Thứ sáu, chế định/mô hình VKSND là
chế định/mô hình được thiết kế xuất phát
từ bản chất và kiểu nhà nước Việt Nam
Là một trong bốn kiểu nhà nước đã
và đang tồn tại trong lịch sử loài người,
nhà nước XHCN Việt Nam là nhà nước
kiểu mới với đặc trưng hết sức cơ bản và
quan trọng, đó là sở hữu công về tư liệu
sản xuất, là nhà nước của giai cấp Công –
Nông, quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân lao động, là nhà nước “không tổ chức
theo nguyên tắc phân quyền, mà theo nguyên
tắc tập quyền, nghĩa là mọi quyền lực nhà
nước tập trung vào Quốc hội”(1). Đây là sự
khác biệt giữa nhà nước XHCN với kiểu
nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước phong
kiến và kiểu nhà nước tư sản. Xuất phát
từ kiểu nhà nước như vậy, bản chất nhà
nước ta – nhà nước XHCN cũng có nhiều
sự khác biệt cơ bản với các kiểu nhà nước
khác với đặc trưng: Nhà nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. Và để bảo vệ chế độ sở hữu công về
tư liệu sản xuất; nhằm đảm bảo nhà nước
ta thực sự là nhà nước của dân, do dân,
vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân thì việc thiết kế mô hình bộ máy
nhà nước ta cần phải được thiết kế phù
hợp để thực hiện điều đó. Do vậy có thể
khẳng định“sự ra đời của Viện kiểm sát nhân
dân là do bản chất nhà nước và nguyên tắc cơ
bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ta”(2).
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định viện kiểm sát nhân dân trong hiến pháp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
55Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
1. Cơ sở lý luận của chế định Viện
kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp
Việt Nam
Viện kiểm sát (VKS) ra đời đầu
tiên ở Liên Xô vào năm 1922. Trước đó
ở Nga là sự tồn tại của mô hình Viện
công tố (VCT) xuất hiện từ khoảng 3
thế kỷ trước bởi Pier Đệ nhất. VCT thời
Nga hoàng ra đời sau và chịu nhiều ảnh
hưởng của mô hình VCT Pháp, được
Pier Đệ nhất tham khảo của VCT Pháp
nhưng không sao chép y nguyên bởi
“trọng tâm hoạt động của VCT của Pháp
là tham gia trong TTHS buộc tội nhân
danh nhà nước. Còn trọng tâm hoạt động
của VCT Nga là giám sát tuân theo pháp
luật“(1).
Năm 1917, Nhà nước Liên bang Xô –
Viết ra đời, đến năm 1922 VKS Liên Xô được
thành lập và đây là “mô hình VKS được Lênin
tiếp thu và phát triển từ mô hình VCT của Pier
Đệ nhất năm 1772 khi mở rộng phạm vi hoạt
động kiểm sát tuân theo pháp luật và coi hoạt
động này như là thuộc tính – chức năng nhà
nước của VKS“(2). Như vậy, nói đến mô hình
* Thạc sĩ, Phó trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật,
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
1 Nguyễn Thái Phúc (2007), “Viện kiểm sát hay Viện
công tố”, Tạp chí Khoa học pháp luật, (số 2), Tr2
2 Nguyễn Thái Phúc (2007), “Viện kiểm sát hay Viện
công tố”, Tạp chí Khoa học pháp luật, (số 2), Tr4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHẾ ĐỊNH
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM
NGÔ HÙNG THÁI *
Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp lần đầu tiên quy định về chế
định Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), và từ đó đến nay, qua các Hiến pháp
1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013, chế định
này tiếp tục được ghi nhận và là cơ sở cho sự tồn tại của hệ thống cơ quan
VKSND trong bộ máy nhà nước Việt Nam. Với vị trí, chức năng, nhiệm vụ
của mình, VKSND thể hiện là thiết chế quan trọng trong thực hiện quyền lực
nhà nước. Do đó, việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đối với sự ra đời, tồn
tại và phát triển của chế định VKSND trong Hiến pháp Việt Nam là điều rất
cần thiết và có nhiều ý nghĩa.
Từ khoá: Cơ sở, chế định Viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp.
The Constitution of 1959 is the very first one that prescribes the institution
of People’s Procuracies, since then, after several Constitutions in 1980, 1992
(amended, supplemented in 2001) and 2013, the institution has continued to
be recognized and been the basis for the existence of the system of People’s
Procuracy agencies in the state apparatus of Viet Nam. With its position,
function and tasks, the People’s Procuracies always prove themselves as one
of the most important institutions in the exercise of the state power. As the
result, it’s crucial and significant to clarify the theoretical and practical basis
of the rationale, existence and development of the institution in the Viet
Namese Constitution.
Keywords: Basis, People’s Procuracies institution, Constitution.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHẾ ĐỊNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN...
56 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
VKS thì đầu tiên phải nói đến Lênin – người
đặt nền móng cho mô hình VKS ở Liên Xô,
người sáng lập ra nhà nước kiểu mới, tìm
kiếm mô hình cơ quan thay thế cho mô hình
Viện công tố của Nga hoàng. Với tư cách
là người đứng đầu Nhà nước Xô viết của
những năm đầu cách mạng, Lênin đã thấy
được vai trò to lớn của pháp luật và pháp
chế. Trong điều kiện khi đất nước chuyển
sang xây dựng hòa bình và thực hiện chính
sách kinh tế mới thì vấn đề tuân thủ pháp
luật của nhà nước, vấn đề pháp chế được
đặt ra một cách cấp bách bởi nguồn gốc của
vi phạm pháp chế thống nhất, theo Lênin,
đó là chủ nghĩa cục bộ địa phương, bản vị.
Quan điểm của Lênin về pháp chế thống
nhất đã đặt ra vấn đề phải thành lập VKS ở
các nước XHCN. Việc thành lập VKSND ở
nước ta là sự áp dụng tư tưởng của V.I.Lênin
được trình bày trong tác phẩm "Bàn về chế độ
trực thuộc song trùng và pháp chế ". Trong tác
phẩm này, Lênin đã chỉ ra trở ngại lớn nhất
trong việc xây dựng chế độ pháp trị là sự can
thiệp của địa phương. Theo ông, pháp chế
phải thống nhất và để đấu tranh một cách
hiệu quả với chủ nghĩa cục bộ địa phương
thì VKS phải được thành lập, và khi thành
lập VKS thì sẽ giao cho cơ quan này thực
hiện một công việc là: “Bảo đảm cho pháp chế
được hiểu biết thống nhất và thông suốt trong
toàn nước cộng hòa, bất kể những đặc điểm của
dịa phương và sự can thiệp của nhà chức trách
địa phương“(1). Theo Lênin, vấn đề pháp chế
phải thống nhất thì mới tiến hành thành
công cách mạng XHCN, bảo vệ và củng cố
được chính quyền cách mạng, đồng thời cơ
sở nền tảng cho tổ chức và hoạt động của
VKS cũng chính là luận điểm này. Mô hình
VKS của Lênin có những đặc điểm:
1 V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập II, Nxb Tiến Bộ,
Mátxcơva, tr709
+ Hoạt động kiểm sát tuân theo pháp
luật là chức năng Hiến định của VKS. Nhờ
vậy VKS có khả năng tác động và liên kết
hoạt động của cả bộ máy nhà nước. VKS
được xem như là bảo đảm quan trọng của
pháp chế thống nhất;
+ Hoạt động của VKS là một dạng
hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước
độc lập, được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên tắc đặc thù cho phép nó
thực hiện chức năng kiểm sát hiệu quả.
+ VKS không can thiệp trực tiếp vào
hoạt động chức năng của cơ quan, tổ chức
mà nó kiểm sát tuân theo pháp luật - đây
là sự khác biệt với các hoạt động giám sát,
kiểm tra, thanh tra khác bởi VKS khi phát
hiện vi phạm pháp luật thì không trực tiếp
loại trừ vi phạm đó mà chỉ đưa vụ việc
đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Ngoài ra, khi xây dựng mô hình VKS
ở Liên Xô, Lênin luôn hướng tới vấn đề
đảm bảo tính độc lập của VKS để đạt được
hiệu quả cao nhất trong hoạt động, do đó
ông đặc biệt chú ý tới những nguyên tắc
tổ chức mang tính đặc thù của VKS như
nguyên tắc độc lập, tập trung, thống nhất,
không song trùng trực thuộc, qua đó để
VKS ở Liên Xô có khả năng chống lại
những ảnh hưởng của địa phương và của
các chủ thể khác trong xã hội.
Như vậy, có thể nói rằng những
quan điểm và tư tưởng của Lênin về VKS
mà được ông trình bày trong tác phẩm
“Bàn về chế độ trực thuộc song trùng và pháp
chế“ chính là “cơ sở lý luận cơ bản cho việc
xây dựng hệ thống Viện kiểm sát ở các nước
xã hội chủ nghĩa (trước đây) và ở nước ta từ
năm 1960“ (2).
2 Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), “Viện Kiểm
sát/Công tố Việt Nam và một số nước trên thế giới”,
Tạp chí Thông tin khoa học kiểm sát, (số 1+2), Tr46
NGÔ HÙNG THÁI
57Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
2. Cơ sở thực tiễn của chế định
Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến
pháp Việt Nam
Thứ nhất, Việc quy định chế định
VKSND trong các bản Hiến pháp xuất
phát từ yêu cầu bảo đảm pháp luật XHCN
được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất
và từ thực tiễn cách mạng Việt Nam
Mô hình công tố đã tồn tại ở nước
ta từ trước Cách mạng tháng Tám năm
1945, sau đó tiếp tục tồn tại ở giai đoạn
đầu trong nhà nước Việt Nam dân chủ
công hòa. Khi hòa bình lập lại ở miền Bắc,
năm 1958 Viện công tố Trung ương được
thành lập trên cơ sở tách các Công tố viên
ra khỏi Tòa án - bước khởi đầu hình thành
hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, hoạt
động chủ yếu là công tố trước Tòa án và
đã bao hàm một số yếu tố của hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật đó là
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm
sát giam giữ cải tạo.
Sau đó gần hai năm, mô hình Viện
công tố chấm dứt tồn tại. Giai đoạn năm
1959-1960, cách mạng nước ta bước vào
giai đoạn phát triển mới, điều đó đòi hỏi
pháp luật phải được chấp hành nghiêm
chỉnh, thống nhất, đòi hỏi sự nhất trí về
mục đích và hành động trong nhân dân,
giữa nhân dân và nhà nước cũng như
giữa các ngành với nhau, vì thế cần thiết
phải tổ chức ra VKSND để cơ quan này
kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm
giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất. Sự ra đời của mô hình VKS
thay thế cho mô hình Viện công tố ở Việt
Nam gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ
cách mạng trong hoàn cảnh xây dựng nhà
nước kiểu mới. Đồng thời có thể thấy, yêu
cầu này còn có tính khách quan khi ta
nhìn về đặc điểm lịch sử của nền kinh tế
ở Việt Nam lúc đó: lạc hậu, chủ yếu là sản
xuất nhỏ. Bên cạnh đó, do chịu ảnh hưởng
nặng nề của hàng nghìn năm phong kiến,
và ảnh hưởng của Nho giáo, trong xã hội
phong kiến Việt Nam thường xảy ra tình
trạng luật pháp của nhà nước trung ương
bị đặt dưới hương ước làng xã, thực trạng
đó hình dần thành thói quen không đề
cao luật pháp của nhà nước, tùy tiện trong
chấp hành pháp luật. Do đó, “việc thành
lập Viện kiểm sát nhân dân thay cho Viện công
tố là xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc
chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta, giai
đoạn vừa tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở Miền Nam, vừa tiến hành
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc.
Cách mạng đã chuyển giai đoạn thì tất yếu
bộ máy nhà nức cũng phải có những thay đổi
phù hợp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới“(1).
Năm 1959, Hiến pháp mới được ban
hành – đây là bản Hiến pháp lần đầu tiên
ghi nhận sự ra đời của một chế định mới,
một cơ quan nhà nước mới đó là chế định/
hệ thống cơ quan VKSND. Từ những phân
tích trên cho thấy, việc lựa chọn mô hình
VKSND ở nước ta là hoàn toàn trên cơ sở
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của
chúng ta. Thực tiễn đã chứng minh, chỉ có
VKS mới có khả năng thực hiện chức năng
bảo đảm pháp chế thống nhất, bảo đảm
tuân thủ pháp luật trong phạm vi cả nước.
Từ đó cho đến Hiến pháp 1980, Hiến
pháp 1992/2001 và Hiến pháp 2013, các
bản Hiến pháp này dù có những thay đổi
nhất định về VKSND, nhưng chế định
VKSND vẫn được khẳng định là chế định/
là cơ quan có vai trò quan trọng trong việc
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Thứ hai, chế định VKSND là thể chế
quan trọng của Quốc hội để thực hiện hiệu
quả hoạt động giám sát tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật.
1 Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), “Viện Kiểm
sát/Công tố Việt Nam và một số nước trên thế giới”,
Thông tin khoa học kiểm sát, (số 1+2), Tr45
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHẾ ĐỊNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN...
58 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
Là một trong những chức năng quan
trọng của mình - chức năng giám sát của
Quốc hội là chức năng Hiến định, đây
là hoạt động giám sát ở tầm vĩ mô. Xuất
phát từ vấn đề tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước ta – quyền lực là thống
nhất; tập quyền XHCN, chế định VKSND
được thiết kế để giúp Quốc hội thực hiện
chức năng giám sát của mình – đây là hoạt
động giám sát ở tầm vi mô thông qua chức
năng của VKS, “là một hình thức thực hiện
quyền lực nhà nước được Quốc hội – cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất giao cho Viện
kiểm sát nhân dân”(1).
Bằng những quy định trong Hiến
pháp, qua thực tiễn hoạt động của mình,
có thể khẳng định, VKSND theo mô hình
Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013 là thiết
chế quan trọng nhằm thực hiện có hiệu
quả hoạt động giám sát tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật của Quốc hội bởi “mỗi
hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước đều
có xu hướng lạm dụng. Để các hoạt động đó
có hiệu quả cao, tránh lạm quyền thì yêu cầu
đặt ra phải có sự kiểm tra, giám sát thường
xuyên của một cơ quan nào đó”(2); đồng thời
ở phương diện khác, thông qua chức
năng giao cho VKS, Quốc hội sẽ thường
kỳ nhận được thông tin một cách đầy đủ
nhất, toàn diện nhất về tình hình pháp
chế trong cả nước, qua đó Quốc hội có thể
thông qua VKSND để có những giải pháp
nhằm tăng cường pháp chế trong một lĩnh
vực cụ thể nào đó vì thông qua hoạt động
kiểm sát tuân theo pháp luật của VKSND,
Quốc hội có thể thấy những hạn chế trong
hoạt động lập pháp của mình.
Thứ ba, chế định VKSND là thể chế để
đảm bảo nguyên tắc thượng tôn pháp luật
1 Cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình công tác
kiểm sát, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, Tr5
2 Đỗ Văn Đương (Chủ nhiệm) (2011), Cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc sửa đổi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học
cấp Bộ, Hà Nội, Tr32
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, phù
hợp với định hướng xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
hiện nay.
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay,
Nhà nước mà ở đó tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân “với các đặc trưng cơ bản là
thượng tôn pháp luật, bảo đảm công lý và tôn
trọng quyền con người”(3), quyền lực nhà
nước là thống nhất có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Tổ chức và hoạt động của
bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có sự phân công, phân
cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống
nhất của Trung ương, thì nhiệm vụ tăng
cường pháp chế là một trong những giải
pháp quan trọng, điều đó đòi hỏi khách
quan hệ thống cơ quan tư pháp và các cơ
quan thực hiện chức năng tư pháp phải
mở rộng và tăng cường hoạt động kiểm
tra, kiểm soát xã hội, do vậy sự tồn tại
của chế định VKSND trong Hiến pháp là
điều hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, trong
điều kiện kinh tế thị trường, chúng ta gặp
phải những mặt trái không tránh khỏi
đó là biểu hiện của chủ nghĩa cục bộ địa
phương, bản vị, thoát ly pháp luật của Nhà
nước, nạn tham nhũng Để khắc phục
thực trạng này, phải có cơ chế giám sát
việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động
của các chủ thể, kịp thời phát hiện hành
vi vi phạm pháp luật để yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền giải quyết, bảo đảm tính
thống nhất của pháp chế, tính thượng tôn
pháp luật - và giải pháp tốt nhất để thực
hiện điều đó chính là mô hình VKSND.
Thứ tư, sự tồn tại của chế định VKSND
3 Nguyễn Đức Bình (2014), “Quyền tư pháp và thực
hiện quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
Tòa án nhân dân, (số 05), Tr4
NGÔ HÙNG THÁI
59Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
xuất phát từ yêu cầu đảm bảo quyền con
người, quyền công dân ở Việt Nam.
Quyền con người, quyền công dân là
vấn đề mà Nhà nước Việt Nam luôn đề
cao, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi
chúng ta đang thực hiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN với “yêu cầu vừa
xây dựng, hoàn thiện các thiết chế kiểm soát
quyền lực nhà nước đang là một vấn đề vừa cơ
bản, vừa cấp bách... Khi mặc nhiên thừa nhận
quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân,
của nhân dân thì tất yếu quyền lực nhà nước
phải bị nhân dân kiểm soát”(1).
Hoạt động kiểm sát tuân theo pháp
luật trong hoạt động tư pháp của VKSND
là một bảo đảm pháp lý quan trọng cho các
quyền, tự do của công dân được tuân thủ
và thực thi. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2011 - 2020 đã khẳng định yêu cầu phải bảo
đảm quyền con người, quyền công dân và
các điều kiện để mọi người được phát triển
toàn diện. Bên cạnh đó, một trong những
mục tiêu cải cách tư pháp được ghi nhận
trong Nghị quyết 49 là: “Các cơ quan tư pháp
phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc
bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời
là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp
chế XHCN, đấu tranh hiệu quả với các loại tội
phạm và vi phạm”. Trước những nhiệm vụ
của Nhà nước pháp quyền trong lĩnh vực
bảo đảm quyền con người như vậy thì yêu
cầu cho sự tồn tại và tiếp tục phát triển của
chế định VKSND trong Hiến pháp là cần
thiết và khách quan.
Thứ năm, chế định VKSND – một
trong những thiết chế nhằm kiểm soát
quyền lực nhà nước.
1 Nguyễn Quang Anh (2014), “Một số giải pháp hoàn
thiện thể chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
ở nước ta hiện nay”, Tạp chí kiểm sát, (số 20), Tr9
Việc hiến định hóa chế định VKSND
trong Hiến pháp là sự kế thừa truyền
thống, kinh nghiệm tổ chức và hoạt động
của cơ quan công tố/VKSND trong hơn 70
năm qua trong vấn đề kiểm soát quyền lực
nhà nước, đồng thời đó là sự tiếp thu một
cách có chọn lọc kinh nghiệm tổ chức và
hoạt động của VCT/VKS của các nước trên
thế giới. Trong số “các cơ chế kiểm tra, giám
sát quyền lực nhà nước ở nước ta Viện kiểm sát
nhân dân có một vai trò và vị trí mà các thiết
chế khác không thay thế được”(2). Đồng thời,
với điều kiện cụ thể ở Việt Nam, từ đặc
điểm cấu trúc quyền lực nhà nước ta, “rất
cần một thiết chế giám sát quyền lực độc lập, có
tính chuyên nghiệp cao để giúp Quốc hội thực
hiện chức năng giám sát ở những tầng thấp
hơn Quốc hội trong việc giám sát hoạt động của
các cơ quan hành pháp và tư pháp” (3).
Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng
ta tiến hành xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN - Với bước phát triển trong
nhận thức của Đảng ta tiếp thu những hạt
nhân hợp lý của thuyết phân quyền, trong
điều kiện không có đối trọng và kiềm chế
lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực nhà
nước thì quyền giám sát tối cao của Quốc
hội đối với toàn bộ hoạt động nhà nước
là cách thức kiểm soát quyền lực chủ yếu
ở Việt Nam, vì thế đẩy mạnh xây dựng
Nhà nước pháp quyền, nâng cao hiệu lực
của Nhà nước trước hết phải là hoàn thiện
cách thức, cơ chế giám sát quyền lực nhà
nước, kiện toàn các cơ quan và các thiết
chế giám sát mà trong đó có VKSND.
Cần phải thấy rằng, VKSND không
chỉ chịu sự giám sát tối cao của Quốc
2 Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm) (2010), Bàn về chức năng
giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước và chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát ở nước
ta, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, Tr23
3 Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm) (2010), Bàn về chức năng
giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước và chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát ở nước
ta, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, Tr23
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHẾ ĐỊNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN...
60 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
hội, mà ở khía cạnh ngược lại, cơ quan
này còn có vai trò nhất định trong phản
biện quyền lực của Quốc hội thông qua
những ý kiến phản hồi về tính thiếu khả
thi, chồng chéo không thống nhất của
hệ thống pháp luật, những hạn chế của
các đạo luật do Quốc hội ban hành. Đây
chính là quan hệ biện chứng về kiểm
soát quyền lực trong điều kiện cụ thể
của nước ta. Vì vậy, trong định hướng
hoàn thiện phương thức giám sát quyền
lực nhà nước thông qua giám sát tối cao
của Quốc hội thì giải pháp đúng đắn là
mô hình VKSND để VKSND thực sự là
chỗ dựa đáng tin cậy của Quốc hội trong
việc thực hiện quyền giám sát tối cao
của mình.
Thứ sáu, chế định/mô hình VKSND là
chế định/mô hình được thiết kế xuất phát
từ bản chất và kiểu nhà nước Việt Nam
Là một trong bốn kiểu nhà nước đã
và đang tồn tại trong lịch sử loài người,
nhà nước XHCN Việt Nam là nhà nước
kiểu mới với đặc trưng hết sức cơ bản và
quan trọng, đó là sở hữu công về tư liệu
sản xuất, là nhà nước của giai cấp Công –
Nông, quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân lao động, là nhà nước “không tổ chức
theo nguyên tắc phân quyền, mà theo nguyên
tắc tập quyền, nghĩa là mọi quyền lực nhà
nước tập trung vào Quốc hội”(1). Đây là sự
khác biệt giữa nhà nước XHCN với kiểu
nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước phong
kiến và kiểu nhà nước tư sản. Xuất phát
từ kiểu nhà nước như vậy, bản chất nhà
nước ta – nhà nước XHCN cũng có nhiều
sự khác biệt cơ bản với các kiểu nhà nước
khác với đặc trưng: Nhà nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
1 Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm) (2008), Nghiên cứu những cơ
sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng mô hình tổ chức
và hoạt động của Viện kiểm sát ở Việt Nam theo yêu cầu cải
cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, Tr42
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. Và để bảo vệ chế độ sở hữu công về
tư liệu sản xuất; nhằm đảm bảo nhà nước
ta thực sự là nhà nước của dân, do dân,
vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân thì việc thiết kế mô hình bộ máy
nhà nước ta cần phải được thiết kế phù
hợp để thực hiện điều đó. Do vậy có thể
khẳng định“sự ra đời của Viện kiểm sát nhân
dân là do bản chất nhà nước và nguyên tắc cơ
bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ta”(2).
Với mô hình Viện công tố và mô hình
VKS đã tồn tại trong lịch sử, có thể thấy
việc lựa chọn mô hình VKS là hết sức phù
hợp với bản chất và kiểu nhà nước của Việt
Nam, do đó việc thiết kế chế định VKSND
trong Hiến pháp Việt Nam là hoàn toàn
hợp lý bởi “điều kiện lịch sử, kinh tế, văn
hóa, xã hội cũng là nhân tố quan trọng
nhưng bản chất, kiểu nhà nước mới là
nhân tố quyết định việc xuất hiện, lựa
chọn mô hình Viện kiểm sát ở mỗi quốc
gia. Nhà nước kiểu mới – nhà nước dựa
trên nền tảng của chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chỉ có thể tồn tại và thực hiện
được nhiệm vụ của mình khi mà hệ thống
pháp luật bảo vệ nền tảng kinh tế đó được
tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh. Chủ
sở hữu nhà nước - chủ sở hữu trừu tượng
- cần đến một người đại diện cụ thể cho
mình thực hiện nhiệm vụ này. Người đó
chính là Viện kiểm sát” (3).
2 Đặng Minh Phượng (2013), Chế định Viện kiểm sát
nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam, Luận văn thạc sỹ
luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Tr28
3 Nguyễn Thái Phúc (2007), “Viện kiểm sát hay Viện
công tố”, Tạp chí Khoa học pháp luật, (số 2), Tr4,5.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_so_ly_luan_va_thuc_tien_cua_che_dinh_vien_kiem_sat_nhan_d.pdf