Chuyên đề Tổng quan về ngân hàng thương mại

Hiện nay, ở nước ta, chưa có cơ quan quản lý dịch vụ tài chính một cách độc lập, Ngân hàng Nhà nước vẫn phải làm công việc này. Trước mắt, Ngân hàng Nhà nước nên có một bộ phận chuyên trách thông tin để chủ động cung cấp những nguồn tin chính thức và trung thực cho công chúng. Việc giám sát cũng còn nhiều hạn chế, mặt khác, pháp luật về ngân hàng của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện, do vậy, sự tự giác, tự giám sát của bản thân các ngân hàng càng trở nên quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Nâng cao khả năng quản trị và trình độ công nghệ ngân hàng: Khả năng quản trị và mức độ hiện đại hóa công nghệ là một nhân tố quan trọng. Tuy nhiên, nếu các ngân hàng trong nước không nâng cao được khả năng quản trị và hiện đại hóa công nghệ thì những ưu thế có được sẽ dần mất đi. Và sẽ càng khó khăn hơn cho các ngân hàng trong nước khi các ngân hàng nước ngoài (như HSBC hay Standad Chatered Bank) đã bắt đầu được Chính phủ nước ta cấp phép mở chi nhánh tại Việt Nam, nếu như những hạn chế này không được cải thiện. Nâng cao chất lượng dịch vụ là yếu tố quan trọng đối với bất cứ một lĩnh vực kinh doanh nào, và ngành ngân hàng không phải ngoại lệ.

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tổng quan về ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu nối giữa những người có vốn dư thừa và những người có nhu cầu về vốn. Ký thác, gửi tiền Cấp tín dụng Người cho vay (Tổ chức, cá nhân) Người đi vay (Tổ chức, cá nhân) NHTM Sơ đồ thể hiện chức năng trung gian tài chính của NHTM Từ “trung gian” ở đây có thể hiểu theo hai ý nghĩa: Trung gian giữa các khách hàng với nhau. Trung gian giữa ngân hàng Trung ương và công chúng: Ngân hàng Trung ương hay ở Việt Nam thường gọi là ngân hàng Nhà nước không có giao dịch trực tiếp với công chúng mà chỉ giao dịch với các NHTM, trong khi các NHTM vừa giao dịch với ngân hàng Trung ương lại vừa giao dịch với công chúng. Với chức năng trung gian tài chính, NHTM thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau: Huy động các nguồn từ các chủ thể tiết kiệm có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế: nhận tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền tệ, tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức và cá nhân, phát hành kỳ phiếu ngân hàng để huy động vốn trong xã hội… Cấp tín dụng đầu tư đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể trong nền kinh tế xã hội. Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế cá nhân. Chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá. Cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp và các hình thức cấp tín dụng khác. Chức năng trung gian tín dụng của NHTM góp phần tạo lợi ích cho các chủ thể tham gia kinh tế và lợi ích chung của nền kinh tế. Đối với người gửi tiền: thông qua cơ chế huy động vốn của ngân hàng đã tập hợp các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi và tạo ra thu nhập cho những người gửi tiền dưới hình thức lãi tiền gửi. Đồng thời ngân hàng cũng đảm bảo an toàn cho các khoản tiền gửi và cung cấp cho khách hàng những dịch vụ thanh toán tiện lợi. Đối với người vay: Tiết kiệm được chi phí, thời gian, sức lực cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi chắc chắn và hợp pháp, họ sẽ thoả mãn được nhu cầu về vốn. Đối với bản thân ngân hàng: Ngân hàng sẽ được khoản lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Đối với nền kinh tế: cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp, khuyến khích sản xuất, tạo việc làm, đồng thời giảm nhập khẩu hàng hoá. Điều tiết vốn trong khu vực dân cư, khuyến khích nhu cầu tiêu dùng hàng hoá Ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Chức năng trung gian thanh toán: NH thực hiện chức năng trung gian thanh toán làm cho nó trở thành thủ quỹ cho khách hàng. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu, chi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng làm cho ngân hàng thực hiện được vai trò trung gian thanh toán. Chức năng trung gian thanh toán được thể hiện qua biểu đồ sau: Cung ứng hàng hoá, dịch vụ lệnh chi NHTM Người trả tiền (Tổ chức, cá nhân) Người thụ hưởng (Tổ chức, cá nhân) Báo nợ Báo có Trong chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể: Mở tài khoản tiền gửi giao dịch cho khách hàng: NHTM có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu mở tài khoản giao dịch cho khách hàng khi họ yêu cầu (theo quy định về việc mở và sử dụng tài khoản giao dịch tại ngân hang). Quản lý và cung cấp các phương tiện thanh toán cho khách hàng (thanh toán không dùng tiền mặt, nó được thực hiện qua phản ánh trên sổ sách ngân hàng). Thanh toán qua ngân hàng là thanh toán bằng chuyển khoản tức là bằng cách ghi Nợ, ghi Có vào các tài khoản liên quan, chứng từ do chính ngân hàng cung cấp và kiểm soát, đảm bảo quá trình thanh toán được tiến hành nhanh chóng, an toàn và chính xác, quyền lợi của khách hàng sẽ được đảm bảo. NHTM cung cấp nhiều loại phương tiện thanh toán khác nhau cho khách hàng như: séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, thư tín dụng, các loại thẻ,… Cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Tổ chức và kiểm soát quy trình thanh toán giữa các khách hàng. Chức năng trung gian thanh toán cho phép làm giảm bớt chi phí và lượng tiền mặt lưu hành, tăng khối lượng thanh toán bằng chuyển khoản. Thanh toán không dùng tiền mặt cho phép khách hàng thực hiện thanh toán nhanh chóng và hiệu quả, góp phần tăng tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sinh sản xuất xã hội. Việc cung ứng các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho ngân hàng thu hút khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng và do đó tạo điều kiện để thu hút nguồn vốn tiền gửi. Chức năng tạo phương tiện thanh toán: Các ngân hàng thương mại hiện nay đang có lợi thế lớn về tiền gởi thanh toán do nắm giữ phần lớn quan hệ tín dụng và chi phối cả quan hệ thanh toán với doanh nghiệp mở tài khoản. Đây là nguồn vốn có chi phí thấp, góp phần tạo ra nguồn thu lớn về dịch vụ.Từ năm 2000, khi xu thế mở cửa thực sự ảnh hưởng mạnh đến các doanh nghiệp Việt Nam, hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh, kéo theo sự phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại.Doanh số hoạt động này có mức tăng trưởng đều đặn. Tuy nhiên, doanh số hoạt động trong lĩnh vực này phụ thuộc nhiều vào sự biến động về tỷ giá ngoại tệ, về những ảnh hưởng kinh tế, chính trị mang tính khu vực và quốc tế. Với tác động của quá trình toàn cầu hóa, việc mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài, cân đối nguồn ngoại tệ trong thanh toán luôn được chú trọng để đáp ứng cho nhu cầu ngày càng tăng trong hoạt động thanh toán quốc tế. Trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, các ngân hàng không chỉ phục vụ nhà nhập khẩu( ngân hàng mở thư tín dụng) dựa theo yêu cầu của nhà nhập khẩu(người đề nghị mở thư tín dụng) tiến hành mở một thư tín dụng (Letter of Credit- L/C) mà còn đứng ra trả tiền có điều kiện cho nhà sản xuất, Phương thức tín dụng chứng từ ngày càng được sử dụng rộng rãi và phổ biến hơn trong thanh toán quốc tế. Vai trò của Ngân hàng thuơng mại: 2.1 Đối với nước ta: Kể từ khi hình thành nên hệ thống Ngân hàng hai cấp: Ngân hàng trung ương và Ngân hàng thương mại, trong đó các Ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động kinh doanh về tiền tệ và ngày càng được mở rộng cả về số lượng cũng như chất lượng đã đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu vốn và dịch vụ Ngân hàng cho nền kinh tế. Bên cạnh đó ngành Ngân hàng TM còn có đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước thông qua việc thực hiện nghĩa vụ thuế và lợi nhuận cho ngân sách Nhà nước mỗi năm hàng tỷ đồng, bằng nguồn quỹ phúc lợi và sự đóng góp của cán bộ, công nhân viên, ngành Ngân hàng còn tham gia đóng góp nhiều hoạt động xã hội khác như: xóa đói giảm nghèo, ủng hộ quỹ từ thiện, khắc phục hậu quả thiên tai... Đối với nền kinh tế chung của thế giới: Cũng như đối với nước ta, nếu như xem thế giới là một đất nước thì NHTM là nhân tố, là động lực phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Nó giúp cho việc thanh toán xuyên quốc gia diễn ra dễ dàng và nhanh chóng. Bên canh đó, với những điều khoản cũng như quy định do NHTM đặt ra cho thị trường phái sinh này mà các nhà xuất khẩu và nhập khẩu đảm bảo được quyền lợi, quyền hạn và trách nhiệm mỗi bên để không bên nào phải chịu thiệt. cũng chính nhờ có thị trường phái sinh này mà nền kinh tế chung của thế giới như có một ban tay vô hình tác động vào, điều hòa luồng tiền lưu thông, ổn định tỷ giá hối đoái, bổ trợ co nền kinh tế phát triển. Hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế của hệ thống Ngân hàng cũng không ngừng phát triển, giúp khai thác được nguồn vốn đáng kể từ nước ngoài cho phát triển đất nước. Đến nay quan hệ song phương về hợp tác Ngân hàng giữa Việt nam với các nước đã không ngừng phát triển và mở rộng. CHƯƠNG II: Phân loại hệ thống Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Phân loại NHTM Căn cứ theo hình thức sở hữu: Các Ngân hàng thương mại được phân thành: - Ngân hàng sở hữu tư nhân: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn của một cá nhân. Đây là các ngân hàng nhỏ, thường chỉ hoạt động trong phạm vi một địa phương với đối tượng phục vụ chủ yếu là những người trong địa phương. - Ngân hàng sở hữu của các cổ đông: Là ngân hàng được hình thành từ nguồn vốn thông qua tập trung phát hành cổ phiếu. Những người nắm giữ cổ phiếu này chính là những người chủ của ngân hàng. Họ có quyền tham gia vào các hoạt động của ngân hàng và được chia lãi cổ tức. Do huy động từ nhiều người nên các ngân hàng này có vốn chủ sở hữu lớn, có các hình thức kinh doanh đa dạng. - Ngân hàng sở hữu nhà nước: Là loại hình ngân hàng có vốn chủ sở hữu thuộc về Nhà nước. Đây là loại hình ngân hàng có thể nói là an toàn nhất, rất ít khi bị phá sản. Tuy nhiên, các ngân hàng này nhiều khi phải thực hiện những nhiệm vụ nhà nước giao, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Ngân hàng liên doanh: Là Ngân hàng được thành lập bằng vốn liên doanh giữa một bên là ngân hàng thương mại Việt nam và bên khác là ngân hàng thương mại nước ngoài có trụ sở đặt tại Việt nam, hoạt động theo pháp luật ở Việt nam. Căn cứ theo cơ cấu tổ chức Ngân hàng sở hữu công ty và công ty sỡ hữu ngân hàng: Sự phân chia này là do pháp luật ở nhiều nước cấm không cho ngân hàng trực tiếp tham gia vào một số hoạt động kinh doanh như: buôn bán chứng khoán, bất động sản... nên các ngân hàng tổ chức ra các công ty riêng, có tư cách pháp nhân để kinh doanh. - Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Do ngân hàng nước ngoài thành lập, được đặt trụ sở trong nước, hoạt động theo luật pháp trong nước. vốn điều lệ được ngân hàng chính quốc cung ứng theo mức vốn quy định của ngân hàng trung ương nước sở tại quy định. Căn cứ theo tính chất hoạt động - Ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng đa năng: Ngân hàng chuyên doanh là ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên doanh, thường chỉ cung cấp một số dịch vụ ngân hàng nhất định. Ngân hàng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng. Đây là xu hướng chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại. - Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ: Ngân hàng bán buôn là loại hình ngân hàng mà hoạt động của nó chủ yếu thực hiện đối với các khách hàng lớn. Số lượng các giao dịch của ngân hàng bán buôn nhỏ song về giá trị một dịch vụ lại lớn. Ngân hàng bán lẻ là loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của nó thực hiện đối với các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân. Số lượng các giao dịch của ngân hàng bán lẻ lớn song giá trị một giao dịch thường nhỏ. Hệ thống NHTM ở Việt Nam Trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung: NHTM là một sản phẩm độc đáo của nền kinh tế sản xuất hàng hóa trong kinh tế thị trường,nó là một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế. Bản chất, chức năng, các hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng hầu như gán liền với nền kinh tế của đất nước, song quan niệm về ngân hàng thời kì kế hoạch hóa tập trung ở nước ta lại có phàn chậm phát triển hơn một số nước phát triển khác. Do quan niệm còn hạn chế của cơ chế lãnh đạo cũ nên trước đổi mới( Đại hội Đảng lần 6-1986) nên ở Việt Nam chỉ tồn tại một ngân hàng duy nhất đó là Ngân hàng dự trữ. Ngân hàng dự trữ này được xem là nền tảng của những cải cách, quá trình xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. NHTM lúc này hầu như là chưa được phép thành lập và hoạt động nhưng để phát triển và hội nhập thì điều quan trọng là phải “đổi mới” và đại hội Đảng lần 6 đã nắm bắt được xu thế. Từ đó, NHTM bắt đầu phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động hội nhập thế giới, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước. Trong nền kinh tế thị trường: Hiện nay, ở Việt Nam có các loại hình ngân hàng sau: - Ngân hàng thương mại quốc doanh: Các ngân hàng này được nhà nước cấp vốn và hoạt động chịu sự quản lý của nhà nước. Ngoài việc tiến hành kinh doanh bình thường: huy động vốn, cho vay và các dịch vụ khác, ngân hàng còn phải thực hiện các nhiệm vụ nhà nước giao cho. - Ngân hàng thương mại cổ phần: Đây là các ngân hàng được thành lập và hoạt động theo luật công ty cổ phần. Sở hữu ngân hàng là các cổ đông, họ cùng nhau góp vốn để hình thành và hoạt động theo quy định của pháp luật như: Ngân hàng TMCP Kiên Long, Ngân hàng TMCP Kỹ thương Viêt Nam, … - Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Vốn điều lệ là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài, có trụ sở chính tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. (IndoVina Bank) . - Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Là một bộ phận của ngân hàng nước ngoài (ngân hàng nguyên xứ) hoạt động tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. (HSBC, Citibank). - Ngân hàng đầu tư: Ngân hàng đầu tư hoạt động với mục tiêu đầu tư trung và dài hạn, cũng vì sự phát triển nhưng thông qua hình thức đầu tư gián tiếp thông qua các giấy tờ có giá. - Ngân hàng phát triển: Ngân hàng phát triển có nét đặc trưng nổi bật là những ngân hàng này tập trung vốn huy động trung, dài hạn và đầu tư trung, dài hạn vì sự phát triển. Hoạt động đầu tư của loại ngân hàng này chủ yếu đầu tư trực tiếp qua các dự án. -Ngân hàng hợp tác: Ngân hàng hợp tác hay gọi rộng ra là những tổ chức tín dụng hợp tác, là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được các thành viên tự nguyện lập lên không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu tương trợ lẫn nhau về vốn và dịch vụ ngân hàng. Sự khác nhau giữa NHTM và các định chế tài chính khác Định chế tài chính Phi Ngân hàng là loại hình tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ, được thực hiện một số hoạt động Ngân hàng như là hoạt động kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gửi không kì hạn và không làm dịch vụ thanh toán. Các tổ chức tài chính phi Ngân hàng bao gồm: Công ty Bảo hiểm, Công ty Tài chính, Quỹ đầu tư, các định chế tài chính phi Ngân hàng khác (Quỹ cho vay của chính phủ, các công ty chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán…) Các Tổ chức tài chính phi Ngân hàng có một số đặc điểm chung như: Huy động có kỳ hạn để đưa vào lĩnh vực đầu tư .Cung cấp một số loại hình dịch vụ ngân hàng như nhận đại lý, môi giới, ủy thác… và mỗi loại hình còn có chức năng đặc biệt tùy theo mục tiêu hoạt động Không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và không làm dịch vụ thanh toán cho khách hàng nên không tham gia vào quá trình tạo tiền và do đó không bị chi phối, điều hành, kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng Trung ương. Vậy: nếu như các khoản đầu tư của Ngân hàng thương mại chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thương mại và công nghiệp thì các tổ chức tài chính phi ngân hàng lại tập trung chủ yếu vào lĩnh vực chứng khoán, cho vay tiêu dùng và thế chấp Ngân hàng hợp tác - Đa sở hữu, hợp tác góp vốn của thành viên. - Huy động vốn ngắn hạn, TDH. - Cho vay ngắn hạn, TDH. - Vừa lợi nhuận, vừa hợp tác hỗ trợ. - Tuân thủ luật các tổ chức tín dụng và luật hợp tác xã. - Cơ quan quản lý nhà nước, NHNN Việt Nam và hiệp hội quỹ tín dụng nhân dân. NH CSXH - Sở hữu nhà nước, DNNN - Huy động vốn ngắn, TDH, vốn nhà nước cấp - Cho vay ngắn hạn, TDH - Cho vay mang ý nghĩa an sinh xã hội - Hoạt động phi lợi nhuận - Cho vay hộ nghèo, HSSV… NH phát triển - Sở hữu nhà nước, DNNN. - Huy dộng vốn TDH, vốn nhà nước cấp. - Cho vay ngắn hạn phục vụ. chiến lược phát triển kinh tế trọng điểm. - Hoạt động phi lợi nhuận. - Cho vay bảo lãnh hỗ trợ lãi suất. NHTM - Đa sở hữu. - Huy động ngắn, TDH. - Cho vay ngắn hạn là chủ yếu. - Mục tiêu lợi nhuận. Sự khác nhau cơ bản giữa NHTM với NH CSXH, NH hợp tác và NH phát triển: CHƯƠNG III: Nghiệp vụ của NHTM I . Nghiệp vụ của NHTM Trên thế giới, nghiệp vụ ngân hàng được hiểu theo nghĩa rộng, tức là toàn bộ các hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối… Mà ngân hàng cung cấp cho doanh nghiệp và công chúng Điều 7 chương 1 luật các tổ chức tín dụng: “hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Như vậy có sự phân biệt giữa hoạt động kinh doanh tiền tệ và ngân hàng. Nhưng nghiệp vụ của ngân hàng thương mại theo tổng quan thì có các nghiệp vụ chính sau: 1. Nghiệp vụ truyền thống: Có thể nói NHTM từ xưa đến nay có hai nghiệp vụ truyền thống mà nó gắn liền với quá trình tồn tại và phát triển của chính bản thân nó đó là: nghiệp vụ huy động vốn và cho vay. 1.1 Nghiệp vụ huy động vốn: Cho vay là một hoạt động sinh lời cao, vì vậy ngân hàng tìm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay cùng với mức lãi suất hấp dẫn để thu hút các nguồn vốn này. Nó bao gồm: 1.1.1 Vốn chủ sở hữu: Ngân hàng chia vốn chủ sỡ hữu thành các loại: 1.1.1.1. Vốn điều lệ: Là nguồn vốn ban đầu khi thành lập NHTM và được ghi vào điều lệ NH. 1.1.1.2. Các quỹ của NH: NTHM cũng như các đơn vị khác là phải thành lập các quỹ để phục vụ cho quá trình hoạt động của mình.như:quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ,quỹ phát triển, quỹ dự phòng và quỹ khen thưởng phúc lợi. 1.1.2. Vốn huy động: Ngân hàng chia ra thành hai nhóm chính: - Nhóm 1: Bao gồm tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân tổ chức tín dụng khác - Nhóm 2: Vốn định kỳ, gồm tiền gửi định kỳ, tiền gửi tiết kiệm của cá nhân, tổ chức, tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu… 1.1.3. Vốn đi vay: Đối với ngân hàng vừa và nhỏ, tình trạng thiếu vốn kinh doanh diễn ra thường xuyên, cần phải bổ sung nguồn vốn bằng cách đi vay những ngân hàng khác. Nguồn vốn đi vay gồm hai loại: - Vay ngân hàng trung ương dưới hình thức chiết khấu và tái chiết khấu. - Vay các ngân hàng thương mại khác: cho vay lẫn thông qua thị trường liên ngân hàng. 1.1.4. Vốn tiếp nhận: Vốn tiếp nhận là hình thức vốn tiếp nhận từ các nhà tài trợ của chính phủ, tổ chức tài chính hoặc tư nhân để tài trợ dự án chương trình phát triển kinh tế xã hội. Ngân hàng được chỉ định tiếp nhận nguồn vốn này và thuwch hiệ dịch vụ trung gian tài chính theo yêu cầu của nhà tài trợ. 1.1.5. Vốn khác: Vốn phát sinh trong quá trình hoạt đọng không thuộc các nguồn nói trên như vốn phát sinh trong quá trình làm đại lý chuyển tiền, thanh toán, công nợ chưa đến hạn phải trả. 1.2 Nghiệp vụ tín dụng: Đây là nghiệp vụ hàng đầu của ngân hàng thương mại qua hợp đồng tín dụng trong một thời gian nhất định có lãi suất và hoàn trả vốn. - Các nguyên tắc để giảm rủi ro: Ÿ Hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi. Ÿ Sử dụng vốn tín dụng đúng mục đích cam kết và có hiệu quả. Ÿ Tiền vay được bảo đảm bằng tài sản. Ÿ Cho vay trực tiếp 1.2.1 Cho vay trực tiếp: Căn cứ thời hạn cho vay chia ra làm 3 loại: Cho vay ngắn hạn: 1 ngày – 5 năm Chủ yếu đáp ứng vốn kinh doanh luân chuyển trong nền kinh tế. - Căn cứ vào tính chất bảo đảm khoản vay chia ra làm 2 loại: Ÿ Cho vay có bảo đảm: đối với các nhà đầu tư chưa quen biết, có thể bằng thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh của bên thứ 3. Đây là số tài sản để xử lý nợ nếu người vay không trả đúng hạn hay không có khả năng chi trả. Ÿ Cho vay bằng tín chấp: Không cần phải có bảo đảm, thông thường là khách hàng truyền thống, có tình hình tài chính tốt. - Căn cứ vào tính chất sử dụng vốn: Ÿ Cho vay để sản xuất kinh doanh Ÿ Cho vay tiêu dùng (trả góp, thanh toán thẻ, xây dụng nhà cửa…) Ÿ Cho vay trung hạn: 1 năm – 5 năm Ÿ Cho vay dài hạn: trên 5 năm Ngân hàng cho vay Khách hàng vay vốn công ty xí nghiệp tổ chức kinh tế cá nhân Cho vay vốn có thời hạn Hoàn trả gốc + lãi khi đến hạn Thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, tín chấp Mô hình cho vay trực tiếp 1.2.2 Cho vay gián tiếp: 1.2.2.1 Chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá: Ngân hàng mua các chứng từ có giá này khi chưa đến hạn thanh toán gọi là chiết khấu 1.2.2.2 Nghiệp vụ bao thanh toán: NHTM thông qua công ty con của mình sẽ đứng ta mua nợ trên cơ sở các hóa đơn và chứng từ của người bán hàng. Thực ra nghiệp vụ bao thanh toán giông như chiết khấu nhưng số tiền khấu trừ thường cao hơn nhiều so với chiết khấu. 1.2.2.3 Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Đây là dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện. trong đó ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác. Ngân hàng sẽ thu một khoản phí cho việc trao đổi này. 1.2.2.4 Tài trợ các hoạt động của chính phủ: Các ngân hàng được thành lập với điều kiện là: họ phải mua trái phiếu của chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi mà ngân hàng huy động được. 2. Nghiệp vụ hiện đại của ngân hàng thương mại: Cho thuê tài chính (CTTC): CTTC là loại hình tài trợ dưới hình thức cho thuê máy móc thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và được thực hiện thông qua công ty con của NHTM (Công ty cho thuê tài chính). Thông thường thời hạn cho thuê khoản 2/3 thời gian khấu hao tài sản đó; người thuê sử dụng đúng mục đích và thanh toán lại cho công ty đúng hạn theo hợp đồng cho thuê tài chính. 2.2 Bảo lãnh ngân hàng: Bảo lãnh ngân hàng là hình thức ngân hàng bảo lãnh bằng chữ ký và người bảo lãnh có thể ký kết các hợp đồng kinh tế một cách thuận lợi. Thông thường các chứng thư bảo lãnh có uy tín rất cao không những sử dụng trong nước mà còn sử dụng trên phạm vi quốc tế. 2.3 Nghiệp vụ đầu tư: Nghiệp vụ đầu tư là hình thức bỏ vốn kinh doanh nhằm thực hiện và thu được một kết quả sản xuất kinh doanh nhất định. Bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính. 2.3.1 Đầu tư trực tiếp: Bao gồm các hoạt động: - Hùn vốn liên doanh trong và ngoài nước. - Mua cổ phần các công ty, các đơn vị kinh tế. - Mua cổ phần của các ngân hàng cổ phần. - Cấp vốn cho công ty con (công ty cho thuê tài chính, công ty chứng khoán, công ty mua bán nợ, công ty đàu tư, công ty bảo hiểm…) 2.3.2 Đầu tư tài chính: (Đầu tư chứng khoán) Đây là hình thức đầu tư linh hoạt, người đầu tư dể thay đổi danh mục đầu tư của mình theo hướng có lợi. Thông thường các NHTM chỉ đầu tư vào các cổ phiếu có tính thanh khoản cao, đầu tư này tạo ra các khoản dự trữ thứ cấp cho ngân hàng. Có thể đầu tư: trái phiếu chính phủ, trái phiếu ngân hàng TW hoặc đầu tư vào trái phiếu công ty. 2.4. Nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ qua ngân hàng 2.4.1 Dịch vụ ngân quỹ: Đây là dịch vụ chiếm ưu thế của các ngân hàng các công việc kiểm đếm, phân loại, bảo quản, thu, phát tiền mặt. (cung cấp dịch vụ hưu trí: đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghĩ hưu…) 2.4.2 Chuyển tiền: Ngân hàng nhận chuyển tiền từ địa phương này sang địa phương khác trong nước. hay từ nước này sang nước khác theo yêu cầu của người chuyển tiền. 2.4.3 Dịch vụ thanh toán: Hầu hết các nghiệp vụ thanh toán đều được thực hiện qua hệ thống ngân hàng, có thể phân thành 2 nhóm: Dịch vụ thanh toán quốc nội (thanh toán bằng séc, nhờ thu, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng,…) Dịch vụ thanh toán quốc tế (Tín dụng thư, nhờ thu, chuyển tiền, thẻ tín dụng quốc tế,…) 2.4.4 Dịch vụ thu hộ: NHTM sẽ đứng ra thu hộ cho khách hàng trên cơ sỏ các chứng từ mà khách hàng nộp vào. Thu hộ lợi tức cổ phần (Cổ tức) Thu hộ lợi tức trái phiếu Thu hộ hối phiếu đến hạn 2.4.5 Mua – bán hộ: Mua bán hộ ngoại tệ, kim khí quý, đá quý. Mua bán hộ các tài sản quý, vật báu, cổ vật. 2.4.6 Dịch vụ ủy thác: Bảo quản tài sản cho các cá nhân (Cô nhi, quả phụ). Bảo quản các chứng thư quan trọng (Di chúc, giấy tờ nhà, đất…) 2.4.7 Bảo quản tài sản quý giá Bảo quản chứng khoán của khách hàng Kiểm kê, đánh giá tài sản của công ty phá sản. Nhận bảo quản hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. 2.5 Các dịch vụ khác: Dịch vụ tư vấn tài chính, đầu tư phát triển, thẩm định dự án, cung cấp thông tin. Các dịch vụ kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế Dịch vụ nhận và ghi kiều hối, thu đổi ngoại tệ phi mậu dịch. Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, ngân hàng đã tạo lập và cung cấp nhiều dịch vụ mang lại tiện ích cho khách hàng, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. 3. Nghiệp vụ tương lai của NHTM: Nhưng tất cả các nghiệp vụ này còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó số lượng các ngân hàng không ngừng tăng lên kể cả ngân hàng trong nước và chi nhánh của ngân hàng nước ngoài, thách thức đặt ra cho các ngân hàng hiện nay về sức cạnh tranh này càng cao. Do đó trong tương lai chúng ta cần có các nghiệp vụ mới để phù hợp với xu thế “ cuộc đua giữa các ngân hàng”. Các ngân hàng nước ngoài có nhiều lợi thế hơn các ngân hàng Việt Nam về vốn, công nghệ, trình độ quản lý và đặc biệt là cung ứng những sản phẩm dịch vụ ngân hàng quốc tế hoàn hảo. do đó, khi mở chi nhánh tại Việt Nam, các ngân hàng nước ngoài sẽ phát huy những thế mạnh vốn có của mình. Trong khi đó, mảng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế (NHQT) của các NHTM Việt Nam (ngoại trừ một số ngân hàng như: VCB, ACB, BIDV, Techcombank…thì hầu hết chưa được chú trọng phát triển. ngoài ra, các ngân hàng nước ngoài sẽ đưa ra các sản phẩm dịch vụ nội địa đi kèm mang tính cạnh tranh cao, dựa vào đó thu hút thêm nhiều khách hàng lớn, mở rộng thị phần kinh doanh, tăng lợi nhuận. từ thực tiễn này, các NHTM Việt Nam phải có chiến lược mới mang tính lâu dài để thích nghi với sự cạnh tranh gay gắt đó. Phân loại nghiệp vụ ngân hàng thương mại: Phân theo đối tượng khách hàng: Khách hàng là doanh nghiệp: - Tiền gửi thanh toán. - Thanh toán không dung tiền mặt cho doanh nghiệp. - Thanh toán quốc tế. - Mua bán ngoại tệ với các doanh nghiệp. - Cho vay đối với các doanh nghiệp. - Bảo lãnh. - Môi giới chứng khoán. - Tư vấn tài chính. 1.2. Khách hàng là cá nhân: - Nhận tiền gửi. - Thẻ thanh toán. - Thanh toán qua ngân hàng. - Cho vay tiêu dùng. - Cho vay xây dựng và sửa chữa nhà. - Cho vay sản xuất kinh doanh. - Cho vay trả góp. - Cho vay kinh tế hộ gia đình. Phân theo tiêu chuẩn kế toán: 2.1. Tài khoản có trong bảng: Các nghiệp vụ này thể hiện trên bảng cân đối tài sản: 2.1.1 Tài sản nợ: - Vốn huy động (tiền gửi tiết kiệm): Là vốn của các chủ thể khác trong nền kinh tế được ngân hang tạm thời quản lý và kinh doanh trong một thời gian nhất định sau đó sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu. - Vốn tiếp nhận: là vốn ủy thác từ Ngân hàng nhà nước cho các chương trình xây dụng cơ bản của nhà nước; Từ các tổ chức tài chính nước ngoài cho các dự án trong nước. NHTM sử dụng nguồn vốn này với tư cách là một tổ chức trung gian, cho vay theo các điều kiện của tổ chức ủy thác đưa ra. Tài sản nợ khác: - Cung cấp dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế. - Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ… 2.1.2 Tài sản có: - Sử dụng vốn( cho vay): Là việc ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả. Với mục đích: điều tiết nguồn vốn cho nền kinh tế, mang lại thu nhập cho ngân hàng. - Nghiệp vụ ngân quỹ: Nghiệp vụ ngân quỹ là nghiệp vụ duy trì khả năng thanh khoản thường xuyên của ngân hàng thương mại bằng cách thiết lập dự trữ: dự trữ bắt buộc theo quy định của khách hàng, dự trữ dưới các hình thức tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác hoặc chứng khoán. - Nghiệp vụ đầu tư: gồm có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. 2.2. Tài sản ngoại bảng: Là các nghiệp vụ không được phản ánh trên bảng cân đối tài sản của ngân hàng thương mại, chủ yếu là các hoạt động dịch vụ và bảo lãnh ngân hàng (Bảo lãnh tài chính, giao dịch các công cụ phát sinh trên thị trường tập trung và phi tập trung, bảo lãnh thương mại, giao dịch ngoại hối). 3. Phân theo nhu cầu khách hàng: 3.1 Khách hàng đầu tư: Ngân hàng thương mại là người cung ứng chủ yếu các khoản vay cho các doanh nghiệp đầu tư. Ngoài ra ngân hàng thương mại thực hiện một khối lượng cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đáng kể so với hộ nông dân, nhà môi giới chứng khoán và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. NHTM rất quan tâm đến các hình thức cho vay vì đây không chỉ là hình thức kinh doanh chủ yếu đem lại nguồn thu nhập giúp ngân hàng có thể bù đắp chi phí huy động vốn và có được một mức lợi nhuận như mong đợi mà còn là hính thức thể hiện rõ nhất chức năng của một định chế tài chính phân biệt rõ nét nhất ngân hàng với những định chế tài chính phi ngân hàng khác. Việc nghiên cứu hoạt động cho vay của một ngân hàng rất quan trọng. Nó giúp chúng ta nhận thức được rõ rang hơn đâu là một đingh chế ngân hàng trong môi trường tồn tại lẫn lộn quá nhiều tổ chức tài chính như hiện nay. 3.2 Khách hàng tiêu dùng: Bên cạnh các khách hàng là những doanh nghiệp đầu tư, ngân hàng còn cho vay đối với các cá nhân và hộ gia đình với tư cách là người tiêu dùng. Trong những thập kỷ gần đây, ngân hàng nổi lên trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng với tư cách là một tổ chức cho vay chủ yếu vì khách hàng cá nhân luôn là những người có nguồn tiền gửi tiết kiệm quan trọng đối với ngân hàng. Ngoài ra những món vay trong lĩnh vực này luôn nằm trong những món vay có lợi tức cao nhất mà ngân hàng có thể có được. với những lý do như trên các ngân hàng lớn với những ưu thế về mạng lưới các chi nhánh rộng khắp của mình đã tăng nhanh thị phần huy động các nguồn vốn của mình thong qua nghiệp vụ cho vay đối với người tiêu dùng mà đặc biệt là thông qua phát hành thẻ tín dụng và cho vay bất động sản. * Đặc điểm của vay tiêu dùng: - Các khoản vay tiêu dùng luôn được đánh giá là đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng do lãi suất cho vay thường cao hơn so với lãi suất ngân hàng phải huy động từ các nguồn khác nhau để thực hiện cho vay. - Các khoản vay tiêu dùng có xu hướng nhạy cảm trước những tác động của chu kỳ kinh tế. - Lãi suất cho vay tiêu dùng thường ít co giãn so với nhu cầu đi vay. - Các nhân tố trình độ học vấn và mức thu nhập đều có ảnh hưởng rõ rệt đến hạn mức vay. CHƯƠNG IV: Một vài nét về thực trạng hoạt động của NHTM tại Việt Nam trong năm qua I.Tác động của các tổ chức tín dụng đến NHTM: Luật các tổ chức tín dụng mới kiểm soát chặt việc góp vốn. Mục tiêu của Luật Các tổ chức tín dụng tổ chức tín dụng mới là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có quan hệ tín dụng với tồ chức tín dụng, bảo vệ sự an toàn của hệ thống ngân hàng, cũng như nền kinh tế. Luật các tổ chức tín dụng mới không chỉ thể hiện sự cải cách hành chính trong hệ thống ngân hàng, khắc phục tồn tại, hạn chế của luật hiện hành, mà còn hướng đến mục tiêu cao hơn là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có quan hệ tín dụng với , bảo vệ sự an toàn của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Sự cải cách thủ tục hành chính thể hiện khá rõ ở việc giảm bớt thủ tục hành chính và tăng quyền tự chủ cho tổ chức tín dụng. Cụ thể, bỏ bớt quy định về chuẩn y những thay đổi về nhân sự, đăng ký điều lệ... Luật các Tổ chức tín dụng quy định, ngân hàng thương mại cổ phần tối thiểu phải có 100 cổ đông, trong đó ít nhất 3 pháp nhân. Cổ đông cá nhân chỉ được nắm giữ tối đa 5%; cổ đông tổ chức được nắm giữ tối đa 15%; cổ đông và những người có liên quan không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của 1 tổ chức tín dụng. Việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của 1 tổ chức (hiện là 20%), cá nhân (hiện là 10%), sẽ hạn chế được tình trạng một nhóm tổ chức, cá nhân có thể thâu tóm 1 Tổ chức tín dụng, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của công chúng gửi tiền, gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng. “Luật các tổ chức tín dụng mới quy định cụ thể 6 nhóm tổ chức, cá nhân được coi là có liên quan đến cổ đông và toàn bộ số cổ phần của những tổ chức này đều được coi là của cổ đông và bị khống chế tối đa 20% vốn điều lệ của 1 tổ chức tín dụng, nên sẽ tránh được tình trạng tư nhân hoá ngân hàng cổ phần”. Theo luật tổ chức tín dụng những tổ chức sở hữu trên 15%, cá nhân sở hữu trên 5%, cổ đông và những người có liên quan sở hữu trên 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng sẽ không được tiếp tục mua cổ phần khi tổ chức tín dụng phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Có 23/37 ngân hàng thương mại cổ phần có vốn điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng đã hoàn chỉnh hồ sơ để tăng vốn theo quy định của Nghị định 141/2006/NĐ-CP; trong đó, 7 ngân hàng tăng vốn lên trên 5.000 tỷ đồng, 3 ngân hàng tăng lên trên 4.000 tỷ đồng, 1 ngân hàng tăng trên 3.500 tỷ đồng, số còn lại đều tăng vốn điều lệ lên 3.000 - 3.200 tỷ đồng. Khi các ngân hàng hoàn chỉnh việc tăng vốn theo yêu cầu, tỷ lệ sở hữu của tổ chức, cá nhân vượt quá quy định sẽ giảm xuống.Bên cạnh đó là quy định về dự trữ và đảm bảo an toàn: từ 0% tới 20% trên tổng số dư tiền gửi của NHTM. Các quy định về cho vay: tổng dư nợ đối với một khách hàng không quá 15% vốn tự có của NH. II. Những thuận lợi và khó khăn: 1. Thuận lợi: Ÿ Ngân hàng thương mại có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp.  Ÿ Am hiểu về thị trường trong nước.  Ÿ Đội ngũ khách hàng của ngân hàng thương mại Việt Nam khá đông đảo.  Ÿ Chiếm thị phần lớn về hoạt động tín dụng, huy động vốn và dịch vụ.  Ÿ Đội ngũ nhân viên tận tụy, ham học hỏi và có khả năng tiếp cận nhanh các kiến thức, kỹ thuật hiện đại.  Ÿ Có được sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt từ phía ngân hảng Trung ương.  Ÿ Môi trường pháp lý thuận lợi.  Ÿ Hầu hết các ngân hàng đều đang thực hiện hiện đại hóa ngân hàng. 2. Khó khăn: Ÿ Năng lực quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của ngân hàng thương mại hiện đại, bộ máy quản lý cồng kềnh, không hiệu quả.  Ÿ Chính sách xây dựng thương hiệu còn kém.  Ÿ Chất lượng nguồn nhân lực kém, chính sách tiền lương chưa thỏa đáng, dễ dẫn đến chảy máu chất xám.  Ÿ Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của phần lớn các ngân hảng thương mại Việt Nam đều thua kém các ngân hàng trong khu vực.  Ÿ Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng và chưa đáp ứng nhu cầu toàn diện của khách hàng.  Ÿ Thiếu sự liên kết giữa các ngân hàng thương mại với nhau.  Ÿ Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là tín dụng, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro.  Ÿ Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ nhất quán.   Ÿ Quy mô vốn hoạt động còn nhỏ nên chưa thực hiện được mục tiêu kinh doanh một cách hoàn chỉnh.  Ÿ Việc thực hiện chương trình hiện đại hóa của các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa đồng đều nên sự phối kết hợp trong việc phát triển các sản phẩm dịch vụ chưa thuận lợi, chưa tạo được nhiều tiện ích cho khách hàng như kết nối sử dụng thẻ giữa các ngân hàng.  Ÿ Ngành ngân hàng cũng còn tồn tại một số hạn chế cơ bản cần nhanh chóng khắc phục để có thể đứng vững trước “cơn bão tài chính” ở Mỹ và đang có xu hướng lan rộng ra toàn cầu hiện nay. Ÿ  Công nghệ lỗi thời: mặc dù gần đây các ngân hàng trong nước đã đẩy mạnh việc hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng, tuy nhiên hiệu quả của những đầu tư không đồng đều. Đặc biệt, tại các ngân hàng thương mại nhà nước, việc đầu tư thường được chú trọng nhiều vào “bề nổi” là các hệ thống thông tin, nhưng lại không tiếp cận được vấn đề cốt lõi là tạo lập cơ sở nguyên tắc nghiệp vụ và quản trị để tận dụng tối đa những tiện ích do các hệ thống công nghệ thông tin mang lại. Ÿ Khả năng quản lý rủi ro còn yếu kém: cho đến thời điểm này, đây là một đặc điểm nổi bật của nhiều ngân hàng Việt Nam. Hệ thống pháp luật về phòng ngừa rủi ro và nghiệp vụ quản trị rủi ro trong ngành tài chính vẫn còn lỏng lẻo và yếu. Nhiều ngân hàng vẫn chưa chú trọng đầy đủ đến vấn đề quản lý rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường. III. Thành tựu đạt được: Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phát triển nhanh cả về quy mô và chất lượng. Ngân hàng Nhà nước có nhiều nỗ lực trong việc điều hành chính sách tiền tệ, ổn định tỷ giá, lãi suất và kiềm chế lạm phát, góp phần làm ổn định kinh tế và tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao. Đặc biệt từ sau khi hội nhập WTO, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã mở rộng rất nhanh và có những đóng góp quan trọng nhất định đối với công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia, chăm lo cho đội ngũ doanh nghiệp, góp phần phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Một trong những thành tựu nổi bật của ngành ngân hàng là đã huy động được hàng nghìn tỉ đồng để đầu tư vào những chương trình kinh tế trọng điểm có ý nghĩa quan trọng của nền kinh tế. Huy động vốn của các NHTM có tăng trưởng khá qua các năm (trừ năm 2008, có giảm sút, do tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) do việc đa dạng hóa sản phẩm huy động và phát triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch. Măc dù có mạng lưới rộng và thương hiệu mạnh, được người dân biết đến, nhưng tốc độ tăng trưởng về huy động vốn của các NHTM CP có sự bứt phá mạnh, thị phần đã tăng lên 31,23% so với 21,3% năm 2006, khiến cho thị phần của các NHTM NN giảm. Hoạt động cho vay cũng có tốc độ  tăng trưởng cao, thậm chí còn tăng nóng trong năm 2007 và năm 2008, một số NHTM CP có tốc độ tăng từ 60% trở lên. Nhưng 6 tháng đầu năm 2010, tăng trưởng tín dụng đạt 10,8%, nhưng đến cuối tháng 7, tốc độ tăng trưởng đã khá hơn, với mức tăng gần 13,0% cho 7 tháng đầu năm 2010. So với tốc độ tăng trưởng kinh tế, thì tốc độ tăng trưởng tín dụng gấp 5 đến 6 lần được cho là tăng trưởng nóng, nhưng nhìn nhận một cách sâu sắc có thể thấy, nếu không có sự tăng trưởng cao của tín dụng trong vài năm qua, thì không có được tốc độ tăng GDP như ngày hôm nay. Sơ đồ 1: Tăng trưởng huy động vốn và tăng trưởng tín dụng ở VN Nguồn: Báo cáo hàng năm của NHNN Nhiều công trình, dự án quan trọng của đất nước được hình thành từ nguồn vốn ngân hàng (như các dự án về dầu khí, công nghiệp đóng tàu, xi măng, sắt thép, thuỷ điện,....). Đặc biệt, ngành ngân hàng đã dành nguồn vốn đáng kể để đầu tư phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển nông nghiệp, nông thôn. Vốn ngân hàng đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông nghiệp, nông thôn trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo việc làm cho hàng triệu lao động. Trong 3 năm trở lại đây, nhiều dịch vụ thanh toán mới đã ra đời, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người sử dụng. Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất được triển khai tích cực, việc kết nối hệ thống ATM, POS thành một hệ thống thống nhất trên toàn quốc đạt kết quả cao. Ba liên minh thẻ Banknet, VNBC và Smartlink đã kết nối liên thông 10 thành viên là các NHTM có số lượng thẻ phát hành chiếm 87% tổng số thẻ phát hành của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và 75% số lượng ATM trên toàn quốc là nền tảng quan trọng cho việc thúc đẩy phát triển. Tính đến cuối tháng 7/2010, đã có trên 24 triệu thẻ với 48 tổ chức phát hành thẻ và hơn 190 thương hiệu thẻ, gần 11.000 ATM phát hành trên phạm vi cả nước và 37.000 thiết bị chấp nhận thẻ POS. Các vụ tiện ích đi kèm ngày càng được đa dạng hóa như thẻ mua xăng dầu, thẻ mua hàng qua mạng, thanh toán tiền điện nước…; việc triển khai thí điểm cung ứng phương tiện thanh toán “ví điện tử” của các tổ chức không phải tổ chức tín dụng cũng có bước phát triển nhanh, trong đó số lượng phát hành đạt gần 84.500 “ví điện tử” của 17 NH tham gia triển khai dịch vụ và được chấp nhận thanh toán tại 119 đơn vị cung ứng hàng hóa dịch vụ. Điều này đã góp phần phát triển mạnh mẽ thanh toán điện tử trong thời gian tới, tạo tói quen thanh toán không dùng tiền mặt cho người dân. Tỷ lệ tiền mặt trong tổng thanh toán có xu hướng giảm, từ 20,3% năm 2004 xuống còn 14,6% năm 2008 và 14,5% năm 2009. Sự phát triển của Hệ thống thanh toán điện tử liên NH có vai trò quan trọng trọng việc nâng cấp cơ sở hạ tầng cho dịch vụ phát triển. Tài khoản cá nhân có mức tăng trưởng hàng năm cao: 150% xét về số tài khoản và 120% xét về số dư. Số lượng các tài khoản cá nhân đã tăng từ 135.000 năm 2000 lên khoảng 5 triệu vào năm 2005, trên 8 triệu vào năm 2007 và 14 triệu vào cuối năm 2009. Bảng 3. Thị phần tín dụng của các NHTM (đơn vị %) Loại hình TCTD 2006 2007 2008 2009 NHTM Nhà nước 67,1 59,7 58,2 49,93 NHTM CP 19,6 27,5 26,54 30,4 Chi nhánh NHNN 8,3 8,56 10,27 12,8 NH liên doanh 1,39 1,2 1,3 1,48 Nguồn: Báo cáo số 49/BC-NHNN năm 2009 của NH Nhà nước về việc rà soát 10 năm thực hiện Luật các TCTD. IV. Hội nhập quốc tế: 1. Khái niệm hội nhập quốc tế: Hội nhập quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế nước ta với nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới theo luật chơi chung. Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc khu vực - tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có quy mô toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế giới(WTO) hướng tới. Hội nhập kinh tế thường được cho là có sáu cấp độ: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi, khu vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong thực tế, các cấp độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn. 2. Tại sao phải hội nhập quốc tế: Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh hội nhập ngân hàng, xây dựng hệ thống ngân hàng vững mạnh trở thành kênh dẫn nhập vốn hàng đầu, là “bà đỡ” tốt nhất cho nền kinh tế đang cần vốn như Việt Nam huyển dịch cơ cấu vốn theo định hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh kinh tế Châu âu đang từng bước phục hồi sau những khủng hoảng về nợ công tại một số quốc gia, việc phục hồi kinh tế Mỹ gặp nhiều khó khăn CPI  tháng 6 năm 2010 giảm 0,1% thể hiện tiêu dùng của người dân giảm xuống. Trước diễn biến này, Fed đã dự báo, GDP của Mỹ năm 2010 chỉ tăng 3,0 đến 3,2% thấp hơn dự báo đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp 9,2% đến 9,5% cao hơn mức dự báo trước đó. Kinh tế Trung Quốc đã có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại trong quí II/2010, với mức tăng trưởng 6 tháng đầu năm là 11,1%... Vấn đề này cho thấy diễn biến kinh tế thế giới vẫn khó lường, sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến vấn đề tăng trưởng kinh tế, lạm phát, xuất nhập khẩu của Việt Nam. Hoạt động của các ngân hàng Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng từ những yếu tố bên trong và bên ngoài. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong hệ thống ngân hàng. Hội nhập kinh tế quốc tế giúp các ngân hàng thương mại Việt Nam học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng trong nước sẽ phải nâng cao trình độ quản lý, cải thiện chất lượng dịch vụ để tăng cường độ tin cậy đối với khách hàng.  Hội nhập quốc tế sẽ tạo động lực thúc đẩy cải cách ngành ngân hàng Việt Nam, thị trường tài chính sẽ phát triển nhanh hơn tạo điều kiện cho các ngân hàng phát triển các loại hình dịch vụ mới…  Hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng Việt Nam từng bước mở rộng hoạt động quốc tế, nâng cao vị thế của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong các giao dịch tài chính quốc tế.  Mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các ngân hàng thương mại trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong các giao dịch quốc tế. Từ đó, có điều kiện tiếp cận với các nhà đầu tư nước ngoài để hợp tác kinh doanh, tăng nguồn vốn cũng như doanh thu hoạt động.  Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam buộc các ngân hàng thương mại Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở Việt Nam.  3. Thuận lợi và khó khăn của hội nhập quốc tế: 3.1. Thuận lợi: Có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Từ đó, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ.  Vai trò tích cực của các phương tiện thông tin đại chúng.Thực tế vừa qua cho thấy, các phương tiện truyền thông đại chúng là nơi cung cấp những nguồn tin trung thực, chính xác và kịp thời. Nó góp phần giảm bớt những biến động không mong muốn từ những tin đồn sai thực tế. 3.2. Khó khăn: Do khả năng cạnh tranh thấp, việc mở cửa thị trường tài chính sẽ làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý làm cho áp lực cạnh tranh tăng dần.  Áp lực cải tiến công nghệ và kỹ thuật cho phù hợp để có thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.  Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và nhất quán, còn nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng.  Khả năng sinh lời của hầu hết các ngân hảng thương mại Việt Nam còn thấp hơn các ngân hàng trong khu vực, do đó hạn chế khả năng thiết lập các quỹ dự phòng rủi ro và quỹ tăng vốn tự có.  Bảng 4: Chỉ số phát triển tài chính năm 2008 của một số nước (xếp hạng trên 52) Tên nước Xếp hạng Tên nước Xếp hạng Hoa Kỳ 1 Thái Lan 29 Nhật Bản 4 Indonesia 38 Singapore 10 Philippine 48 Malaysia 20 Việt nam 49 Trung Quốc 24 Nguồn: WEF, 2009, Báo cáo phát triển tài chính Trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng chịu tác động mạnh của thị trường tài chính thế giới, nhất là về tỷ giá, lãi suất, dự trữ ngoại tệ, trong khi phải thực hiện đồng thời nhiều nghĩa vụ và cam kết quốc tế.  Hội nhập kinh tế, quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân hàng còn rất sơ khai, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.  Cấu trúc hệ thống Ngân hàng tuy phát triển mạnh mẽ về chiều rộng (cả ở khu vực quản lý lẫn khu vực kinh doanh) nhưng còn quá cồng kềnh, dàn trải, chưa dựa trên một mô hình tổ chức khoa học làm cho hiệu quả và chất lượng hoạt động còn ở mức kém xa so với khu vực.   Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội tiếp cận và huy động nhiều nguồn vốn mới từ nước ngoài nhưng đồng thời cũng mang đến một thách thức không nhỏ cho các ngân hàng thương mại Việt Nam là làm như thế nào để huy động vốn hiệu quả. Vì khi đó, ngân hàng thương mại Việt Nam thua kém các Ngân hàng nước ngoài về nhiều mặt như công nghệ lạc hậu, chất lượng dịch vụ chưa cao… sẽ ngày càng khó thu hút khách hàng hơn trước.  Thách thức lớn nhất của hội nhập không đến từ bên ngoài mà đến từ chính những nhân tố bên trong của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Vấn đề cần quan tâm hàng đầu là nguồn nhân lực và các cơ chế khuyến khích làm việc tại ngân hàng hiện nay. Chảy máu chất xám là vấn đề khó tránh khỏi khi mở cửa hội nhập. Các ngân hàng thương mại Việt Nam cần có các chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ hợp lý để lôi kéo và giữ chân các nhân viên giỏi.  Hiện nay, do việc kinh doanh của phần lớn các ngân hàng trong nước vẫn  chủ yếu dựa vào các loại hình dịch vụ truyền thống nên số lượng nhân viên làm công việc giám sát rủi ro chỉ chiếm khoảng 2%. Song tình hình có thể thay đổi rất nhanh trong tương lai khi các ngân hàng Việt Nam tiếp cận nhiều hơn với thế giới. Tóm lại: Hiện nay, ở nước ta, chưa có cơ quan quản lý dịch vụ tài chính  một cách độc lập, Ngân hàng Nhà nước vẫn phải làm công việc này. Trước mắt, Ngân hàng Nhà nước nên có một bộ phận chuyên trách thông tin để chủ động cung cấp những nguồn tin chính thức và trung thực cho công chúng. Việc giám sát cũng còn nhiều hạn chế, mặt khác, pháp luật về ngân hàng của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện, do vậy, sự tự giác, tự giám sát của bản thân các ngân hàng càng trở nên quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Nâng cao khả năng quản trị và trình độ công nghệ ngân hàng: Khả năng quản trị và mức độ hiện đại hóa công nghệ là một nhân tố quan trọng. Tuy nhiên, nếu các ngân hàng trong nước không nâng cao được khả năng quản trị và hiện đại hóa công nghệ thì những ưu thế có được sẽ dần mất đi. Và sẽ càng khó khăn hơn cho các ngân hàng trong nước khi các ngân hàng nước ngoài (như HSBC hay Standad Chatered Bank) đã bắt đầu được Chính phủ nước ta cấp phép mở chi nhánh tại Việt Nam, nếu như những hạn chế này không được cải thiện. Nâng cao chất lượng dịch vụ là yếu tố quan trọng đối với bất cứ một lĩnh vực kinh doanh nào, và ngành ngân hàng không phải ngoại lệ. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Chương I: Đại cương về Ngân hàng thương mại (NHTM) 01 I.Khái quát sự ra đời và phát triển của NHTM 01 Khái niệm NHTM 01 Sự ra đời và phát triển của NHTM 02 II. Chức năng và vai trò của NHTM 03 1. Chức năng của NHTM 03 1.1 Trung gian thanh toán 04 1.2 Trung gian tài chính 05 1.3 Tạo phương tiện thanh toán 06 2. Vai trò của NHTM 07 2.1 Đối với nước ta 07 2.2 Đối với nền kinh tế chung của thế giới 08 Chương II: Phân loại hệ thống NHTM và NHTM ở Việt Nam 09 I. Phân loại NHTM 09 Căn cứ theo hình thức sở hữu 09 Căn cứ theo cơ cấu tổ chức 10 Căn cứ theo tính chất hoạt động 10 II. Hệ thống NHTM ở Việt Nam 10 Trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung 11 Trong nền kinh tế thị trường 11 III. Sự khác nhau giữa NHTM và các định chế tài chính khác 12 Chương III: Nghiệp vụ NHTM 14 I. Nghiệp vụ của NHTM 14 Nghiệp vụ truyền thống 14 Nghiệp vụ hiện đại 18 Nghiệp vụ tương lai 21 II. Phân loại nghiệp vụ NHTM 21 Phân theo tiêu chuẩn khách hàng 21 Khách hàng là doanh nghiệp 21 Khách hàng là cá nhân 22 Phân theo tiêu chuẩn kế toán 22 Tài khoản có trong bảng: 22 Tài sản nợ 22 Tài sản có 23 2.2 tài khoản ngoại bảng 23 3. Phân theo nhu cầu khách hàng 23 3.1 Khách hàng đầu tư 23 3.2 Khách hàng tiêu dùng 24 Chương IV: Một vài nét về thực trạng hoạt động của NHTM tại Việt Nam trong năm qua 25 I. Tác động của luật tổ chức tín dụng đến NHTM 25 II. Những thuận lợi và khó khăn 26 III. Thành tựu đạt được. 28 IV. Hội nhập quốc tế 31 Mục lục 36 Tài liệu tham khảo: 37

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTong quan ve NHTM.doc