Trên thực tế, một khi nghĩa vụ được
bảo đảm có sự vi phạm thì bên nhận bảo
lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực
hiện nghĩa vụ, nhưng việc có thỏa mãn
được nghĩa vụ hay không lại hoàn toàn
phụ thuộc vào bên bảo lãnh. Bởi vậy, pháp
luật nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam
ghi nhận các bên có quyền thỏa thuận
thêm biện pháp bảo đảm để đảm bảo việc
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Theo đó, bảo
lãnh cần được nhìn nhận dưới góc độ là
một biện pháp bảo đảm có tính chất trái quyền
được hình thành từ sự thỏa thuận giữa các bên
chủ thể mà theo đó một người cam kết cho việc
thực hiện nghĩa vụ thay cho một chủ thể khác,
nếu chủ thể này không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ thì người cam kết sẽ
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ.
Quy định về bảo lãnh trong Bộ luật
dân sự năm 2015 đã kế thừa những quy
định hợp lý của Bộ luật dân sự năm 2005,
đồng thời được sửa đổi, bổ sung nhiều
nội dung mới khắc phục những điểm còn
hạn chế của Bộ luật dân sự năm 2005. Tuy
nhiên, cần phải hoàn thiện hơn nữa một
số quy định về bảo lãnh, phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản của luật sân sự và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo
lãnh trong thực tiễn. Đồng thời, rất cần
sự giải thích, hướng dẫn của các cơ quan
có thẩm quyền để triển khai thực hiện các
quy định của pháp luật dân sự hiện hành
về bảo lãnh./.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 207 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở lý thuyết của bảo lãnh và liên hệ với quy định về bảo lãnh trong bộ luật dân sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
55Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
NGUYỄN HẢI NGÂN
1. Cơ sở lý thuyết của bảo lãnh.
“Bảo lãnh” là một từ có nguồn gốc
Hán Việt: “Bảo là gánh vác lấy trách
nhiệm”. Theo từ điển Tiếng Việt giải thích,
“bảo lãnh được hiểu là bảo đảm người
khác thực hiện một nghĩa vụ và chịu trách
nhiệm nếu người đó không thực hiện”1.
Xuất phát từ những ngữ nghĩa cơ bản trên,
chúng ta có thể hiểu bảo lãnh là một cách
thức mà các chủ thể lựa chọn để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ thông qua cam kết của
bên bảo lãnh, cam kết này buộc bên bảo
lãnh phải thực hiện nghĩa vụ và chịu trách
1 Nguyễn Như Ý (1999), Từ điển Tiếng Việt, NXb
Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
nhiệm trước bên nhận bảo lãnh khi bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ.
Trong xã hội phong kiến người ta đã
biết đến khái niệm bảo lãnh cho tù nhân
trong thời gian thi hành án, cha mẹ bảo
lãnh cho con. Sau đó bảo lãnh được phát
triển sang lĩnh vực dân sự và nhiều lĩnh
vực khác của đời sống xã hội2. Nhu cầu
bảo lãnh được hình thành chính từ sự phát
triển kinh tế, đặc biệt là thương mại và tín
2 Khái niệm về “Bảo lãnh và bảo lãnh ngân hàng”:
voer.edu.vn
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA BẢO LÃNH VÀ LIÊN HỆ VỚI QUY ĐỊNH
VỀ BẢO LÃNH TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
NGUYỄN HẢI NGÂN*
* Thạc sĩ, Khoa Luật và Quản lý xã hội - Đại học
Khoa học
“Bảo lãnh” là biện pháp bảo đảm được quy định trong pháp luật dân sự
Việt Nam. Bảo lãnh là việc người thứ 3 cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Về cơ bản, Bộ luật dân
sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung khắc phục một số hạn chế, bất cập
trong các quy định về bảo lãnh tở Bộ luật dân sự năm 2005. Tuy vậy, vẫn có
những quy định chưa thật rõ ràng dẫn đến những cách hiểu không thống nhất.
Do đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận nhằm làm rõ các quy định của pháp
luật dân sự hiện hành về bảo lãnh là đòi hỏi tất yếu.
Từ khóa: Biện pháp bảo lãnh, bảo lãnh, Bộ luật dân sự năm 2015.
“Guarantee” is a security measure stipulated in Vietnamese civil law. It is a
third party’s commitment to a party with the right to perform the obligation on
behalf of the obligor in case the guaranteed party fails to perform or improperly
perform that obligation when the time comes. Basically, the Civil Code in 2015
has amended and supplemented regulations that overcome some limitations
and shortcomings on guarantee provisions in the Civil Code in 2005. However,
there are still some regulations are not very clear that lead to inconsistencies.
Therefore, the study of theoretical issues to clarify current civil law provisions
on guarantee is indispensable.
Keywords: Guarantee measures, guarantee, the Civil Code in 2015.
56
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA BẢO LÃNH VÀ LIÊN HỆ VỚI QUY ĐỊNH VỀ...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
dụng. Khi thương mại và dịch vụ phát
triển, sự thiếu hụt thông tin và thiếu tín
nhiệm đối với đối tác dẫn tới tăng nguy cơ
rủi ro trong xác lập và thực hiện giao dịch.
Nhu cầu bảo lãnh nảy sinh, đòi hỏi một
người thứ ba đứng ra làm trung gian đảm
bảo để các bên yên tâm trong xác lập, thực
hiện giao dịch.
Quy luật về sự ra đời của biện pháp
bảo lãnh, mối quan hệ pháp lý của các
bên trong quan hệ bảo lãnh, thi hành và
chấm dứt bảo lãnh có sự tác động của
hệ thống các lý thuyết về nghĩa vụ. Trong
đó phải kể đến lý thuyết tự do ý chí, lý
thuyết nguyên nhân, lý thuyết Khế ước, lý
thuyết trái quyền bảo đảm.
Khi nghiên cứu các lý thuyết về nghĩa
vụ trong đó có sự phát sinh, thực hiện và
hiệu lực của nghĩa vụ thì Thuyết nguyên
nhân được nhiều học giả nghiên cứu. Lý
thuyết này được khởi lập bởi giáo hội
pháp “Các giáo sĩ phản đối tính cách nệ
thức của Luật La mã”. Theo giáo hội, một
khi đã cam kết, “ta phải có bổn phận thi
hành nghĩa vụ. Bổn phận này thuộc cả
về luân lý và lương tâm”. Thuyết nguyên
nhân được Donat phát triển trong cuốn
Dân luật “Lois civils”. Donat bàn về nghĩa
vụ với 2 câu hỏi chính: “1. Người kết ước
đã cam kết điều gì? – Quid debetur”. 2.
Tại sao người ấy cam kết như vậy? – Cur
debetur.” Trả lời được các câu hỏi này sẽ
tìm được đối tượng và nguyên nhân của
nghĩa vụ. Donat quan niệm đối với mỗi
loại khế ước lại có một nguyên nhân và
chủ tương tìm nguyên nhân của nghĩa vụ
căn cứ vào dữ liệu khách quan được cấu
tạo lên khế ước.
Thuyết nguyên nhân do Donat phát
triển từ La Mã không giải thích được
nguồn gốc, quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ nghĩa vụ. Những nhầm lẫn
giữa nguyên nhân của nghĩa vụ với đối
tượng của nghĩa vụ. Đối với Donat trong
khế ước đơn phương, nghĩa vụ của một
bên là nguyên nhân sự cam kết của bên
kia. Nhưng trong song phương khế ước
các nghĩa vụ tương đối của hai bên phát
sinh đồng thời. Vì vậy, một trong 2 nghĩa
vụ không thể là nguyên nhân cho nghĩa
vụ tương đối của đối phương, vì nói tới
nguyên nhân là nói đến hậu quả, không
thể coi nguyên nhân và hậu quả phát sinh
cùng một lúc. Theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu,
“ý niệm nguyên nhân trong nghĩa vụ của
Donat chỉ là ý niệm lỗi thời, sai lạc và vô
ích3”.
Lý thuyết nguyên nhân được phát
triển mạnh mẽ qua các giai đoạn khác
nhau, trở thành chủ đề sôi nổi được các
học giả quan tâm. Khi đánh giá về bản
chất, nguồn gốc của nghĩa vụ, dễ có sự
nhầm lẫn giữa nguyên nhân với đối
tượng của nghĩa vụ, nhưng tinh thần cốt
lõi của thuyết nguyên nhân là sự cam kết
thực hiện nghĩa vụ, một khi các bên thỏa
thuận thì sẽ làm phát sinh trách nhiệm
phải thực hiện nghĩa vụ thì vẫn được ghi
nhận giá trị.
Nghĩa vụ bảo lãnh hình thành từ thỏa
thuận của các bên tham gia xác lập và
thực hiện giao dịch. Bảo lãnh là việc người
thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ,
nếu khi đến hạn mà nguời được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ. Từ góc nhìn là sự thỏa
thuận thống nhất ý chí của các bên thì bảo
lãnh là giao dịch mà bên bảo lãnh cam kết
3 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo, Bộ
quốc gia giáo dục xuất bản, 1868, tr. 215.
57Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
NGUYỄN HẢI NGÂN
với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong
trường hợp bên được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Sự cam kết này đã thiết lập nghĩa vụ
bảo lãnh. Trong đó, cam kết được thỏa
thuận giữa các bên là sự ràng buộc pháp
lý. Theo đó, nếu bên bảo lãnh không thực
hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh khi nghĩa
vụ này đến hạn thì bên nhận bảo lãnh
có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ. Bên bảo lãnh đã cam kết thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh
thì sẽ làm phát sinh trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ đến cùng.
Bảo lãnh là biện pháp đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ mang tính dự phòng
giữa các bên tham gia xác lập thực hiện
giao dịch. Nghĩa vụ bảo lãnh do ý chí tự
nguyện thỏa thuận của các chủ thể, hiệu
lực của nghĩa vụ bảo lãnh cũng được xác
định trên nguyên tắc tự do ý chí. Nguyên
tắc này được hình thành từ thời La Mã.
Thế kỷ thứ 18 ở Châu Âu, với ảnh hưởng
lý thuyết tự do ý chí, ý chí của cá nhân
được coi là căn bản thiết yếu của nghĩa vụ,
phải được tôn trọng triệt để. Tuy nhiên,
cần lưu ý rằng, ý chí tự do của các chủ
thể phải không được trái pháp luật và trái
đạo đức xã hội. Nghĩa vụ bảo lãnh là mối
liên hệ pháp lý buộc người bảo lãnh phải
thực hiện nghĩa vụ trước người nhận bảo
lãnh nến bên được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ. Sự ưng thuận của các bên chủ thể là
nguồn gốc của nghĩa vụ bảo lãnh. Có thể
giải thích nghĩa vụ này bằng lý thuyết Khế
ước - Le contrat. Khế ước – hợp đồng là
những thỏa thuận được pháp luật bảo hộ
thông qua các hình thức thực hiện, những
thỏa thuận được coi là khế ước được pháp
luật ghi nhận4. Sự giao kết hợp đồng bảo
lãnh xuất phát từ sự ưng thuận của bên
bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh về việc bên
bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên được bảo lãnh nếu chủ thể này không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ. Chính sự thiết lập hợp đồng bảo
lãnh đã làm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh.
Lý thuyết trái quyền, trái quyền còn
gọi là quyền đối nhân, là quyền cho phép
một người gọi là trái chủ đòi hỏi một
người khác – gọi là người thụ trái, thực
hiện hoặc không thực hiện một việc. Quan
hệ trái hình thành, nhất thiết phải có sự
hợp tác của cả trái chủ và thụ trái, chứ
một mình trái chủ thực hiện thì không đạt
hiệu quả. Trong đó, người có trái quyền
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ; người thụ trái
thực hiện và người có trái quyền tiếp nhận
việc thực hiện. Theo Bộ luật dân sự Pháp,
các biện pháp bảo đảm được thiết kế theo
nguyên lý vật quyền và trái quyền. Chia
thành: vật quyền bảo đảm và trái quyền
bảo đảm. Trái quyền bảo đảm là bảo đảm
theo đó một trái quyền được tăng cường
bởi trái quyền khác. Tiêu biểu là biện pháp
bảo lãnh.
Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối
nhân, hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận
giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh
thể hiện dưới hình thức hợp đồng bảo
lãnh. Nói cách khác, chính hợp đồng bảo
lãnh là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ bảo
lãnh. Quyền của bên nhận bảo lãnh được
thỏa mãn hay không phụ thuộc vào việc
thực hiện hành vi của bên bảo lãnh nếu
bên được bảo lãnh không thực hiện được
nghĩa vụ.
4 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La
mã, Nxb Tư pháp.
58
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA BẢO LÃNH VÀ LIÊN HỆ VỚI QUY ĐỊNH VỀ...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
Pháp luật về bảo lãnh của các nước
theo hệ thống luật Civil Law và Common
Law đều có quan niệm chung về bảo lãnh
là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
có tính đối nhân, hình thành từ sự thỏa
thuận của các bên chủ thể tham gia quan hệ
bảo lãnh làm phát sinh các quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ
bảo lãnh, quyền của bên nhận bảo lãnh chỉ
được thỏa mãn thông qua việc thực hiện
cam kết của bên bảo lãnh nếu đến hạn mà
bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ. Điều 2011
Bộ luật dân sự Pháp quy định: “Người nhận
bảo lãnh một nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ
đó đối với người có quyền nếu chính người có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ”. Cùng quan điểm, Bộ luật
dân sự Đức quy định: “Bằng một hợp đồng
bảo lãnh, bên bảo lãnh cam kết với chủ nợ của
bên thứ ba trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của
bên thứ ba đó” (Điều 756). Theo pháp luật
về bảo lãnh của Singapore thì “Bảo lãnh
là một cam kết được đưa ra bởi người thứ
nhất (bảo lãnh) cho người thứ hai (chủ nợ)
đối với nghĩa vụ thanh toán của người thứ
ba (con nợ chính) đối với người thứ hai. Về
bản chất, một bảo đảm là nơi A hứa B: ‘Nếu
C chịu trách nhiệm với bạn và không trả
tiền cho bạn, tôi sẽ trả cho bạn” (Chương
23, Luật Bảo lãnh). Như vậy, bảo lãnh theo
pháp luật của các nước dù theo hệ thống
pháp luật Common Law hay Civil Law
đều có những đặc điểm chung: (i) Bảo lãnh
là cam kết thực hiện nghĩa vụ cho một chủ
thể khác; (ii) Bảo lãnh là biện pháp bảo
đảm đối nhân nhằm đảm bảo cho quan hệ
trái quyền.
2. Bản chất của bảo lãnh
Trong giới luật học có nhiều cách tiếp
cận về bảo lãnh. Có những chủ thể tiếp cận
bảo lãnh dưới góc độ là giao dịch dân sự.
Bảo lãnh là một hợp đồng – một quan hệ pháp
luật hình thành do sự gặp gỡ ý chí giữa người
bảo lãnh và người nhận bảo lãnh. Đó thực sự là
một hợp đồng chứ không phải giao dịch dân sự
một bên5. Cách tiếp cận này đã làm rõ được
mối quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận
bảo lãnh về việc bên bảo lãnh sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh nếu
đến hạn mà bên được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc sử
dụng tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh. Theo đó, bên nhận bảo lãnh
phát sinh quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực
hiện nghĩa vụ khi các điều kiện gọi bảo
lãnh phát sinh. Quyền của bên nhận bảo
lãnh mang tính gián tiếp, và quyền này chỉ
được thỏa mãn thông qua việc thực hiện
hành vi của bên bảo lãnh. Nếu bên bảo
lãnh vi phạm nghĩa vụ đã cam kết thì bên
nhận bảo lãnh có quyền khởi kiện ra tòa
yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ.
Rõ ràng, tính chất bảo đảm của bảo lãnh
là “không có bảo đảm” vì phụ thuộc vào ý
chí và hành vi của bên bảo lãnh. Vì không
có tính bảo đảm nên bên nhận bảo lãnh ở
vị trí kém ưu tiên thanh toán hơn so với
các chủ thể có bảo đảm khác như bên nhận
cầm cố, cho thuê, cho mượn tài sản Bản
thân hợp đồng bảo lãnh chỉ có giá trị ràng
buộc đối với các bên trong quan hệ bảo
lãnh. Có quan điểm cho rằng, hợp đồng
bảo lãnh là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ
bảo lãnh, nghĩa vụ này có tính đối nhân.
Quyền đối nhân trong nghĩa vụ bảo lãnh
có tính đối kháng với người thứ ba. Khi
một nghĩa vụ được thiết lập giữa bên bảo
5 Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ trong luật dân sự Việt
Nam, Nxb trẻ, 2001, tr.20.
59Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
NGUYỄN HẢI NGÂN
lãnh và bên nhận bảo lãnh, nghĩa vụ bảo
lãnh được tất cả mọi người thừa nhận.
Việc nghĩa vụ ấy vẫn có hiệu lực đối kháng
với người thứ ba. Còn nghĩa vụ ấy chưa
thể phát sinh hiệu lực đối với họ là là câu
chuyện khác6.
Các chủ thể tiếp cận bảo lãnh dưới góc
độ này, xác định bảo lãnh là biện pháp bảo
đảm có tính chất trái quyền. “Bảo lãnh là
một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được Bộ luật
Dân sự Việt Nam quy định, bản chất của nó là
biện pháp bảo đảm đối nhân7”. Bảo lãnh thực
hiện nghĩa vụ là mối quan hệ pháp lý được
thiết lập giữa bên bảo lãnh và bên nhận
bảo lãnh. Tính chất đối nhân của quan
hệ bảo lãnh nghĩa vụ được ghi nhận. Bảo
lãnh không thiết lập quan hệ liên đới giữa
người bảo lãnh và người được bảo lãnh.
Bên cạnh đó, có chủ thể tiếp cận bảo
lãnh dưới góc độ là một biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ. Các bên chủ thể
coi bảo lãnh là biện pháp hỗ trợ mang
tính chất dự phòng khi người có nghĩa
vụ không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. “Bảo đảm
nghĩa vụ dân sự chỉ là một biện pháp gắn liền
với một hợp đồng, là một bộ phận, một điều
kiện, điều khoản của hợp đồng chính8. Theo
tác giả, do pháp luật dân sự xác định đó
là những hợp đồng, nên nảy sinh những
hệ quả bất hợp lý. Tổ chức công chứng đã
không công chứng cho một người tham
gia giao dịch thế chấp đồng thời ký với
hai tư cách vì mâu thuẫn với quy định về
6 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo, Bộ
quốc gia giáo dục xuất bản, 1868, tr. 22.
7 Phạm Văn Đàm, Bảo lãnh nhìn từ góc độ trái
quyền, Tạp chí dân chủ pháp luật điện tử, số
8/2015.
8 LS. Trương Thanh Đức, Biện pháp bảo đảm
không thể là hợp đồng bảo đảm, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp điện tử.
đại diện. Theo quy định bộ luật dân sự
thì “Người đại diện không được xác lập,
thực hiện các giao dịch dân sự với chính
mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng
là người đại diện của người đó”. Với cách
tiếp cận này, bảo lãnh chỉ có thể coi là biện
pháp bảo đảm mà không thể xác định đó
là một hợp đồng bảo đảm – hợp đồng bảo
lãnh. Cách tiếp cận này không giải quyết
được tính logic trong quan hệ bảo lãnh. Cụ
thể: mối quan hệ pháp lý giữa các chủ thể
trong quan hệ bảo lãnh không được làm
rõ; quyền của bên nhận bảo lãnh đối với
bên bảo lãnh phát sinh như thế nào, việc
thực thi quyền này, sự phụ thuộc giữa
nghĩa vụ bảo lãnh với nghĩa vụ được bảo
lãnh sẽ được giải quyết ra sao
Thông qua việc phân tích các cách tiếp
cận về bảo lãnh, nhận thấy bảo lãnh cần
tiếp cận dưới giác độ là một biện pháp
bảo đảm có tính chất trái quyền, trên cơ
sở hợp đồng bảo lãnh được xác lập và đó
phải là hợp đồng hợp pháp, hình thành
trên nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận,
trong đó xác định các quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia hợp đồng bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh có mối quan hệ phụ
thuộc đối với hợp đồng làm phát sinh
nghĩa vụ cần được đảm bảo thực hiện.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả
John Phillips and James O’Donovan and
Wayne Courtney trong cuốn “Hợp đồng
bảo lãnh hiện đại – The Modern Contract of
Guarantee”. Các tác giả trên cho rằng, bảo
lãnh được hình thành từ các yếu tố: “sự
cam kết của bên bảo lãnh; việc bảo lãnh được
thể hiện dưới hình thức hợp đồng bảo lãnh9”
9 John Phillips, James O’Donovan and Wayne
Courtney (2003), “Hợp đồng bảo lãnh hiện đại -
The Modern Contract ò Guarantee”, xuất bản 2003
và tái bản lần thứ 3 tại Australian 2016.
60
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA BẢO LÃNH VÀ LIÊN HỆ VỚI QUY ĐỊNH VỀ...
Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2019
trong đó người bảo lãnh đồng ý nhận trách
nhiệm hoặc thanh toán khoản nợ nếu con
nợ không trả được khoản vay của họ. Một
sự đảm bảo có lợi cho cả người cho vay
và con nợ. Lợi ích của người cho vay là
khoản vay của họ được đảm bảo, người
bảo lãnh chắc chắn rằng tiền sẽ được trả
lại. Lợi ích cho con nợ là họ đủ điều kiện
cho một khoản vay mà họ có thể không có
khả năng nhận được nếu không có sự bảo
đảm của người bảo lãnh.
Theo cách phân loại truyền thống của
các nước theo hệ thống pháp luật Civil law,
các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
được phân thành 2 loại: các biện pháp
bảo đảm đối vật và bảo đảm đối nhân.
Bảo đối vật gồm các biện pháp cầm cố,
thế chấp; bảo lãnh thuộc về bảo đảm đối
nhân. Bảo lãnh được hình thành từ hợp
đồng bảo lãnh, nói cách khác chính hợp
đồng bảo lãnh là căn cứ làm phát sinh
nghĩa vụ bảo lãnh. Nghĩa vụ bảo lãnh có
các đặc điểm sau:
(i) Là mối quan hệ pháp lý ràng buộc
giữa người bảo lãnh và người nhận bảo
lãnh. Quan hệ nghĩa vụ bảo lãnh được
pháp luật ghi nhận và các bên được bảo
vệ quyền và nghĩa vụ. Nếu bên bảo lãnh
không thực hiện nghĩa vụ thì bên còn lại
có thể can thiệp hoặc yêu cầu pháp luật
can thiệp.
(ii) Nghĩa vụ bảo lãnh có tính đối nhân.
Người nhận bảo lãnh không có quyền trực
tiếp đối với một sự vật nào và chỉ có quyền
đối với người bảo lãnh mà thôi. Quyền của
bên nhận bảo lãnh thuộc loại quyền tương
đối mà không phải quyền đối vật.
(iii) Vì không phải là một loại quyền
đối vật nên người nhận bảo lãnh chỉ có
quyền bao quát đối với tài sản của bên bảo
lãnh. Bên bảo lãnh vẫn tùy ý sử dụng tài
sản của mình. Nếu tài sản có bị mất thì
quyền của người nhận bảo lãnh không
được đảm bảo. Vì lẽ đó, người nhận bảo
lãnh thường tìm cách bảo đảm quyền lợi
của mình bằng cách yêu cầu các vật quyền
phụ thuộc - Droits reels accessories. Theo
đó, người nhận bảo lãnh có các quyền ưu
tiên thanh toán, quyền xử lý tài sản khi
bên bảo lãnh cầm cố, thế chấp tài sản để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
(iv) Nghĩa vụ bảo lãnh có thể là yếu tố
tích cực hay hạn chế tùy theo góc độ.
Trong quyền đối nhân, thì bên nhận
bảo lãnh có thể coi là chủ thể tích cực,
là người có quyền yêu cầu bên bảo lãnh
thi hành nghĩa vụ khi mà bên được bảo
lãnh không thi hành hoặc thi hành không
đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. Đứng về
phía người nhận bảo lãnh thì nghĩa vụ
bảo lãnh mang lại thế chủ động. Về phía
bên bảo lãnh thì nghĩa vụ bảo lãnh mang
tính hạn chế hơn. Tuy nhiên, do hình
thành từ sự tự nguyện cam kết và thỏa
thuận của nên bên bảo lãnh chấp nhận sự
thiệt thòi đó.
Trên cơ sở những phân tích trên, nhận
thấy bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm
có tính chất trái quyền nhằm đảm bảo cho
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Và hợp
đồng bảo lãnh – mang tính chất trái quyền
là căn cứ pháp lý để tạo lập quyền của bên
nhận bảo lãnh đối với bên bảo lãnh và tài
sản dùng làm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
(nếu các bên có thỏa thuận).
3. Khái niệm bảo lãnh theo quy định
của Bộ luật dân sự năm 2015
Bảo lãnh được quy định tại Điều 335
Bộ luật dân sự năm 2015, “Bảo lãnh là việc
người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam
kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận
61Khoa học Kiểm sátSố 02 - 2019
NGUYỄN HẢI NGÂN
bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh),
nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà
bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ”.
Bộ luật dân sự năm 2015 tiếp cận bảo
lãnh dưới dạng một giao dịch dân sự trên
nền tảng lý thuyết trái quyền bảo đảm.
Quy định về bảo lãnh được đặt trong quy
định về nghĩa vụ và hợp đồng. Về cơ bản,
các quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ bảo lãnh theo pháp luật dân sự
Việt Nam và pháp luật dân sự Pháp, Nhật
Bản có những nét tương đồng như: bảo
lãnh là thỏa thuận được thiết lập giữa
bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh; bên
bảo lãnh phải chịu trách nhiệm trước bên
nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa
vụ thay cho bên được bảo lãnh nếu bên
này không thực hiện được nghĩa vụ. Tuy
nhiên, quy định của pháp luật Việt Nam
cũng có những điểm khác biệt. Thứ nhất,
theo luật dân sự Việt Nam các bên có thể
thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được
bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo
lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh. Bên nhận bảo lãnh có thể yêu
cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ mà
không cần phải chứng minh việc bên có
nghĩa vụ không có khả năng thực hiện ng-
hĩa vụ vì lý do nào. Trong khi đó, pháp luật
Pháp cho phép khi bên nhận bảo lãnh yêu
cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, bên
bảo lãnh có quyền yêu cầu bên nhận bảo
lãnh phải tiến hành yêu cầu và bán tài sản
của bên được bảo lãnh trước, nếu bên này
trong tình trạng không còn tài sản thì bên
bảo lãnh mới thực hiện nghĩa vụ. Thứ hai,
luật Việt Nam ghi nhận sự liên đới về mặt
nghĩa vụ giữa bên bảo lãnh và bên được
bảo lãnh trong việc thực hiện nghĩa vụ đối
với bên nhận bảo lãnh. Trong khi đó, luật
của Pháp lại thiết lập tình trạng không liên
đới trong việc thực hiện nghĩa vụ giữa bên
bảo lãnh và bên được bảo lãnh.
Trên thực tế, một khi nghĩa vụ được
bảo đảm có sự vi phạm thì bên nhận bảo
lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực
hiện nghĩa vụ, nhưng việc có thỏa mãn
được nghĩa vụ hay không lại hoàn toàn
phụ thuộc vào bên bảo lãnh. Bởi vậy, pháp
luật nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam
ghi nhận các bên có quyền thỏa thuận
thêm biện pháp bảo đảm để đảm bảo việc
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Theo đó, bảo
lãnh cần được nhìn nhận dưới góc độ là
một biện pháp bảo đảm có tính chất trái quyền
được hình thành từ sự thỏa thuận giữa các bên
chủ thể mà theo đó một người cam kết cho việc
thực hiện nghĩa vụ thay cho một chủ thể khác,
nếu chủ thể này không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ thì người cam kết sẽ
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ.
Quy định về bảo lãnh trong Bộ luật
dân sự năm 2015 đã kế thừa những quy
định hợp lý của Bộ luật dân sự năm 2005,
đồng thời được sửa đổi, bổ sung nhiều
nội dung mới khắc phục những điểm còn
hạn chế của Bộ luật dân sự năm 2005. Tuy
nhiên, cần phải hoàn thiện hơn nữa một
số quy định về bảo lãnh, phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản của luật sân sự và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo
lãnh trong thực tiễn. Đồng thời, rất cần
sự giải thích, hướng dẫn của các cơ quan
có thẩm quyền để triển khai thực hiện các
quy định của pháp luật dân sự hiện hành
về bảo lãnh./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_so_ly_thuyet_cua_bao_lanh_va_lien_he_voi_quy_dinh_ve_bao.pdf