Tóm lại, qua ba chương ở trên, chuyên đề đã cố gắng nêu lên những nét cơ bản về tình hình thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam: những thành tựu và đóng góp vào sự phát triển chung của thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng như những bất cập khó khăn cần khắc phục. Trên cơ sở đó, chuyên đề thực tập tốt nghiệp đưa ra một số kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm tăng tính hiệu quả hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt nói riêng tại Vinare trong thời gian tới.
Do sự hạn chế về thời gian cũng như trình độ, chuyên đề chắc chắn không tránh được thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ nghiệp vụ tái bảo hiểm và các bạn quan tâm đến đề tài này.
Một lần nữa, em xin cảm ơn cô giáo, thạc sỹ Nguyễn Thị Chính- giảng viên Bộ môn Bảo hiểm, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội và các cán bộ nghiệp vụ Phòng Tái Bảo Hiểm Xây dựng Lắp đặt đã giúp em hoàn thành đề tài này.
100 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tình hình thực hiện tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m định, bồi thường kịp thời đầy đủ cho khách hàng.
Tất cả những nguyên nhân trên đã dẫn tới việc khó tìm kiếm thị trường đứng đầu nhận tái bảo hiểm hỗ trợ hoặc thu xếp tái bảo hiểm gặp rất nhiều khó khăn hoặc không thể hoàn tất việc thu xếp tái bảo hiểm vượt quá mức giữ laị thông thường của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Trường hợp điển hình gần đây là việc thu xếp tái bảo hiểm cho nhà máy thuỷ điện Đại Ninh. Có doanh nghiệp bảo hiểm không thể thu xếp tái bảo hiểm hết phần tỷ lệ đồng bảo hiểm của mình mặc dù đã “gõ cửa” nhiều nhà nhận tái bảo hiểm trên thế giới trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các công ty môi giới và phải giữ lại tỷ lệ khá lớn trong dịch vụ này. Điều này đã làm dấy lên những mối quan ngại lớn về khả năng thanh toán, sự ổn định tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm một khi không may có tổn thất lớn hoặc tổn thất toàn bộ xảy ra. Điều quan trọng hơn cả là qua dịch vụ này và một số dịch vụ khác, các nhà tái bảo hiểm thường hỗ trợ thị trường bảo hiểm xây dựng lắp đặt Việt Nam như Munich Re, Swiss Re... có thể có một cái nhìn khác và mất lòng tin.
Việc một loạt các công trình đã được các công ty bảo hiểm cấp đơn tuy nhiên không chào được tái bảo hiểm là cực kỳ nguy hiểm, nếu các công ty bảo hiểm gốc không sớm có biện pháp khắc phục thì sớm muộn thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng khủng hoảng (công ty bảo hiểm bị phá sản dây chuyền, khách hàng mất lòng tin, nhà nhận tái bảo hiểm quay lưng lại với thị trường...).
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng cạnh tranh như hiện nay có thể lý giải theo nhiều cách, trong đó có thể nói đến nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp đó là khả năng cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Công việc này liên quan tới nhiều vấn đề, đó là công tác quản khai thác nghiệp vụ, chất lượng phục vụ khách hàng, giải quyết bồi thường, nghiên cứu sản phẩm mới...
Để nâng cao tính cạnh tranh, các doanh nghiệp trong thời gian qua đã quan tâm đầu tư nhiều đến công tác này và đã đạt được một số thành tựu nhất định, tuy nhiên hiện cũng còn nhiều tồn tại và gây khá nhiều trở ngại cho doanh nghiệp. Cụ thể như trong khâu quản lý nghiệp vụ, một số công ty đã chú trọng hơn đến khách hàng và việc đánh giá rủi ro trước khi khai thác, tuy nhiên việc thực hiện còn gặp nhiều khó khăn và chưa đồng bộ, không tổ chức được hoặc thiếu nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực khai thác, đối tượng khách hàng và chưa xây dựng được chiến lược lâu dài.
Việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng được thực hiện gắn liền với khâu quản lý nghiệp vụ, thông qua đó để phối hợp thực hiện tốt công tác giám định rủi ro, tư vấn khách hàng về công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Tuy nhiên hiện nay đa số các doanh nghiệp chưa có hoặc chưa có hoặc xây dựng được một kênh thông tin thường xuyên tới khách hàng, chưa tổ chức được các cuộc hội thảo cung cấp thông tin cho khách hàng.
Khâu giám định, bồi thường cũng là một công việc quan trọng, hiện công tác này đã và đang được các công ty bảo hiểm quan tâm đầu tư coi là một khâu quan trọng trong việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Tuy nhiên, việc thực hiện công việc này hiện nay cũng còn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể là chất lượng thực hiện công tác giám định chưa cao, việc thuê giám định viên quốc tế đôi khi chưa tuyển chọn kỹ nên nhiều trường hợp hồ sơ bồi thường phải chờ đợi. Một số doanh nghiệp chưa chuyên môn hoá được khâu bồi thường nên thiếu đồng bộ trong quy trình hướng dẫn thực hiện cũng như kiểm tra nên đôi lúc xảy ra trường hợp thiếu kiên quyết trong xử lý.
Công tác nghiên cứu sản phẩm chuyển biến rất chậm, đặc biệt là các sản phẩm hướng tới nhu cầu của các doanh nghiệp nhỏ, cá nhân, dân cư nên gây khó khăn trong việc tiếp cận khách hàng.
Rõ ràng là trước những khó khăn như trên, tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Vinare cũng chịu ảnh hưởng chung, kể cả ở thị trường trong nước và quốc tế.
- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn: Đây không chỉ là nét nổi cộm riêng của Vinare mà là khó khăn chung của toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam. Mặc dù hiện nay Vốn điều lệ của Vinare đã tăng lên 500 tỷ đồng, nhưng nếu so sánh với giá trị của các công trình xây dựng lắp đặt thì số vốn này chưa tương xứng. Chính điều này đã hạn chế mức giữ lại của Vinare cũng như cho thị trường trong nước, vì thế một tỷ lệ lớn phí nhượng tái bảo hiểm khai thác được phải chuyển cho các công ty, tập đoàn bảo hiểm lớn trên thế giới.
Năng lực tái bảo hiểm thấp cũng làm cho Vinare gặp khó khăn trong việc thu xếp tái bảo hiểm ra nước ngoài đối với các rủi ro lớn, đặc biệt trong bối cảnh thị trường bảo hiểm quốc tế khó khăn như hiện nay.
Hiện nay mặc dù hầu hết các phòng ban của Vinare đều được trang bị máy vi tính có nối mạng, tuy nhiên nhiều máy đang trong tình trạng lạc hậu ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh doanh của toàn công ty kể cả nghiệp vụ xây dựng lắp đặt.
- Bên cạnh đó, có một thực tế là đội ngũ cán bộ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt trong Tổng công ty dù nắm vững nghiệp vụ kỹ thuật, giỏi chuyên môn nhưng một mặt phải tăng cường cho một số công ty bảo hiểm gốc, mặt khác lại còn rất trẻ thiếu kinh nghiệm cho nên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về cán bộ trong bối cảnh hội nhập và mở cửa thị trường hiện nay.
- Sự ảnh hưởng tiêu cực của thị trường thế giới: Xu hướng trên thị trường thế giới sau hàng loạt các sự kiện như sự kiện 11/9, dịch SARS, nạn sóng thần bên cạnh tác động tích cực như đã phân tích ở trên cũng có những tác động tiêu cực nhất định. Sau những sự kiện này an toàn là một mục tiêu hàng đầu của các công ty bảo hiểm Việt Nam khi tìm kiếm thị trường chuyển nhượng tái bảo hiểm cho mình. Trong bối cảnh đó Munich Re và Swiss Re đương nhiên vẫn là những địa chỉ đáng tin cậy nhất cho các công ty bảo hiểm gốc. Điều này vô hình chung đã tạo nên khó khăn cho Vinare trong việc khai thác phần nhượng tái bảo hiểm tự nguyện
- Tỷ lệ hoa hồng nhượng do Vinare trả còn thấp: Một thực tế rõ ràng là tỷ lệ hoa hồng trong nước do Vinare trả và tỷ lệ hoa hồng do các công ty nước ngoài trả cho các công ty bảo hiểm gốc chênh nhau ít nhất là 5%. Đó là lý do chính để các công ty bảo hiểm gốc không muốn nhượng cho Vinare phần ngoài bắt buộc mà thường nhượng ra nước ngoài. Đây là một cản trở khiến Vinare gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh cũng như thực hiện mục tiêu nâng cao mức giữ lại của mình.
Không những thế, trong tỷ lệ hoa hồng mà Vinare áp dụng không có kèm theo lãi. Điều này làm giảm tính hấp dẫn của Vinare đối với các công ty bảo hiểm gốc.
- Hoạt động tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở ngoài nước của Vinare còn yếu. Nguyên nhân là bởi thị trường tái bảo hiểm thế giới và khu vực hiện nay có tính cạnh tranh rất cao do năng lực tái bảo hiểm dư thừa. Các công ty tái bảo hiểm lớn như Munich Re, Swiss Re có chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới và đặc biệt đang rất quan tâm đến các thị trường đang phát triển Đông Nam á, trong đó có Việt Nam. Mặt khác, tiềm năng tài chính của Vinare còn hạn hẹp, khả năng vươn ra nước ngoài là rất khó khăn.
- Trong nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt, Vinare vẫn nhận tái trực tiếp từ các công ty bảo hiểm gốc mà không thông qua môi giới. Nhưng các công ty bảo hiểm trong nước chỉ chiếm khoảng 30- 40% thị trường bảo hiểm xây dựng lắp đặt trong khi đó phần còn lại (60- 70%) là của các công ty bảo hiểm nước ngoài dù các công ty này chưa được phép hoạt động ở Việt Nam. Phần 60- 70% này về mặt danh nghĩa là do các công ty bảo hiểm trong nước tái theo chỉ định nhưng thực ra chính các công ty bảo hiểm nước ngoài thực hiện khai thác bất hợp pháp rồi giới thiệu cho một công ty bảo hiểm gốc cấp đơn với điều kiện, điều khoản, biểu phí do họ áp đặt và phải ưu tiên tái bảo hiểm cho họ. Do đó, Vinare đã mất đi một phần lớn các dịch vụ trên thị trường.
Một phần nguyên nhân của hiện tượng này có thể do thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa quen làm việc thông qua môi giới, chính vì vậy mà hoạt động môi giới bảo hiểm còn chậm phát triển. Hiện nay, chỉ có hai doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Công ty liên doanh môi giới bảo hiểm ANONCHIBROK là doanh nghiệp liên doanh giữa Công ty môi giới bảo hiểm AON của Mỹ và Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam được thành lập vào tháng 12 năm 1993, mặc dù những năm gần đây hoạt động có lãi nhưng chủ yếu giới thiệu dịch vụ bảo hiểm cho Bảo Việt thay vì thay mặt khách hàng lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm phục vụ tốt nhất cho khách hàng. Điều này không phù hợp với nguyên tắc hoạt động môi giới bảo hiểm là đại diện cho bên mua bảo hiểm tư vấn cho họ lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm tốt nhất. Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Việt Quốc mới đi vào hoạt động nên chưa đóng góp nhiều vào sự phát triển kênh phân phối sản phẩm.
- Một khó khăn khác mà Vinare phải đối mặt trong hoạt động nhượng tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt đó là hiện nay phương pháp áp dụng chính của Vinare vẫn là phương pháp tỷ lệ. Trên thực tế, nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt là một nghiệp vụ có kết quả tốt, tỷ lệ tổn thất thường rất thấp vì thế hầu hết trong các trường hợp, Vinare cố gắng ấn định mức giữ lại khá cao. Thế nhưng, việc ấn định mức giữ lại cao như vậy sẽ rất nguy hiểm cho Vinare nếu xảy ra tổn thất lớn do sự tích tụ tập trung rủi ro hoặc do rủi ro thiên tai.
Chương III
Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Vinare.
I. Xu hướng phát triển thị trường tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở Việt Nam.
Bảo hiểm xây dựng lắp đặt mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam vào những năm cuối thập kỷ 80. Khả năng khai thác nghiệp vụ bảo hiểm này đang được hoàn thiện dần. Do vậy, doanh thu phí bảo hiểm xây dựng lắp đặt khai thác được sẽ tăng lên.
Về phía người dân và các tổ chức doanh nghiệp nhận thức về bảo hiểm xây dựng lắp đặt còn hạn chế. Vì thế, có nhiều công trình không mua bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Tuy nhiên, trong thời gian tới, với những nỗ lực tuyên truyền của các doanh nghiệp bảo hiểm cũng tác động của những thiệt hại vật chất xảy ra trong thực tế sẽ thu hút được mối quan tâm về bảo hiểm xây dựng lắp đặt của người đầu tư, chủ thầu. Doanh thu phí bảo hiểm xây dựng lắp đặt nhờ đó cũng sẽ được nâng lên.
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm khoảng 7%. Nhu cầu xây dựng lắp đặt các công trình cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế ngày càng lớn. Kèm theo đó, nhu cầu mua bảo hiểm xây dựng lắp đặt sẽ tăng.
Theo số liệu thống kê bồi thường từ năm 1995 trở lại đây thì tỷ lệ tổn thất ngày một cao. Nguyên nhân chủ yếu là do tình hình thiên tai, lũ lụt tại Việt Nam ngày càng trở nên thường xuyên hơn, nghiêm trọng hơn ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Trong khi đó, các công trình xây dựng lắp đặt ngày càng nhiều, giá trị ngày càng lớn làm cho nguy cơ tích tụ rủi ro tăng dần. Điều này khiến các doanh nghiệp bảo hiểm phải nghĩ tới biện pháp tái bảo hiểm để bảo vệ cho phần trách nhiệm giữ lại của mình.
Theo những cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ, trong vòng 5 năm sau khi Hiệp định đã được ký kết, quy định tái bảo hiểm bắt buộc sẽ được xoá bỏ hoàn toàn, thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ mở rộng cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài vào Việt Nam. Vì thế, trong tương lai không xa thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ trở nên thị trường cạnh tranh gay gắt. Bảo hiểm xây dựng lắp đặt cũng không nằm ngoài cơ chế đó. Đối với một công trình xây dựng lắp đặt có thể có nhiều công ty bảo hiểm, kể cả trong nước lẫn ngoài nước cạnh tranh lẫn nhau để dành dịch vụ. Vì thế, cần nhanh chóng thiết kế một chương trình tái bảo hiểm với hạn mức trách nhiệm đủ cao và hiệu quả để các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cạnh tranh được với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp bảo hiểm không gặp phải hạn chế về hạn mức trách nhiệm tái bảo hiểm nên có thể chấp nhận bảo hiểm các công trình có giá trị rất lớn.
Thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm vốn luôn chứa đựng những điều bất ổn không ngờ. Rủi ro khủng bố ở Mỹ, dịch SARS, nạn sóng thần vừa xảy ra là một ví dụ.
Hơn nữa, do kết quả kinh doanh không tốt trong thời kỳ thị trường cạnh tranh vào cuối thập niên 90 và phần lớn là do các tổn thất của Trung tâm thương mại thế giới ở Mỹ (khoảng 40 tỷ USD) cộng thêm hàng loạt các sự kiện xảy ra trong thời kỳ phục hồi khó khăn và chậm chạp của nền kinh tế thế giới đầu năm như: giá cổ phiếu tiếp tục sụt giảm mạnh trên các thị trường chứng khoán chủ chốt thế giới, đô la Mỹ giảm giá và lãi suất giảm tới mức thấp kỷ lục, tất cả những yếu tố đó gây trở ngại cho thị trường thế giới vốn bị thu hẹp này.
Sau những sự kiện này, thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm thế giới thay đổi hoàn toàn. Một số công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm bị phá sản hoặc thu hẹp hoạt động kinh doanh. Khả năng nhận tái bảo hiểm của thị trường quốc tế giảm đột ngột. Việc này ảnh hưởng rất lớn đến thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm Việt Nam. Thu xếp tái bảo hiểm trở nên hết sức khó khăn vì khả năng nhận tái bảo hiểm trên thị trường thế giới giảm mạnh, các công ty nhận tái yêu cầu tăng tỷ lệ phí bảo hiểm. Thêm vào đó, điều kiện và điều khoản bị thắt chặt hơn, điển hình là một số phạm vi bảo hiểm khó có thể mua được như “ Sai sót trong thiết kế” theo điều khoản bổ sung DE5/95 hay LEG3/96 và bảo hiểm “Công tác bảo hành có đảm bảo”. Phạm vi bảo hiểm còn bị hạn chế đối với các điều khoản như là Chi phí dọn dẹp hiện trường, Chi phí hoạt động gia tăng, Đề phòng và hạn chế tổn thất, Đình công và Nổi loạn, Gián đoạn kinh doanh... Nhìn chung xu hướng của thị trường bảo hiểm xây dựng lắp đặt trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong những năm tiếp theo sẽ tập trung vào một số mục tiêu chủ yếu, đó là:
- Bù đắp những tổn thất trong những năm gần đây;
- Quay trở lại những nguyên tắc chính của bảo hiểm xây dựng lắp đặt;
- Xem xét sự tích tụ rủi ro;
- Bảo đảm có lãi hợp lý trên vốn và cổ phần.
Như vậy, thị trường tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở Việt Nam trong những năm tới sẽ được mở rộng nhưng cũng gặp những thách thức mới.
II. Phương hướng phát triển nghiệp vụ kinh doanh tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt của Vinare.
Trong những năm qua, Vinare luôn thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình theo như chỉ thị ban đầu của Bộ tài chính và luôn đạt kết quả kinh doanh tốt. Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội đang có nhiều thay đổi. Vinare cần có chiến lược mới cho hoạt động của mình. Đối với nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt, mục tiêu, phương hướng của Vinare trong những năm tới là:
Thứ nhất: Vinare cần chú trọng, phát triển hoạt động kinh doanh nhận tái bảo hiểm, tăng cường khả năng tài chính và khả năng giữ lại của công ty.
Thứ hai: Tiếp tục giúp đỡ các công ty bảo hiểm gốc, đặc biệt các công ty mới ra đời có triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt, qua đó Vinare có thể khai thác tái bảo hiểm tự nguyện.
Thứ ba: Vinare cần từng bước tham gia vào thị thường tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt khu vực và thế giới bằng cách thu hút sự chú ý của các công ty bảo hiểm quốc tế, từ đó triển khai nhận tái từ nước ngoài.
Thứ tư: Nâng cao mức giữ lại cho thị trường trong nước bằng cách tăng cường chuyển nhượng cho các công ty trong nước, giảm chuyển nhượng phí ra nước ngoài
Thứ năm: Đảm bảo sự ổn định và nâng cao uy tín của công ty trên thị trường tái bảo hiểm.
Cuối cùng, Vinare cần xem xét, tổ chức hoạt động kinh doanh chặt chẽ, đảm bảo quyền lợi cho khách hàng của mình.
III. Kiến nghị
Hoàn thiện cơ chế, chính sách
Hiện nay, Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn đã được ban hành tạo ra khuôn khổ pháp lý tương đối đầy đủ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tiến trình hội nhập còn nhiều vấn đề nảy sinh chưa được thể chế hóa như: quy định xử phạt hành chính, cơ chế khuyến khích phát triển sản phẩm, cung cấp dịch vụ qua biên giới... Một số văn bản chủ yếu cần thiết phải hoàn chỉnh và ban hành như: quy định về cung cấp dịch vụ qua biên giới, quy định về chỉ tiêu giám sát hoạt động các doanh nghiệp bảo hiểm, quy định liên quan đến quỹ đầu tư của doanh nghiệp...
Bên cạnh đó, quy định tái bảo hiểm hiện nay của Nhà nước cũng nên cần điều chỉnh nhằm tiếp tục đảm bảo quyền chủ động của doanh nghiệp bảo hiểm, thuận tịên cho việc thu xếp các chương trình tái bảo hiểm cũng như cho Vinare. Hiện nay, theo phân tích ở trên quy định như hiện nay vẫn còn nhiều bất cập có thể gây khó khăn cho Vinare. Kinh nghiệm thành công của nhiều nước cho thấy nên quy định nghĩa vụ phải tái cho công ty bảo hiểm quốc gia một tỷ lệ nhất định trên tổng phí gốc, bất kể có phát sinh tái bảo hiểm hay không. Quy định như vậy không những giúp cho việc kiểm soát hoạt động bảo hiểm, tái bảo hiểm của Nhà nước thuận tiện mà còn thúc đẩy sự lớn mạnh của công ty tái bảo hiểm quốc gia.
3.2 Đổi mới phương thức quản lý
Một trong những bất cập của thị trường bảo hiểm Việt Nam đó là quản lý nhà nước về hoạt động này còn yếu kém. Phương thức kiểm tra, giám sát còn nặng về hình chính, yếu kém về nhiều mặt, nhiều khi can thiệp quá sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm vì thế làm cho các doanh nghiệp trong nước thiếu sự năng động. Vì vậy vấn đề hiện nay đó là cần có những thay đổi tích cực trong quản lý của Nhà nước. Có thể cần tiến hành theo những cách sau:
- Tăng cường chủ động và tính tự chịu trách nhiệm cho các doanh nghiệp, về các vấn đề liên quan đến nội dung báo cáo, kết quả hoạt động trong việc thực hiện các quy định của pháp luật.
- Các chỉ tiêu đánh giá cần được xây dựng một cách khách quan và được công khai hoá.
- Hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động quản lý mang tính chuyên nghiệp. Quan hệ giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp dựa trên tinh thần hợp tác, xây dựng.
- Các thủ tục cấp giấy phép, thẩm định hồ sơ phê chuẩn, đăng ký sản phẩm, các thủ tục khác như thay đổi vốn, mở rộng nội dung và phạm vi hoạt động cần được đơn giản hoá, tạo điều kiện dễ dàng nhất cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.
3.3 Thực hiện nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế
Để thị trường bảo hiểm Việt Nam có thể thực sự hội nhập thực sự với thị trường thế giới, một vấn đề quan trọng đó là hoạt động quản lý phải được thực hiện theo các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế trên cơ sở phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế của Việt Nam. Có thể đưa ra đây một số nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế chính như sau:
- Trong quá trình xem xét cấp Giấy phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải đánh giá năng lực của chủ đầu tư, người quản trị điều hành, kế hoạch kinh doanh bao gồm các báo cáo tài chính, kế hoạch góp vốn, khả năng thanh toán...
- Giám sát doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện các quy định của Nhà nước và các quy định của bản thân doanh nghiệp về quản lý tài chính, kế toán, đánh giá rủi ro, quản lý tài sản;
- Quản lý hoạt động đầu tư bảo đảm đầu tư của doanh nghiệp được đa dạng, trong hạn mức theo quy định của pháp luật;
- Đánh giá các chỉ tiêu tài chính, kinh tế của doanh nghiệp một cách thường xuyên, xây dựng chỉ tiêu cảnh báo sớm, đánh giá kịp thời tình hình tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm;
- Nghiêm cấm cạnh tranh bất hợp pháp, gây bất ổn định thị trường. Giám sát hoạt động của doanh nghiệp tuân thủ các quy định về công khai hoá thông tin, cung cấp thông tin trung thực cho khách hàng, bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm nhanh chóng đầy đủ;
- Tạo mối quan hệ tốt với cơ quan bảo hiểm nước ngoài để nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế để từng bước áp dụng phù hợp với trình độ phát triển của thị trường, học hỏi kinh nghiệm quản lý, trao đổi thông tin, nắm bắt diễn biến thị trường bảo hiểm quốc tế, đặc biệt là về các thông tin có liên quan đến các công ty bảo hiểm, môi giới bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
3.4 Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
Hiệp hội bảo hiểm là một tổ chức dân sự nghề nghiệp hoạt động trên cơ sở tham gia tự nguyện và đóng góp kinh phí của các hội viên. Hoạt động của Hiệp hội là tự quản lý của các tổ chức bảo hiểm trên thị trường nhằm các mục tiêu:
- Cung cấp thông tin về bảo hiểm, tái bảo hiểm, các quy định của pháp luật và sự thay đổi pháp luật của thị trường trong nước và quốc tế để các doanh nghiệp thành viên xử lý kịp thời, đúng pháp luật.
- Giúp đỡ các thành viên trong việc giải quyết tranh chấp, kiện tụng, cung cấp thông tin mới, đào tạo bồi dưỡng cán bộ chuyên môn.
- Thay mặt các doanh nghiệp bảo hiểm thành viên kiến nghị hoặc đề xuất lên các cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm những vấn đề liên quan đến chính sách, chế độ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
- Tham gia đóng góp ý kiến với cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm trong việc nghiên cứu, xây dựng định hướng chiến lược phát triển và quản lý ngành bảo hiểm.
Trên thế giới, ở những nước có thị trường bảo hiểm phát triển, các Hiệp hội bảo hiểm được thành lập rất sớm và đóng góp tích cực vào sự phát triển của ngành này.
Tại nước ta, Hiệp hội bảo hiểm ra đời tương đối muộn (năm 2001), tuy nhiên bước đầu đã có vai trò quan trọng giúp cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám sát hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, kết nối mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với cơ quan quản lý, giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và giữa doanh nghiệp với người tham gia bảo hiểm, nhằm duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm.
Để có thể tiếp tục phát huy những thành tích đạt được ở trên, có thể có một số giải pháp sau cho Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam trong thời gian tới:
- Mở rộng phạm vi hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm về đào tạo, trao đổi thông tin, hợp tác kinh doanh, đánh giá rủi ro, tính phí bảo hiểm, đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm, đề phòng hạn chế tổn thất.
- Xem xét, sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia Hiệp hội, gắn quyền lợi và trách nhiệm của các doanh nghiệp bảo hiểm với Hiệp hội.
- Củng cố tổ chức bộ máy lãnh đạo và các ban chuyên trách của Hiệp hội. Phải đảm bảo những người lãnh đạo Hiệp hội có đầy đủ năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm, có tinh thần trách nhiệm và đạo đức. Có cơ chế xứng đáng về tiền lương, tiền thưởng cho các cán bộ của Hiệp hội tạo động lực, khuyến khích họ lao động, cống hiến cho ngành bảo hiểm.
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Hiệp hội và các cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm để kiểm tra, giám sát thường xuyên việc tuân thủ pháp luật của Nhà nước và điều lệ Hiệp hội nhằm điều chỉnh kịp thời những hành vi sai phạm.
3.5 Tăng cường vốn cho Vinare
Đối với bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng vậy, vốn luôn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm yếu tố này càng quan trọng hơn bao giờ hết bởi nó quyết định khả năng nhận, mức giữ lại..., và tạo lòng tin đối với khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay, có thể thấy một thực tế là khả năng tài chính của Vinare vẫn còn hạn chế.
Trong những năm qua, Vinare đã cố gắng đến mức tối đa để giữ lại phí bảo hiểm cho thị trường trong nước. Nếu như năm 1995 trong nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt, tỷ trọng phí nhượng ra nước ngoài là 73% thì đến năm 2002 chỉ còn 54,7% và sang năm 2003 giảm xuống còn 47%. Có thể nói, đây là nỗ lực rất lớn của Vinare. Tuy nhiên, phần chuyển ra nước ngoài như vậy vẫn còn rất lớn chủ yếu là do bị hạn chế về vốn.
Hiện nay, Vinare vừa tiến hành xong cổ phần hoá theo chỉ thị của Bộ tài chính, vốn điều lệ tăng lên rất đáng kể (500 tỷ đồng). Vì vậy, để tăng thêm vốn Vinare có thể niêm yết cổ phần trên thị trường chứng khoán, phát hành thêm cổ phiếu hoặc các hình thức khác theo pháp luật quy định để huy động vốn, đáp ứng được yêu cầu về vốn trong bối cảnh hiện nay.
Bên cạnh đó, để có thể tăng vốn cho mình Vinare có thể kiến nghị lên Nhà nước bỏ thuế vốn và miễn thuế thu nhập cho Tổng công ty trong vòng từ 7- 10 năm.
Ngoài việc bỏ thuế vốn thì Nhà nước có thể tạm thời miễn thuế thu nhập cho Vinare. Vinare là một tổ chức kinh doanh nhưng cũng có vai trò điều tiết thị trường bảo hiểm Việt Nam. Để tăng cường năng lực cho Vinare thì Nhà nước nên miễn thuế trong khoảng thời gian nhất định (khoảng 10 năm).
Nhìn lại 10 năm hoạt động kinh doanh của Vinare từ khi thành lập cho đến nay ta thấy Tổng công ty đã nộp Ngân sách Nhà nước 54,8 tỷ đồng tức là bình quân Vinare đóng góp vào Ngân sách hơn 5 tỷ đồng. Như vậy, nếu được miễn thuế trong vòng 10 năm thì Vinare sẽ được bổ sung khoảng hơn 50 tỷ đồng. Số vốn bổ sung đó cộng với cố gắng tăng cường các quỹ dự phòng kỹ thuật, quỹ phát triển kinh doanh, Tổng công ty sẽ tăng cường đáng kể tiềm lực tài chính của mình.
IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Vinare.
1. Tiến hành nghiên cứu thị trường,đưa ra chiến lược khai thác có hiệu quả.
Thông tin về thị trường và chiến lược khai thác sản phẩm đối với bất cứ một doanh nghiệp cũng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó có tác dụng định hướng, chỉ đạo và đưa ra những giải pháp đúng đắn nhằm thu hút khách hàng. Vì vậy, Vinare cần thiết phải lập một bộ phận chuyên trách về vấn đề này. Bộ phận chuyên trách này có nhiệm vụ nghiên cứu diễn biến trên thị trường, những kết quả cũng như tồn tại cần giải quyết, tổng hợp những số liệu tổng thể trên thị trường. Dựa trên số liệu này, Vinare cần xây dựng cho mình một chiến lược cụ thể để đẩy mạnh khai thác tái bảo hiểm. Tiềm năng bảo hiểm xây dựng là rất lớn nhưng hiện nay kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Nguyên nhân khách quan là do nhận thức của nhân dân về bảo hiểm xây dựng lắp đặt còn thấp. Vì thế, Vinare cần phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm gốc đẩy mạnh công tác quảng cáo, truyền bá thông tin về bảo hiểm, tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Từ đó, giúp khách hàng tiếp cận với bảo hiểm xây dựng lắp đặt, đồng thời cũng nâng khả năng khai thác kinh doanh về nghiệp vụ này của Tổng công ty.
2. Điều chỉnh tỷ lệ hoa hồng trong tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Như đã trình bày ở phần trước, phương pháp tái bảo hiểm được sử dụng trong tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt là phương pháp tỷ lệ. Trong tái bảo hiểm tỷ lệ, giá mà người nhận tái phải trả để nhận được dịch vụ chính là hoa hồng phí. Tỷ lệ hoa hồng trong nước do Vinare trả và tỷ lệ hoa hồng do các công ty nước ngoài trả chênh nhau ít nhất là 5%. Do sự chênh lệch đáng kể về tỷ lệ hoa hồng đó mà đa phần các công ty bảo hiểm gốc không muốn nhượng cho Vinare ngoài phần bắt buộc. Cho nên, để có thể giành được khách hàng với các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm nước ngoài thì một tỷ lệ hoa hồng cạnh tranh là điều nhất thiết phải tính đến.
Tăng tỷ lệ hoa hồng, thậm chí có thể ngang bằng với tỷ lệ các công ty nước ngoài trả.
Mặc dù tỷ lệ hoa hồng nhận tái trong lĩnh vực nhận tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt của Vinare hiện nay là 26%, khá cao so với các loại hình khác. Tuy nhiên, Vinare cần cố gắng nâng tỷ lệ hoa hồng, hạn chế sự chênh lệch so với tỷ lệ hoa hồng của các công ty nước ngoài. Đây là việc làm tất yếu nếu muốn giành được thêm dịch vụ tự nguyện.
Bổ sung điều khoản hoa hồng theo lãi vào các hợp đồng nhận tái.
Các công ty bảo hiểm gốc khi nhượng cho các công ty bảo hiểm nước ngoài thì ngoài phần hoa hồng cố định thông thường còn nhận thêm hoa hồng theo lãi với tỷ lệ 15- 17% lãi của hợp đồng tái bảo hiểm. Trong khi đó, các hợp đồng tái bảo hiểm cố định của Vinare chỉ có hoa hồng tái bảo hiểm thông thường. Điều này làm giảm tính hấp dẫn của Vinare. Vì vậy, cùng với việc tăng tỷ lệ hoa hồng tái bảo hiểm, việc đưa ra điều khoản hoa hồng theo lãi trong các hợp đồng tái bảo hiểm là rất cần thiết.
Một hợp đồng tái bảo hiểm với tỷ lệ hoa hồng cao cộng với khoản tiền lãi hợp lý cùng với những lợi thế vốn có của Vinare chắc chắn sẽ giúp Tổng công ty nhận được nhiều dịch vụ tự nguyện hơn từ các công ty trong nước. Và như thế, mặc dù phải trả một số tiền khá lớn do giải pháp này nhưng xem xét chắc chắn rằng số lượng dịch vụ tăng lên sẽ bù đắp được những chi phí này, đem lại cho Tổng công ty một khoản lợi nhuận cao hơn.
Xác định mức giữ lại hợp lý.
Mức giữ lại trước khi tái đi phần trách nhiệm đã cam kết với khách hàng là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của Vinare. Nếu mức giữ lại quá thấp, Tổng công ty sẽ khó tích luỹ tài chính vì một phần lớn lợi nhuận mất đi. Ngược lại, nếu mức giữ lại quá lớn vượt quá khả năng tài chính, nguy cơ rơi vào tình trạng “thiếu hụt” về khả năng thanh toán hoặc nghiêm trọng hơn là bị phá sản khó có thể tránh khỏi.
Đối với tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt, hiện nay, cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm khác, Vinare tính toán mức giữ lại chủ yếu dựa trên số liệu thống kê của nhiều năm triển khai nghiệp vụ này kết hợp với bảng phân loại rủi ro. Tuy nhiên, do trình độ chuyên môn hạn chế cùng với số liệu thống kê nghèo nàn, chưa chính xác nên có thể nói mức giữ lại chưa hoàn toàn hợp lý.
Hiện nay Vinare mới chỉ tính toán mức giữ lại chung của toàn bộ nghiệp vụ trong một năm hoạt động, còn việc xác định mức giữ lại cụ thể cho từng loại hình nghiệp vụ vẫn tuân theo bảng thang giữ lại do Công ty tái bảo hiểm Đức Munich Re đưa ra. Bảng thang giữ này lại được đưa ra trên cơ sở số liệu thống kê trên thế giới nhiều năm nay. Tuy nhiên, trong hoạt động xây dựng lắp đặt, rủi ro ở Việt Nam có những đặc thù riêng, nếu áp dụng một thang giữ lại chung như vậy sẽ không thể chính xác. Theo thống kê hàng năm, rủi ro lũ lụt là một rủi ro gây ra nhiều tổn thất đối với loại hình bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Nhưng rủi ro lắp đặt nếu phân chia theo khu vực cũng rất khác nhau do mỗi vùng có một đặc trưng khí hậu riêng. Rủi ro lũ lụt ở miền Bắc luôn thấp hơn ở miền Nam và miền Trung. Vì vậy, việc đánh giá lũ lụt đối với từng vùng là rất phức tạp.
Mật độ rủi ro bảo hiểm khác nhau theo các tỉnh. Các công trình xây dựng chủ yếu tập trung vào một số tỉnh thành phố có tiềm năng phát triển lớn.
Rủi ro trong xây dựng lắp đặt khác biệt với các rủi ro khác ở chỗ nó có thể xảy ra tại một phạm vi địa lý rất hẹp như nhà cửa nhưng có khi lại trải dài trên một phạm vi địa lý rộng như đường sá. Sự khác nhau về giới hạn địa lý làm cho cường độ và tính chất rủi ro rất khác nhau.
Với những lý do cụ thể trên, vấn đề cấp thiết đặt ra đối với Vinare là nên tính toán lại mức giữ lại cho cụ thể hơn, phù hợp hơn với thực tế ở Việt Nam. Đối với những loại công trình xây dựng lắp đặt chưa có số liệu thống kê về tổn thất, áp dụng mức giữ lại do các công ty tái bảo hiểm lớn trên thế giới đưa ra trên cơ sở nghiên cứu cụ thể tình hình Việt Nam. Đối với những công trình đã có số liệu tổn thất nhiều năm cần tính toán mức giữ lại theo tỷ lệ tổn thất của từng vùng. Với những công trình xây dựng có phạm vi dàn trải lớn cần tính toán kỹ cho từng khu vực cụ thể.
Để có thể thực hiện được điều đó, việc thu thập số liệu thống kê một cách chi tiết và chính xác về tình hình tổn thất tại từng vùng là hết sức cần thiết và cần được chú trọng. Chỉ có trên cơ sở đó, Vinare mới có thể xây dựng được một chương trình bảo hiểm với mức giữ lại thật hợp lý, cụ thể cho từng khu vực.
4. Chú trọng chính sách giữ khách hàng.
Khách hàng của doanh nghiệp tái bảo hiểm là tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm gốc, tái bảo hiểm có quan hệ giao kết hợp đồng tái bảo hiểm với doanh nghiệp này. Số lượng dịch vụ hay nói cách khác hoạt động của doanh nghiệp tái bảo hiểm phụ thuộc rất lớn vào sự thành công hay thất bại của các khách hàng này.
Khách hàng trong tái bảo hiểm có thể phân thành hai loại: đó là khách hàng truyền thống và khách hàng tiềm năng. Khách hàng truyền thống là khách hàng đã và đang có quan hệ hợp đồng với doanh nghiệp. Khách hàng tiềm năng là khách hàng sẽ có quan hệ giao kết hợp đồng tái bảo hiểm trong tương lai. Với bất kỳ một doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm nào cũng vậy, muốn duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của mình vấn đề trước mắt là phải bảo vệ được thị trường hiện có song song với thu hút khách hàng mới. Vinare cũng không nằm ngoài quy luật ấy, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi công ty đã mất đi một phần đáng kể phí tái bảo hiểm tự nguyện của các công ty trong nước do họ không tiếp tục duy trì hợp đồng.
Có thể dễ dàng thấy được lợi ích của việc giữ một khách hàng cũ so với khách hàng mới ở các điểm sau:
Tiết kiệm được chi phí: để có một khách hàng mới công ty phải bỏ ra rất nhiều chi phí nhất là những chi phí ban đầu như chi phí quảng cáo, khuếch trương công ty, sản phẩm, chi phí thương mại và một phần lớn chi phí quản lý gắn với việc lập một khách hàng mới... Nếu những khách hàng này tiếp tục tái tục hợp đồng, tất nhiên sẽ tiết kiệm được những chi phí này, đặc biệt chi phí in ấn, quản lý hợp đồng bảo hiểm giảm đi một lượng đáng kể.
Tăng mức nhượng tái của khách hàng: từ những quan hệ chặt chẽ được thiết lập qua quan hệ nhượng tái bảo hiểm, niềm tin, mức độ tín nhiệm của khách hàng đối với công ty sẽ tăng lên. Và chắc chắn cùng với sự tiến triển của nghiệp vụ bảo hiểm gốc, nhu cầu kí kết các hợp đồng mới, tăng phần tái bảo hiểm tự nguyện sẽ tăng lên.
Nắm bắt được các kết quả kỹ thuật: thông thường đối với một khách hàng cũ việc xác định những thông số kỹ thuật liên quan đến đối tượng tái bảo hiểm bao giờ cũng dễ dàng, thuận tiện hơn so với những khách hàng mới, ví dụ như thông tin về phí gốc thu được, tỷ lệ tổn thất,... từ đó giúp công ty dễ dàng hơn trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý.
- Lôi kéo khách hàng mới: việc giữ khách hàng cũ không những làm ổn định và tăng doanh số phí nhận mà còn có tác dụng mang lại cho công ty những khách hàng mới, nhất là những công ty bảo hiểm gốc mới ra đời mà khách hàng cũ là một cổ đông hoặc có phần có vốn góp lớn. Vì thế, Tổng công ty nên đặc biệt quan tâm đến khía cạnh khai thác khách hàng qua mối liên hệ này, tận dụng những khách hàng cũ như là một kênh truyền thông, một phương pháp khai thác dịch vụ hiệu quả nhưng ít tốn kém nhất.
Để giữ được khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới Vinare cần chú ý đến những điểm sau đây:
- Chính sách giá: ở đây, trong tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt chính là chính sách chi trả hoa hồng. Như đã trình bày ở trên, một tỷ lệ hoa hồng cạnh tranh cùng với tỷ lệ lãi hợp lý là một công cụ cạnh tranh rất hiệu quả, tăng tính hấp dẫn đối với khách hàng. Vì thế, trong tương lai công ty nên từng bước tăng tỷ lệ hoa hồng một cách hợp lý, thậm chí có lên mức ngang bằng với các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm nước ngoài.
- Chính sách dịch vụ: trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt và do đặc thù của sản phẩm bảo hiểm, nên trong lĩnh vực kinh doanh này vấn đề tổ chức dịch vụ khách hàng, giữ khách hàng luôn được coi trọng.
Để nâng cao chất lượng dịch vụ tái bảo hiểm cung cấp cho khách hàng trong bảo hiểm xây dựng lắp đặt cần chú ý đến đến những khía cạnh sau:
+ Luôn chủ động tiếp xúc với các công ty tái bảo hiểm gốc khi các hợp đồng tái bảo hiểm sắp kết thúc để thảo luận, đàm phán về việc thực hiện hợp đồng, sửa đổi, bổ sung các điều kiện, điều khoản của hợp đồng cho phù hợp với sự thay đổi của thị trường và các yếu tố liên quan nhằm đảm bảo lợi ích của hai bên.
+ Phân tích, tư vấn cho công ty bảo hiểm gốc trong công tác khai thác dịch vụ, quản lý rủi ro.
Như đã trình bày ở trên, các dịch vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt rất phức tạp đặc biệt là trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển ngày nay. Vì thế, công tác khai thác dịch vụ cũng khó khăn không kém. Nó đòi hỏi các chuyên gia có trình độ cao, nghiệp vụ vững vàng. Tuy nhiên, do chuyên môn và kinh nghiệm còn hạn chế các công ty bảo hiểm trong nước nên công tác khai thác dịch vụ còn rất nhiều bất cập. Vì thế, Vinare cần có kế hoạch cử cán bộ nghiệp vụ của mình giúp đỡ các công ty này đặc biệt trong công tác điều tra, thu thập thông tin, đánh giá rủi ro ban đầu đối tượng được bảo hiểm.
Sau khi đã ký kết được hợp đồng, vấn đề quan trọng đặt ra đối với các công ty bảo hiểm gốc là công tác quản lý rủi ro. Việc làm này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro, tổn thất không chỉ đối với bản thân các công ty mà cả Vinare. Với ưu thế là một doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ tái bảo hiểm kỹ thuật có trình độ nghiệp vụ cao, Vinare có thể tập huấn, hướng dẫn cán bộ, nhân viên của các doanh nghiệp trong nước thực hành công tác quản lý rủi ro, thậm chí có thể chỉ đạo trực tiếp công tác này tại các công trình xây dựng lắp đặt.
+ Giải quyết bồi thường nhanh gọn, cố gắng tối đa trong việc phối hợp, giúp đỡ các công ty bảo hiểm gốc giải quyết khiếu nại lớn, phức tạp: bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm khi tổn thất xảy ra là vấn đề trọng tâm của hoạt động nhượng tái bảo hiểm. Bởi vì khi mua bảo hiểm, có nghĩa là khách hàng đã trả nhượng lại một phần dịch vụ khai thác được ngược lại Vinare phải cam kết chịu trách nhiệm bồi thường cho phần này nếu không may có tổn thất xảy ra. Chính vào thời điểm này, các công ty bảo hiểm có thể gặp khó khăn về tài chính, đặc biệt trong trường hợp tổn thất lớn. Vì thế, sự trợ giúp đúng lúc, nhanh chóng và chính xác thu xếp số tiền bồi thường trong lúc này có thể là cách quảng cáo tốt nhất đối với công ty. Từ đó, giúp Vinare giữ được khách hàng truyền thống và mở ra triển vọng khai thác được những khách hàng tiềm năng trong tương lai.
+ Giúp đỡ các công ty bảo hiểm gốc trong việc đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ làm nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt: do mới triển khai bảo hiểm xây dựng lắp đặt, khả năng tài chính lại không cao, các doanh nghiệp trong nước hiện nay đang phải đối mặt với sự thiếu những cán bộ thực sự có kỹ năng trình độ đáp ứng được yêu cầu của bảo hiểm kỹ thuật. Với vai trò là người hỗ trợ thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển cùng với mối quan hệ chặt chẽ với thị trường bảo hiểm thế giới, Vinare cần tăng cường hơn nữa trong việc phối hợp với các công ty bảo hiểm gốc đào tạo thường xuyên đội ngũ cán bộ này. Qua đó, mối quan hệ cũ chắc chắn sẽ ngày càng được củng cố.
5. Tuyển dụng, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn giỏi.
Trong lĩnh vực kinh doanh nào cũng vậy, con người luôn là nhân tố trọng tâm nhất, quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Đặc biệt, do đặc thù của loại hình tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt xuất phát từ bảo hiểm kỹ thuật rất phức tạp. Loại hình này đòi hỏi những người làm công tác tái bảo hiểm phải am hiểu về kỹ thuật, chủ yếu là kỹ thuật trong xây dựng công trình, lắp đặt máy móc thiết bị. Hơn nữa, khoa học kỹ thuật luôn phát triển không ngừng, với sự ra đời nhanh chóng của công nghệ, kỹ thuật mới, vì vậy nếu không cập nhật kịp thời thì sẽ trở nên lạc hậu so với thế giới. Vì vậy, Vinare nên tuyển dụng các kỹ sư chuyên ngành kỹ thuật về xây dựng lắp đặt đồng thời am hiểu về bảo hiểm, tái bảo hiểm; cùng với đó cần có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng thường xuyên, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ được tiếp xúc với công nghệ mới nhanh nhất.
Đối với một số lĩnh vực quan trọng như xác định mức giữ lại, đề phòng nghiệp vụ, đầu tư tài chính, giám định tổn thất Vinare có thể thuê thêm chuyên gia trong nước và nước ngoài để quản lý một số lĩnh vực theo quy định của pháp luật, kết hợp với đội ngũ cán bộ trực tiếp tại công ty.
6. Xây dựng hệ thống môi giới của Tổng công ty.
Trong hoạt động tái bảo hiểm, môi giới đóng vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa rất lớn đối với cả doanh nghiệp bảo hiểm và tái bảo hiểm. Trên thế giới, việc thu xếp bảo hiểm tái bảo hiểm từ lâu đã trở thành phổ biến và ngày càng phát triển.
Tại Việt Nam hiện nay, hoạt động này chưa thực sự được chú ý đến. Thị trường bảo hiểm Việt Nam đến thời điểm này chỉ có hai công ty môi giới nhưng chưa thực sự hoạt động theo những nguyên tắc chung của môi giới là đại diện cho khách hàng thu xếp hợp đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm.
Tại Vinare, nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt cũng như các nghiệp vụ khác đều được nhận trực tiếp từ khách hàng mà không thông qua môi giới. Nhưng các công ty bảo hiểm gốc trong nước chỉ chiếm khoảng 30- 40% thị trường bảo hiểm xây dựng lắp đặt, trong khi đó 60-70% còn lại mặc dù dưới danh nghĩa là dịch vụ của các công ty này nhưng thực chất là phần khai thác trái phép của các công ty nước ngoài giới thiệu cho họ với điều kiện phải ưu tiên tái bảo hiểm cho họ. Chính vì điều này mà Vinare mất đi một phần lớn các dịch vụ trên thị trường.
Môi giới tái bảo hiểm có thể hiểu là người hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp bảo hiểm gốc làm việc với các doanh nghiệp tái bảo hiểm trong việc bảo hiểm cho chính doanh nghiệp bảo hiểm gốc. Môi giới tái bảo hiểm thường nắm rất vững về kỹ thuật nghiệp vụ, đặc biệt là những thông tin về thị trường. Về lý thuyết, người môi giới sau khi nghiên cứu nhu cầu của khách hàng sẽ tìm kiếm doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm có thể đáp ứng nhu cầu tốt nhất với chi phí thấp nhất. Thực tế trên thế giới cho thấy rằng, hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đều yêu cầu môi giới tái bảo hiểm tư vấn, giúp đỡ khi các rủi ro được bảo hiểm quá lớn so với khả năng tài chính của họ trong việc thanh toán bồi thường tổn thất nếu rủi ro xảy ra. Đối với các rủi ro tiềm ẩn lớn, môi giới tái bảo hiểm sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm phân tích phạm vi rủi ro để thu xếp tái bảo hiểm khi cần thiết. Thông qua môi giới tái bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ được an toàn về tài chính, do đó sẽ có khả năng bảo vệ khách hàng lớn hơn và đem lại sự ổn định cao hơn cho xã hội. Tuy nhiên, khi chọn cách này, các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm phải tính đến những ưu đãi cho môi giới như thù lao, đào tạo, bảo trợ,... và như thế lẽ tất nhiên, chi phí cho dịch vụ bảo hiểm này sẽ tăng lên nhưng phần tăng này sẽ được bù đắp bằng số lượng dịch vụ tăng lên do môi giới đem lại.
Thị trường bảo hiểm càng phát triển thì vai trò của môi giới càng được đề cao, và lúc đó hoạt động nhận nhượng tái bảo hiểm sẽ chủ yếu thực hiện qua môi giới tái bảo hiểm. Vì thế, để đảm bảo số lượng dịch vụ khai thác được không ngừng tăng lên, Vinare cần thiết phải có kế hoạch xây dựng cho mình một hệ thống môi giới thông qua việc nghiên cứu kỹ những môi giới có uy tín sau đó xác lập mối quan hệ chặt chẽ trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Từ đó, các môi giới sẽ ưu tiên mang lại dịch vụ cho Vinare mà vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc là tìm kiếm doanh nghiệp tái bảo hiểm tốt nhất cho khách hàng.
7. Tăng cường quan hệ hợp tác với thị trường tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt quốc tế.
Thị trường tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt nước ngoài vốn là một thị trường Vinare gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy để có thể tiếp cận và khai thác dịch vụ từ thị trường thế giới, Vinare cần thực hiện ngay những giải pháp sau:
Tăng cường mở rộng quan hệ tái bảo hiểm giữa Vinare với thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm quốc tế. Qua đó sẽ giúp Vinare gây dựng được tiếng tăm, uy tín của công ty trên thị trường tái bảo hiểm thế giới. Từ đó, Vinare có cơ hội nghiên cứu thị trường quốc tế, lựa chọn cho mình thị trường mục tiêu hoạt động nhượng tái bảo hiểm trên cơ sở đảm bảo an toàn tài chính khi tái bảo hiểm và đạt được lợi ích kinh tế cao nhất. Đồng thời, Vinare nên hạn chế tái bảo hiểm tập trung nhiều vào một công ty hay cho một thị trường để tránh rủi ro mất an toàn tài chính và bị lệ thuộc quá nhiều vào một công ty. Điều này thực sự có ý nghĩa khi các công trình xây dựng lắp đặt luôn đứng trước khả năng có thể xảy ra tích tụ rủi ro khi có tổn thất lớn mang tính thảm hoạ như động đất, lũ lụt trên diện rộng, sụt lở đất... Hoặc có thể là những rủi ro của bản thân những công ty bảo hiểm sau những biến động bất lợi trên thị trường thế giới vừa qua, rất nhiều công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm gặp khó khăn và tuyên bố phá sản.s
Trong thanh toán tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt với các công ty tái bảo hiểm nước ngoài hiện nay, Vinare còn gặp hạn chế rủi ro về ngoại hối do tỷ giá VND/USD thường thay đổi. Vì thế, Vinare cần xem xét kỹ lưỡng, sử dụng tỷ giá áp dụng khi thanh toán tái bảo hiểm cho nước ngoài là tỷ giá tại thời điểm thanh toán phí tái bảo hiểm và tỷ giá áp dụng khi đòi bồi thường tái bảo hiểm từ nước ngoài là tỷ giá áp dụng vào thời điểm thanh toán bồi thường bảo hiểm gốc. Tỷ giá áp dụng là tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm hiện hành.
Một vấn đề cấp thiết khác đặt ra với Vinare là phải thiết lập văn phòng đại diện và tiến tới mở chi nhánh ở những thị trường tái bảo hiểm quan trọng. Kinh nghiệm thành công của Công ty tái bảo hiểm quốc gia Hàn Quốc Korea Re – công ty tái bảo hiểm đứng thứ 37 trong thị trường tái bảo hiểm theo xếp hạng của S-P cho thấy để mở rộng hoạt động nhận tái cần phải mở rộng các chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở nhiều nước. Trước mắt, Vinare nên thành lập văn phòng tại các nước trong khu vực, thiết lập mối quan hệ và đặt đại diện ở Singapore hoặc Malaysia- những quốc gia có thị trường bảo hiểm tương đối phát triển. Thành lập chi nhánh sẽ có nhiều tác dụng đến hoạt động kinh doanh của công ty, cụ thể là kinh doanh tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt như: nghiên cứu công tác tái bảo hiểm của các nước trong khu vực, Vinare từ đó thu được các thông tin cần thiết cho hoạt động tái bảo hiểm.
Ngoài ra, đối với hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt, trong những năm tiếp theo, Vinare cần cố gắng nâng cao khả năng đàm phán tái tục hợp đồng tái bảo hiểm cố định bằng cách tìm hiểu thật kỹ đối tác, chuẩn bị đầy đủ thông tin liên quan đến việc tái tục hợp đồng để đưa ra những khả năng xảy ra trong đàm phán và phương án xử lý. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực nhượng tái của mình, Vinare cần chào tái bảo hiểm cho nhiều công ty nhận tái bảo hiểm khác trên thị trường trong nước cũng như quốc tế để lựa chọn được phương án tái bảo hiểm tốt nhất và công ty nhận tái bảo hiểm thích hợp.
8. Nâng cấp hệ thống thông tin.
Công nghệ thông tin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế ngày nay. Đặc biệt, do tính chất của bảo hiểm là một hoạt động mang tính toàn cầu nó càng tỏ ra quan trọng. Sự xuất hiện của máy tính điện tử kết nối toàn cầu, khu vực, trong nước, nội bộ doanh nghiệp đã góp phần rất lớn vào việc giảm nhẹ sức lao động trong ngành bảo hiểm, tiết kiệm chi phí từ đó tăng lợi nhuận. Hiện nay, hầu hết các công ty bảo hiểm đều đã được vi tính hoá, từ khâu tính phí đến quản lý khách hàng, tính toán tổn thất và mức bồi thường.
Tại Vinare, máy tính đã tỏ rõ hiệu quả của nó trong hoạt động kinh doanh nói chung và nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt nói riêng. Tuy nhiên, để có thể theo kịp được sự thay đổi như vũ bão của khoa học kỹ thuật Vinare cần chú ý một số vấn đề sau:
- Đầu tư mới hệ thống máy vi tính: thay thế các máy tính cũ, lạc hậu bằng các máy tính mới, hiện đại đảm bảo cho việc liên lạc qua mạng, cập nhật thông tin nhanh chóng.
- Cần tuyển dụng, đào tạo thêm cán bộ tin học đồng thời với việc nâng cao kiến thức vi tính cho cán bộ nhân viên.
Kết luận
Tóm lại, qua ba chương ở trên, chuyên đề đã cố gắng nêu lên những nét cơ bản về tình hình thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam: những thành tựu và đóng góp vào sự phát triển chung của thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng như những bất cập khó khăn cần khắc phục. Trên cơ sở đó, chuyên đề thực tập tốt nghiệp đưa ra một số kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm tăng tính hiệu quả hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt nói riêng tại Vinare trong thời gian tới.
Do sự hạn chế về thời gian cũng như trình độ, chuyên đề chắc chắn không tránh được thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ nghiệp vụ tái bảo hiểm và các bạn quan tâm đến đề tài này.
Một lần nữa, em xin cảm ơn cô giáo, thạc sỹ Nguyễn Thị Chính- giảng viên Bộ môn Bảo hiểm, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội và các cán bộ nghiệp vụ Phòng Tái Bảo Hiểm Xây dựng Lắp đặt đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế bảo hiểm
Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm
Tạp chí Bảo hiểm- Tái bảo hiểm Việt Nam
Số 1/2003
Số 3/2003
Số 1/2004
Số 3/2004
Số 1/2005
Tài liệu về tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt của Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam.
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm xây dựng lắp đặt
và Tái bảo hiểm Xây dựng lắp đặt 2
Khái quát về bảo hiểm xây dựng lắp đặt 2
Sự cần thiết của bảo hiểm xây dựng lắp đặt 2
Đặc điểm của Bảo hiểm xaat dựng lắp đặt 5
Nội dung của Bảo hiển xây dựng lắp đặt 6
Những nội dung cơ bản của Tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt 11
Tổng quan về Tái bảo hiểm 11
Sự cần thiết và tác dụng của Tái bảo hiểm 11
Các hình thức Tái bảo hiểm 14
Phương pháp Tái bảo hiểm 18
Hoạt động Tái bảo hiểm 28
2. Hoạt động tái bảo hiểm và Bảo hiểm xây dựng lắp đặt 33
Chương II: Tình hình thực hiện nghiệp vụ Tái bảo hiểm xây
và lắp đặt tại Việt Nam 35 I. Vài nét về công ty Tái Bảo Hiểm Quốc Gia Viẹt Nam 35
Sự ra đời và phát triển của Vinare 35
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Tổng công ty Cổ phần Tái
Bảo hiểm Quốc Gia Việt Nam 36
Chức năng, nhiệm vụ 36
Kết quả hoạt động của Vinare qua mười năm hoạt động 40
II. Thị trường Bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở Việt Nam 41
III. Tình hình thực hiện 44
Nhận tái Bảo Hiểm 44
Công tác kiểm soát tổn thất 54
Giải quyết khiếu nại 56
Nhượng Tái bảo hiểm 58
Kết quả kinh doanh hoạt động Tái bảo hiểm xây dựng
lắp đặt 63
IV. Đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ Tái bảo hiểm xây
dựng lắp đặt tại Tổng công ty 66
1. Những thuận lợi 66
Những khó khăn 69
Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
nghiệp vụ Tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt 76
I. Xu hướng phát triển thị trường Tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt
tại Việt Nam 76
II. Phương hướng phát triển nghiệp vụ kinh doanh Tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Vinare 78
III. Kiến nghị 79
1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách 79
2. Đổi mới phương thức quản lý 80
3. Thực hiện nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế 80
4. Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam 81
5. Tăng cường vốn cho Vinare 83
IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Vinare 84
1. Tiến hành nghiên cứu thị trường, đưa ra chiến lược khai thác
có hiệu quả 84
Điều chỉnh tỷ lệ hoa hồng 85
Xác định mức giữ lại hợp lý 92
Chú trọng chính sách giữ khách hàng.................................
Tuyển dụng, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn giỏi 89
Xây dựng hệ thống môi giới 90
Tăng cường quan hệ hợp tác với thị trường Tái bảo hiểm xây
dựng lắp đặt quốc tế 91
8. Nâng cấp hệ thống thông tin 93
Kết luận 94
Tài liệu tham khảo 95
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0067.doc