Kết luận
Quá trình kháng insulin xảy ra sớm nhất ở cơ
vân, tiếp theo là ở gan. Bất cứ trường hợp nào làm
phá vỡ sự cân bằng giữa nguồn cung cấp và sử
dụng những mảnh acid béo (như DAGS) tới gan và
cơ sẽ dẫn tới kháng insulin. Ở những người có tình
trạng kháng insulin, hiệu quả tổng hợp glycogen
ở cơ vân sau ăn giảm tới 60%, nhưng nồng độ
triglycerid và tổng hợp lipoprotein ở gan tăng 2 lần
so với người không kháng insulin. Sự thay đổi này
có liên quan đến rối loạn thành phần lipid trong
huyết tương đó là tăng triglycerid 60% và giảm
HDL - C 20%, không liên quan đến adipocytokine.
Kháng insulin làm giảm dự trữ glycogen sau ăn
ở cơ vân dẫn tới tăng tổng hợp lipid ở gan, giải
phóng nhiều VLDL gây ra tăng thoái hóa lipid, vữa
xơ động mạch, béo tạng, hiện tượng viêm dưới
lâm sàng. Kháng insulin dự báo đái tháo đường
type 2 trước vài thập kỷ, có thể coi là yếu tố dự
báo sớm nhất. Kháng insulin ở cơ vân và ở gan
là hậu quả của sự mất cân bằng giữa vận chuyển
đến và đi của chất nền từ hồ DAG, dẫn đến lắng
đọng các sản phẩm lipid trung gian như DAG và
Acyl- CoA, cản trở dòng tín hiệu của insulin.Tình
trạng kháng insulin ở gan dẫn tới tăng glucose
sau ăn và lúc đói ở người đái tháo đường type 2
tùy thuộc vào chức năng của tế bào β. Tình trạng
kháng insulin ở cơ vân có thể là lý do đầu tiên
can thiệp đến sự phát triển của NAFLD, hội chứng
chuyển hóa và đái tháo đường type 2.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ chế kháng Insulin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Diễn đàn
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 43
1. đánh giá tình trạng kháng insulin
Cách đây hơn 70 năm Himsworth và Kerr
lần đầu tiên đưa ra phương pháp để đánh giá độ
nhạy của insulin bằng cách đo nồng độ glucose
đáp ứng với insulin truyền qua đường tĩnh mạch.
Phương pháp này gọi là test “kìm đẳng đường -
tăng insulin”, từ đó test này được coi là tiêu chuẩn
vàng để đo độ nhạy của insulin hoặc xác định tình
trạng kháng insulin (insulin resistance: IR) của
mỗi cá thể. Phương pháp này cho phép tính được
hằng số của insulin với nồng độ glucose trong cơ
thể. Kết hợp với phương pháp đo nhiệt lượng gián
tiếp bằng siêu âm quang phổ (Spectroscopy) đo
được sự tiêu hao của chất được đánh dấu đồng
vị phóng xạ ở những tổ chức đặc biệt (gan, cơ
vân, mỡ) cho phép xác định tỷ lệ sản xuất glucose,
chuyển hóa glucose và sự bắt giữ insulin trong
chuyển hóa glucose, thủy phân lipid trong cơ thể.
Ngoài ra, có thể đánh giá hoạt động của insulin
thông qua test dung nạp glucose đường uống
hoặc đường tĩnh mạch. Những kỹ thuật này đòi hỏi
người thực hiện phải có kinh nghiệm và được thực
hiện ở những trung tâm nghiên cứu y khoa hiện
đại. Ngày nay, những chỉ số hay được sử dụng để
đánh giá tình trạng kháng insulin như HOMA- R,
HOMA- S và QUICKI được tính toán qua nồng độ
glucose và peptid - C lúc đói.
IR được coi là tiền triệu của đái tháo đường vì
có sự liên quan về thời gian giữa IR và giảm dung
nạp glucose. Tabak và CS nghiên cứu độ nhạy
của insulin ở một quần thể không đái tháo đường,
theo dõi liên tục trong 13 năm thông qua chỉ số
HOMA - S và HOMA-B. Kết quả cho thấy, những
cá thể đái tháo đường có HOMA-S thấp hơn 29%
và HOMA- B tăng 13%. HOMA-S giảm đến 5 năm
trước khi đái tháo đường. HOMA-B hằng định tới
4 năm trước chẩn đoán đái tháo đường,tăng ở 3
năm sau cùng trước khi đái tháo đường. Những
số liệu này cho thấy tình trạng IR có trước kéo
theo phản ứng tăng hoạt động để bù đắp của tế
bào β trong thời gian dài dẫn tới sự mất bù của
dòng feedback insulin- glucose dẫn tới đái tháo
đường. IR không những dự đái tháo đường type
2 mà còn liên quan đến bệnh lý tim mạch và các
biến chứng.
Liệu sự khởi đầu của IR có phải do yếu tố
di truyền hoặc yếu tố bất thường có sẵn nào đó
không? Trên thực tế, tiền sử gia đình là một yếu
tố nguy cơ của đái tháo đường type 2. Nhưng, tỷ
lệ người có gen đái tháo đường bị đái tháo đường
tăng không có ý nghĩa so với người không có gen
đái tháo đường nhưng có các yếu tố nguy cơ khác
và thay đổi lối sống làm cải thiện được tình trạng
kháng insulin, giảm tỷ lệ đái tháo đường type 2.
CƠ CHẾ KHÁNG INsULIN
nguyễn Kim lương*
*Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
TÓM TẮT
Giảm độ nhạy của insulin hay còn gọi là kháng insulin được xác định bằng sự giảm thanh thải
glucose ở cơ vân, giảm tiêu thụ glucose sản xuất từ gan, giảm thủy phân lipid từ mô mỡ hoặc giảm
toàn bộ chuyển hóa glucose của cơ thể. Bằng các phương pháp đánh giá độ nhạy của insulin, đã tính
được tỷ lệ sản xuất glucose, chuyển hóa glucose và bắt giữ insulin trong chuyển hóa glucose, thủy
phân lipid ở gan, cơ vân, mô mỡ. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, kháng insulin là yếu tố dự báo
đái tháo đường type 2 sớm nhất, quá trình kháng insulin có thể xuất phát từ cơ vân. Kháng insulin ở
cơ dẫn tới dư thừa năng lượng sau ăn vượt xa sự tổng hợp glycogen ở gan gây rối loạn chuyển hóa
lipid máu. Lắng đọng lipid ở gan và kháng insulin ở gan là lý do của bệnh gan nhiễm mỡ không do
rượu và tăng glucose lúc đói. Sự lắng đọng lipid ở tế bào là do sự mất cân bằng giữa chất chuyển
đến và mức độ sử dụng ở tổ chức có giảm sự đáp ứng với kích thích của insulin.
Diễn đàn
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX44
Các yếu tố chuyển hóa như tăng nồng độ acid béo
tự do, tăng tỷ lệ TG/HDL-C trong máu, tăng lipid
trong cơ vân, trong gan có liên quan đến dự báo
IR và đái tháo đường type 2. Vấn đề đặt ra là quá
trình IR bắt đầu từ đâu? Và tổ chức của cơ thể
phản ứng với IR như thế nào?
2. Kháng insulin ở cơ vân
Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy, cơ
vân là tổ chức chủ yếu đáp ứng với kích thích của
insulin tiêu thụ glucose của cơ thể. Với kỹ thuật
Spectroscopy gắn chất phóng xạ vào Cacbon (13C
magnetic resonance spectroscopy - 13CMRS) lần
đầu tiên có cho phép trực tiếp đánh giá tác dụng của
insulin kích thích tổng hợp glycogen ở cơ thể sống
trong một thời gian cụ thể. Phương pháp này cho
thấy, ở người khỏe mạnh có độ nhạy insulin bình
thường thì cơ vân tổng hợp glycogen từ glucose
phải sử dụng tới 90% insulin của cơ thể và gần
như tất cả glucose không oxy hóa. Kết quả nghiên
cứu sử dụng kỹ thuật kẹp insulin và 13CMRS cho
thấy, ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 sự tổng
hợp glycogen ở cơ gặp trở ngại chính là do IR, có
60% giảm tổng hợp glycogen ở cơ dưới kích thích
của insulin. Một nghiên cứu khác cho thấy sự tổng
hợp glycogen sau bữa ăn giảm 30% ở bệnh nhân
đái tháo đường type 2 mặc dù lượng insulin trong
máu tăng lên gấp đôi người bình thường. Giảm
tổng hợp glycogen có thể là hậu quả của sự không
bình thường trong quá trình tổng hợp glycogen,
vận chuyển glucose của GLUT4 hoặc phosphoryl
hóa glucose. Nếu những diễn biến này kéo dài
sẽ là ứng cử viên của đái tháo đường type 2. Khi
kết hợp hai phương pháp 13C/31P MRS để đo trực
tiếp nồng độ các chất trong cơ theo con đường
chuyển hóa glycogen dưới kích thích của insulin
cho thấy: trong suốt thời gian tăng insulin máu,
hiệu quả tổng hợp glycogen giảm rõ và nồng độ
glucose tự do trong tế bào, glucose -6-phosphage
(G-6-P) tăng. Kết quả này cho thấy có hiện tượng
giảm kích thích của insulin tới vận chuyển glucose
qua màng tế bào cơ vân theo con đường GLUT4,
đây được coi là khiếm khuyết chính trong đáp ứng
IR tại cơ của bệnh nhân đái tháo đường type 2 và
còn của bệnh nhân đái tháo đường type 2, béo
phì. Những nghiên cứu dọc về cơ chế của IR ảnh
hưởng tới GLUT4 đã khẳng định có tình trạng
thiếu đáp ứng của dòng insulin được đánh dấu
làm giảm hoạt động của GLUT4 ở những cá thể
IR. Những bệnh nhân đái tháo đường type 1 kiểm
soát glucose máu kém cũng có hiện tượng giảm
tổng hợp glycogen và tăng G-6-P, glucose ở cơ
vândo giảm kích thích của insulin. Có thể đây là
những nguyên nhân dẫn đến những thay đổi liên
quan đến khái niệm “ngộ độc glucose”. IR cũng
có thể xảy ra cả ở những người gầy, người có
glucose máu bình thường và người lớn tuổi theo
các cơ chế khác nhau. Một trong những nguyên
nhân đó là sự tương tác chuyển hóa giữa acid
béo tự do (FFA) và glucose ở cơ bằng chu trình
mở “glucose - fatty acid cycle”. Điều này được giả
thuyết rằng FFA oxy hóa trước làm tăng nồng độ
của tỷ lệ acetyl - coenzym A/coenzym A trong ty
lạp thể, ức chế phức hợp pyruvate dehydrogenase
(PDH). Tăng thường xuyên citrat ức chế phospho
fructokinase-1 và tăng G-6-P, chính G-6-P ức chế
hexokinase II (HKII), dẫn tới tăng nồng độ glucose
và giảm tiêu thụ glucose. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu khi làm tăng FFA trong thời gian thực
hiện nghiệm pháp kẹp insulin kết hợp với chụp
SPEC (MRS 13C/31P) để theo dõi trực tiếp quá trình
tổng hợp glycogen và sự thay đổi của glucose tự
do G-6-Pdưới kích thích của insulin cho thấy kết
quả khác với giả thuyết trên. Trong khi tăng FFA
dẫn tới IR, làm giảm tổng hợp glycogen ở cơ và
tăng glucose tự do, tăng G-6-P gợi ý có một cơ
chế khác đối với IR hướng lipid. Lipid làm giảm
khả năng vận chuyển glucose (dưới tác dụng của
insulin) vào tế bào cơ vân đồng thời giảm glucose
phosphoryl hóa dẫn tới giảm tổng hợp glycogen.
Đó là con đường ức chế trực tiếp tới vận chuyển
glucose không theo con đường ức chế tổng hợp
PDH. Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy,
nồng độ lipid trong tế bào cơ vân và tế bào gan
(đo bằng phương pháp 1HMRS) có giá trị dự báo
IR tốt hơn FFA huyết tương. IR hướng lipid liên
quan đến dấu hiệu giảm insulin theo con đường
giảm tyrosine phosphoryl của receptor insulin nền
-1 (IRS-1), IRS-1 hoạt hóa phosphatidylinositol-
3kinase (PI3K) 60 và serine phosphoryl của AKT.
Một số nghiên cứu về chuyển gen ở mô hình động
vật thấy khi tăng FFA làm tăng chuỗi dài acid béo
acyl-CoA và DAG (diacylglycerol) trong tế bào cơ,
nó không chỉ kích thích tổng hợp triglycerid mà còn
Diễn đàn
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 45
kích thích protein kinase C (PKC) cùng với serin
phosphorylation của IRS-1 theo con đường serine
- threonin kinase. Một nghiên cứu trên người,
bằng cách truyền lipid đồng thời thực hiện nghiệm
pháp tăng insulin - kìm glucose, sau 6 giờ truyền
lipid thấy tăng DAG và proteinkinase C, có liên
quan đến màng tế bào. Đây là những phản ứng
đầu tiên của IR ở cơ theo con đường hướng lipid.
Tương tự như FFA, nuôi dưỡng bằng protid quá
nhiều cũng liên quan đến IR, do tăng các amino
acid mạch ngắn trong huyết tương cũng làm giảm
tổng hợp G-6-P và glycogen dưới tác dụng của
insulin theo con đường serine phosphorylation
của IRS-1. Cùng với giả thuyết IR hướng lipid rằng
thiếu sự cân bằng giữa vận chuyển FFA và tổng
hợp triglycerid theo con đường DGAT-1 tại cơ vân,
những mảnh lipid như Acyl-CoA và DAG sẽ tích
tụ ngăn cản tyrosine phosphorylation của IRA-1
dẫn tới giảm tác dụng của insulin và IR. Như vậy,
bất cứ cơ chế nào liên quan đến sự làm giảm vận
chuyển lipid tới cơ,tăng oxy hóa lipid và/hoặc kích
thích tổng hợp triglycerid đều làm giảm Acyl-CoA
và DAG sẽ phòng ngừa được IR hướng lipid.
Sự tích tụ lipid trong cơ vân có thể làm giảm
quá trình oxy hóa lipid ở cơ. Ở người gầy, con của
bệnh nhân đái tháo đường type 2 có tỷ lệ nền của
tổng hợp ATP giảm khoảng 40%. Kết quả của một
nghiên cứu ở người khỏe mạnh, không béo, nhạy
cảm với insulin, trong thời gian có kích thích của
insulin có tỷ lệ tổng hợp ATP ở ty lạp thể tăng gấp
đôi so với người trẻ, khỏe là con bệnh nhân đái
tháo đường type 2. Những nghiên cứu tương tự
cho thấy những bệnh nhân đái tháo đường type 2
cân nặng bình thường đã có giảm 25% hoạt tính
phosphoryl hóa ở ty lạp thể. Một vấn đề được đặt
ra là liệu chức năng ty lạp thể không bình thường
có thể dẫn đến IR ở cơ? và đó có phải là khởi điểm
cho quá trình phát triển đái tháo đường hay không?
Tuổi tác cũng liên quan đến sự giảm phát triển
sinh học và đẩy nhanh quá trình chết theo chương
trình của ty lạp thể. Ở người lớn tuổi không béo
phìcó IR, tăng nồng độ triglycerid trong tế bào cơ,
giảm hoạt động phosphoryl hóa và oxidative của
ty lạp thể lúc đói, giảm khoảng 30 - 40% sự tổng
hợp ATP và tỷ lệ oxy hóa của Tricarboxylic acid
(Tricarboxylic acid- TCA) ở cơ vân. Nhưng liệu
giảm hoạt động của ty lạp thể có phải là yếu tố đầu
tiên làm IR ở bệnh nhân đái tháo đường type 2
hay không thì vẫn còn chưa rõ. Tăng glucose máu
ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 là một yếu tố
khác ảnh hưởng đến chức năng của ty lạp thể làm
giảm tổng hợp ATP dưới tác dụng của insulin, liên
quan nghịch với tình trạng mất kiểm soát glucose
máu. Petersen và CS đã thực hiện nhiều nghiên
cứu đánh giá chức năng của ty lạp thể liên quan
đến tuổi và sự kiểm soát glucose. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, nhóm đối tượng trẻ, gầy, thế hệ
1 của bệnh nhân đái tháo đường type 2, có IR
nặng nhưng glucose bình thường, đã giảm 30%
sự tổng hợp ATP và TCA ở ty lạp thể so với nhóm
chứng. Giảm hoạt động của phosphoryl hóa của
ty lạp thể liên quan đến giảm 38% tỷ trọng của ty
lạp thể dẫn đến giảm khối lượng của cơ vân của
những cá thể này. Đây có phải là nguyên nhân
đầu tiên của lắng đọng lipid trong cơ vân và IR
hay không? Vẫn còn là vấn đề chưa được khẳng
định, nhưng nó thường tham gia vào phát triển
của những mảng vữa xơ và tính xuất hiện thường
xuyên của IR. Giảm sự hiện diện của receptor
PPAR (peroxisome proliferator activated receptor)
γ, Coactivator 1α (PGC1α) được tìm thấy ở bệnh
nhân đái tháo đường type 2, có liên quan đến phát
triển sinh học của ty lạp thể, nhưng không tìm thấy
ở nhóm chứng. Tuy nhiên, giảm chức năng ty lạp
thể là nguyên nhân tiên phát hay thứ phát làm tăng
tích tụ lipid trong tế bào thì chưa rõ. Những người
họ hàng của bệnh nhân đái tháo đường type 2 bị
IR nặng có nồng độ FFA trong huyết tương và lipid
dự trữ trong tế bào cao hơn người có cùng độ tuổi
nhưng nhạy cảm với insulin. Điều này gợi ý rằng,
giảm chức năng ty lạp thể là hậu quả của tăng
lipid có sẵn trong tế bào. Để chứng minh cho lập
luận này, khi truyền lipid mạch ngắn cho thấy lúc
đầu là giảm sử dụng glucose, sau đó là giảm tổng
hợp ATP được xác định bằng sự thay đổi nồng độ
G-6-P. Mặt khác, tăng lipid sẵn có và/hoặc giảm
lipid oxy hóa cũng làm tăng lắng đọng của lipid
trung tính như DGA.
Ở những người trẻ, không béo, là họ hàng của
người đái tháo đường type 2 bị IR nặng mà không
có yếu tố nhiễu, có thể bản thân họ đã thừa hưởng
sự giảm độ nhạy của insulin. Sự thừa kế không
bình thường này có thể do rối loạn chức năng
của ty lạp thể dẫn đến IR ở cơ vân gây giảm oxy
Diễn đàn
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX46
hóa nền cùng với sự bất thường về chuỗi tín hiệu
insulin dẫn tới lắng đọng sản phẩm chuyển hóa
lipid trong cơ vân. Giảm chức năng ty lạp thể được
đánh giá bằng sự tổng hợp ATP cũng tìm thấy ở
những cá thể khác không béo nhưng có tăng nguy
cơ đái tháo đường type 2 như Acromegaly, GDM,
người trẻ béo có NAFLD.
3. Kháng insulin ở gan
Sau một bữa ăn hỗn hợp, gan ngưng sản
xuất glucose và nhanh chóng dự trữ glycogen. Với
cùng một điều kiện như vậy, ở bệnh nhân đái tháo
đường type 2 mặc dù kiểm soát glucose máu tốt
vẫn có hiện tượng tăng glucose máu sau ăn, giảm
tổng hợp glycogen 40% so với người không đái
tháo đường. Điều đó không chỉ đơn giản do giảm
tiết insulin sau ăn mà hậu quả nghiêm trọng hơn
là từ khiếm khuyết về tác dụng của insulin tới tổng
hợp glycogen. Sự không bình thường về tổng hợp
glycogen kéo dài suốt thời gian thực hiện nghiệm
pháp tăng insulin kìm glucose, đây là thời điểm
tối ưu cho tổng hợp glycogen. Quá trình tổng hợp
glycogen ở gan dưới tác dụng của trung gian của
insulin liên quan nghịch với nồng độ lipid ngoài tế
bào tại gan, điều này xảy ra cả ở người đái tháo
đường và người không đái tháo đường. Gợi ý,
có sự liên quan giữa nồng độ lipid ở gan và IR ở
gan. Ở người có hội chứng chuyển hóa, phụ nữ
có tiền sử đái tháo đường thai nghén, người đái
tháo đường type 2, hiện tượng lắng đọng lipid ở
gan (gan nhiễm mỡ), bao gồm những bệnh gan
nhiễm mỡ không do rượu (non alcohlic fatty liver
disease – NAFLD), có liên quan chặt chẽ với IR
toàn cơ thể. Mặc dù còn có nhiều tranh cãi NAFLD
là nguyên phát hay thứ phát, nhưng thường xuyên
gặp IR ở người NAFLD. Tăng lipid có thể dẫn
tới tích tụ triglycerid ở gan và IR. Kết quả những
nghiên cứu truyền lipid chuỗi ngắn thấy xuất hiện
IR ở gan như một phản xạ giảm tác dụng của
insulin trong sản xuất glucose. Những nghiên cứu
trên động vật gần đây cũng cho thấy, lipid trung
gian như DGA cũng ức chế tác dụng của insulin và
tăng lắng đọng triglycerid ở gan giống như cơ chế
IR hướng lipid ở cơ vân.
Bằng phương pháp MRS thấy, người đái tháo
đường type 2 không béo cũng có nồng độ ATP
trong tế bào gan thấp hơn ở người cùng tuổi không
đái tháo đường. Thậm trí, khi kiểm tra lại nồng độ
lipid ở gan người ta thấy nồng độ ATP trong gan
có liên quan đến độ nhạy của insulin ở gan, nhưng
với những người nhạy cảm với insulin thì không
thấy hiện tượng này. Hiệu quả tổng hợp ATP ở
gan của người đái tháo đường giảm khoảng 40%,
có liên quan nghịch giữa độ nhạy của insulin ở cả
ngoại biên và ở gan với khối lượng mỡ của cơ thể.
Một số nghiên cứu khác cho thấy, người IR ở gan
có thay đổi về năng lượng ở gan độc lập với mức
độ lắng đọng lipid ở gan. Tuy nhiên, dòng lipid tới
tế bào mỡ dự trữ ở các tạng lớn có thể làm giảm
quá trình chuyển hóa của ATP trong gan người
đái tháo đường type 2. Khiếm khuyết về chuyển
hóa lipid ở gan là nguyên nhân chính dẫn tới bệnh
NAFLD và IR.
4. Kháng insulin ở mô mỡ
Chúng ta đã biết có sự liên quan chặt chẽ giữa
béo phì, tích tụ mỡ ở ngoại biên với các marker
của IR. Béo phì và hội chứng chuyển hóa có liên
quan đến tăng phản ứng viêm dưới lâm sàng của
tổ chức mỡ dẫn tới tiết cytokin. Những cytokin
này hoạt động nội tiết như leptin, yếu tố hoại tử
u α (tumor necrosis factor –α) và interleukin -6 có
thể kích thích serine phosphoryl hóa của IRS-1
và hoạt hóa IK kinase β (IKKβ), yếu tố nhân -KB
(NFKB) cả 2 đều tham gia vào quá trình IR như
đã mô tả ở trên. Trên lâm sàng, khi điều trị chống
viêm cấp bằng acetylsalicylate hoặc kéo dài với
salsalate cải thiện được tình trạng rối loạn chuyển
hóa glucid và IR ở người đái tháo đường type 2
béo, cho thấy hiện tượng viêm có thể tham gia vào
quá trình IR ở người béo. Ngoài ra, tổn thương ở
lưới nội mạc mạch máu cũng tham gia như một
nguyên nhân gây viêm tế bào và IR theo con
đường hoạt hóa Jun- N terminal kinase (JNK). Ở
những người đã phẫu thuật cắt bỏ phần trên của
dạ dày để giảm béo có tăng độ nhạy của insulin, vì
làm thay đổi tiết hormon và hệ vi sinh vật của ruột
giống như làm giảm các marker làm tổn thương
lưới nội mạc mạch. Tóm lại, rối loạn chuyển hóa
lipid máu kéo dài có thể là nguyên nhân của tổn
thương ty lạp thể và tổn thương lưới nội mạc mạch
máu, giải phóng ra những mảnh do phản ứng oxy
hóa, hoạt hóa lưới nội mạc mạch máu trước viêm
NFKB chống lại chuyển hóa lipid trong tế bào.
Diễn đàn
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 47
Một số nghiên cứu rối loạn chuyển hóa lipid
ở động vật thí nghiệm cho thấy, leptin có hiệu quả
trong điều trị IR. Một nghiên cứu lâm sàng: điều
trị bằng leptin 3-8 tháng cho người có IR, rối loạn
chuyển hóa lipid nặng và trung bình, người đái
tháo đường type 2 đã cải thiện được IR và giảm
được nồng độ lipid trong tế bào ở gan và cơ vân.
Kết quả này cho thấy vai trò của những mô đặc
biệt trong IR hướng lipid, gợi ý rằng mỡ tạng là
một marker của thoái hóa mỡ ở gan hơn là vai trò
của nó làm tiến triển IR.
5. Kết luận
Quá trình kháng insulin xảy ra sớm nhất ở cơ
vân, tiếp theo là ở gan. Bất cứ trường hợp nào làm
phá vỡ sự cân bằng giữa nguồn cung cấp và sử
dụng những mảnh acid béo (như DAGS) tới gan và
cơ sẽ dẫn tới kháng insulin. Ở những người có tình
trạng kháng insulin, hiệu quả tổng hợp glycogen
ở cơ vân sau ăn giảm tới 60%, nhưng nồng độ
triglycerid và tổng hợp lipoprotein ở gan tăng 2 lần
so với người không kháng insulin. Sự thay đổi này
có liên quan đến rối loạn thành phần lipid trong
huyết tương đó là tăng triglycerid 60% và giảm
HDL - C 20%, không liên quan đến adipocytokine.
Kháng insulin làm giảm dự trữ glycogen sau ăn
ở cơ vân dẫn tới tăng tổng hợp lipid ở gan, giải
phóng nhiều VLDL gây ra tăng thoái hóa lipid, vữa
xơ động mạch, béo tạng, hiện tượng viêm dưới
lâm sàng. Kháng insulin dự báo đái tháo đường
type 2 trước vài thập kỷ, có thể coi là yếu tố dự
báo sớm nhất. Kháng insulin ở cơ vân và ở gan
là hậu quả của sự mất cân bằng giữa vận chuyển
đến và đi của chất nền từ hồ DAG, dẫn đến lắng
đọng các sản phẩm lipid trung gian như DAG và
Acyl- CoA, cản trở dòng tín hiệu của insulin.Tình
trạng kháng insulin ở gan dẫn tới tăng glucose
sau ăn và lúc đói ở người đái tháo đường type 2
tùy thuộc vào chức năng của tế bào β. Tình trạng
kháng insulin ở cơ vân có thể là lý do đầu tiên
can thiệp đến sự phát triển của NAFLD, hội chứng
chuyển hóa và đái tháo đường type 2.
TàI LIỆU THAM KHẢO
1. Befroy DE, Petersen KF, Dufour S,
Mason GF, Rothman DL, Shulman GL. Increased
substrate oxydation and mitochondrial uncoupling
in skeletal muscle of endurance –trained individual.
Proc Natl Acad Sci USA 2008; 105: 16701-6.
2. Brehm A, Krssak M, Schmid AI, Nowotny P,
Waldhausl W, Roden M. Increased lipid availability
impairs insulin stimulated ATP synthesis in human
skeletal muscle. Diabetes 2006; 55:136-40.
3. Erion DM, Shulman GI. Diaglycerol- mediated
insulin resistance. Nat Med 2010; 16: 400-2.
4. Garg A, Arawal AK. Lipodystrophies:
disorders of adipose tissue biology. Biochim
Biophys Acta 2009; 1791: 507-13.
5. Goldfine AB, Fonseca V, Jablonski KA,
Pyle L, Staten MA, Shoelson SE. The effects of
salsalate on glycemic control in pationts with type
2 diabetes: a randomized trail. Ann Intern Med
2010; 152: 346-57.
6. Hoeg LD, Sjobreg KA, Jppensen J, et al. Lipid
–induced insulin resistance affects women less
than men and is not accompanied by inflammation
or impaired proximal insulin signaling. Diabetes
2011; 60: 64-73.
7. Hotamisligil GS. Inflamention and endoplamic
reticulum stress links obesity and diabetes. Int J
Obes (Lond) 2008; 32 suppl 7: S52- 4.
8. Koves TR, Ussher JR, Noland RC, et al.
Mitochrondial overload and incomplete fatty acid
oxidation contribute to skeletal muscle insulin
resistance. Cell Metab 2008; 7: 45-56.
9. Kraegen EW, Cooney GJ. Free fatty acids
and skeletal muscle insulin resistance. Curr Opin
Lipidol 2008; 19: 235-41.
10. Muniyappa R, Lee S, Chen H, Quon MJ.
Current approaches for assesing insulin sensitivity
and resistance in vivo: advantages, limitations,
and appropriate usage. Am J Physiol Edocrinol
Metab 2008; 294: E15-26.
11. Samuel VT, Petersen KF, Shulman GI.
Lipid- induce insulin resistance: unrevelling the
mechanism. Lancet 2010; 375: 2267-77.
Diễn đàn
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX48
12. Schmid AI, Chmelik M, Szendroedi J,
et al. Quantitative ATP synthesis in human liver
measured by localized 31P spectroscopy using the
magnetization transfer experiment. NMR Biomed
2008; 21: 437- 43.
13. Szendroedi J, Schmid AI, Meyerspeer M,
et al. Impaired mitochochodrial function and insulin
resistance of skelete muscle in mitochondial
diabetes. Diabetes care 2009; 32: 677-9.
ABsTRACT
THe MeCHANIsMs OF INsULIN ResIsTANCe
Impaired insulin sensisity, also termed insulin resistance, is then defined by reduced glucose
clearance in skeletal muscle, impaired suppression of glucose production by the liver and lower rate
of lipolysis by adipose tissue or by decreased combined action on whole body glucose disposal.
The determination of insulin sensistivity from the glycemic response, creates conditions of constant
insulin and glucose concentration, the rate of glucose production, insulin suppression of gluocse
metabolism, systemic lipolysis in skeletal muscle, liver, adipose tissue. Results of studies show
that: insulin resistance is the main factor for type 2diabetes. It likely startsin the muscle. Muscle
insulin resistance leads to alteratons postprandial energy deposition away from muscle glycogen
toward hepatic de novo lipogenesis and dyslipidemia, hepatic lipid accumulation and hepatic insulin
resistance eventually leading to non-alcoholic fatty liver disease and exessive fasting hepanic glucose
production. This cellular lipid accumulation can occur by an imbalance between substrate delevery
and removal from the insulin –responsive organs, causing defects/ disruption in insulin signaling.
Keywords: Insulin resistance, dyslipidemia, muscle, liver, adipose tissue, diabetes.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
co_che_khang_insulin.pdf