Bốn là, thực hiện tăng tỷ lệ ĐBQH
chuyên trách và giảm số lượng ĐBQH kiêm
nhiệm công tác ở các cơ quan hành pháp, tư
pháp, bảo đảm hoạt động lập pháp chuyên
nghiệp, độc lập, khách quan trong việc xem
xét, quyết định các chính sách; cân nhắc việc
bố trí cán bộ thuộc các bộ, ngành được biệt
phái sang làm lãnh đạo, thường trực Ủy ban
của Quốc hội; tăng cường bộ máy giúp việc
của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
gồm những chuyên gia (về pháp luật và về
các lĩnh vực hoạt động của các Uỷ ban) có
kinh nghiệm, làm nhiệm vụ tham mưu, giúp
việc cho Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội trong công tác thẩm tra. Đồng thời,
cần có cơ chế để huy động các nhà khoa học,
các chuyên gia pháp lý hoặc chuyên gia về
lĩnh vực mà dự án luật điều chỉnh tham gia
vào việc phản biện, tư vấn, đóng góp ý kiến
cho hoạt động thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý
luật; nâng cao trách nhiệm người đứng đầu
của các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm
trong quy trình xây dựng pháp luật. Xây
dựng thể chế là một trong những nhiệm vụ
quan trọng nhất nên cần phải coi kết quả
hoạt động xây dựng pháp luật, chất lượng
luật được xem xét, thông qua là một trong
các tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động, mức
độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, tổ
chức có trách nhiệm trong quy trình xây
dựng pháp luật.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 295 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ chế kiểm soát quyền lực trong hoạt động lập pháp: Thực trạng và kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP:
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
Nguyễn Mạnh Cường*
* ThS. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: kiểm soát quyền lực, hoạt
động lập pháp.
Lịch sử bài viết:
Ngày nhận bài : 01/6/2020
Biên tập : 18/6/2020
Duyệt bài : 28/6/2020
Article Infomation:
Keywords: Power control; legislative
activities.
Article History:
Received : 01 Jun. 2020
Edited : 18 Jun. 2020
Approved : 28 Jun. 2020
Tóm tắt:
Vấn đề kiểm soát quyền lực (KSQL) nói chung, KSQL trong bộ
máy nhà nước nói riêng đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm
2013. Trên thực tế, việc kiểm soát quyền lực trong hoạt động lập
pháp vẫn còn hạn chế nhất định. Trong phạm vi bài viết này, tác
giả trình bày thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực trong hoạt
động lập pháp và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng
như tổ chức thi hành pháp luật về vấn đề này.
Abstract:
Control of power in general, and control of power in the state
apparatus in particular is recognized in the Constitution of 2013.
In fact, there have appeared certain shortcomings in the control of
power in legislative activities. Within the scope of this article, the
author presents the current situation of the power control
mechanism in legislative activities and provides recommendations
for further improvements of the legal regulations as well as
arrangements of the law enforcement on this concerning matter.
1. Thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực
trong hoạt động lập pháp
1.1. Quy định của pháp luật về cơ chế
kiểm soát quyền lực trong hoạt động lập
pháp
KSQL trong hoạt động lập pháp được
thực hiện thông qua các quy định về thẩm
quyền, trình tự, thủ tục lập pháp, đồng thời
thông qua các quy định khác về cơ cấu, tổ
chức bộ máy và hoạt động của các cơ quan
nhà nước có liên quan. Những nội dung này
được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ
chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của Ủy
ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), của
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội,
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và
đại biểu Hội đồng nhân dân (ĐBHĐND),
Luật Tiếp cận thông tin, Luật Báo chí, Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... và được quy
định tập trung nhất tại Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Hiến
pháp, Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Ban
hành VBQPPL quy định Quốc hội có thẩm
quyền lập pháp, ban hành luật. Tuy nhiên,
thẩm quyền lập pháp này được kiểm soát
thông qua các quy định của pháp luật về quy
trình lập pháp. Có thể nhận thấy rằng, trong
tất cả các quy trình ban hành chính sách, các
Số 13 (413) - T7/20204
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1 Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung chủ yếu về hoạt động xây dựng luật; các hoạt động ban hành
văn bản quy phạm pháp luật khác cũng có nội dung tương tự, nhưng ở mức độ đơn giản hơn.
quy trình quyết định, thực hiện các công việc
của các cơ quan nhà nước, quy trình lập pháp
là quy trình được quy định rõ ràng, đầy đủ,
cụ thể và phức tạp nhất, bảo đảm kiểm soát
chặt chẽ hoạt động lập pháp. Điều này xuất
phát từ tính chất và tầm quan trọng của hoạt
động lập pháp đối với việc phát triển kinh tế
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất
nước, cũng như bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Theo đó, quy trình lập pháp
bao gồm nhiều bước, nhiều giai đoạn bắt
buộc phải tuân thủ, mỗi giai đoạn có tính
chất độc lập tương đối (từ lập chương trình
xây dựng pháp luật; soạn thảo; thẩm tra;
trình Quốc hội xem xét, thông qua), với
nhiều chủ thể tham gia, bảo đảm quyền của
các chủ thể tham gia không bị sự tác động,
sự chi phối tiêu cực của các chủ thể khác1.
Để bảo đảm việc xây dựng pháp luật được
khách quan, có chất lượng, khả thi, thể hiện
được ý chí, nguyện vọng, lợi ích chung của
nhân dân, của đất nước, không mang lợi ích
nhóm, lợi ích cục bộ, quy trình lập pháp đã
rất chú trọng tới các yêu cầu sau:
i) Bảo đảm công khai, dân chủ, minh
bạch trong các bước thực hiện quy trình, qua
đó tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước,
mọi người dân đều có thể giám sát được hoạt
động này; bảo đảm tuân thủ đầy đủ các
nguyên tắc xây dựng, ban hành VBQPPL
(bảo đảm hợp hiến, hợp pháp; theo đúng
thẩm quyền, bảo đảm khả thi...).
ii) Quy định rõ về thẩm quyền đối với
nội dung ban hành văn bản, về vấn đề ủy
quyền lập pháp, qua đó loại trừ việc lạm
quyền, tùy tiện trong ban hành văn bản.
iii) Quy định trách nhiệm tham gia của
các cơ quan trong quá trình soạn thảo và việc
lấy ý kiến của các bộ, ngành, địa phương đối
với dự án; đối với dự án không do Chính phủ
trình thì dự án phải được lấy ý kiến của
Chính phủ; trách nhiệm lấy ý kiến của các
đối tượng chịu sự tác động của dự án; lấy ý
kiến của nhân dân; trách nhiệm nghiên cứu,
giải trình, tiếp thu các ý kiến. Việc huy động
sự tham gia và lấy ý kiến rộng rãi về dự án
luật như vậy sẽ bảo đảm cho các chính sách
được xây dựng trong dự án luật khách quan,
toàn diện, có chất lượng.
iv) Quy định trách nhiệm tổng kết thực
tiễn; việc đánh giá tác động chính sách; đánh
giá thủ tục hành chính nhằm bảo đảm cho
các chính sách dự kiến được ban hành bảo
đảm tính khách quan, minh bạch, thuận tiện,
rõ ràng, khoa học, sát thực tiễn, có tính khả
thi... Thực tế cho thấy, pháp luật rõ ràng, thủ
tục hành chính thuận tiện, đơn giản... là
những yếu tố quan trọng để loại trừ tham
nhũng, tiêu cực trong thực thi chính sách.
v) Quy định việc thẩm định của Bộ Tư
pháp (cơ quan độc lập với cơ quan soạn
thảo), thẩm tra của các Ủy ban của Quốc hội
(cơ quan độc lập với cơ quan trình dự án);
quy định nội dung bắt buộc phải có trong
báo cáo thẩm định, báo cáo thẩm tra nhằm
bảo đảm kiểm soát được chính sách trong dự
án; quy định chặt chẽ thủ tục thẩm tra để bảo
đảm tất cả các ý kiến thành viên ủy ban thẩm
tra phải được thể hiện trong báo cáo thẩm
tra; quy định sự tham gia thẩm tra của các
Ủy ban đối với các vấn đề có liên quan.
Những quy định này nhằm bảo đảm cho dự
án được xem xét, kiểm tra, đánh giá đa
chiều, qua đó loại bỏ việc “cài cắm” lợi ích
cục bộ (nếu có) trong dự án luật.
vi) Quy định việc xin ý kiến UBTVQH,
ý kiến ĐBQH, Đoàn ĐBQH về dự án; việc
phối hợp giữa cơ quan thẩm tra với cơ quan
trình dự án, các cơ quan hữu quan dưới sự
chủ trì của UBTVQH trong việc tiếp thu,
chỉnh lý dự án. Đồng thời, cơ quan trình dự
án có quyền được báo cáo trước Quốc hội
nếu không đồng ý với nội dung chỉnh lý.
Những quy định này nhằm bảo đảm tính
khách quan, khoa học trong việc tiếp thu dự
án, tránh việc áp đặt ý kiến một chiều của
các cơ quan của Quốc hội (nếu có).
vii) Quy định về phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sự tham gia ý
kiến của các tổ chức chính trị - xã hội trong
quy trình lập pháp; sự giám sát của báo chí
(thông qua các quy định của Luật Báo chí);
giám sát của nhân dân đối với hoạt động lập
pháp; sự giám sát của chính Quốc hội đối với
hoạt động lập pháp.
viii) Quy định về trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong
xây dựng, ban hành văn bản. Người đứng
đầu cơ quan soạn thảo, thẩm định, trình,
thẩm tra phải chịu trách nhiệm về việc không
hoàn thành nhiệm vụ và tùy theo mức độ mà
bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán
bộ, công chức trong trường hợp dự thảo văn
bản không bảo đảm về chất lượng, tiến độ,
tính hợp hiến, tính hợp pháp của văn bản
được phân công thực hiện. Bên cạnh đó, để
bảo đảm cho ĐBQH hoạt động độc lập,
không bị ảnh hưởng, không phụ thuộc, chịu
sự chi phối của cơ quan khác trong hoạt
động lập pháp, Luật Bầu cử ĐBQH và
ĐBHĐND, Luật Tổ chức Quốc hội... đã có
các quy định về tiêu chuẩn, cơ cấu, thành
phần đại biểu; cơ chế đãi ngộ và điều kiện
bảo đảm hoạt động của đại biểu.
Bên cạnh các quy định của pháp luật,
Đảng cũng có các quy định nhằm bảo đảm
kiểm soát hoạt động lập pháp như: Thẩm
quyền của Đảng cho ý kiến về chiến lược,
định hướng xây dựng pháp luật; thủ tục báo
cáo cấp có thẩm quyền (Bộ Chính trị) với
các nội dung lớn, quan trọng của dự án; sau
khi có ý kiến của Bộ Chính trị, Đảng đoàn
Quốc hội có trách nhiệm lãnh đạo tổ chức
thực hiện; thông qua lãnh đạo, chỉ đạo công
tác nhân sự trong cơ quan lập pháp, thông
qua các thủ tục kiểm tra hoạt động của Đảng
đoàn, các Ban cán sự có liên quan tới hoạt
động lập pháp (ví dụ, các cơ quan của Đảng
đã kiểm tra, làm rõ và xử lý trách nhiệm
trong việc để xảy ra sai sót trong ban hành
Bộ luật Hình sự năm 2015...).
1.2. Thực trạng thực hiện cơ chế kiểm
soát quyền lực trong hoạt động lập pháp
Thực hiện các quy định của Luật Ban
hành VBQPPL, Quốc hội đã thông qua số
lượng lớn các luật với chất lượng ngày càng
được nâng cao; nội dung của luật cơ bản bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống
nhất của hệ thống pháp luật; đa số văn bản
bảo đảm tính khả thi, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn. Quy trình xây dựng pháp luật được thực
hiện nghiêm túc, có chất lượng từ khâu lập
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của
Quốc hội cho đến khi Quốc hội xem xét,
thông qua luật. Các dự thảo luật, pháp lệnh
đã bám sát và thể chế hóa các chủ trương,
đường lối của Đảng, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế -xã hội, được tổ chức lấy ý kiến
các cơ quan, tổ chức có liên quan và đối
tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản
với nhiều hình thức phù hợp. Chất lượng của
các báo cáo thẩm định, thẩm tra ngày càng
được nâng cao, bảo đảm tính độc lập, khách
quan, có tính phản biện cao, nêu được chính
kiến của cơ quan thẩm định, thẩm tra đối với
dự thảo văn bản, những vấn đề nhất trí,
không nhất trí hoặc còn có ý kiến khác nhau,
những kiến nghị sửa đổi, bổ sung.
Việc thảo luận của ĐBQH về các dự
thảo luật được tiến hành nghiêm túc, có
nhiều ý kiến xác đáng, làm cơ sở cho việc
chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo. Sau khi Quốc
hội thảo luận, cho ý kiến, UBTVQH đã chỉ
đạo Ủy ban của Quốc hội phối hợp với cơ
5Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
quan trình dự án và các cơ quan có liên quan
tiếp thu, chỉnh lý dự án luật. Quy trình xin ý
kiến Bộ Chính trị đối với các nội dung lớn,
quan trọng của dự án luật được tuân thủ chặt
chẽ, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác xây dựng pháp luật. Có thể nói, việc
thực hiện nghiêm túc các quy định nêu trên
về cơ bản đã đảm bảo sự kiểm soát đối với
hoạt động lập pháp, bảo đảm văn bản luật
được ban hành công khai, minh bạch, có
chất lượng, phản ánh đúng đường lối, chính
sách của Đảng, ý chí của nhân dân, không bị
lợi ích cục bộ ngành, địa phương, “nhóm lợi
ích” chi phối, qua đó thực hiện tốt mục tiêu
phòng, chống tham nhũng (PCTN).
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực
hiện, vẫn còn một số hạn chế, tồn tại dẫn đến
hiệu quả kiểm soát quyền lập pháp chưa cao,
cụ thể như sau:
- Trong quá trình soạn thảo luật, việc lấy
ý kiến đối với dự thảo và kể cả đối với đề
nghị xây dựng luật, nhìn chung còn mang
tính hình thức; chất lượng ý kiến đóng góp
chưa cao, nhất là đối với những vấn đề mới,
phức tạp, còn nhiều tranh luận.
- Sự tham gia của các cơ quan hữu quan
vào soạn thảo luật còn hạn chế; một số tài
liệu trong hồ sơ luật còn hình thức, nhất là
báo cáo đánh giá tác động, báo cáo rà soát
thủ tục hành chính, dự thảo văn bản quy định
chi tiết...
- Chính phủ, cơ quan trình dự án chưa
dành thời gian thỏa đáng để xem xét, cho ý
kiến vào dự thảo luật trước khi trình sang
Quốc hội (có trường hợp tập thể cơ quan
trình dự án dành thời gian quá ít để thảo luận
dự án luật; xin ý kiến bằng văn bản nên việc
tranh luận, thảo luận bị hạn chế...). Những
vấn đề nêu trên làm cho việc kiểm soát các
chính sách, các thủ tục hành chính, các nội
dung lớn khác của dự thảo bị buông lỏng,
không chặt chẽ.
- Chất lượng các báo cáo thẩm định,
thẩm tra chưa đồng đều, nội dung của một
số báo cáo còn sơ sài, xuôi chiều, chưa thực
sự mang tính phản biện; chưa dựa trên lập
luận mang tính khoa học, nên thiếu tính
thuyết phục.
- Trong việc tiếp thu, chỉnh lý dự án luật
còn tồn tại một bất cập là có những dự án
chuẩn bị chưa tốt được trình ra Quốc hội và
sau khi Quốc hội cho ý kiến thì gần như dự
án cần phải sửa đổi lại rất nhiều. Tuy nhiên,
đến lúc này thì dự án đã “nằm ở sân Quốc
hội”, cơ quan soạn thảo gần như chỉ có trách
nhiệm “tham gia”; việc chỉnh lý, soạn thảo
lại dự án không phải tuân theo các quy trình
của Luật Ban hành VBQPPL (đánh giá tác
động, lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự
tác động...), dẫn đến sự kiểm soát đối với nội
dung được soạn thảo, chỉnh lý lại sẽ thiếu
chặt chẽ.
- Nhiều quy định ở số văn bản luật còn
mang tính nguyên tắc, chưa cụ thể, cần phải
có văn bản quy định chi tiết mới thi hành
được. Ngược lại, văn bản hướng dẫn thi
hành còn bao hàm cả những nội dung không
được luật giao.
- Sự tham gia của các cơ quan hữu quan
trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý một số dự
án luật còn rất hạn chế, thậm chí có dự án
chỉ có cán bộ cấp phòng và chuyên viên
tham gia. Việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức thành viên tham gia xây dựng
và giám sát hoạt động lập pháp còn chưa đạt
hiệu quả như mong muốn. Việc phân định,
xác định rõ trách nhiệm của mỗi cơ quan đối
với hạn chế, bất cập trong ban hành luật còn
khó khăn.
Qua quá trình thi hành các quy định của
Luật Ban hành VBQPPL và các quy định
khác của pháp luật có liên quan tới kiểm soát
quyền lực trong lĩnh vực lập pháp, có thể
thấy rằng về cơ bản, các quy định của pháp
luật nước ta về vấn đề này là phù hợp với
thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đặt ra và cũng
Số 13 (413) - T7/20206
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
phù hợp với nhiều kinh nghiệm, thông lệ
quốc tế trong xây dựng pháp luật2. Phần lớn
những tồn tại, hạn chế như đã trình bày ở
trên là do khâu tổ chức thực hiện pháp luật
chưa tốt. Tuy nhiên, cũng có những tồn tại,
hạn chế là do quy định của pháp luật chưa
phù hợp; tổ chức bộ máy, nguồn lực, điều
kiện bảo đảm cho hoạt động lập pháp chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực trong hoạt động lập
pháp
Để hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền
lực trong hoạt động lập pháp, chúng tôi có
một số kiến nghị sau đây:
Một là, bảo đảm chất lượng công tác
xây dựng pháp luật nói chung, trong đó có
việc bảo đảm kiểm soát quyền lực trong hoạt
động lập pháp nói riêng, có vai trò và ý nghĩa
rất quan trọng trong việc xây dựng, hoàn
thiện thể chế - là một trong những khâu đột
phá chiến lược trong mục tiêu phát triển đất
nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020 (NQ 48-NQ/TW), trong đó đề ra một
số giải pháp về xây dựng pháp luật liên quan
trực tiếp tới nội dung này. Trong bối cảnh
hiện nay, những giải pháp được nêu trong
NQ 48-NQ/TW cần phải được tiếp tục thực
hiện và bổ sung thêm về nội dung nhằm khắc
phục những tồn tại, hạn chế trong công tác
xây dựng pháp luật và đáp ứng yêu cầu tình
hình mới.
Hai là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác xây dựng pháp
luật, trong đó các cơ quan soạn thảo luật cần
thực hiện nghiêm túc các trình tự, thủ tục
xây dựng, ban hành VBQPPL, nhất là tiến
hành việc tổng kết thực tiễn, đánh giá tác
động chính sách, đánh giá thủ tục hành chính
đầy đủ, có chất lượng; xây dựng chính sách
minh bạch, cụ thể, rõ ràng, đồng bộ, thống
nhất, đúng thẩm quyền, không có lợi ích cục
bộ, lợi ích nhóm, bảo đảm thể chế đúng chủ
trương, chính sách của Đảng; lấy ý kiến đối
tượng chịu sự tác động, các cơ quan, tổ chức
hữu quan và có sự tiếp thu hoặc giải trình
nghiêm túc các ý kiến này. Hồ sơ dự án phải
được gửi cho Quốc hội theo đúng thời hạn;
tăng cường trách nhiệm của Chính phủ và
các bộ trưởng trong việc chỉ đạo hoạt động
xây dựng pháp luật. Mỗi dự án luật trước khi
trình sang Quốc hội phải được thẩm định kỹ
lưỡng, khách quan, khoa học và phải được
Chính phủ dành thời gian thỏa đáng, thảo
luận kỹ về các nội dung của dự án, nhất là
những vấn đề mang tính quan điểm, chính
sách và những vấn đề liên ngành còn có ý
kiến khác nhau, qua đó không để lọt lợi ích
cục bộ, không để sơ hở về chính sách dễ dẫn
đến lạm dụng để tham nhũng.
Ba là, tăng cường trách nhiệm của cơ
quan chủ trì thẩm tra và các cơ quan tham
gia thẩm tra. Việc phân công Hội đồng Dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội chủ trì, tham
gia thẩm tra phải bảo đảm đúng quy định của
pháp luật và phải bảo đảm tính khoa học,
tính hợp lý và thống nhất của việc phân
công. Luật Ban hành VBQPPL cần có quy
định rõ về trách nhiệm cụ thể trong việc
tham gia thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội (trách nhiệm cử thành
viên dự họp; trách nhiệm xây dựng báo cáo
7Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
2 Tuy nhiên, do thể chế chính trị khác nhau, nên giữa Việt Nam với các nước theo chế độ đa đảng chính trị có
sự khác nhau nhất định về cơ chế kiểm soát, chế ước quyền lực.
tham gia thẩm tra; trách nhiệm “gác cổng”,
“kiểm soát” về các chính sách thuộc lĩnh vực
ủy ban phụ trách...). Các cơ quan này cần
phải được tăng cường hơn nữa, đặc biệt là
về số lượng thành viên hoạt động chuyên
trách; tăng cường vai trò, trách nhiệm của
Thường trực các cơ quan này trong công tác
thẩm tra, nhất là các bước thẩm tra sơ bộ
trước khi thẩm tra chính thức. Hoạt động
thẩm tra cần công khai, huy động sự tham
gia của các ĐBQH quan tâm đến dự án, sự
theo dõi của báo chí, tổ chức xã hội, của
nhân dân, qua đó giám sát hoạt động thẩm
tra, bảo đảm hoạt động này diễn ra minh
bạch, khách quan. Hoạt động xem xét, thông
qua luật của Quốc hội, UBTVQH tiến tới phải
dựa chủ yếu vào ý kiến của Hội đồng dân tộc
và các Uỷ ban của Quốc hội. Việc biểu quyết
các vấn đề cơ bản của dự án luật tại lần trình
thứ nhất nhằm làm cơ sở cho việc tiếp thu,
chỉnh lý luật cần được quan tâm thực hiện
theo đúng quy định của Luật Ban hành
VBQPPL; cần xác định trách nhiệm của Ủy
ban chủ trì thẩm tra trong việc giúp
UBTVQH dự kiến trước những vấn đề cơ bản
cần trình Quốc hội biểu quyết. Chất lượng của
việc xem xét, cho ý kiến của UBTVQH đối
với các dự án luật trước khi trình Quốc hội
cũng cần phải được tiếp tục tăng cường; Đảng
đoàn Quốc hội thực hiện nghiêm túc trách
nhiệm báo cáo, xin ý kiến Bộ chính trị về các
nội dung lớn của dự án luật.
Bốn là, thực hiện tăng tỷ lệ ĐBQH
chuyên trách và giảm số lượng ĐBQH kiêm
nhiệm công tác ở các cơ quan hành pháp, tư
pháp, bảo đảm hoạt động lập pháp chuyên
nghiệp, độc lập, khách quan trong việc xem
xét, quyết định các chính sách; cân nhắc việc
bố trí cán bộ thuộc các bộ, ngành được biệt
phái sang làm lãnh đạo, thường trực Ủy ban
của Quốc hội; tăng cường bộ máy giúp việc
của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
gồm những chuyên gia (về pháp luật và về
các lĩnh vực hoạt động của các Uỷ ban) có
kinh nghiệm, làm nhiệm vụ tham mưu, giúp
việc cho Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội trong công tác thẩm tra. Đồng thời,
cần có cơ chế để huy động các nhà khoa học,
các chuyên gia pháp lý hoặc chuyên gia về
lĩnh vực mà dự án luật điều chỉnh tham gia
vào việc phản biện, tư vấn, đóng góp ý kiến
cho hoạt động thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý
luật; nâng cao trách nhiệm người đứng đầu
của các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm
trong quy trình xây dựng pháp luật. Xây
dựng thể chế là một trong những nhiệm vụ
quan trọng nhất nên cần phải coi kết quả
hoạt động xây dựng pháp luật, chất lượng
luật được xem xét, thông qua là một trong
các tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động, mức
độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, tổ
chức có trách nhiệm trong quy trình xây
dựng pháp luật.
Năm là, tăng cường các kênh, các hoạt
động giám sát đối với hoạt động xây dựng
pháp luật như: Hoạt động giám sát của Đảng
đối với công tác lập pháp; hoạt động giám
sát của Quốc hội đối với việc thực thi pháp
luật. Qua giám sát, nếu phát hiện sơ hở,
thiếu sót trong VBQPPL thì yêu cầu các cơ
quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc
trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật về kiểm soát quyền
lực; hoạt động giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành
viên, giám sát của báo chí và nhân dân; tiếp
tục nghiên cứu để bảo đảm thực hiện tốt cơ
chế bảo hiến, phù hợp với quy định của
Hiến pháp năm 2013 và thể chế chính trị của
nước ta n
Số 13 (413) - T7/20208
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_che_kiem_soat_quyen_luc_trong_hoat_dong_lap_phap_thuc_tra.pdf