Một là, xử lý nghiêm những trường
hợp không thực hiện đúng quy định của
pháp luật về điều kiện khu TĐC và cần quy
định cụ thể về thời gian cấp Giấy chứng
nhận QSDĐ đối với suất TĐC là đất ở. Mặc
dù pháp luật đất đai hiện hành có quy định
về điều kiện khu TĐC8 như: cơ sở hạ tầng
đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn
xây dựng, phù hợp với điều kiện, phong tục,
tập quán của từng vùng, miền; việc thu hồi
đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành
xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu
TĐC Tuy nhiên, trên thực tế rất nhiều nơi
chủ đầu tư chưa hoàn thành cơ sở hạ tầng
của khu TĐC theo quy định nhưng lại thu
hồi đất ở của người dân, thỏa thuận thuê nhà
trọ cho người dân ở trong thời gian chờ hoàn
thành cơ sở hạ tầng của khu TĐC. Mặt khác,
pháp luật hiện hành chưa quy định thời gian
cụ thể để cấp Giấy chứng nhận QSDĐ tại các
khu TĐC cho người được bố trí TĐC. Bên
cạnh đó, các chủ đầu tư thường không muốn
thực hiện sớm thủ tục cấp Giấy chứng nhận
QSDĐ cho người được bố trí TĐC do họ sợ
nếu có Giấy chứng nhận QSDĐ thì những
suất TĐC này sẽ gây ảnh hưởng đến việc
bán, chuyển nhượng các sản phẩm thương
mại khác của chủ đầu tư. Chính vì những
điều này, nên việc cấp Giấy chứng nhận
QSDĐ cho người được bố trí TĐC thường
rất chậm (thường phải mất từ 3 - 5 năm, kể
từ lúc được giao nền), có trường hợp gần 10
năm vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận
QSSĐ. Trong khi đó, người dân lại có nhu
cầu chuyển nhượng, thế chấp, tặng cho, bảo
lãnh Do vậy, cần phải xử lý nghiêm những
trường hợp không thực hiện đúng quy định
của pháp luật về điều kiện khu TĐC và sớm
ban hành quy định trong một khoảng thời
gian cụ thể kể từ khi bàn giao suất TĐC thì
các cơ quan có thẩm quyền phải cấp Giấy
chứng nhận QSDĐ cho người được bố trí
TĐC.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyển nhượng suất tái định cư là đất ở chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phan Trung Hiền*
Phạm Hồng Du**
* PGS.TS. Phó trưởng Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ.
** Luật sư, Đoàn Luật sư TP. Cần Thơ.
Tóm tắt:
Hợp thức hóa việc chuyển nhượng suất tái định cư sẽ là biện
pháp để hạn chế những giao dịch “ngầm”, “lách luật”, giúp
bảo vệ được quyền lợi và an toàn pháp lý cho người được bố
trí tái định cư lẫn người nhận chuyển nhượng suất tái định cư.
Biện pháp này còn giúp Nhà nước không bị thất thoát tiền thuế
thu nhập cá nhân từ việc chuyển nhượng suất tái định cư.
Abstract:
Legal formalization of the transfer of the resettlement
entitle will be a measure to restrict the "tacit-agreed" or/and
"dodged” transactions, which will help assuring the rights
and legal security of both the resettled people and the
recipients. This measure is also to help the government
not miss the personal income tax from the transfers of
resettlement entitle.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: chuyển nhượng suất tái định cư, suất
tái định cư, tái định cư.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 13/10/2017
Biên tập: 21/12/2017
Duyệt bài: 28/12/2017
Article Infomation:
Keywords: transfer of resettlement entitle,
resettlement entitle, resettlement.
Article History:
Received: 13 Oct. 2017
Edited: 21 Dec. 2017
Appproved: 28 Dec. 2017
CHUYỂN NHƯỢNG SUẤT TÁI ĐỊNH CƯ LÀ ĐẤT Ở
CHƯA CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1. Tái định cư và suất tái định cư là đất ở
Cho đến nay, mặc dù cụm từ “tái định
cư” đã được sử dụng lần đầu tiên vào năm
19981 và được quy định trong Luật Đất đai
năm 2013, Luật Xây dựng năm 2014, tuy
1 Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 của Chính phủ về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng hướng dẫn các quy định của Luật Đất đai
năm 1993.
nhiên, pháp luật Việt Nam vẫn chưa giải
thích thế nào là “tái định cư” (TĐC). Nghiên
cứu các quy định về TĐC, có thể khái quát
rằng, TĐC là việc bố trí chỗ ở mới hoặc trả
chi phí để người có đất bị thu hồi tìm một
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
43Số 01(353) T01/2018
chỗ ở mới trong trường hợp người bị thu hồi
đất không còn chỗ ở nào khác trong phạm
vi địa phương nơi có đất bị thu hồi và phải
di chuyển chỗ ở2. Tùy thuộc vào diện tích
đất bị thu hồi và khả năng chi trả của người
được TĐC, nếu người đủ điều kiện được bố
trí TĐC mà không nhận tiền để tự lo chỗ ở
mới, sẽ được ưu tiên bố trí TĐC tại chỗ bằng
đất ở hoặc nhà ở tại khu vực có đất bị thu hồi
hoặc tại nơi có điều kiện bố trí TĐC.
Nguyên tắc bố trí TĐC là: công khai
hóa phương án TĐC; ưu tiên bố trí vị trí
thuận lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn
giao mặt bằng, người có đất thu hồi là người
có công với cách mạng; phương án bố trí
TĐC đã được duyệt phải được công bố công
khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân (UBND) cấp
xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân
cư nơi có đất bị thu hồi và tại nơi TĐC3. Để
được nhận một suất TĐC thì người có đất
bị thu hồi phải nộp tiền sử dụng đất, giá đất
cụ thể tính tiền sử dụng đất tại nơi TĐC do
UBND cấp tỉnh quy định, trường hợp người
có đất thu hồi được bố trí TĐC mà tiền bồi
thường, hỗ trợ không đủ để mua một suất
TĐC tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền
đủ để mua một suất TĐC tối thiểu4.
Để phù hợp với điều kiện, phong tục
tập quán của từng vùng, miền, phù hợp với
các mức bồi thường và khả năng chi trả
của người được TĐC, các suất TĐC được
bố trí theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện
tích khác nhau nhưng diện tích không thấp
hơn suất TĐC tối thiểu bằng đất ở, nhà ở
do UBND cấp tỉnh quy định5. Đối với suất
2 TS. Phan Trung Hiền, Những điều cần biết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, NXB Chính trị
quốc gia, H., 2014, tr.50.
3 Khoản 2 Điều 86 Luật Đất đai năm 2013.
4 Khoản 3, 4 Điều 85 Luật Đất đai năm 2013.
5 Khoản 3 Điều 26, 27 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất.
TĐC bằng đất ở, do còn trong thời gian chờ
để được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ), nên
về mặt pháp lý, người có suất TĐC là đất
ở thường có thể có đầy đủ hoặc sẽ có một
trong các giấy tờ sau đây:
(i) Biên bản họp xét TĐC cho các hộ
gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi. Biên bản
này thể hiện người có đất bị thu hồi được các
cơ quan có thẩm quyền xác định được bố trí
một hoặc nhiều suất TĐC bằng đất ở, có thể
hiện rõ diện tích là bao nhiêu, nhưng có thể
chưa biết là được bố trí tại khu TĐC tại chỗ
hay ở khu TĐC nào khác, cũng như chưa
xác định được vị trí lô, nền cụ thể trong khu
TĐC. Trường hợp này, nếu người có suất
TĐC là đất ở mà có nhu cầu chuyển nhượng
thì gọi là “chuyển nhượng suất TĐC”:
(ii) Biên bản bốc thăm nền TĐC. Biên
bản này thể hiện người được bố trí TĐC
được các cơ quan có thẩm quyền xác định
đã bốc thăm được kết quả: Số lô nền, diện
tích, trục đường, khu TĐC;
(iii) Biên bản bàn giao nền TĐC ngoài
thực địa. Biên bản này thể hiện việc người
được bố trí TĐC được các cơ quan có thẩm
quyền đo đạc, cắm mốc và bàn giao nền
TĐC ngoài thực địa;
(iv) Quyết định về việc giao nền TĐC.
Theo đó, người được bố trí TĐC sẽ được cơ
quan có thẩm quyền ra Quyết định bằng văn
bản giao nền TĐC với các nội dung như: vị
trí, diện tích của suất TĐC, số tiền sử dụng
đất phải nộp, nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất,
nghĩa vụ nộp lệ phí trước bạ,
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
44 Số 01(353) T01/2018
2. Quy định của pháp luật về chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và thực trạng
chuyển nhượng suất tái định cư là đất ở
2.1 Quy định của pháp luật về chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
Khoản 1 Điều 502 BLDS năm 2015
quy định: “Hợp đồng về quyền sử dụng đất
(QSDĐ) phải được lập thành văn bản theo
hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật
này, pháp luật về đất đai và quy định khác
của pháp luật có liên quan”. Bên cạnh đó,
điểm a khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm
2013 quy định: “1. Người sử dụng đất được
thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng
cho, thế chấp QSDĐ; góp vốn bằng QSDĐ
khi có các điều kiện sau đây: a) Có Giấy
chứng nhận,”. Ngoài ra, điểm a khoản 3
Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 cũng quy
định: “Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho,
thế chấp, góp vốn bằng QSDĐ, QSDĐ và tài
sản gắn liền với đất phải được công chứng
hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh
bất động sản quy định tại điểm b khoản này”.
Như vậy, khi thực hiện việc chuyển
nhượng QSDĐ thì điều kiện tiên quyết là
người chuyển nhượng QSDĐ phải có giấy
chứng nhận và các bên phải thực hiện thông
qua hợp đồng. Hợp đồng chuyển nhượng
QSDĐ đất phải lập thành văn bản, có công
chứng, chứng thực theo quy định của pháp
luật.
2.2 Thực trạng chuyển nhượng suất
tái định cư là đất ở
TĐC là một chính sách của Nhà nước
áp dụng khi thu hồi đất nhằm đảm bảo cho
người bị thu hồi đất có điều kiện để tiếp tục
duy trì, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, trên
thực tế diễn ra tình trạng người được bố trí
6 Điểm a khoản 1 Điều 188, điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013.
suất TĐC bằng đất ở xây nhà ở lại chuyển
nhượng cho người khác. Đối với người nhận
chuyển nhượng suất tái định cư (STĐC) là
đất ở thì mặc dù họ biết là có rất nhiều rủi
ro cho mình khi nhận chuyển nhượng STĐC
là đất ở chưa có giấy chứng nhận, cũng như
biết chất lượng về hạ tầng kỹ thuật và hạ
tầng xã hội của các khu TĐC trước mắt
không được tốt, tuy nhiên, do có nhiều lợi
ích nên họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro.
Nhu cầu chuyển nhượng, nhận chuyển
nhượng đã thôi thúc các bên tạo ra giao dịch
đường vòng, phổ biến nhất hiện nay là các
bên lập hợp đồng ủy quyền (HĐUQ) để che
giấu việc chuyển nhượng STĐC là đất ở.
Theo đó, các bên sẽ thực hiện giao kết thông
qua hai hợp đồng, gồm: hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ và HĐUQ. Hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ cũng có các nội dung đúng
theo quy định pháp luật như: tên, địa chỉ của
các bên; quyền, nghĩa vụ của các bên; loại
đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh
giới và tình trạng đất; thời hạn sử dụng đất
của bên chuyển nhượng; thời hạn sử dụng
đất còn lại của bên nhận chuyển nhượng;
giá chuyển nhượng; phương thức, thời hạn
thanh toán; quyền của người thứ ba đối với
đất chuyển nhượng; các thông tin khác liên
quan đến QSDĐ; trách nhiệm của các bên
khi vi phạm hợp đồng và có đầy đủ chữ ký
của các bên. Tuy nhiên, hợp đồng này sẽ để
trống các nội dung như số thửa, tờ bản đồ, số
giấy, số vào sổ, ngày cấp, nơi cấp của giấy
chứng nhận (do chưa có).
Do chưa có Giấy chứng nhận QSDĐ
nên Hợp đồng nói trên không được công
chứng, chứng thực theo quy định của pháp
luật6. Để “hợp pháp hóa” việc chuyển
nhượng này, các bên lập song song với hợp
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 01(353) T01/2018
đồng chuyển nhượng QSDĐ một hợp đồng
khác đó là HĐUQ. Theo đó, bên chuyển
nhượng STĐC bằng đất ở sẽ là bên ủy quyền,
còn bên nhận chuyển nhượng sẽ là bên nhận
ủy quyền, bên chuyển nhượng sẽ ủy quyền
cho bên nhận chuyển nhượng được quyền
thay mặt, nhân danh bên chuyển nhượng
quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến
suất TĐC như: bốc thăm, nhận nền ngoài
thực địa, nhận quyết định giao nền, nộp tiền
sử dụng đất, làm thủ tục để được cấp Giấy
chứng nhận QSDĐ, chiếm hữu, quản lý, sử
dụng, định đoạt suất TĐC, trong đó có việc
được ủy quyền lại cho người khác. Thời hạn
ủy quyền thường rất dài, thường là từ 15 đến
20 năm tùy thuộc vào tiến độ hoàn thành
của khu TĐC. HĐUQ này được công chứng,
chứng thực theo quy định của pháp luật. Sau
khi các bên hoàn thành việc chuyển nhượng
này, bên nhận chuyển nhượng sẽ thanh toán
cho bên chuyển nhượng từ 90 - 95% hoặc
100% /giá trị suất TĐC (tùy theo thỏa thuận)
để nhận suất TĐC và toàn bộ các giấy tờ bản
chính có liên quan đến suất TĐC; số tiền
còn lại (nếu có), bên nhận chuyển nhượng
sẽ thanh toán đủ cho bên chuyển nhượng
sau khi bên chuyển nhượng được cơ quan có
thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận QSDĐ và
hoàn tất việc công chứng, chứng thực hợp
đồng chuyển nhượng QSDĐ cho bên nhận
chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
Sau khi hoàn tất việc giao dịch nói
trên, các bên, mà đặc biệt là bên nhận chuyển
nhượng đã yên tâm rằng mình đã thực hiện
thành công giao dịch thông qua việc “lách
luật”. Tuy nhiên, hình thức giao dịch này
chứa đựng những rủi ro từ khi thực hiện giao
dịch cho đến khi người nhận chuyển nhượng
suất TĐC nhận được suất TĐC đó.
7 Khoản 3 Điều 132 BLDS năm 2015.
3. Những rủi ro khi chuyển nhượng suất
tái định cư chưa có Giấy chứng nhận
Dù rằng việc giao dịch đã hoàn tất,
bên nhận chuyển nhượng đã thanh toán tiền
theo thỏa thuận, nhận suất TĐC và toàn bộ
các giấy tờ bản chính có liên quan đến suất
TĐC kèm hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ
và HĐUQ, còn bên chuyển nhượng đã nhận
đủ tiền theo thỏa thuận. Tuy nhiên, đối chiếu
với các quy định của pháp luật hiện hành và
thực tiễn thì hình thức giao dịch này vẫn tồn
tại rất nhiều rủi ro khó lường cho bên nhận
chuyển nhượng STĐC, bởi những lý do sau:
Thứ nhất, HĐUQ vô hiệu. Nếu vì bất
kỳ lý do nào đó, ví dụ: bên chuyển nhượng
đổi ý không chuyển nhượng, giá bất động
sản tăng thì bất kể thời gian nào kể từ
ngày giao dịch được xác lập, bên chuyển
nhượng có thể yêu cầu Tòa án tuyên HĐUQ
là vô hiệu7 do hợp đồng này được xác lập
trên cơ sở nhằm che giấu giao dịch khác
đó là chuyển nhượng STĐC là đất ở - đây
mới là giao dịch thuộc ý chí đích thực của
các bên. Khoản 1 Điều 124 Bộ luật Dân sự
(BLDS) năm 2015 quy định giao dịch dân
sự vô hiệu do giả tạo như sau: “Khi các bên
xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo
nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì
giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao
dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ
trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo
quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có
liên quan”.
Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu
là các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu
trước khi giao kết hợp đồng, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận, sau đó mới xét đến
yếu tố lỗi để bồi thường. Tuy nhiên, do các
bên đều có lỗi nên sẽ không xét bồi thường
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 01(353) T01/2018
thiệt hại trong trường hợp này. Khoản 1, 2
và 4 Điều 131 BLDS năm 2015 quy định:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch
được xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô
hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng
hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả 4.
Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Như vậy, trong trường hợp này bên
nhận chuyển nhượng QSDĐ sẽ chỉ được
nhận lại số tiền đã đưa cho bên chuyển
nhượng, không được tính lãi suất. Trường
hợp, bên chuyển nhượng không có thiện chí
trả lại hoặc đã chi xài hết tiền mà không còn
tài sản để thi hành bản án/quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền
thì việc nhận lại số tiền đã đưa là vô cùng
khó khăn.
Thứ hai, HĐUQ có thể bị chấm dứt
do bên ủy quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng hoặc theo quy định của
pháp luật.
HĐUQ có thể bị chấm dứt do bên ủy
quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng. Bên nhận chuyển nhượng luôn an tâm
vì cho rằng bên chuyển nhượng không thể
đơn phương chấm dứt HĐUQ được, muốn
chấm dứt hợp đồng phải có sự đồng ý của bên
được ủy quyền (bên nhận chuyển nhượng).
Tuy nhiên, trong trường hợp này, do các
HĐUQ sẽ là hợp đồng không có thù lao. Vì
vậy, bên ủy quyền có quyền đơn phương
chấm dứt HĐUQ bất kỳ lúc nào miễn là báo
trước cho bên được ủy quyền một thời hạn
hợp lý. Khoản 2 Điều 569 BLDS năm 2015
quy định: “Trường hợp ủy quyền không có
thù lao, bên được ủy quyền có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất
cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên
ủy quyền biết một thời gian hợp lý; nếu ủy
quyền có thù lao thì bên được ủy quyền có
quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng bất cứ lúc nào và phải bồi thường thiệt
hại cho bên ủy quyền, nếu có”. Pháp luật
hiện hành chưa có hướng dẫn cụ thể “một
thời gian hợp lý” là bao lâu. Tuy nhiên, khi
bên ủy quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng thì các bên sẽ xảy ra tranh chấp. Các
bên lại phải khởi kiện ra tòa án để yêu cầu
phân xử và kết cục là tòa án lại tuyên HĐUQ
vô hiệu do giả tạo như đã nêu.
Khoản 2 Điều 422 BLDS năm 2015
quy định: “Hợp đồng chấm dứt trong trường
hợp sau đây: 1. Hợp đồng đã được hoàn
thành. 2. Theo thỏa thuận của các bên. 3.
Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân
giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp
đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó
thực hiện. 4. Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn
phương chấm dứt thực hiện. 5. Hợp đồng
không thể thực hiện được do đối tượng của
hợp đồng không còn. 6. Hợp đồng chấm dứt
theo quy định tại Điều 420 của BLDS năm
2015. 7. Trường hợp khác do luật quy định”.
Hậu quả pháp lý trong trường hợp này sẽ là:
(i) nếu HĐUQ chấm dứt do hết hạn hoặc do
bên nhận ủy quyền chết hoặc bị toà án tuyên
bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã
chết thì quyền định đoạt suất TĐC sẽ thuộc
về người ủy quyền; (ii) còn trường hợp
chấm dứt do người ủy quyền chết, bị toà án
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc
là đã chết thì quyền định đoạt suất TĐC sẽ
thuộc về người được thừa kế của người ủy
quyền, người đại diện theo pháp luật của bên
ủy quyền.
Thứ ba, bên nhận chuyển nhượng sẽ
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 01(353) T01/2018
gặp khó khăn trong việc làm thủ tục cấp Giấy
chứng nhận QSDĐ. Do pháp luật không
thừa nhận việc chuyển nhượng QSDĐ khi
chưa có giấy chứng nhận, nên khi cấp Giấy
chứng nhận QSDĐ của suất TĐC là đất ở thì
cơ quan có thẩm quyền chỉ cấp Giấy chứng
nhận QSDĐ cho người được bố trí TĐC (chủ
gốc). Trong khi đó, suất TĐC thường không
phải chỉ chuyển nhượng cho một người mà
là đã chuyển nhượng qua rất nhiều người
trung gian, mà những người này có thể lại
không quen biết nhau. Do đó, rủi ro rất lớn
cho người nhận chuyển nhượng cuối cùng
là khi có Giấy chứng nhận QSDĐ thì không
thể tìm ra được người chủ gốc để làm thủ tục
chuyển nhượng sang tên theo quy định pháp
luật. Còn trường hợp nếu có tìm được người
chủ gốc thì thông thường sẽ bị người chủ
gốc gây khó khăn nhằm “đề nghị” thêm chi
phí mới chịu ký hợp đồng chuyển nhượng
QSDĐ công chứng, chứng thực theo quy
định của pháp luật.
Thứ tư, khó chuyển nhượng lại cho
người khác. Khi nhận chuyển nhượng STĐC
là đất ở, nếu không còn nhu cầu sử dụng hoặc
bị kẹt tiền muốn chuyển nhượng lại suất
TĐC này, thì sẽ rất khó để chuyển nhượng
lại cho người khác do về mặt pháp lý không
rõ ràng, người nhận chuyển nhượng sau có
thể hiểu rõ bản chất và ngại nhiều hệ lụy của
việc giao dịch chuyển nhượng thông qua
HĐUQ.
Thứ năm, ngoài những rủi ro như
phân tích trên, người nhận chuyển nhượng
suất TĐC là đất ở còn gặp phải những rủi
ro khác như: bên chuyển nhượng cố tình lừa
đảo nhằm chiếm đoạt tài sản, cùng một lúc
ủy quyền cho nhiều người
8 Khoản 2, 3 Điều 85 Luật Đất đai năm 2013; Điều 26 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Tóm lại, khi tham gia giao dịch chuyển
nhượng STĐC bằng các hình thức nêu trên,
bên nhận chuyển nhượng sẽ đối mặt với rất
nhiều rủi ro. Hình thức giao dịch này không
thể thay thế được việc thực hiện giao dịch
hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ theo quy
định của pháp luật được.
5. Đề xuất một số giải pháp
Việc nhận chuyển nhượng STĐC là
đất ở khi chưa được cấp Giấy chứng nhận
QSDĐ sẽ gặp rất nhiều rủi ro, bất lợi cho
người nhận chuyển nhượng, nhưng do suất
TĐC có một số ưu điểm nên nhu cầu nhận
chuyển nhượng là rất lớn. Do vậy, chúng tôi
đề xuất một số giải pháp để hạn chế rủi ro
cho người nhận chuyển nhượng suất TĐC là
đất ở như sau:
Một là, xử lý nghiêm những trường
hợp không thực hiện đúng quy định của
pháp luật về điều kiện khu TĐC và cần quy
định cụ thể về thời gian cấp Giấy chứng
nhận QSDĐ đối với suất TĐC là đất ở. Mặc
dù pháp luật đất đai hiện hành có quy định
về điều kiện khu TĐC8 như: cơ sở hạ tầng
đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn
xây dựng, phù hợp với điều kiện, phong tục,
tập quán của từng vùng, miền; việc thu hồi
đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành
xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu
TĐC Tuy nhiên, trên thực tế rất nhiều nơi
chủ đầu tư chưa hoàn thành cơ sở hạ tầng
của khu TĐC theo quy định nhưng lại thu
hồi đất ở của người dân, thỏa thuận thuê nhà
trọ cho người dân ở trong thời gian chờ hoàn
thành cơ sở hạ tầng của khu TĐC. Mặt khác,
pháp luật hiện hành chưa quy định thời gian
cụ thể để cấp Giấy chứng nhận QSDĐ tại các
khu TĐC cho người được bố trí TĐC. Bên
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 01(353) T01/2018
cạnh đó, các chủ đầu tư thường không muốn
thực hiện sớm thủ tục cấp Giấy chứng nhận
QSDĐ cho người được bố trí TĐC do họ sợ
nếu có Giấy chứng nhận QSDĐ thì những
suất TĐC này sẽ gây ảnh hưởng đến việc
bán, chuyển nhượng các sản phẩm thương
mại khác của chủ đầu tư. Chính vì những
điều này, nên việc cấp Giấy chứng nhận
QSDĐ cho người được bố trí TĐC thường
rất chậm (thường phải mất từ 3 - 5 năm, kể
từ lúc được giao nền), có trường hợp gần 10
năm vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận
QSSĐ. Trong khi đó, người dân lại có nhu
cầu chuyển nhượng, thế chấp, tặng cho, bảo
lãnh Do vậy, cần phải xử lý nghiêm những
trường hợp không thực hiện đúng quy định
của pháp luật về điều kiện khu TĐC và sớm
ban hành quy định trong một khoảng thời
gian cụ thể kể từ khi bàn giao suất TĐC thì
các cơ quan có thẩm quyền phải cấp Giấy
chứng nhận QSDĐ cho người được bố trí
TĐC.
Hai là, hợp thức hóa việc chuyển
nhượng suất TĐC là đất ở khi đã bốc thăm
nền TĐC. Bởi lẽ, suy cho cùng đây cũng là
quyền tài sản. Điều 115 BLDS năm 2015
quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối
với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, QSDĐ
và các quyền tài sản khác”. Suất TĐC là đất
ở sau khi bốc thăm đã được các cơ quan có
thẩm quyền xác định bằng văn bản về khu
TĐC, vị trí lô nền, mã nền, diện tích và trục
đường của lô nền cho người được bố trí
TĐC. Người được bố trí TĐC chỉ còn chờ
các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các
thủ tục tiếp theo để cấp Giấy chứng nhận
QSDĐ. Do đó, việc giao dịch chuyển nhượng
STĐC thực chất là việc chuyển giao quyền
và nghĩa vụ của người được TĐC sang cho
người nhận chuyển nhượng, đây là giao dịch
dân sự, pháp luật không cấm. Hơn nữa, việc
hợp thức hóa chuyển nhượng STĐC sẽ là
biện pháp hạn chế những giao dịch “ngầm”,
“lách luật”, giúp bảo vệ được quyền lợi và an
toàn pháp lý cho người được bố trí TĐC lẫn
người nhận chuyển nhượng STĐC. Ngoài
ra, biện pháp này còn giúp Nhà nước không
bị thất thoát tiền thuế thu nhập cá nhân từ
việc chuyển nhượng QSDĐ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự năm 2015;
2. Luật Đất đai năm 2013;
3. Luật Công chứng năm 2014;
4. Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 của Chính phủ về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi
đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng;
5. Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất;
Châu Anh, Nhà tái định cư giá 'hời': Khách 'cầm dao đằng lưỡi', Báo VTC New ngày 06/11/2014 tại
vn/nha-tai-dinh-cu-gia-hoi-khach-cam-dao-dang-luoi.1.514445.htm truy cập ngày 21/05/2015.
Hoàng Quốc Hùng, Ba vấn đề cần cảnh báo trong việc công chứng Hợp đồng ủy quyền, Bộ Tư pháp ngày
18/04/2015 tại truy cập
ngày 20/05/2015;
TS. Phan Trung Hiền, Những điều cần biết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, NXB
Chính trị quốc gia, H., năm 2014;
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 01(353) T01/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuyen_nhuong_suat_tai_dinh_cu_la_dat_o_chua_co_giay_chung_n.pdf