đầu tư thực hiện từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến kết thúc xây dựng công trình đưa vào khai thác sử dụng; Các nguồn vốn đầu tư; Giá trị công trình đầu tư và giá trị tài sản bàn giao đưa vào khai thác sử dụng (gồm giá trị tài sản cố định và giá trị tài sản lưu động) đã được quy về mặt giá tại thời điểm bàn giao; Tình hình công nợ, vật tư, thiết bị tồn đọng đến thời điểm quyết toán vốn đầu tư. Mục tiêu của kiểm toán Nhà nước ở giai đoạn này đó là kiểm tra xác nhận tính trung thực, hợp lý của báo cáo quyết toán được thể hiện trên hai khía cạnh: tính hợp pháp, hợp lý của các khoản chi phí được hạch toán vào chi phí công trình (tình hình sử dụng vốn) và xem xét báo cáo tài chính có phù hợp với nguyên tắc, chuẩn mực kế toán hiện hành và yêu cầu của pháp luật hay không. Kiểm toán Nhà nước cũng hướng vào mục tiêu xác định được tổng số vốn đã đầu tư, đã cấp phát cho công trình; vốn đầu tư đã thực hiện; giá trị những hạng mục công trình đã đưa vào sử dụng hoặc bàn giao cho ngành khác sử dụng. Đồng thời xác định những giá trị không nằm trong giá trị công trình để ghi giảm vốn cho công trình một cách đúng đắn và hợp pháp. Qua kiểm toán đánh giá, phân tích kết quả quản lý đầu tư xây dựng dự án, kiến nghị biện pháp quản lý và bổ sung sửa đổi chính sách, chế độ quản lý vốn đầu tư xây dựng của nhà nước. Trong giai đoạn này kiểm toán Nhà nước căn cứ vào: Quy chế quản lý đầu tư – xây dựng và các văn bản hướng dẫn thực hiện; Quy chế quản lý sử dụng nguồn vốn ODA đối với công trình xây dựng cơ bản sử dụng nguồn vốn hỗ trợ từ nước ngoài; Các chế độ quản lý tài chính, kế toán của Nhà nước. Căn cứ vào thời gian kiểm toán và tình hình cụ thể của công trình đầu tư, tập chung kiểm toán tính đúng đắn, hợp pháp, hợp lệ của vốn đầu tư, vốn đầu tư thực hiện, chi phí đầu tư tính vào giá trị công trình, tình hình công nợ và vật tư, thiết bị tồn đọng. Trong quá trình thực hiên kiểm toán kiểm toán Nhà nước thường gặp phải những rủi ro chủ yếu sau: Đối với kiểm toán nguồn vốn đầu tư: Các nguồn vốn bị phân loại sai lệch, nguồn vốn này hạch toán vào nguồn vốn kia và ngược lại; Hạch toán không đầy đủ nguồn vốn, hoặc phản ánh không đầy đủ, không hết các nguồn, rủi ro này thường xảy ra tại các công trình có nguồn vốn nước ngoài, vốn huy động của địa phưong, huy động tài sản và sức lao động của dân, các nguồn vốn của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hoặc đơn vị sự nghiệp có thu; Nguồn thu được trong quá trình đầu tư (bán phế liệu, cho thuê tài sản, lãi tiền gửi ngân hàng,...); Nguồn vốn của cơ quan cấp vốn hoặc ngân hàng không khớp đúng vơi số dư nguồn vốn. Đối với kiểm toán vốn đầu tư thực hiện: Phản ánh không đúng khối lượng XDCB hoàn thành, thường là tăng khối lượng ở những phần che khuất hoặc rất khó khăn trong việc kiểm tra cụ thể; Tính toán sai về khối lượng xây lắp hoàn thành quyết toán so với thiết kế, bản vẽ hoàn công sai lệch với thực tế; Tính trùng lắp khối lượng xây lắp của công trình như: bê tông, xây, trát, mộc, nề, lát... áp dụng các định mức đơn giá không chính xác, thường là áp dụng các định mức và đơn giá cao hơn quy định trong dự toán; Tính sai phụ phí xây lắp theo quy định hoặc tính phụ phí xây lắp trên giá trị sản phẩm công nghiệp đưa vào lắp đặt; Tính sai khối lượng vật liệu được tính chênh lệch giá do áp dụng sai định mức hoặc sai thời điểm quy định tính chênh lệch giá... Vượt các định mức chi phí theo quy định của dự toán, tính sai về giá trị xây lắp quyết toán, biên bản ngiệm thu phản ánh không trung thực, có nhiều sai sót. Mặt khác, các rủi ro thường gặp trong giai đoạn này liên quan đến chi phí thiết bị hoàn thành nữa là: Chất lượng vật tư, thiết bị và tính năng sử dụng không đảm bảo; Trang thiết bị, phụ tùng kèm theo thừa, thiếu, sai chủng loại, quy cách; Đối với các trang thết bị nhập ngoại giá thành quy đổi sai tỷ giá; Thiếu thủ tục thanh toán hoặc sai chế độ về chi phí, công tác kiểm tra hàng hoá tại cảng, cước phí vận chuyển, chi phí bảo hành thiết bị... Phân bổ chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo hành bảo dưỡng cho từng thiết bị, tài sản cố định không đúng; Thiếu chi tiết thiết bị hoặc phụ tùng thay thế, sửa chữa, thiết bị không đúng xuất sứ, tên nước, tên hãng sản xuất hoặc sai thông số kỹ thuật hoặc các sai sót khác trong hợp đồng giữa các bên không chặt chẽ. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện kiểm toán nội dung này kiểm toán Nhà nước còn gặp một số những rủi ro trong kiểm toán chi phí kiến thiết cơ bản khác như: Chi phí kiến thiết cơ bản khác tính theo định mức tỷ lệ phần trăm bị vận dụng sai lệch hoặc bị lẫn lộn vào phần chi phí xây lắp trong quá trình thanh toán làm cho cơ cấu đù tư thực tế giữa xây lắp, thiết bị, kiến thết cơ bản khác không chính xác; Chi phí kiến thiết cơ bản khác chưa có quy định về định mức chi phí như: chi phí tư vấn pháp luật xây dựng và hợp đồng kinh tế; tư vấn kiểm định công trình, đánh giá lại tài sản thiết bị, chi phí khởi công, khánh thành.... nhưng không có dự toán hoặc dự toán không được cấp thẩm quyền phê duyệt. Chi phí đền bù giải phóng mặt bằng không sát với khối lượng thực tế... dễ xảy ra tình hình không đảm bảo chế độ chi tiêu tài chính của Nhà nước, tiền đền bù không được thanh toán đầy đủ đến tay người dân được đền bù; Phân bổ chi phí kiến thiết cơ bản khác vào các hạng mục công trình hoàn thành để tính giá trị tài sản cố định không đúng phương pháp tính, không theo các tiêu thức đã được quy định; Không ghi thu hồi giá trị sản phẩm thu được trong thời gian sản xuất thử hoặc thu hồi giá trị phế liệu sau đầu tư. Đối với chi phí đầu tư tính vào giá trị công trình: Những thiệt hại về chi phí vật tư, thiết bị của bên B chưa đưa vào công trình để lộn vào chi phí đầu tư thực hiện xin huỷ bỏ của chủ đầu tư; Đơn giá của các tài sản, thiết bị, nguyên vât tư... đưa vào công trình thường cao hơn đơn giá thực tế, nhập nhằng giữa chủng loại; Đưa vào báo cáo có chi phí vật tư, nhưng thực tế không có để chạy vốn, khối lương vật tư không đủ theo định mức kinh tế kỹ thuật; Việc tính toán các chi phí kèm theo không theo đúng qu định như chi phí vận chuyển, chi phí uỷ thác.... Đối với giá trị tài sản bàn giao cho sản xuất sử dụng: Những dự án đầu tư trong nhều năm, việc quy đổi giá rất khó khăn phức tạp, nhất là trong điều kiện chưa có các văn bản pháp quy hướng dẫn phương pháp quy đổi giá, nên dễ tính sai. Nhiều loại tài sản khó phân loại là tài sản cố định hay tài sản lưu động nên thường bị lẫn lộn. Bỏ sót giá trị đầu tư nhận bàn giao của các dự án khác trong quá trình đầu tư hoặc bỏ sót đối tứợng bàn giao tài sản đầu tư (ví dụ như: hạng mục đường đây và trạm bàn giao cho sở điện lực). Đối với kiểm toán tình hình công nợ và vật tư, thiết bị tồn đọng: Vật tư xác định không đúng giá; Các khoản phải thu thể hiện trong bảng cân đối có thể không thể hiện các khoản phải thu thật của đơn vị và có những khoản phải thu không thể thu hồi; Các khoản phải trả cho người nhận thầu có thể là khoản phải trả không có thật (các khoản phải trả lại nguồn vốn), các khoản phải trả công nhân viên và phải trả khác không được tách riêng mà đưa vào các khoản phải trả cho nhà cung cấp hoặc nhà thầu; Các khoản chênh lệch tỷ giá không được phản ánh; Chủ đầu tư phản ánh không đầy đủ số lượng tài sản cố định hoặc tài sản cố định không được theo dõi đầy đủ cả về mặt hiện vật và giá trị hoặc không mở sổ theo dõi tài sản cố định dùng cho chuyên gia tư vấn (đối với các dự án đầu tư vay vốn của nước ngoài); Vật tư, thiết bị tồn đọng không được kiểm kê, đánh giá lại và quản lý chặt chẽ. 2. Nội dung kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành 2.1 Kiểm toán nguồn vốn đầu tư Nguồn vốn đầu tư hợp pháp của công trình là nguồn vốn đầu tư đã được quy định trong quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền nhưng phải phù hợp với quy định về quản lý nguồn vốn đầu tư theo quy chế quản lý đầu tư, xây dựng và phải được ghi vào kế hoạch đầu tư hàng năm của Nhà nước. Trên cơ sở đó kiểm toán Nhà nước thực hiện các công việc sau: Tổng hợp các chứng từ cấp phát vốn của Bộ tài chính, tổng đầu tư và phát triển về các nguồn vốn cấp phát, kiểm tra tính đúng dắn của nguồn vốn đầu tư đã được phản ánh trên các tài khoản nguồn vốn đầu tư, bằng cách: so sánh số liệu ở bảng tổng hợp và sổ chi tiết của các nguồn vốn, đối chiếu số dư tài khoản kế toán từng loại nguồn vốn với bản đối chiếu hàng năm về số vốn đã cấp của cơ quan cấp vốn (Kho bạc Nhà nước, ngân hàng...). Đồng thời kiểm tra nội dung các nguồn vốn khác đã sử dụng vào dự án đầu tư (nếu có). 2.2. Kiểm toán vốn đầu tư thực hiện Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ và tính đúng đắn của quyết toán chi phí đầu tư bao gồm: tổng số vốn đầu tư và các thành phần vốn đầu tư: xây lắp; thiết bị; kiến thiết cơ bản khác trên cơ sở các chứng từ thanh toán, quyết toán và các hố sơ, tài liệu liên quan đến khối lượng đầu tư đã thực hiện như: thiết kế, dự toán, bản vẽ hoàn công và các quy định về quản lý tài chính, kế toán của Nhà nước. Nội dung kiểm toán vốn đầu tư thực hiện Vốn đầu tư thực hiện gồm chi phí đầu tư xây lắp, thiết bị và chi phí kiến thiết cơ bản khác được phản ánh trên tài khoản chi phí đầu tư, kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán các nội dung sau: Giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành Giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành thường chiếm tỷ trọng lớn (từ 60%-80%) trong tổng số vốn đầu tư xây dựng công trình. Đồng thời nó lại được xác định bởi nhiều yếu tố như khối lượng, đơn giá vật tư, nhân công, tỷ lệ định mức chi phí chung, lợi nhuận định mức,... Vì vậy, kiểm tra giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành là rất quan trọng, rất phức tạp và đòi hỏi phải có chuyên môn nghiệp vụ về xây dựng cơ bản. + Đối với công trình chỉ định thầu: Kiểm toán Nhà nước căn cứ vào thiết kế dự toán, bản vẽ hoàn công tính toán lại tiên lượng và khối lượng xây lắp đối với những khối lượng có giá trị tương đối lớn như: bê tông, xây, trát, lát... và những phần việc có nhiều khả năng trùng lắp ( theo kinh nghiệm). So sánh, đối chiếu với quy mô kết cấu khối lượng XDCB xây lắp hoàn thành đề nghị thanh toán với quy mô kết cấu của công trình đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Kiểm tra việc áp dụng định mức, đơn giá xây lắp trong quyết toán của từng hạng mục công trình theo các quy định về giá của các cơ quan có thẩm quyền (có đối chiếu với dự toán được duyệt): . Đơn giá xây dựng cơ bản khu vực. . Đơn giá công trình (nếu có). .Các thông báo giá vật liệu, nhân công, máy... hoặc hệ só điều chỉnh giá dự toán của cơ quan quản lý giá tại địa phương (hoặc của bộ Xây dựng đối với những công trình được áp dụng đơn giá riêng). Kiểm tra việc áp dụng các phụ phí xây lắp theo chế độ quy định như : chi phí chung, thuế và lãi định mức bằng cách soát xét các nghiệp vụ có liên quan. Kiểm tra chi phí chênh lệch giá vật liệu xây dựng (nếu có) về khối lượng vật tư đã được tính toán trên cơ sở khối lượng xây dựng và định mức; đơn giá vật liệu đã được áp dụng theo văn bản của các cấp có thẩm quyền. Đối vật tư xây lắp do chủ đầu tư (bên A) mua cấp cho bên thi công xây lắp (Bên B) cần so sánh, đối chiếu trên các tài liệu, chứng từ có liên quan giữa giá bên A giao với giá bên B lên quyết toán; Xem xét tài liệu liên quan đến cách tính phụ phí xây lắp trên giá trị vật liệu A cấp. +Đối với công trình đấu thầu: Kiểm toán viên Nhà nước căn cứ vào các biên bản nghiệm thu giữa chủ đầu tư (bên A) và nhà thầu - đơn vị thi công (gọi tắt là bên B), biên bản giám định công chất lượng công trình hoặc khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành, hợp đồng giao thầu, thực hiện so sánh đối chiếu kiểm tra giá trị xây lắp của phần đã thực hiện đấu thầu đã thực hiện theo đúng thiết kế về khối lượng, chất lượng, kỹ mỹ thuật công trình. Kiểm tra khối lượng xây lắp của phần phát sinh giống như công trình chỉ định thầu và các điều kiện của hợp đồng đấu thầu quy định. Kiểm tra việc thanh toán khối lượng hoàn thành theo các điều kiện của hợp đồng quy định ( chú ý đối với nhà thầu nước ngoài ). Chi phí thiết bị hoàn thành: Chi phí mua sắm trang thiết bị bao gồm: Chi phí mua sắm thiết trang thiết bị công nghệ và các trang thết bị khác của công trình, chi phí vận chuyển, bảo quản bảo dưỡng tại hiện trường, chi phí bảo hiểm thiết bị tại công trình. + Đối với chi phí thiết bị do bên A mua: Kiểm toán Nhà nước kiểm tra thực tế thiết bị công nghệ, phụ tùng kèm theo và các trang thiết bị khác đã mua về: danh mục, chủng loại tiêu chuẩn, kỹ thuật, giá cả theo đúng nguyên tắc đấu thầu và các nguyên tắc tài chính khác. Đối chiếu dự toán và chứng từ gốc của thiết bị đã mua trong nước hoặc nhập khẩu. Đối với các máy móc thiết bị nhập theo phương thức uỷ thác, ngoài việc kiểm tra các hợp đồng, hoá đơn nhập, cơ quan được phép nhập, kiểm toán Nhà nước còn thực hiện việc xem xét cơ số xác định phí uỷ thác. Ngoài ra kiểm toán Nhà nước tiếp túc thực hiện các thủ tục xem xét và kiểm tra các khoản chi phí vận chuyển, chi phí bảo quản, bảo dưỡng, gia công thiết bị như: chi phí vận chuyển, bốc xếp theo giá cước quy định, chi phí bảo quản, bảo dưỡng gia công thiết bị theo dự toán được duyệt, hợp đồng nghiệm thu... để đảm bảo rằng các khoản chi phí này là có thực và hợp lý, hợp lệ. + Đối với chi phí thiết bị đầu vào do bên B mua: Kiểm toán Nhà nước thực hiện các thủ tục kiểm tra việc thực hiện hợp đồng đấu thầu đối với bên B để xem xét các thiết bị đầu vào phải đảm bảo đúng, đủ về các phương diện công nghệ, chất lượng vật tư, tính năng kỹ thuật, tên hãng, tên nước sản xuất... và việc thực hiện các cam kết khác của bên B trong hợp đồng như chuyển giao công nghệ, đào tạo... Sau khi thực hiện các bước kiểm toán trên, kiểm toán viên Nhà nước tổng hợp các chi phí để xác định giá trị máy móc thiết bị đưa vào công trình. Xác định số chênh lệch so với báo cáo quyết toán, tìm hiểu và phân tích các nguyên nhân làm xuất hiện các chênh lệch này. Chi phí kiến thiết cơ bản khác hoàn thành: Chi phí kiến thiết cơ bản khác là những chi phí có liên quan trực tiếp đến công trình nhưng không thuộc các loại chi phí xây lắp và mua sắm thiết bị máy móc. ở giai đoạn đầu tư, chi phí khác bao gồm chi phí cho công tác đầu tư, khảo sát, thu thập số liệu phục vụ cho công tác lập báo cáo tiền khả thi và báo cáo khả thi: chi phí lập, thẩm tra và xét duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo khả thi; chi phí tuyên truyền quảng cáo. Ơ giai đoạn kết thúc xây dựng, đưa dự án vào khai thác sử dụng, chi phí khác bao gồm chi phí thẩm định quyết toán công trình, chi phí thu dọn vệ sinh, tháo dỡ công trình tạm, phụ trợ phục vụ cho thi công, nhà tạm - sau khi đã trừ chi phí được thu hồi- chi phí nguyên vật liệu, năng lượng, nhân lực cho quá trình chạy thử ... Theo các xác định giá trị chi phí khác sử dụng trong công trình được chia làm hai nhóm: Nhóm thứ nhất là nhóm các chi phí hay bảng giá cụ thể như chi phí khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng, chi phí quản lý công trình. Các định mức tỷ lệ theo bảng giá cụ thể do các cơ quan có thẩm quyền quyết định. Nhóm thứ hai là nhóm tình trực tiếp bằng cách lập dự toán chi tiết cho các loại chi phí khác còn lại. Kiểm toán Nhà nước căn cứ vào đặc điểm của từng nhóm chi phí để xác định phương pháp kiểm toán khác nhau. Đối với nhóm các chi phí kiến thiết cơ bản khác có quy định về mức tỷ lệ % kiểm toán Nhà nước kiểm tra việc chấp hành các quy định hiện hành của Nhà nước trong quá trình tính toán để xác định giá trị khối lượng của từng loại công việc. Đối với các khoản chi phí tính theo bảng giá kiểm toán Nhà nước thực hiện rà soát các công việc với giá tương đương. Những chi phí kiến thiết cơ bản khác có tính xây lắp như trụ sở ban quản lý, kho tàng... kiểm toán Nhà nước thực hiện phương pháp kiểm tra như đối với khối lượng xây lắp. Các chi phí kiến thết cơ bản khác còn lại như: chi phí đền bù đất đai, hoa mùa, giải phóng mặt bằng, di chuyển dân cư, tiền thuê đất, lệ phí xây dựng, chi phí khởi công, khánh thành... kiểm toán Nhà nước căn cứ vào các quy định hiện hành của các cơ quan có thẩm quyền quyết định kiểm tra chi phí thực tế theo dự toán được duyệt và theo chế độ tài chính Nhà nuớc. Đối với các chi phí không tính theo bảng giá kiểm toán Nhà nước kiểm tra, đánh giá mức độ hợp lý của các chi phí theo các quy định hiện hành của Nhà nước trên cơ sở giá dự toán được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. 2.3 Kiểm toán chi phí đầu tư tính vào giá trị công trình Chi phí đầu tư tính vào giá trị công trình bằng chi phí đầu tư trừ đi chi phí đầu tư không tính vào giá trị công trình.Theo quy định, những chi phí không tính vào giá trị công trình bao gồm: Giá trị thiệt hại do thiên tai, địch hoạ và các nguyên nhân bất khả kháng khác không lường trước và không được bảo hiểm; Giá trị khối lượng được phép huỷ bỏ theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Để kiểm tra, xác minh tính đúng đắn của chi phí đầu tư không tính vào giá trị công trình, kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán những nội dung sau: Các căn cứ vào biên bản kiểm kê tài sản, đánh giá thiệt hại, giá trị thiệt hại của Hội đồng kiểm tra cơ sở, kiểm toán Nhà nước đối chiếu với giá trị khối lượng công trình được nghiệm thu từ đó xác định khối lượng vật chất thiệt hại và tính toán giá trị của khối lượng vật chất đó. Đồng thời, kiểm toán Nhà nước còn kiểm tra tính đúng đắn của các quyết định “ huỷ bỏ” trên khía cạnh hợp pháp, hợp lý, hợp lệ và căn cứ để tính giá trị khối lượng huỷ bỏ. Từ đó kiểm toán Nhà nước sẽ tính toán được giá trị của khối lượng bị huỷ bỏ. Cùng với số liệu có được sau khi thực hiện kiểm toán chi phí đầu tư, kiểm toán Nhà nước tính toán được chi phí đầu tư tính vào giá trị công trình (chi phí đầu tư sau khi kiểm toán trừ chi phí không tính vào giá trị công trình), so sánh, đối chiếu với số liệu trên báo cáo quyết toán để tìm những khoản chênh lệch, phân tích nguyên nhân dẫn đến những khoản chênh lệch đó và các biện pháp giả quyết. 2.4 Kiểm toán giá trị tài sản bàn giao cho sản xuất sử dụng Giá trị tài sản bàn giao cho sản xuất sử dụng là toàn bộ chi phí đầu tư tính vào giá trị công trình, được quy đổi về mặt bằng giá tại thời điểm bàn giao và phân loại thành giá trị tài sản cố định và tài sản lưu động để bàn giao cho bên khai thác sử dụng. Đối với công tác này kiểm toán Nhà nước thực hiện việc kiểm tra tính đúng đắn của giá trị tài sản bàn giao cho đơn vị sử dụng trên phương diện hiện vật và giá trị. Để thực hiện, kiểm toán Nhà nước thực hiện các phương pháp, các thủ tục cần thiết như: tính toán lại, so sánh đối chiếu việc quy đổi chi phí đầu tư về mặt bằng giá tại thời điểm bàn giao theo hướng dẫn của bộ Xây dựng với giá trị phán ánh trong báo cáo quyết toán; Kiểm tra tính đúng đắn của việc phân loại giá trị tài sản cố định, tài sản lưu động bàn giao cho sản xuất sử dụng (theo yêu cầu của báo cáo quyết toán). Phát hiện những trường hợp phân loại không đúng giữa tài sản cố định và tài sản lưu động theo quy định, chế độ tài chính kế toán. Mặt khác kiểm toán Nhà nước tra tính đúng đắn của giá trị tài sản bàn giao cho các đối tượng sử dụng. Kiểm toán Nhà nước căn cứ vào chi phí đầu tư sau khi đã được kiểm toán (loại trừ những chi phí không hợp lý, bổ sung phần thiếu sót hoặc nhận bàn giao chi phí đầu tư của dự án khác) để tính toán quy đổi giá trị tài sản bàn giao cho từng đơn vị sử dụng, so sánh, đối chiếu với giá trị ghi nhận trong báo cáo quyết toán. Một công trình hoàn thành có thể bàn giao cho nhiều đối tượng sử dụng do đó, kiểm toán Nhà nước còn thực hiện một số thủ tục khác để xác minh sự tồn tại và hoạt động của ban quản lý dự án để tính hoặc không tính những tài sản do ban quản lý dự án quản lý trước đó vào giá trị tài sản bàn giao hay không (trường hợp ban quản lý dự án không giải thể, tiếp tực quản lý tài sản đang dùng cho hoạt động của ban thì những tài sản đó kiểm toán sẽ loại bỏ, không tính vào giá trị bàn giao). Tổng hợp các kết quả kiểm toán, kiểm toán Nhà nước kết luận về tính trung thực các tài sản bàn giao trong báo cáo quyết toán, xác định số chênh lệch, nguyên nhân của ác chênh lệch này. 2.5 Kiểm toán tình hình công nợ và vật tư tồn đọng. Nguyên vật liệu cũng như các khoản phải trả, phải thu đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các dự án đầu tư xây dựng.Với các khoản mục này, kiểm toán Nhà nước thực hiện các thủ tục kiểm toán để kiểm tra xác định tính đúng đắn của nợ phải thu và nợ phải trả của Chủ đầu tư đến thời điểm kiểm toán quyết toán vốn đầu tư hoàn thành cũng như thu thập và xác nhận sự tồn tại về số lượng và tình trạng của loại vật tư. Kiểm toán Nhà nước sau khi đã kiểm tra xác định tính đúng đắn hợp pháp, hợp lệ của chi phí đầu tư về xây lắp, thiết bị, kiến thiết cơ bản khác. Kiểm toán Nhà nước sử dụng các thủ tục kiểm toán và các phương pháp kiểm toán cơ bản như so sánh đối chiếu, phân tích đểkiểm tra sổ sách kế toán, hợp đồng kinh tế và các chứng từ đã thanh toán để tính toán lại số công nợ phải trả hoặc phải thu. Đối với các khoản phải thu, kiểm toán Nhà nước thực hiện đối chiếu sổ kế toán chi tiết với sổ kế toán tổng hợp các khoản công nợ, báo cáo quyết toán và biên bản đối chiếu công nợ với các đơn vị thi công, cung cấp. Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ như gửi thư xác nhận để xác minh về các khoản phải thu đối với các đơn vị có một số dư lớn. Tổng hợp các thư xác nhận công nợ và so sánh với tổng số các khoản phải thu, xác định số chênh lệch và làm rõ nguyên nhân của sự chênh lệch này. Đối với các khoản phải trả, kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm tra các phiếu giá thanh toán và biên bản nghiệm thu giữa các bên A- B, các hoá đơn nhận hàng và biên bản kiểm kê hàng tồn kho. Đối chiếu sổ kế toán chi tiết các tài khoản thanh toán với sổ kế toán tổng hợp và báo cáo quyết toán, biên bản đối chiếu công nợ với các đơn vị, đối chiếu các khoản phải trả và xác nhận số các khoản phải trả tại thời điểm báo cáo tài chính, đối chiếu các khoản phải trả của năm so với năm trước để phát hiện được các thay đổi các khoản phải trả không phù hợp. Từ đó kiểm toán Nhà nước đưa ra kết luận về tính trung thực của các khoản phải trả trong báo cáo tài chính đồng thời xác định số chênh lệch và nguyên nhân của sự chênh lệch này. Đối với các loại vật tư tồn đọng, kiểm toán Nhà nước tham gia vào các báo cáo kiểm kê vật tư, đánh giá quy trình kiểm kê vật tư đảm bảo xác định đúng vật tư về số lượng, chủng loại, giá trị. Đồng thời đối chiếu sổ chi tiết và sổ tổng hợp vật tư, thiết bị và đối chiếu với khách hàng để xem xét cấc loại vật tư có được trình bày một cách trung thực tại thời điểm ghi trong bảng cân đối, các loại vật tư có được kê khai, đánh giá và phân loại chính xác không, giá trị vật tư có phù hợp với quy định hiện hành không. Từ đó kiểm toán Nhà nước đưa ra kết luận về việc báo cáo quyết toán có trình bày trung thực vật tư được nhập cũng như sử dụng vào công trình tại thời điểm báo cáo, xác định số chênh lệch (nếu có) và các nguyên nhân của các chênh lệch này. III. Một số nhận xét và kiến nghị về giai đoạn thực hiện kiểm toán trong quy trình kiểm toán đầu tư XDCB của kiểm toán Nhà nước. 1. Những hạn chế còn tồn tại. Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong giai đoạn thực hiện kiểm toán đối với từng đối tượng cụ thể còn có những hạn chế cơ bản sau: Thứ nhất, cơ sở pháp lý để tiến hành một cuộc kiểm toán, cũng như những cơ sở để tiến hành kiểm toán: trong hệ thống các văn bản pháp lý quy định của Nhà nước còn bộc lộ một số nội dung chưa đồng bộ, chưa thống nhất và chưa kịp thời, nên trong hoạt động đầu tư còn nhiều vướng mắc cần phải bàn, nhất là các chế độ chính sách trong công tác chỉ đạo thực hiện đầu tư. Các văn bản chế độ quy định cho công tác đầu tư XDCB còn chưa kịp thời, chưa đáp ứng được sự biến động đa dạng trong cơ chế thị trường, nhất là chính sách thuế còn nhiều thay đổi. Công tác hướng dẫn của các cơ quan chức năng còn chưa kịp thời, chưa đồng bộ giữa các cơ quan có các cơ quan chức năng. Làm cho trong quá trình thực hiện kiểm toán kiểm toán Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Thứ hai, ảnh hưỏng của việc thu thập thông tin cũng như các bằng chứng kiểm toán đến việc thực hiện kiểm toán của kiểm toán Nhà nước. Trong các dự án đầu tư thì trình tự, các bước chuẩn bị từ tổng mức đầu tư, nguồn vốn đầu tư được duyệt, quy mô, địa điểm đầu tư, thời gian khởi công và hoàn thành dự án đầu tư, thực tế ở các công trình việc tập hợp hồ sơ còn chưa khoa học, chưa tập chung, cùng với việc bảo quản lưu trữ còn lẫn lộn nên trong kiểm tra còn có những văn bản thất lạc hoặc không đảm bảo tính đầy đủ ( thiếu, rách...). Điều đáng chú ý nhất là các tài liệu hồ sơ hoàn công theo từng giai đoạn của các đơn vị thi công thiếu, hoặc chưa đầy đủ những tư liệu thông tin phản ánh chi tiết từng nội dung của công trình. Tình hình chấp hành trình tự thủ tục đầu tư, chất lượng công trình, sự cố và những vấn đề tồn tại về vồn và tài sản trong quá trình kiểm toán còn chưa hoàn thiện và đầy đủ với rất nhiều lý do khác nhau, vừa chủ quan vừa khách quan, nguyên nhân chính ý thức chầp hành của các đơn vị tham gia thực hiện dự án đầu tư, nhất là việc thay đổi thiết kế, phần khối lượng phát sinh khi chưa được sự tán thành nhất trí và cho phép của chủ dự án, nhưng các đơn vị thi công vẫn tiến hành. Khi tiến hành thu thập thông tin này thường không đủ, hoặc không có cơ sở pháp lý để kiểm tra thẩm định. Về tình hình thu thập thông tin có liên quan đến việc thanh quyết toán thì thường xảy ra số liệu thanh quyết toán không tương xứng với kết quả khối lượng hoàn thành theo từng thời điểm về tiến độ thi công công trình dẫn đến tình trạng thông tin về tài liệu số liệu chưa đầy đủ và thiếu chính xác, do vậy trong công tác thu thập thông tin này cần phải kiểm tra chi tiết và đồng bộ các số liệu tài liệu liên quan với độ tin cậy cao để làm căn cứ cho công việc thực hiện kiểm toán của kiểm toán Nhà nước. Thứ ba, công tác đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức quản lý dự án đầu tư chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức. Thực tế những năm qua công tác đánh giá khảo sát, phân tích tình hình kiểm soát nội bộ trong quá trình kiểm toán của kiểm toán Nhà nước còn hạn chế, nhiều khi chỉ quan tâm đến khâu quyết toán tài chính mà còn chưa coi trọng khâu phân tích những tình hình thực tế diễn ra tại đơn vị trong công tác quản lý hoạt động điều hành về mọi mặt như khâu tổ chức bộ mày, quá trình điều hành hoạt động của bộ máy đó ra sao? Dẫn đến khả năng điều hành các hoạt động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý hệ thống tài chính như thế nào?…v.v. Từ những tình hình thực tế đó mới đánh giá và phân tích được bản chất hoạt động sản xuất của đơn vị. Tuy nhiên công tác này vẫn còn nhiều bất cập, do đó dẫn đến trong quá trình thực hiện kiểm toán các kiểm toán viên nhiều khi vẫn lúng túng thụ động. Thứ tư, trong quy trình kiểm toán báo cáo quyết toán XDCB nói chung và quá trình thực hiện kiểm toán nói riêng với mục đích cơ bản là kiểm tra xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu số liệu kế toán và báo cáo quyết toán dự án đầu tư xây dựng công trình, trên cơ sở đó đánh giá tình hình kết quả của quá trình đầu tư xây dựng với việc chấp hành luật, chế độ, chính sách của Nhà nước trong công tác điều hành quản lý vốn đầu tư xây dựng, trong tình hình mới của cơ chế thị trường có vốn đầu tư nước ngoài. Với mục đích và yêu cầu đặt ra cho công tác quản lý điều hành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản thì trong thực tế diễn ra trong các năm qua kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán các công trình đầu tư xây dựng phần lớn chỉ làm theo các loại hình kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng như là kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kiểm toán tính tuân thủ các chính sách chế độ quản lý đầu tư xây dựng và kiểm toán ở mức độ hẹp của tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực dự án đầu tư. Với thực tế đối với kiểm toán dự án đầu tư đã đề cập, kiểm toán Nhà nước chủ yếu mới đề cập đến kiểm toán báo cáo đầu tư và kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, chế độ đầu tư xây dựng còn chưa đề cập tới hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản trong tình hình phát triển của đất nước, cũng như chưa đề cập đền việc sử dụng các nguồn vốn vay của nước ngoài để sử dụng làm sao cho có hiệu quả không những trước mắt mà còn lâu dài. Những vấn đề đó thực tế cho thấy kiểm toán Nhà nước chưa có đủ điều kiện vật chất cũng như thời gian cho phép để tiến hành một cuộc kiểm toán mang đầy đủ với những nội dung của nó như thế mới xác định được hiệu quả của sử dụng đồng vốn. Xuất phát từ tình hình thực tế của kiểm toán trong những năm qua do về khả năng trình độ và thời gian không cho phép nên kiểm toán Nhà nước mới thực hiện kiểm toán đựoc một số nội dung cơ bản nhất và cũng chỉ giới hạn ở phạm vi hẹp như chỉ trong những giới hạn về công việc phải thực hiện theo từng nội dung kiểm toán và cũng chỉ tập chung vào các trọng tâm, trọng điểm và với khoảng thời gian hạn chế nên thường chủ yếu kiểm toán xác định theo niên độ báo cáo tài chính đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản có nhiều các công trình, còn đối với các công trình hoàn thành toàn bộ hay hoàn thành theo từng giai đoạn thì thời kỳ kiểm toán thường bắt đầu từ khi khởi công đến khi hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng, cho nên kiểm toán Nhà nước không đủ điều kiện và thời gian để tiến hành kiểm toán một cách chi tiết và cụ thể các nội dung của công trình được đầu tư. Thứ năm, trong quá trình thưc hiện kiểm toán một vấn đề còn chưa đề cập sâu sắc là cần một lực lượng cán bộ kỹ thuật có đủ điều kiện về kiến thức, khả năng trình độ để đảm nhận công việc chính mà nhiều kiểm toán viên còn non yếu ở lĩnh vực này: nhiều kiểm toán viên còn chưa mắm bắt và am hiểu nhiều về việc kiểm tra khối lượng thực tế của các công trình trên các hồ sơ bản vẽ thi công mà phần lớn chỉ tập chung vào những vấn đề sổ sách và việc sử dụng nguồn vốn và quyết toán vốn có đúng với báo cáo quyết toán không, mà theo quan điểm của nhiều kiểm toán viên thì cần tập chung nhiều hơn về thời gian vật chất cũng như về kiến thức của kỹ thuật để có thể xem chi tiết nhất từng khía cạnh của những khối lượng đã hoàn thành, có thể bóc tách được chi tiết từng phần trong quyết toán mà hồ sơ hoàn công đã thể hiện, một lĩnh vực được xem là còn yếu trong kiểm toán báo cáo quyết toán đầu tư. Thứ sáu, trong quá trình thực hiện kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản, kiểm toán Nhà nước mới chỉ áp dụng kiểm toán tuân thủ luật pháp, chế độ quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành. Nhưng thực tế trong quá trình kiểm toán kiểm toán Nhà nước còn bắt gặp nhiều dạng hình khác nhau trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, mà cụ thể ở trong quy trình kiểm toán dự án đầu tư, nhưng kiểm toán Nhà nước chỉ đi sâu vào hai dạng chính của quy trình kiểm toán đó là: +Kiểm toán tính tuân thủ luật pháp, chế độ quản lý đầu tư và xây dựng, như đã nêu ở trên, để thực hiện quy trình kiểm toán có hiệu quả kiểm toán Nhà nước chỉ có căn cứ vào những quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, quy chế đấu thầu, quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển thức ODA (đối với công trình cơ bản sử dụng vốn hỗ trợ của nước ngoài). Căn cứ vào những quy định đó cùng với những văn bản chế độ, các thông tư liên bộ, thông tư của bộ, ngành có liên quan đến hướng dẫn đầu tư xây dựng cơ bản và các quy chế đấu thầu, các thủ tục pháp lý của dự án đều phải đầy đủ, trên cơ sở pháp lý đó mà có thể áp dụng vào tình hình thực tiễn trong quá trình thực hiện kiểm toán. Từ những cơ sở đó phải phân tích đánh giá được tình hình chấp hành chính sách chế độ quản lý đầu tư xây dựng của các dự án, những vấn đề còn tồn tại trong cơ chế, những vướng mắc trong quá trình thực hiện, mà các chế độ chính sách còn chưa bắt kịp với đòi hỏi khách quan của cơ chế thị trường và cũng thông qua đó đánh giá được những ưu điểm, những nhược điểm và hiệu quả kinh tế, tài chính cũng như các vấn đề xã hội khác của dự án đầu tư. Trong quá trình kiểm toán theo nội dung kiểm toán tuân thủ như quy trình đã nêu có hai nội dung kiểm toán tuân thủ giai đoạn đầu tư thì trong thực tế kiểm toán kiểm toán Nhà nước đã tiến hành kiểm tra những nội dung như trong quy trình, kiểm tra toàn bộ những thủ tục giấy tờ như quyết định của cấp có thẩm quyển, dự toán, quyết định giao nhiệm vụ, hợp đồng, phê duyệt kết quả chúng thầu... Thực tế cho thấy có nhiều dự án đầu tư các văn bản pháp lý còn chưa đồng bộ, chưa đầy đủ và còn nhiều thiếu sót về nội dung cho nên quá trình thực hiện đầu tư vẫn còn tình trạng thiếu các văn bản pháp lý để sử dụng trong quá trình thực hiện của mình. Đặc biệt đối với công trình có sử dụng nguồn vốn của nhiều các đối tượng cùng tham gia thì các trình tự thủ tục về văn bản có tính chất pháp lý còn thiếu, chưa đồng bộ giữa các bên tham gia dẫn đến tình trạng lúng túng trong quá trình chỉ đạo điều hành, cho nên khi tiến hành kiểm tra việc chấp hành các quy định đó vẫn còn tình trạng như thăm dò khảo sát, tư vấn, thẩm định... về khối lượng, đơn giá hoặc tỷ lệ chi phí theo quy định còn thiếu chính xác và còn nhiều vấn đề sai sót làm cho giá trị thực tế của các loại công trình không đúng với thiết kế gây nên tình trạng chi phí cho giá trị công trình bị lãng phí gây những thất thoát không đáng có. Một thực tế nữa là trong kiểm toán giai đoạn thực hiện đầu tư và kết thúc dự án đầu tư đưa vào khai thác sử dụng thì trong quá trình ngiệm thu công trình nó bao gồm nhiều hồ sơ nghiệm thu từng giai đoạn xây lắp của các hạng mục công trình, hồ sơ nghiệm thu khi hoàn thành công trình hoặc toàn bộ công trình thì vẫn còn những tình trạng khi nghiệm thu vẫn còn có một số hạng mục công trình không đúng với thiết kế kỹ thuật, hoặc thiết kế kỹ thuật chưa phù hợp với chủ trương mục tiêu đầu tư ghi trong quyết định đầu tư và thiết kế sơ bộ trong báo cáo nghiên cứu khả thi được duyệt kể cả về quy mô công nghệ, công suất tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng. Điều đó cho thấy thực trạng của công tác đấu tư là rất phức tạp nếu không kiểm tra kiểm soát một cách chặt chẽ thì thì phần khối lượng phát sinh sẽ chiếm tỷ lệ rất cao gây ra tình trạng thất thoát nguồn vồn đáng lẽ ra không đáng có trong gía trị của các công trình. Tóm lại trong quá trình kiểm toán tính tuân thủ luật pháp, chế độ quản lý đầu tư xây dựng thực tế cho thấy có nhiều quy định của Nhà nước về đầu tư còn chưa đồng bộ, chưa kịp thời, các văn bản hướng dẫn còn chậm được triển khai, các chế độ đầu tư còn có tính ổn định chưa cao nên quá trình đầu tư còn nhiều vướng mắc đẫn đến tình trạng đầu tư chưa sát với chủ trương mục tiêu đã đề ra, việc chấp hành pháp luật, các chế độ đầu tư chưa nghiêm ngay từ việc nhận thức, do vậy tình trạng lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng là điều không thể tránh khỏi. +Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đấu tư công trình hoàn thành. Như đã nêu trên nguồn vốn đầu tư thực hiện từ giai đọan chuẩn bị đầu tư đến khi kết thúc công trình đưa vào sử dụng là một quá trình sử dụng các nguồn vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, giá trị công trình đầu tư và giá trị sản bàn giao đưa vào sử dụng và những tồn đọng công nợ, vật tư, thiết bị tất cả đã được quy về mặt bằng giá tại thời điểm. Việc thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành được căn cứ vào những văn bản chế độ quản lý tài chính và các chế độ có liên quan để xác định tính đúng đắn, hợp pháp, hợp lệ của vốn đầu tư thực hiện, và các nguồn vốn đã cấp, trên cơ sở đó qua kiểm toán đánh giá phân tích các kết quả cả việc đầu tư. Với những nội dung kiểm toán báo cáo quyêt toán vốn đầu tư công trình hoàn thành đã nêu quá trình thực hiện kiểm toán trong quy trình kiểm toán của kiểm toán Nhà nước thì nguồn vốn đầu tư của cấp có thẩm quyền phải phù hợp với quy định về quản lý vốn đâu tư theo quy chế quản lý đầu tư xây dựng và phải được ghi vào kế hoạch đầu tư hàng năm của Nhà nước. Để xách minh được tính đúng đắn của các nguồn vốn đầu tư thì tất cả đều phải được phản ánh trên các tài khoản nguồn vốn của chủ đầu tư, trên cơ sở đó đối chiếu hàng năm với cơ quan cấp vốn như kho bạc, ngân hàng.. Thực tế hầu hết các công trình hoàn thành nhiều khi nguồn vốn phản ánh còn chưa đầy đủ trên tài khoản với nhiều lý do khác nhau, có một phần do khách quan có một phần do chủ quan (hạch toán không đầy đủ các nguồn vốn) chủ yếu là các công trình có nguồn vốn nước ngoài, vốn huy động của địa phương, huy động tài sản và sức của nhân đân và các nguồn vốn khác phần lớn các nguồn vồn này hay bị bỏ sót trong quá trình quyết toán hoặc có phản ánh nhưng chưa đầy đủ, ngoài ra cũng xuất hiện những nguồn thu trong quá trình đầu tư như tiền gửi ngân hàng, tiền bán các phế phẩm, sảm phẩm phụ trong quá trình thi công, mà những giá trị này lại được sử dụng vào các hoạt động khác. Vì vậy trong quá trình kiểm toán đối với các nguồn vồn này kiểm toán Nhà nước thường khó khăn và khi thực hiện quyết toán không được thể hiện nên khi bàn giao đưa vào sử dụng còn thiếu phản ánh không đúng với giá trị thực của công trình và phản ánh tài sản cố định không đúng với thực tế. Đối với giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành với điều kiện thực tế như hiện nay kiểm toán Nhà nước còn thiếu các kiểm toán viên chuyên nghành am hiểu sâu về kỹ thuật thiết kế thi công và chưa đủ điều kiện cũng như thời gian để thực hiện hoàn thành kiểm tra chi tiết những nội dung mà trong quá trình khảo sát đã đặt kế hoạch, như đi thực tế hiện trường kiểm tra, bóc tách khối lượng chưa có độ tin cậy cao. Ngoài ra trong thực tế cho thấy khi quyết toán công trình đầu tư luôn có phần khối lượng phát sinh mà trong dự toán ban đầu không có, nhưng khi quyết toán đều được chủ đầu tư chấp nhận và cho thanh toán vấn đề này thực ra rất khó xác định được vì ngay từ khi khảo sát thiết kế vấn đề này không đề cập tới và trong dự toán cũng không được duyệt. Đặc biệt ở quá trình thực hiện kiểm trong quy trình kiểm toán vốn đầu tư vẫn còn chưa đề cập sâu tới vấn đề giải phóng mặt bằng bàn giao mặt bằng thi công và những vấn đề chi phí kiến thiết cơ bản khác có liên quan đến giá tri quyết toán vốn của công trình, trong thực tế giữa phần chi phí này thường hay lẫn lộn với phần xây lắp làm cho cơ cấu đầu tư không phản ánh chính xác giá trị thực tế của công trình. Ngoài ra trong thực tế kiểm toán các năm qua của kiểm toán Nhà nước cho thấy các chi phí đầu tư khác như giá trị thiệt hại do thiên tai, dịch hạo và các nguyên nhân bất khả kháng không được bảo hiểm trong quá trình thanh quyết toán công trình nhiều khi cũng đưa vào chi phí đầu tư tính vào giá trị công trình, do vậy làm tăng các khoản chi phí mà trong dự toán không đước duyệt khi quyết định đầu tư. Trong các công trình được quyết toán vốn đàu tư hiện nay thì tình hình công nợ và vật tư, thiết bị tồn đọng khá phổ biến và thường kéo dài qua nhiều công đoạn, vì vậy trong quá trình kiểm toán việc xác định tính đúng đắn của nợ phải thu, phải trả là một vấn đề rất phức tạp và khó khăn bởi và thời gian không cho phép, điều kiện và khả năng không thể đi đối chiếu đầy đủ được và tính chính xác của công nợ cũng không có độ tin cậy cao, chính vì lẽ đó mà các kiểm toán viên không đi sâu xác minh được vấn đề này và đó cũng là khâu yếu nhất trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Có nhiều những khoản nợ không có khả năng thanh toán hoặc đơn vị đã giải thể, thay đổi bộ máy...v.v..nhưng trên sổ sách vẫn thể hiện khoản phải thu của khách hàng, hoặc là vật tư thiết bị tồn đọng không được kiểm kê đánh giá lại và quản lý chặt chẽ, nên trong thực tế thể hiện giá trị quyết toán của công trình không đúng với giá trị thực tế của nó, do vậy trong quá trình kiểm toán việc xác minh tính đúng đắn giá trị công trình cũng chỉ mới là tương đối. Về việc thực hiện kiểm tra những kiến nghị của đoàn kiểm toán, đối với những đơn vị được kiểm toán, công tác kiểm tra còn chưa được quan tâm đúng mức, có nhiều đơn vị không được kiểm tra lại những kiến nghị của của đoàn kiểm toán, mà những đơn vị này cũng không báo cáo về việc thực hiện những kiến nghị của đoàn kiểm toán về cơ quan kiểm toán Nhà nước, do vậy kết quả thực hiện những kiến nghị đó chưa cao. 2. Những kiến nghị đối với bước thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán XDCB của kiểm toán Nhà nước. +Về địa vị pháp lý của cơ quan kiểm toán Nhà nước. Trong quá trình kiểm toán báo cáo quyết toán đầu tư xây đựng, những kiến nghị trong báo cáo kiểm toán đối với các đơn vị được thực hiện kiểm toán phải báo cáo về kiểm toán Nhà nước bằng văn bản về việc thực hiện các kiến nghị của đoàn thanh kiểm toán. Không thực hiện những kiến nghị thì kiểm toán Nhà nước sễ có những biện pháp gì đối với những đơn vị đó. Những vấn đề mà đoàn kiểm toán kiến nghị với các cơ quan quản lý cấp trên, các cấp các ngành có liên quan về những chủ trương chính sách, chế độ và những hướng dẫn chỉ đạo chưa phù hợp với thực tế trong đầu tư xây dựng, cần phải nghiên cứu kịp thời nếu xét thấy phù hợp thì phải hướng dẫn sửa đổi ngay để đáp ứng cho việc đầu tư xây dựng. + Về chất lượng kiểm toán viên. Thực hiện kiểm toán đối với các báo cáo quyết toán XDCB là một nội dung khó, điều đó yêu cầu các kiểm toán viên phải có trình độ, am hiểu đặc thù, tính chất công việc, đặc biệt phải chuyên sâu và có kinh ngiệm. Thực tế cho thấy trong quá trình thực hiện kiểm toán, nhiều kiểm toán viên còn hạn chế về trình độ, kinh ngiệm... Đòi hỏi kiểm toán Nhà nước cần có những chương trình bồi dưỡng, đào tạo nhằm nâng cao chất lương của các kiểm toán viên. Ngoài ra kiểm toán Nhà nước cần nghiên cứu xem xét trang bị những trang thiết bị kỹ thuật nhằm hỗ trợ công việc của kiểm toán viên. +Đối với quá trình thực hiện kiểm toán đầu tư xây dựng Kiểm toán Nhà nước cần đầu tư hơn nữa về thời gian khảo sát chi tiết để lập kế hoạch sát đúng phù hợp với tình hình thực tế quản lý, hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện kiểm toán đạt hiệu quả và chất lượng cao đúng với những yêu cầu đặt ra của đề cương. Đối với quá trình thực hiện kiểm toán trong quy trình kiểm toán báo cáo quyết toán đầu tư xây dựng của kiểm toán Nhà nước cần bổ sung thêm một nội dung kiểm toán quá trình thực hiện đầu tư theo từng giai đoạn, đối với các công trình đang tiến hành thực hiện thi công, vấn đề này cần nghiên cứu sâu về nội dung cũng như phương pháp tiến hành để khi kiểm toán đạt hiệu quả chất lượng cao. Đồng thời bổ xung thêm nội dung kiểm toán hiệu năng và hiệu quả của các công trình XDCB bởi vì thực tế cho thấy có rất nhiều các dự án đầu tư XDCB sau khi đã thực hiện lại hoạt động rất kém hiệu quả, thậm chí có những dự án đã tỏ ra kém hiệu quả ngay từ quá trình thi công, gây lãng phí, thất thoát lớn về tiền của, công sức. Đối với quy trình kiểm toán báo cáo quyết toán XDCB nói chung và bước thự hiện kiểm toán riêng, trong phần kiểm tra đơn vị được kiểm toán thực hiện kiến nghị của đoàn kiểm toán. Phải yêu cầu đơn vị được kiểm toán báo cáo việc thực kiện những kiến nghị của đoàn kiểm toán báo cáo việc thực hiện những kiến nghị của đoàn kiểm toán về cơ quan kiểm toán Nhà nước trước khi đoàn tiến hành kiểm tra. Có như vậy công tác của kiểm toán Nhà nước mới thực sự có hiệu quả. Kết luận Từ những thành tựu đạt được trong thời kì đổi mới, hiện nay đất nước ta đang tiến vào thời kì đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Từ xuất phát điểm rất thấp đất nước ta ngày nay đã đạt được những thành tựu ban đầu to lớn cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục...Đảng- Nhà nước vẫn kiên trì thực hiện con đường đã chọn đó là đưa nước ta tiến lên là một nước XHCN phát triển. Và để thực hiện điều đó Đảng-Nhà nước ta đang nỗ lực đầu tư các chương trình, dự án nói chung và các dự án đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng, nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước. Phục vụ cho dân sinh, phát triển kinh tế- xã hội...Ngày càng có nhiều những dự án khánh thành hay dự án mới đầu tư. Song với một thực tế ở nước ta hiện nay đó là các dự án đưa vào khai thác sử dụng còn chưa mang lại hiêu quả hoặc có nhiều dự án đầu tư còn gây lãng phí, thất thoát tiền của, công sức. Điều này đòi hỏi Nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ hơn nữa đối với các hoạt động này, bởi đây có thể nói là hoạt động cơ bản để phát triển đất nước. Với chức năng là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, kiểm toán Nhà nước nói chung và Vụ kiểm toán đầu tư cơ bản nói riêng cần phải nỗ lực hơn nữa các hoạt động của mình để thực hiện tốt hơn nữa chức năng nhiệm vụ được giao. Để làm được điều này kiểm toán Nhà nước vẫn đang ngiêm túc nghiên cứu để hoàn thiện việc thực hiện các công tác kiểm toán của mình. Trong nội dung đề tài này em cũng không ngoài mục đích đó, tuy nhiên do khả năng và trình độ có hạn nên việc tìm hiểu còn chưa kỹ lưỡng, những ý kiến đưa ra chỉ nhằm gợi mở và chắc chắn còn nhiều thiếu sót, một lần nữa hy vọng sẽ nhận được những ý kiến nhận xét của thầy cô cho đề tài của em. Tài liệu tham khảo - Lý thuyết kiểm toán. (GS.TS. Nguyễn Quang Quynh - chủ biên) - Kiểm toán tài chính. (GS.TS .Nguyễn Quang Quynh - chủ biên) - Kiểm toán tài chính. (PTS. Vương Đình Huệ - PTS. Đoàn Xuân Tiên - xuất bản năm 1996) - Kiểm toán - auditing, Alvin A.rens, James K.Loebbecker, NXB thống kê. Biên dịch: Đặng Kim Cương, Phàm Văn Được. - Cẩm nang kiểm toán viên Nhà nước. - Tạp chí kiểm toán. - Chẩn mực kiểm toán Việt Nam, chuẩn mực kiểm toán quốc tế. - Tạp chí kiểm toán các số. Mục lục Lời nói đầu 1 Nội Dung. 3 I. Những vấn đề chung về XDCB và thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán của kiểm toán Nhà nước. 3 1. Khái niệm và đặc điểm về công trình đầu tư xây dựng cơ bản. 3 2. Khái niệm quy trình kiểm toán, thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán và sự cần thiết của nó. 4 3. Mục đích và yêu cầu kiểm toán báo cáo quyết toán các dự án đầu tư XDCB của kiểm toán Nhà nước. 5 II. Thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán trong quy trình kiểm toán xây dựng cơ bản của kiểm toán Nhà nước. 6 A. Kiểm toán tuân thủ luật pháp, chế độ quản lý đầu tư và xây dựng.7 1. Kiểm toán tuân thủ giai đoạn chuản bị đầu tư. 7 1.1. Mục tiêu và rủi ro giai đoạn kiểm toán tuân thủ giai đoạn chuẩn bị đầu tư. 7 1.2. Nội dung kiểm toán giai đoạn chẩn bị đầu tư. 8 1.3. Kỹ thuật sử dụng .8 2. Kiểm toán tuân thủ giai đoạn thực hiện đầu tư và kết thúc dự án đầu tư đưa vào khai thác sử dụng. 8 2.1. Mục tiêu và rủi ro kiểm toán giai đoạn thực hiện đầu tư và kết thúc dự án đưa vào khai thác sử dụng. 8 2.2. Nội dung kiểm toán tuân thủ giai đoạn thực hiện và kết thúc đầu tư. 9 2.3. kỹ thuật sử dụng 10 B. Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành. 11 1. Mục tiêu và rủi ro kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành. 11 2. Nội dung kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành 14 2.1 Kiểm toán nguồn vốn đầu tư 14 2.2. Kiểm toán vốn đầu tư thực hiện 14 2.3 Kiểm toán chi phí đầu tư tính vào giá trị công trình 18 2.4 Kiểm toán giá trị tài sản bàn giao cho sản xuất sử dụng 18 2.5 Kiểm toán tình hình công nợ và vật tư tồn đọng. 19 III. Một số nhận xét và kiến nghị về giai đoạn thực hiện kiểm toán trong quy trình kiểm toán đầu tư XDCB của kiểm toán Nhà nước. 20 1. Những hạn chế còn tồn tại. 20 2. Những kiến nghị đối với bước thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán XDCB của kiểm toán Nhà nước. 27 Kết luận 32

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29531.doc
Tài liệu liên quan