Hình thành các tiêu chuẩn, quy tắc ứng
xử quốc gia, ngành về trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp và từng bước áp dụng
chế độ báo cáo về trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp. Để phát triển bền vững, rõ
ràng không thể không thực hiện theo các
chuẩn mực trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên,
trên thực tế việc thực hiện trách nhiệm
xã hội hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào ý
chí và lợi ích của doanh nghiệp. Điều này
dẫn đến những khó khăn trong việc triển
khai áp dụng một cách có hệ thống, cũng
như việc kiểm tra giám sát. Vì vậy, để việc
thực hiện trách nhiệm xã hội trở nên phổ
biến hơn, thực chất hơn và khuyến khích
doanh nghiệp thực hiện mạnh mẽ hơn thì
cần xây dựng được bộ tiêu chuẩn đánh giá
trách nhiệm xã hội của Việt Nam dựa trên
kinh nghiệm quốc tế, có tính toán điều kiện
thực tế trong nước. Cùng với đó từng bước
hình thành hệ thống đánh giá trách nhiệm
xã hội độc lập, có trách nhiệm và triển khai
chế độ báo cáo thường niên hoặc định kỳ
về việc thực hiện trách nhiệm xã hội, xem
đây là một trong những công cụ quảng bá,
là phương tiện thông tin để cơ quan quản lý
Nhà nước, cộng đồng và các bên liên quan
theo dõi hoạt động của doanh nghiệp, cũng
như để việc thực hiện trách nhiệm xã hội
không chỉ dừng lại là những hoạt động nhân
đạo từ thiện hay trách nhiệm pháp lý mà nó
thực sự trở thành một nghĩa vụ đạo đức của
mỗi doanh nghiệp.
Từng bước lấy việc thực hiện trách nhiệm
xã hội là một trong những tiêu chí để lựa chọn
nhà đầu tư và dự án đầu tư vào Việt Nam.
Kinh nghiệm cho thấy các doanh nghiệp thực
hiện tốt trách nhiệm xã hội cũng là các doanh
nghiệp có năng lực về vốn, công nghệ, có đạo
đức kinh doanh và ý thức đóng góp cho phát
triển cộng đồng địa phương. Việc xem trách
nhiệm xã hội như là tiêu chí để lựa chọn nhà
đầu tư sẽ giúp lựa chọn được nhà đầu tư có
năng lực, có đạo đức, góp phần hạn chế được
những tác động tiêu cực của hoạt động đầu tư
nước ngoài hiện nay như vấn đề môi trường,
vấn đề phúc lợi, đảm bảo quyền lợi cho người
lao động, hay vấn đề cạn kiệt tài nguyên.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chiến lược kinh
doanh bền vững của các doanh nghiệp có vốn
nước ngoài thực hiện tốt trách nhiệm xã hội
sẽ đem lại cơ hội học hỏi cho doanh nghiệp
trong nước, nhưng cũng tạo áp lực buộc các
doanh nghiệp trong nước cũng phải dần nâng
cao nhận thức và thực hiện trách nhiệm xã
hội để có thể tham gia vào mạng sản xuất toàn
cầu. Đặc biệt khi lợi thế về nhân công giá rẻ
hay nguồn tài nguyên phong phú không còn
là của riêng Việt Nam nữa và yêu cầu về một
nền kinh tế xanh, phát triển bền vững thì đòi
hỏi các doanh nghiệp muốn tham gia sân chơi
lớn buộc phải bổ sung thêm cho mình năng
lực cạnh tranh mới và trách nhiệm xã hội sẽ
là một công cụ đắc lực giúp cho doanh nghiệp
có được ưu thế so với các đối thủ cạnh tranh
trong khu vực.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
11 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 824 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ hội và thách thức khi thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
77
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 15, Số 2 (2019): 77 - 87
Email: luuthevinh227@gmail.com
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
Tập 15, Số 2 (2019): 77-87
JOURNAL OF SCIENCE AND TECHNOLOGY 
HUNG VUONG UNIVERSITY
Vol. 15, No. 2 (2019): 77 - 87
Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.hvu.edu.vn
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC KHI THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI 
CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
1Nguyễn Vĩnh Long, 2Lưu Thế Vinh
1Sở Ngoại vụ tỉnh Phú Thọ, 
2Khoa Kinh tế & Quản trị kinh doanh - Trường Đại học Hùng Vương
Ngày nhận bài: 18/6/2019; Ngày sửa chữa: 22/7/2019; Ngày duyệt đăng: 29/7/2019
Tóm TắT
Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển của đất nước, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của tất cả mọi chủ thể, trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của các doanh nghiệp, gắn với việc 
thực hiện trách nhiệm xã hội của mình. Bài viết đề cập đến một số vấn đề về lợi ích, những cơ hội và thách thức 
trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm góp phần 
thực hiện tốt hơn trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam trong quá trình hội nhập hiện nay.
Từ khoá: Trách nhiệm xã hội, cơ hội, thách thức.
1. Đặt vấn đề
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là 
sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho 
sự phát triển bền vững, thông qua những 
hoạt động nhằm nâng cao chất lượng cuộc 
sống của người lao động, của cộng đồng và 
của toàn xã hội theo cách có lợi cho cả doanh 
nghiệp cũng như vì sự phát triển chung của 
xã hội. Là việc các doanh nghiệp thể hiện sự 
quan tâm tới các vấn đề xã hội và vấn đề môi 
trường trong quá trình hoạt động của mình 
gắn với phát triển bền vững.
Quá trình  hội nhập kinh tế quốc tế của 
Việt Nam đang bước sang giai đoạn mới, 
thời điểm nước ta hoàn thành lộ trình cam 
kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới; 
cắt giảm thuế quan theo Hiệp định Thương 
mại hàng hóa ASEAN và bắt đầu thực thi các 
cam kết Hiệp định Thương mại Tự do (FTA). 
Việt Nam đã ký kết và chuẩn bị triển khai 
các FTA thế hệ mới như Hiệp định đối tác 
toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương 
(CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt 
Nam - EU (EVFTA) với những cam kết sâu 
rộng, tiêu chuẩn cao và mở rộng trên nhiều 
lĩnh vực. Trong điều kiện đó, việc thực hiện 
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được 
coi là một trong những yêu cầu quan trọng 
đối với doanh nghiệp nếu muốn thành công, 
vươn xa hội nhập với nền kinh tế khu vực và 
thế giới. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng trong 
quá trình hội nhập toàn diện hiện nay, các 
doanh nghiệp cũng phải đối mặt với nhiều 
khó khăn, thách thức như: sức ép cạnh tranh 
ở cả ba cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp và 
quốc gia; vấn đề năng lực sản xuất, hay vấn đề 
cải cách thể chế, chính sách... Để có thể thành 
công và thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của 
mình các doanh nghiệp phải nhận thức được 
những cơ hội, cũng như những thách thức 
đặt ra để có những bước đi phù hợp.
78
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Lưu Thế Vinh và ctv
2. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ khái niệm, vai trò và những 
cơ hội, thách thức của việc thực hiện trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp, bài viết sử 
dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và 
hệ thống hóa tài liệu. Kết quả nghiên cứu 
chủ yếu sử dụng dữ liệu thứ cấp được thu 
thập qua các báo cáo, sách báo, tạp chí đã 
được công bố.
3. Nội dung, kết quả nghiên cứu
3.1. Khái niệm và lợi ích của việc thực 
hiện trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp
3.1.1. Khái niệm trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp
Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp chính thức xuất hiện khi H.R.Bowen 
(1953) công bố cuốn sách của mình với nhan 
đề “Trách nhiệm xã hội của doanh nhân” 
(Social Responsibilities of the Businessmen) 
nhằm mục đích tuyên truyền và kêu gọi 
người quản lý tài sản không làm tổn hại đến 
các quyền và lợi ích của người khác, kêu gọi 
lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại 
do các doanh nghiệp làm tổn hại cho xã hội. 
Từ đó đến nay cũng có nhiều nhà nghiên cứu 
đưa ra các quan điểm khác nhau như, Keith 
Davis (1973) cho rằng “Trách nhiệm xã hội 
của doanh nghiệp là sự quan tâm và phản 
ứng của doanh nghiệp với các vấn đề vượt ra 
ngoài việc thoả mãn những yêu cầu pháp lý, 
kinh tế và công nghệ”. Archie Carroll (1999) 
đưa ra khái niệm có phạm vi rộng hơn, khi 
cho rằng “Trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp là tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, 
đạo đức và những lĩnh vực khác mà xã hội 
trông đợi ở doanh nghiệp trong mỗi thời 
điểm nhất định”. Matten và Moon (2004) cho 
rằng “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 
là một khái niệm chùm, bao gồm nhiều khái 
niệm khác nhau, như đạo đức kinh doanh, 
doanh nghiệp là từ thiện, công dân doanh 
nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi 
trường. Đó là một khái niệm động và luôn 
được thử thách trong từng bối cảnh kinh tế, 
chính trị, xã hội đặc thù”... Ngày nay, vấn đề 
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ngày 
càng được nhiều người quan tâm nghiên 
cứu và có nhiều quan niệm khác nhau về 
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp như:
Tổ chức về trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp của Hy Lạp (2000) cho rằng: “Trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp là cam kết 
tự nguyện của các doanh nghiệp thực hiện 
tốt các hoạt động xã hội và môi trường trên 
cả những quy định của pháp luật và tất cả 
những đối tượng chịu ảnh hưởng bởi các 
hoạt động của doanh nghiệp như người lao 
động, các cổ đông, các nhà cung cấp, các nhà 
đầu tư, người tiêu dùng”. 
Hội đồng kinh doanh thế giới vì sự phát 
triển bền vững (2000) quan niệm: “Trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp là sự cam 
kết tiếp tục hành động một cách có đạo đức 
trong kinh doanh và đóng góp vào sự phát 
triển kinh tế trong khi nâng cao chất lượng 
cuộc sống của lực lượng lao động và gia đình 
họ, cũng như của cộng đồng địa phương và 
rộng hơn là của toàn xã hội nói chung”.
Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển 
(OECD) (2009) cho rằng: “Trách nhiệm xã 
hội của doanh nghiệp là sự đóng góp của 
doanh nghiệp vào sự phát triển bền vững, 
không chỉ là trách nhiệm của doanh nghiệp 
trong việc đảm bảo thu nhập cho các cổ 
đông, lương cho người lao động, sản phẩm 
và dịch vụ cho khách hàng mà còn là trách 
nhiệm đối với các giá trị của xã hội và của 
môi trường.
Còn Liên minh Châu Âu (2011) quan 
niệm, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 
“Là một khái niệm trong đó các doanh 
79
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 15, Số 2 (2019): 77 - 87
nghiệp tự nguyện đưa các vấn đề xã hội và 
môi trường thành một trong những mối 
quan tâm của hoạt động kinh doanh cũng 
như mối quan hệ tác động qua lại của doanh 
nghiệp với các đối tượng liên quan”. 
Nhìn chung các quan niệm này đều 
nhấn mạnh rằng, trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp là những cam kết tự nguyện 
của doanh nghiệp trong việc đưa các chuẩn 
mực và quy tắc vào quản lý và tổ chức các 
hoạt động kinh doanh của mình trên thị 
trường, nó bao trùm tất cả những vấn đề 
xã hội, môi trường và đòi hỏi phải được kết 
hợp trong chiến lược hoạt động kinh doanh 
của doanh nghiệp. 
Trong các quan niệm về trách nhiệm xã 
hội của doanh nghiệp hiện nay, có thể thấy 
quan niệm của Hội đồng kinh doanh thế giới 
về phát triển bền vững và của nhóm khảo sát 
về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp của 
Ngân hàng Thế giới (2003) được cho là toàn 
diện và được nhiều người ủng hộ nhất, khi 
cho rằng: “Trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp là sự cam kết của doanh nghiệp đóng 
góp vào việc phát triển kinh tế bền vững, 
thông qua những hoạt động nhằm nâng cao 
chất lượng đời sống của người lao động và 
các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng 
và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh 
nghiệp cũng như phát triển chung của xã 
hội”. Đây được xem là quan niệm về trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp rõ ràng, dễ 
hiểu, hoàn chỉnh và phù hợp nhất, vì nó đã 
đề cập đến vấn đề cần phải gắn liền trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp với vấn đề 
phát triển bền vững - một yêu cầu khách 
quan, cấp thiết, có tính toàn cầu của sự phát 
triển hiện nay. 
Khi cạnh tranh ngày càng gay gắt, những 
yêu cầu, đòi hỏi từ khách hàng ngày càng 
cao và do vậy, xã hội cũng có cái nhìn ngày 
càng khắt khe hơn đối với doanh nghiệp về 
bổn phận, trách nhiệm trước cộng đồng, 
thì các doanh nghiệp muốn phát triển bền 
vững phải luôn tuân thủ không chỉ những 
chuẩn mực về bảo đảm sản xuất, kinh doanh 
phải có lợi nhuận, mà còn cả những chuẩn 
mực về bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi 
trường lao động, về thực hiện bình đẳng 
giới, an toàn lao động, quyền lợi của người 
lao động, quyền lợi đào tạo và phát triển của 
nhân viên, tham gia góp phần phát triển 
cộng đồng... Như vậy, trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp bao gồm nhiều khía cạnh liên 
quan đến ứng xử của doanh nghiệp đối với 
các chủ thể và đối tượng có liên quan trong 
quá trình hoạt động của doanh nghiệp, từ 
người sản xuất, tiếp thị, tiêu thụ, tiêu dùng 
đến các nhà cung ứng; từ  đội ngũ cán bộ, 
nhân viên cho đến các cổ đông của doanh 
nghiệp. Về cơ bản, trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp gồm: trách nhiệm về kinh tế; 
trách nhiệm về pháp lý; trách nhiệm về đạo 
đức; và trách nhiệm nhân văn, từ thiện. Việc 
thực hiện các trách nhiệm đó được thể hiện 
trên các phương diện: Thực hiện sản xuất 
kinh doanh có lãi; Đảm bảo quyền và lợi 
ích hợp pháp cho người lao động, bình đẳng 
trong đối xử với người lao động; Thực hiện 
tốt vấn đề an toàn thực phẩm, bảo vệ quyền 
lợi của người tiêu dùng; Thực hiện tốt vấn 
đề bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên 
nhiên; Tham gia các hoạt động từ thiện, trợ 
giúp xã hội.
3.1.2. Những lợi ích của việc thực hiện trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp
* Với các đối tượng có liên quan đến hoạt 
động kinh doanh của doanh nghiệp
Với người lao động, phần lớn người lao 
động yêu thích công việc của mình do điều 
kiện lao động tốt và chế độ lương thưởng 
hợp lý, nên ngoài việc quan tâm tới vấn đề 
trả lương xứng đáng, đúng quy định, không 
phân biệt đối xử, họ còn quan tâm tới việc 
doanh nghiệp có chính sách đãi ngộ và đào 
80
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Lưu Thế Vinh và ctv
tạo tốt và có môi trường làm việc thuận 
lợi không? Đây cũng chính là trách nhiệm 
của doanh nghiệp đối với người lao động. 
Những điều kiện cơ bản này, dù đơn giản 
nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng 
có ý thức trong việc thực hiện được. Doanh 
nghiệp đáp ứng được các yêu cầu này cũng 
đồng nghĩa với việc họ tạo ra được một đội 
ngũ lao động trung thành, gắn bó, yêu thích 
công việc, tự hào về hình ảnh doanh nghiệp 
và quyết tâm làm việc vì lợi ích chung của 
doanh nghiệp. Nhờ đó chi phí thực tế, chi 
phí cơ hội, sức lực, cũng như những hao tổn 
về tinh thần do phải liên tục tìm kiếm và đào 
tạo nhân sự mới được giảm đi đáng kể. Lợi 
ích đạt được ở đây, rõ ràng ngoài lợi ích kinh 
tế được nâng lên rõ rệt còn có một văn hóa 
gắn kết tại doanh nghiệp. Văn hóa doanh 
nghiệp mạnh sẽ tác động tích cực không chỉ 
tới riêng chính bản thân doanh nghiệp mà 
còn lan tỏa rất tốt trong cộng đồng doanh 
nghiệp. Đây là điều mọi doanh nghiệp đều 
mong muốn xây dựng được. 
Với các cổ đông: Trọng tâm trong trách 
nhiệm của doanh nghiêp đối với cổ đông 
là công bố thông tin minh bạch, điều hành 
công ty hiệu quả và sử dụng nguồn vốn hợp 
lý. Công bố thông tin minh bạch, điều hành 
công ty hiệu quả, sử dụng vốn hợp lý để tạo 
ra giá trị gia tăng là điều cần phải làm đối 
với bất kỳ doanh nghiệp nào vì sự phát triển 
bền vững của chính doanh nghiệp. Có như 
thế, mới tạo ra được niềm tin cho nhà đầu 
tư, cũng như giảm thiểu được những mâu 
thuẫn lợi ích trong quá trình hoạt động của 
doanh nghiệp. 
Đối với khách hàng: Trách nhiệm xã 
hội của doanh nghiệp thể hiện ở việc bán 
sản phẩm thỏa mãn tốt nhu cầu của khách 
hàng, giá cả hợp lý, giao hàng đúng hẹn và 
an toàn cho sử dụng... Khi doanh nghiệp có 
mối quan hệ tốt với khách hàng họ sẽ hiểu 
khách hàng hơn, nắm bắt được những nhu 
cầu của khách hàng, từ đó doanh nghiệp sẽ 
có lợi thế cạnh tranh về sản phẩm. Bên cạnh 
đó, việc hiểu khách hàng của mình cần gì và 
tạo ra được sản phẩm đáp ứng nhu cầu của 
họ, doanh nghiệp sẽ gây được thiện cảm, 
hấp dẫn, thu hút và giữ chân được những 
khách hàng trung thành và từng bước mở 
rộng thị phần.
Theo báo cáo Phát triển bền vững của 
Công ty nghiên cứu thị trường toàn cầu 
Nielsen (2017), người tiêu dùng Việt có tinh 
thần hướng đến xã hội và sự phát triển bền 
vững cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. 
Có đến 86% người tiêu dùng Việt Nam sẵn 
sàng chi trả cao hơn để mua sản phẩm, dịch 
vụ từ các công ty bán hàng có ảnh hưởng 
tích cực đến xã hội và môi trường. Bên cạnh 
đó, những yếu tố liên quan đến cam kết bền 
vững có ảnh hưởng đến quyết định mua hàng 
của người tiêu dùng ở Việt Nam được người 
tiêu dùng đánh giá cao như: sản phẩm được 
biết đến như các sản phẩm tốt cho sức khỏe 
và lợi ích cho cơ thể (77%) và sản phẩm có 
nguồn gốc tự nhiên, tươi sống và các thành 
phần hữu cơ (77%), các sản phẩm với tiêu 
chuẩn an toàn cao cũng chiếm 76% hay sản 
phẩm của doanh nghiệp có cam kết trách 
nhiệm về môi trường (62%), cam kết trách 
nhiệm với các giá trị xã hội và cộng đồng nơi 
người tiêu dùng đang sống (62%)[2]. Và theo 
khảo sát của tổ chức National Forest (2017), 
81% khách hàng lựa chọn mua sản phẩm 
bảo vệ môi trường và 73% người lao động 
sẽ trung thành với ông chủ tích cực tham 
gia các hoạt động từ thiện. Do đó, các doanh 
nghiệp ở Việt Nam không những chỉ cạnh 
tranh về hàng hóa, giá cả, chất lượng dịch 
vụ... mà còn xem trách nhiệm xã hội như là 
một trong những chiến lược cạnh tranh bền 
vững nhằm xây dựng một hệ thống khách 
hàng trung thành. 
Đối với cộng đồng: Nhiệm vụ trước hết 
là bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng 
81
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 15, Số 2 (2019): 77 - 87
đồng và sau đó là công tác xã hội, nhân đạo, 
từ thiện. Các khoản đầu tư xanh là vấn đề 
đang được quan tâm của nhiều nước, đặc 
biệt là ở các quốc gia phát triển. Giải quyết 
vấn đề ô nhiễm môi trường, tài nguyên thiên 
nhiên cạn kiệt, biến đổi khí hậu và các vấn 
đề xã hội ngày nay là trách nhiệm của tất cả 
mọi người, trong đó đặc biệt là các doanh 
nghiệp. Doanh nghiệp bảo vệ môi trường, 
ngoài việc thực hiện trách nhiệm trong việc 
tuân thủ các quy định của Nhà nước, thì các 
doanh nghiệp cũng sẽ giảm được phí tổn 
khác trong việc bồi thường, khắc phục hậu 
quả do mình gây ra. Không chỉ vậy, các cơ 
quan quản lý nhà nước cũng có xu hướng 
ưu ái đối với các doanh nghiệp có lịch sử 
tốt về bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu 
dùng và tích cực tham gia hoạt động xã hội, 
từ thiện. Điều đó sẽ trở thành một lợi thế 
và thuận lợi không nhỏ cho doanh nghiệp 
trong quá trình hoạt động. Và trên thực tế 
các nhà lãnh đạo doanh nghiệp ngày nay 
hiểu rất rõ vai trò của các hoạt động xã hội, 
từ thiện, phát triển cộng đồng sẽ giúp định 
vị doanh nghiệp, xây dựng hình ảnh và 
quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp để 
đạt được những thành công hơn nữa trong 
tương lai, nên cũng đã chú ý đến việc khai 
thác lợi ích từ các hoạt động này.
* Với chính doanh nghiệp 
Tăng lợi nhuận: Theo báo cáo của Tập 
đoàn Goldman Sachs (GSSustain, 2007) 
trên 6 ngành công nghiệp: Năng lượng, 
khai khoáng, sản xuất thép, chế biến thực 
phẩm, đồ uống và truyền thông đã chỉ ra 
rằng: các doanh nghiệp mà những vị lãnh 
đạo áp dụng các chính sách xã hội và môi 
trường nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh bền 
vững, đều đạt được nhiều thành công trên 
thị trường chứng khoán, với mức tăng hơn 
25% một năm. Còn trong từng lĩnh vực kinh 
doanh riêng, 72% doanh nghiệp thực hiện 
trách nhiệm xã hội kinh doanh tốt hơn các 
đối thủ cạnh tranh cùng ngành. Khảo sát do 
Viện Khoa học lao động và xã hội tiến hành 
với 24 doanh nghiệp da giầy và dệt may và 
kết quả cũng cho thấy việc họ áp dụng các 
sáng kiến về trách nhiệm xã hội đã giúp 
tăng doanh thu lên hơn 25%, năng suất lao 
động tăng lên 34,2 ở mức 35,8 triệu đồng 
một người một năm[8]. Như vậy, có thể thấy 
việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp đã góp phần vào việc tăng lợi nhuận 
cho doanh nghiệp thông qua việc giảm chi 
phí trong quá trình sản xuất kinh doanh, 
nhờ vào việc áp dụng công nghệ sản xuất 
sạch. Đi kèm với những lợi ích về kinh tế, 
các doanh nghiệp này cũng xây dựng được 
một hình ảnh tốt đẹp trong mắt cộng đồng, 
khách hàng, đạt được sự thỏa mãn và trung 
thành từ khách hàng, thu hút thêm nhiều 
người lao động lành nghề và nhân tài cho 
doanh nghiệp của mình.
Ngoài ra, quản lý nguồn nhân lực hiệu quả 
cũng góp phần cắt giảm chi phí và nâng cao 
năng suất lao động. Chính sách lương thưởng 
công bằng, điều kiện làm việc an toàn và đảm 
bảo vệ sinh, cơ hội được đào tạo phát triển kỹ 
năng nghề nghiệp, được giáo dục và chăm sóc 
sức khỏe tạo điều kiện và thúc đẩy người lao 
động làm việc năng suất hơn, hiệu quả công 
việc cao hơn. Người lao động gắn bó với doanh 
nghiệp hơn đồng nghĩa với giảm chi phí tuyển 
dụng và đào tạo nhân viên mới. Đồng thời, 
đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương có 
thể tạo ra một nguồn lao động tốt hơn, nguồn 
cung ứng rẻ và đáng tin cậy hơn và nhờ đó 
doanh thu tăng.
Định vị và khác biệt hóa thương hiệu. 
Đây là điều mà các doanh nghiệp đều quan 
tâm và được xem là một trong những mục 
tiêu hàng đầu của doanh nghiệp khi quyết 
định thực hiện trách nhiệm xã hội. Việc 
thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp có thể giúp doanh nghiệp tăng giá 
trị thương hiệu và uy tín, giúp doanh nghiệp 
82
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Lưu Thế Vinh và ctv
tăng doanh thu, hấp dẫn các đối tác, nhà đầu 
tư và người lao động. Tạo ra danh tiếng cho 
thương hiệu dựa trên việc thực hiện trách 
nhiệm xã hội có thể tạo ra một lợi thế cạnh 
tranh bền vững, tuy nhiên nó chỉ có thể là 
kết quả của một quá trình lâu dài, bền bỉ, đòi 
hỏi phải kiên trì mới có thể đạt được. 
Thu hút nguồn lao động: Hiện nay, vấn đề 
thu hút lực lượng lao động có trình độ ngày 
càng trở nên khó khăn, đặc biệt là những 
khu vực doanh nghiệp công nghiệp chưa có 
cái nhìn đúng đắn về trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp. Ở các lĩnh vực, thị trường mới, 
những ngành vốn bị coi là ngành bẩn, nguy 
hiểm và trì trệ (ngành 3D: dirty, dangerous, 
dull) thiếu lao động chất lượng cao, việc thu 
hút và giữ chân được lao động có chuyên môn 
tốt và có sự cam kết gắn bó lâu dài là một 
thách thức đối với các doanh nghiệp. Vì vậy, 
việc thực hiện trách nhiệm xã hội là rất cần 
thiết cho hoạt động tuyển dụng của doanh 
nghiệp. Khi đó những doanh nghiệp có chế 
độ lương thưởng công bằng, minh bạch, chính 
sách đãi ngộ tốt, chú trọng đào tạo và chăm 
sóc sức khoẻ cho người lao động và xây dựng 
được môi trường làm việc tốt sẽ trở thành hiệu 
ứng cộng hưởng thu hút nhân lực giỏi tìm 
đến với doanh nghiệp. Đồng thời, chính sách 
thực hiện trách nhiệm xã hội bên trong doanh 
nghiệp như thực hiện các chính sách đối xử 
bình đẳng, công bằng giữa lao động nam và 
nữ, giữa người lao động mới và lao động lâu 
năm trong doanh nghiệp cũng góp phần vào 
thực hiện công bằng xã hội nói chung.
3.2. Tình hình thực hiện trách nhiệm 
xã hội của doanh nghiệp 
Về trách nhiệm kinh tế, giai đoạn 2015 
-2018, các doanh nghiệp Việt Nam tăng 
trưởng ổn định, tốc độ tăng trưởng doanh 
thu kép (CAGR) trung bình của các doanh 
nghiệp đạt 38%, đặc biệt là khu vực kinh tế 
tư nhân với vai trò là nguồn lực tăng trưởng 
của nền kinh tế cùng tốc độ tăng trưởng 
CAGR trung bình lớn nhất là 39,6%. Tổng lợi 
nhuận trước thuế của khu vực doanh nghiệp 
năm 2017 đạt 876,7 nghìn tỷ đồng. Trong đó, 
khu vực doanh nghiệp công nghiệp và xây 
dựng tạo ra 519,6 nghìn tỷ đồng lợi nhuận, 
chiếm 59,3% lợi nhuận của toàn bộ khu vực 
doanh nghiệp; khu vực dịch vụ tạo ra 352,1 
nghìn tỷ đồng, chiếm 40,2%; trong khi khu 
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2017 
chỉ tạo ra 4,96 nghìn tỷ đồng lợi nhuận, 
chiếm 0,6%. Theo đó, khu vực công nghiệp 
và xây dựng năm 2017 đóng góp vào ngân 
sách nhà nước 473,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 
49,7% đóng góp vào ngân sách nhà nước 
của toàn bộ khu vực doanh nghiệp; khu vực 
dịch vụ năm 2017 đóng góp 476,3 nghìn tỷ 
đồng vào ngân sách nhà nước, chiếm 49,9%; 
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 
2017 chỉ đóng góp được 3,96 nghìn tỷ đồng, 
chiếm 0,4%[6].
Về lao động, việc làm, đến 12/2017, tổng 
số lao động đang làm việc trong khu vực 
doanh nghiệp là 14,51 triệu người. Trong đó 
khu vực công nghiệp và xây dựng mặc dù có 
số lượng doanh nghiệp không nhiều nhưng 
thu hút nhiều lao động nhất với 9,3 triệu lao 
động, chiếm 64,4% lao động toàn bộ khu vực 
doanh nghiệp. Khu vực dịch vụ có tỷ trọng 
số lượng doanh nghiệp lớn nhất trong toàn 
bộ khu vực doanh nghiệp nhưng thu hút lao 
động thấp hơn nhiều so với khu vực công 
nghiệp và xây dựng với 4,9 triệu lao động, 
chiếm 33,9%. Khu vực nông, lâm nghiệp và 
thủy sản chỉ thu hút được 256.683 lao động 
làm việc trong các doanh nghiệp của ngành 
này, chiếm 1,8% lao động của toàn bộ doanh 
nghiệp. Thu nhập bình quân tháng của một 
lao động năm 2017 đạt 8,3 triệu đồng, trong 
đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước đang có 
mức thu nhập bình quân cao nhất với 11,91 
triệu đồng; khu vực FDI đạt 9,04 triệu đồng; 
khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước mặc 
83
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 15, Số 2 (2019): 77 - 87
dù có mức thu nhập của người lao động thấp 
nhất với 7,37 triệu đồng[4].
Về trách nhiệm xã hội, nhân đạo, từ thiện, 
theo nghiên cứu  được thực hiện bởi Quỹ 
Châu Á (TAF) phối hợp cùng Trung tâm 
Nghiên cứu phát triển và hỗ trợ cộng đồng 
(CECODES) và Phòng Thương mại và Công 
nghiệp Việt Nam (VCCI) (12/2018) về sự 
tham gia, đóng góp cho an sinh xã hội và các 
hoạt động thiện nguyện đối với 500 doanh 
nghiệp, thì trong số 389 doanh nghiệp phản 
hồi thì  có 333 (85,6%) doanh nghiệp tích 
cực tham gia vào các hoạt động xã hội, trong 
đó 58% doanh nghiệp xác định làm từ thiện 
không vì mục đích kinh doanh nào và 56 
(14,4%) doanh nghiệp ít hoặc không nắm 
rõ mức độ tham gia của doanh nghiệp đối 
với các hoạt động xã hội[1]. Các hình thức 
hoạt động xã hội, từ thiện của doanh nghiệp 
chủ yếu là quyên góp tiền chiếm đến hơn 
70%, hiện vật chiếm khoảng 40%, nhưng 
thời gian mà doanh nghiệp dành cho các 
hoạt động này lại khá thấp, khi chỉ có 10%. 
Điều này cho thấy, doanh nghiệp vẫn chưa 
coi trọng ý nghĩa thực sự của các hoạt động 
từ thiện đối với cộng đồng[8]. Theo Vietnam 
Report khi khảo sát các doanh nghiệp BP500 
(02/2019) cho thấy, có 5 vấn đề xã hội quan 
trọng nhất mà doanh nghiệp đã góp phần 
giải quyết: 89,3% doanh nghiệp tham gia 
hỗ trợ cộng đồng địa phương; 64,3% quan 
tâm đến thúc đẩy minh bạch trọng kinh 
doanh; 60,7% bảo vệ môi trường, giảm thiểu 
tác động môi trường, 46,4% giảm tỷ lệ thất 
nghiệp và 42,9% quan tâm đến chăm sóc sức 
khoẻ. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát cũng 
chỉ ra rằng thách thức thường gặp phải khi 
thực hiện trách nhiệm xã hội ở nước ta, điển 
hình như nhận thức về trách nhiệm xã hội 
mới dừng lại ở hoạt động tài trợ (52%), thiếu 
ngân sách (36%), thiếu chính sách khuyến 
khích, hỗ trợ của Chính phủ (32%), không 
được lan truyền trên truyền thông (24%)
[2]... Điều này cũng cho thấy một phần sự 
quan tâm và đầu tư cho các hoạt động trách 
nhiệm xã hội từ phía chính quyền và chính 
các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa 
xứng tầm với vai trò quan trọng của trách 
nhiệm xã hội trong việc cải thiện đời sống xã 
hội và chưa khai thác được tối ưu tiềm năng 
đóng góp của khối doanh nghiệp.
3.3. Những cơ hội và thách thức cho 
doanh nghiệp khi thực hiện trách nhiệm 
xã hội
3.3.1. Về cơ hội 
Thứ nhất, việc Việt Nam tham gia vào các 
tổ chức khu vực và thế giới, ký kết và tham 
gia các hiệp định mậu dịch tự do, hiệp định 
thương mại... đã thực sự mở đường cho tiến 
trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu 
rộng. Giao lưu kinh tế phát triển sẽ là nền 
tảng cho sản xuất kinh doanh, cũng như 
động lực thúc đẩy việc áp dụng các chuẩn 
mực trong hoạt động sản xuất kinh doanh 
nhằm giúp nâng cao khả năng hội nhập và 
cạnh tranh trên thị trường quốc tế với những 
yêu cầu khắt khe.
Thứ hai, để thực hiện trách nhiệm xã hội 
của doanh nghiệp hiện nay trên thế giới có 
hơn 1000 bộ quy tắc ứng xử thể hiện trách 
nhiệm xã hội doanh nghiệp như: BSCI (Bộ 
tiêu chuẩn đánh giá tuân thủ trách nhiệm xã 
hội trong kinh doanh, 2003), SA8000 (tiêu 
chuẩn lao động trong các nhà máy sản xuất), 
WRAP (trách nhiệm toàn cầu trong ngành 
sản xuất may mặc), FSC (bảo vệ rừng bền 
vững), ISO14001 (hệ thống quản lý môi 
trường trong doanh nghiệp), ISO26000 
(tiêu chuẩn CSR của Tổ chức Quốc tế về tiêu 
chuẩn hóa)... Đây vừa là động lực, vừa là yêu 
cầu, áp lực đòi hỏi chúng ta phải có sự đổi 
mới toàn diện, kịp thời và nhanh chóng cho 
phù hợp với quy định của các tổ chức, cũng 
như thông lệ quốc tế để có thể chủ động 
trong quá trình hội nhập. Những cải cách 
trong quản lý vĩ mô, cũng như trong quản lý 
84
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Lưu Thế Vinh và ctv
doanh nghiệp đó sẽ góp phần tạo cơ hội cho 
việc áp dụng và thực hiện các quy định về 
trách nhiệm xã hội và các chuẩn mực quốc 
tế khác dễ dàng hơn. 
Thứ ba, thực hiện trách nhiệm xã hội 
đang là xu hướng phổ biến trên thế giới và 
trở thành yêu cầu mềm đối với các doanh 
nghiệp. Việc các doanh nghiệp quan tâm 
thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ có cơ hội 
nhận được sự hỗ về tài chính, kỹ thuật, công 
nghệ cũng như những kinh nghiệm quý báu 
trong quá trình áp dụng các chuẩn mực kinh 
doanh cho doanh nghiệp từ cơ quan quản 
lý nhà nước, các tổ chức, hiệp hội trong và 
ngoài nước, các nhà đầu tư và ngay cả các 
khách hàng của họ. 
Cuối cùng, người tiêu dùng không chỉ 
quan tâm đến chất lượng và giá thành sản 
phẩm mà còn quan tâm đến cách thức tạo 
ra sản phẩm và trong quá trình đó người lao 
động có bị bóc lột hay không. Ví dụ như hơn 
10 năm trước, người dân Na Uy đã tẩy chay, 
từ chối sử dụng quả bóng bàn nhập khẩu 
từ Pakistan khi biết sản phẩm này được sản 
xuất bởi lao động trẻ em dưới 15 tuổi... Vì 
vậy, những sáng kiến thực hiện trách nhiệm 
xã hội của doanh nghiệp có thể tạo ra cơ hội 
cho doanh nghiệp mở rộng ra những thị 
trường tiềm năng mới. 
3.3.2. Những thách thức 
Sự hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế 
giới đã giúp Việt Nam tiếp cận với nhiều thị 
trường mới rộng lớn, nhưng đồng thời cũng 
đem lại nhiều khó khăn khi phải đối mặt với 
sự cạnh tranh gay gắt ở nhiều cấp độ. Mặc 
dù tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ở mức ổn định, 
nằm trong số các nước tăng trưởng cao ở 
Châu Á. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam 
có sức cạnh tranh thấp hơn so với các nền 
kinh tế mới nổi khác. Theo Báo cáo Năng lực 
cạnh tranh toàn cầu năm 2018 (The Global 
Competitiveness Report 2018) của Diễn đàn 
Kinh tế Thế giới (WEF), Việt Nam đứng thứ 
77/140 về năng lực cạnh tranh toàn cầu, chỉ 
số cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt 
Nam đứng thứ 77/140 nước. Thứ hạng thấp 
của Việt Nam về chỉ số cạnh tranh cả về kinh 
tế vĩ mô lẫn vi mô cho thấy rằng Việt Nam 
đang phải đối mặt với một thử thách lớn về 
phát triển bền vững và phải lựa chọn mục 
tiêu kinh tế hay xã hội, môi trường.
Hội nhập kinh tế quốc tế đem đến cho 
các doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội để 
vươn xa ra toàn cầu, nhưng cũng đặt họ vào 
một môi trường kinh doanh với những thay 
đổi theo hướng đòi hỏi các doanh nghiệp 
Việt Nam trong quá trình kinh doanh phải 
dựa trên cơ sở tôn trọng con người, cộng 
đồng và phải có trách nhiệm hơn với môi 
trường và xã hội. Ví dụ như Hiệp định dệt 
may giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (5/2003) yêu 
cầu: để có thể tiếp cận được với thị trường 
Hoa Kỳ thì các cơ quan có thẩm quyền của 
Việt Nam phải có trách nhiệm khuyến khích 
việc áp dụng các quy tắc về trách nhiệm xã 
hội. Hay trong các điều khoản của Hiệp định 
đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương 
(TPP) đòi hỏi các nước “cần khuyến khích 
các doanh nghiệp hoạt động trong phạm 
vi lãnh thổ và quyền tài phán của mình tự 
nguyện áp dụng vào các chính sách và thông 
lệ của họ những nguyên tắc trách nhiệm xã 
hội của doanh nghiệp có liên quan đến môi 
trường, phù hợp với các tiêu chuẩn đã được 
công nhận quốc tế và các hướng dẫn đã được 
xác nhận (Điều 20.10) và các nước “phải cố 
gắng khuyến khích các doanh nghiệp tự 
nguyện áp dụng các sáng kiến trách nhiệm 
xã hội doanh nghiệp về vấn đề lao động đã 
được phê chuẩn” (Điều 19.7). Rõ ràng, để 
đối mặt với tình hình cạnh tranh gay gắt như 
hiện nay trong khi khả năng cạnh tranh của 
các doanh nghiệp Việt Nam cũng như của 
cả nền kinh tế còn yếu và khách hàng quốc 
tế luôn đặt ra những yêu cầu về chất lượng 
cũng như các yếu tố xã hội và môi trường rất 
85
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 15, Số 2 (2019): 77 - 87
cao thì chỉ có một con đường duy nhất cho 
các doanh nghiệp Việt Nam có thể tồn tại và 
phát triển là phải áp dụng các chuẩn mực về 
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. 
Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu 
Quản lý kinh tế Trung ương (2012) cho thấy 
đa phần các doanh nghiệp Việt Nam chưa 
hiểu đúng về trách nhiệm xã hội. Các doanh 
nghiệp chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và 
ảnh hưởng của trách nhiệm xã hội tới bản 
thân doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam. 
Theo thống kê này thì mới chỉ có 36% doanh 
nghiệp được hỏi trả lời có bộ phận giám sát 
thực hiện trách nhiệm xã hội và khoảng 2% 
doanh nghiệp nói họ hiện đang là thành viên 
của nhóm thực hiện các tiêu chuẩn về trách 
nhiệm xã hội, 28% số doanh nghiệp chấp 
hành bảo vệ môi trường, 5% doanh nghiệp 
thừa nhận có đóng góp cho sự nghiệp chăm 
sóc y tế... Bên cạnh đó thái độ của các doanh 
nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh 
nghiệp tư nhân đối với vai trò của trách 
nhiệm xã hội còn chưa thực sự nghiêm túc. 
Mối quan tâm phổ biến của họ chỉ là làm sao 
đạt được lợi nhuận kinh tế trong bối cảnh 
cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay 
và coi thực hiện trách nhiệm xã hội chỉ là 
nghĩa vụ pháp lý do Nhà nước bắt buộc, kể 
cả hoạt động từ thiện, nhân đạo. Do đó, chưa 
xác định việc thực hiện trách nhiệm xã hội 
là phải bắt đầu từ ngay trong doanh nghiệp, 
chưa chủ động thực hiện các chương trình 
thực hiện trách nhiệm xã hội như một chiến 
lược nghiêm túc, lâu dài của doanh nghiệp 
và ít quan tâm đến việc phối hợp các trách 
nhiệm xã hội trong chiến lược kinh doanh 
dài hạn của doanh nghiệp. Còn đối với một 
số doanh nghiệp đã nhận thức được tầm 
quan trọng của việc thực hiện trách nhiệm 
xã hội trong chiến lược kinh doanh nhằm 
phát triển bền vững thì lại không có đủ năng 
lực về tài chính, nhân lực và kỹ thuật để áp 
dụng các chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt hơn 
là ở Việt Nam số doanh nghiệp vừa và nhỏ 
chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp[7], tuy 
nhiên, các doanh nghiệp này thường không 
đủ năng lực về tài chính, nguồn lực lao động 
và kỹ thuật hạn chế. Vì vậy, nếu không nhận 
được sự quan tâm của Chính phủ và chính 
quyền địa phương tạo điều kiện hỗ trợ thì 
các doanh nghiệp này khó có thể tiếp cận 
được các tiêu chuẩn quốc tế về trách nhiệm 
xã hội.
Khó khăn cuối cùng trong việc áp dụng 
các chuẩn mực về trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp chính là sự thiếu hụt và lạc 
hậu của các quy định pháp luật Việt Nam với 
các quy tắc ứng xử quốc tế, sự chồng chéo 
của các quy định của các bộ, ngành. Về phía 
Nhà nước, chúng ta chưa xây dựng được các 
Bộ Quy tắc ứng xử và các tiêu chuẩn về trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp; về phía 
doanh nghiệp, chưa nhiều doanh nghiệp 
của Việt Nam có bộ quy tắc ứng xử có tính 
chất chuẩn mực áp dụng trong hoạt động 
sản xuất kinh doanh của mình nhằm định 
hướng cho việc thực hiện trách nhiệm xã 
hội. Vì vậy mà chưa tạo ra được môi trường, 
khung pháp lý - biện pháp có hiệu lực nhất 
mang tính bắt buộc hỗ trợ giải pháp đạo đức 
trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây cũng là thách 
thức lớn cho Việt Nam trong bối cảnh cần 
thu hút đầu tư nước ngoài hiện nay, bởi nếu 
quá coi trọng mục tiêu về môi trường và xã 
hội thì khó có thể thu hút đầu tư nước ngoài. 
Nhưng nếu không đưa ra yêu cầu cao đối với 
vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội thì các 
kết quả của sự tăng trưởng kinh tế khó có 
thể bù đắp được hậu quả về môi trường, xã 
hội và như vậy sẽ không thực hiện được mục 
tiêu phát triển bền vững. 
3.4. Kết luận và khuyến nghị
Mặc dù còn nhiều hạn chế về nhận thức 
lý luận, về khung pháp lý, về ý thức trách 
nhiệm và năng lực, nhưng để phát triển bền 
86
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Lưu Thế Vinh và ctv
vững đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực 
sự coi việc thực hiện trách nhiệm xã hội là 
trách nhiệm, là nghĩa vụ pháp lý cũng như 
là nghĩa vụ đạo đức của chính mình và xem 
trách nhiệm xã hội như là một mục tiêu tất 
yếu trong quá trình hoạt động của doanh 
nghiệp. Để việc thực hiện trách nhiệm xã 
hội của doanh nghiệp không chỉ dừng lại là 
trách nhiệm pháp lý, mà thực sự trở thành 
một yêu cầu cấp bách cả về mặt pháp lý lẫn 
khía cạnh đạo đức, đòi hỏi tất cả các chủ thể, 
đặc biệt là Nhà nước cần chú ý thực hiện tốt 
mấy điểm sau:
Tiếp tục tăng cường phổ biến nâng cao 
nhận thức về trách nhiệm xã hội cho các 
bên có liên quan. Trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp không còn là chủ đề mới ở 
Việt Nam, đặc biệt là đối với các doanh 
nghiệp xuất khẩu sang các thị trường Châu 
Âu, Nhật Bản, Bắc Mỹ thường xuyên phải 
đối mặt với những yêu cầu báo cáo liên 
quan đến thực hiện trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp. Tuy vậy, dường như trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp vẫn chưa 
thực sự được quan tâm thỏa đáng ở nước ta 
cả về nghiên cứu lý luận lẫn triển khai thực 
hiện trong thực tiễn. Vì vậy, phải tiếp tục 
tuyên truyền, phổ biến và nâng cao nhận 
thức về trách nhiệm xã hội một cách mạnh 
mẽ hơn, phạm vi và đối tượng rộng hơn, 
không chỉ bó hẹp trong giới doanh nhân, 
doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức mà phải 
đi tới các cộng đồng dân cư và địa phương, 
kể cả đưa vào các chương trình giáo dục 
phổ thông. Các doanh nghiệp và các bên 
liên quan cần nhận thức một cách tích cực 
về trách nhiệm xã hội, nhất là trong bối 
cảnh hội nhập ngày càng rộng và sâu hơn. 
Hình thành các tiêu chuẩn, quy tắc ứng 
xử quốc gia, ngành về trách nhiệm xã hội 
của doanh nghiệp và từng bước áp dụng 
chế độ báo cáo về trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp. Để phát triển bền vững, rõ 
ràng không thể không thực hiện theo các 
chuẩn mực trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, 
trên thực tế việc thực hiện trách nhiệm 
xã hội hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào ý 
chí và lợi ích của doanh nghiệp. Điều này 
dẫn đến những khó khăn trong việc triển 
khai áp dụng một cách có hệ thống, cũng 
như việc kiểm tra giám sát. Vì vậy, để việc 
thực hiện trách nhiệm xã hội trở nên phổ 
biến hơn, thực chất hơn và khuyến khích 
doanh nghiệp thực hiện mạnh mẽ hơn thì 
cần xây dựng được bộ tiêu chuẩn đánh giá 
trách nhiệm xã hội của Việt Nam dựa trên 
kinh nghiệm quốc tế, có tính toán điều kiện 
thực tế trong nước. Cùng với đó từng bước 
hình thành hệ thống đánh giá trách nhiệm 
xã hội độc lập, có trách nhiệm và triển khai 
chế độ báo cáo thường niên hoặc định kỳ 
về việc thực hiện trách nhiệm xã hội, xem 
đây là một trong những công cụ quảng bá, 
là phương tiện thông tin để cơ quan quản lý 
Nhà nước, cộng đồng và các bên liên quan 
theo dõi hoạt động của doanh nghiệp, cũng 
như để việc thực hiện trách nhiệm xã hội 
không chỉ dừng lại là những hoạt động nhân 
đạo từ thiện hay trách nhiệm pháp lý mà nó 
thực sự trở thành một nghĩa vụ đạo đức của 
mỗi doanh nghiệp.
Từng bước lấy việc thực hiện trách nhiệm 
xã hội là một trong những tiêu chí để lựa chọn 
nhà đầu tư và dự án đầu tư vào Việt Nam. 
Kinh nghiệm cho thấy các doanh nghiệp thực 
hiện tốt trách nhiệm xã hội cũng là các doanh 
nghiệp có năng lực về vốn, công nghệ, có đạo 
đức kinh doanh và ý thức đóng góp cho phát 
triển cộng đồng địa phương. Việc xem trách 
nhiệm xã hội như là tiêu chí để lựa chọn nhà 
đầu tư sẽ giúp lựa chọn được nhà đầu tư có 
năng lực, có đạo đức, góp phần hạn chế được 
những tác động tiêu cực của hoạt động đầu tư 
nước ngoài hiện nay như vấn đề môi trường, 
vấn đề phúc lợi, đảm bảo quyền lợi cho người 
lao động, hay vấn đề cạn kiệt tài nguyên... 
Bên cạnh đó, việc thực hiện chiến lược kinh 
87
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 15, Số 2 (2019): 77 - 87
doanh bền vững của các doanh nghiệp có vốn 
nước ngoài thực hiện tốt trách nhiệm xã hội 
sẽ đem lại cơ hội học hỏi cho doanh nghiệp 
trong nước, nhưng cũng tạo áp lực buộc các 
doanh nghiệp trong nước cũng phải dần nâng 
cao nhận thức và thực hiện trách nhiệm xã 
hội để có thể tham gia vào mạng sản xuất toàn 
cầu. Đặc biệt khi lợi thế về nhân công giá rẻ 
hay nguồn tài nguyên phong phú không còn 
là của riêng Việt Nam nữa và yêu cầu về một 
nền kinh tế xanh, phát triển bền vững thì đòi 
hỏi các doanh nghiệp muốn tham gia sân chơi 
lớn buộc phải bổ sung thêm cho mình năng 
lực cạnh tranh mới và trách nhiệm xã hội sẽ 
là một công cụ đắc lực giúp cho doanh nghiệp 
có được ưu thế so với các đối thủ cạnh tranh 
trong khu vực.
Tài liệu tham khảo
[1] Cẩm Anh (2019), Gần 60% doanh nghiệp Việt 
Nam làm từ thiện không vì mục đích kinh 
doanh, https://enternews.vn/gan-60-phan-
tram-doanh-nghiep-viet-nam-lam-tu-thien-
khong-vi-muc-dich-kinh-doanh-141639.html.
[2] Báo cáo tăng trưởng và thịnh vượng Việt Nam 
2019, Phần I, Triển vọng tăng trưởng từ góc 
nhìn của doanh nghiệp FAST500&BP500, Hà 
Nội, tr42-50.
[3] Bowen, H.R. (1953), Social Responsibilities of 
the Businessman. New York: Harper & Row. 
[4] Linh Lam, Người tiêu dùng Việt có tinh thần 
hướng đến xã hội cao nhất khu vực, http://
ndh.vn/Pages/News/PrintPage.aspx?Cat_
ID=6&News_ID=2017042602073211.
[5] Việt Nam xếp thứ 77/140 về năng lực cạnh 
tranh toàn cầu năm 2018, https://vov.vn/kinh-
te/viet-nam-xep-thu-77140-ve-nang-luc-canh-
tranh-toan-cau-nam-2018-827124.vov.
[6] Tổng quan kinh tế xã hội Việt Nam năm 2018, 
https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid= 
382&idmid=2&ItemID=19041.
[7] Thông cáo báo chí Kết quả chính thức 
Tổng điều tra Kinh tế năm 2017. 
https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid= 
382&idmid=2&ItemID=18945.
[8] Trần Ngọc Tú, Về trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay, http://
tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/ve-
trach-nhiem-xa-hoi-cua-doanh-nghiep-trong-
boi-canh-hien-nay-130646.html.
OPPORTUNITIES AND THREATS WHEN ENTERPRISES EXECUTE THEIR SOCIAL 
RESPONSIBILITIES IN THE INTEGRATION PROCESS
1Nguyen Vinh Long, 2Luu Thế Vinh
1Phu Tho Department of Foreign Affairs 
2Faculty of Economics and Business Administration - Hung Vuong University
AbsTrAcT
Sustainable development is a requirement throughout the development process of our country and is the mis-sion of whole the Party, the people, and all subjects, in which enterprises play a particularly important role, 
linking with the implementation of their social responsibility. The paper refers to the utilities of the implemen-
tation of corporate social responsibility and the opportunities and threat in the implementation of corporate so-
cial responsibility, thence propose some recommendations to contribute to better implementation of corporate 
social responsibility in Vietnam in the integration process.
Keywords: Corporate social responsibility, Opportunity, Threat
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
co_hoi_va_thach_thuc_khi_thuc_hien_trach_nhiem_xa_hoi_cua_do.pdf