Cơ sở nghiên cứu/đào tạo trong thực hiện khuyến nghị UPR1 về giáo dục quyền con người tại Việt Nam

Sự tham gia của cơ sở nghiên cứu/đào tạo vào quy trình xây dựng và phản biện các báo cáo quốc gia về quyền con người Hiện nay, sự tham gia của các cơ sở nghiên cứu/đào tạo vào quá trình xây dựng các báo cáo quốc gia còn khiêm tốn, nhưng nếu được “trưng dụng”, với những kinh nghiệm nghiên cứu và thực tiễn giáo dục, đào tạo, những ý kiến đề xuất từ các cơ sở này sẽ góp phần quan trọng cho việc hình thành báo cáo quyền con người của quốc gia. Bên cạnh đó, như đã biết, UPR là cơ chế liên chính phủ của HĐNQ LHQ, có nhiệm vụ rà soát tổng thể các vấn đề nhân quyền tại tất cả các nước thành viên LHQ với mục tiêu là cải thiện tình hình nhân quyền ở tất cả các nước và giải quyết những vi phạm nhân quyền diễn ra ở bất cứ đâu trên thế giới; tăng cường hợp tác giữa các quốc gia và hỗ trợ nước đang kiểm điểm để thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; khuyến khích hợp tác toàn diện và gắn kết giữa các nhà nước và các tổ chức phi chính phủ với HĐNQ. Để thực hiện mục tiêu này, HĐNQ cũng xác lập nguyên tắc cho toàn bộ quy trình UPR là đối thoại, hợp tác, bình đẳng, khách quan, minh bạch. Chính vì vậy, các thông tin được đưa ra đánh giá tại HĐNQ không chỉ là báo cáo của các chính phủ, mà còn bao gồm những thông tin được tổng hợp từ các cơ quan nhân quyền quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, viện nghiên cứu, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực quyền con người Chính vì vậy, báo cáo độc lập từ các trung tâm nghiên cứu cũng có thể trở thành nguồn tham chiếu cho quá trình đánh giá UPR của quốc gia tại HĐNQ.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở nghiên cứu/đào tạo trong thực hiện khuyến nghị UPR1 về giáo dục quyền con người tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CƠ SỞ NGHIÊN CỨU/ĐÀO TẠO TRONG THỰC HIỆN KHUYẾN NGHỊ UPR1 VỀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI TẠI VIỆT NAM 1 UPR (Universal Periodic Review): Kiểm điểm định kỳ phổ quát - là một quy trình đặc biệt, bao gồm việc kiểm điểm định kỳ những báo cáo về nhân quyền của tất cả 193 quốc gia thành viên LHQ. UPR là một sáng kiến quan trọng của Hội đồng Nhân quyền (HĐNQ) dựa trên việc đối xử bình đẳng với tất cả các thành viên, tạo cơ hội cho các quốc gia công bố những hành động cụ thể mà họ đã thực hiện nhằm cải thiện tình hình nhân quyền ở nước mình. Ngoài ra, UPR còn đề cao sự chia sẻ về cách thức và kinh nghiệm thực thi nhân quyền giữa các quốc gia thành viên của LHQ. UPR được HĐNQ LHQ thiết lập vào ngày 15/3/2006 trên cơ sở Nghị quyết 60/251 và các văn kiện xây dựng thiết chế A/ HRC/RES/511, Nghị quyết 16/21 và Quyết định 17/119 của Đại hội đồng LHQ. UPR được thực hiện dựa trên cơ sở các quy định của Hiến chương LHQ, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, các văn kiện quốc tế về quyền con người mà quốc gia kiểm điểm là thành viên, các lời hứa và cam kết tự nguyện về nhân quyền của quốc gia... Mục tiêu chính của UPR là cải thiện tình hình nhân quyền ở tất cả các nước và giải quyết những vi phạm nhân quyền diễn ra ở bất cứ đâu trên thế giới; tăng cường hợp tác giữa các quốc gia và hỗ trợ nước đang kiểm điểm để thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; khuyến khích hợp tác toàn diện và gắn kết giữa các nhà nước và các tổ chức phi chính phủ với HĐNQ... (Xem: ). Tóm tắt: Trong những năm qua, là một thành viên tích cực và có trách nhiệm đối với các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực thực hiện và đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc thực thi các khuyến nghị được chấp thuận tại UPR về vấn đề quyền con người, trong đó có các cam kết về tăng cường hoạt động giáo dục quyền con người trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Thông qua quá trình thực thi các khuyến nghị UPR về giáo dục quyền con người tại Việt Nam, vai trò của các cơ sở đào tạo, nghiên cứu là rất rõ ràng và nổi bật, nhằm tăng cường hơn nữa hoạt động giáo dục và sự hiểu biết về quyền con người cho mọi tầng lớp nhân dân. Nguyễn Thị Hồng Yến* * TS. Trưởng bộ môn Công pháp quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội Abstract For years, as an proactive and responsible member of the international community, Vietnam has constantly made its efforts and reached tremendous acheivements in its enforcements of the recommendations from the UPR on the human rights, including the commitments on strengthening the communication activities on the human rights nationwide territory. Through the enforcements of UPR recommendations on human rights in Vietnam, training and studies institutions play an important role to further enhance the provision of education on the human rights for all people. Thông tin bài viết: Từ khóa: quyền con người, giáo dục quyền con người, UPR, Liên hiệp quốc. Lịch sử bài viết: Nhận bài : 01/10/2018 Biên tập : 02/10/2018 Duyệt bài : 15/10/2018 Article Infomation: Keywords: human rights, education on human rights; UNR, United Nations Article History: Received : 01 Oct. 2018 Edited : 02 Otc. 2018 Approved : 15 Oc. 2018 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 18 Số 8(384) T4/2019 1. Quan điểm của Liên hiệp quốc với vấn đề giáo dục quyền con người Ngay từ những ngày đầu tái lập, với chức năng duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, Liên hiệp quốc (LHQ) khẳng định quyết tâm của tổ chức này là “phòng ngừa cho những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến tranh, gây cho nhân loại đau thương không kể xiết cần phải thực sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ, ở quyền bình đẳng ở các nước lớn và nước nhỏ”2. Để đạt được điều đó, LHQ kêu gọi các quốc gia cần có phương thức nhằm nâng cao hiểu biết về quyền con người cho mọi thành viên trong xã hội, từ người hưởng quyền đến người thực thi quyền; trong phạm vi rộng, có sự liên kết giữa các quốc gia, khu vực trong công tác tuyên truyền, giáo dục về quyền con người. 2 Xem 3 Xem nội dung Tuyên ngôn tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Tuyen-ngon-quoc-te-nhan- quyen-1948/65774/noi-dung.aspx 4 Điều 13 Công ước quy định: “Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của mọi người được học tập. Các quốc gia nhất trí rằng việc giáo dục phải hướng vào việc phát triển đầy đủ nhân cách và ý thức về nhân phẩm, và phải nhằm tăng cường sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người. Các quốc gia cũng nhất trí rằng giáo dục cần phải giúp mọi người tham gia hiệu quả vào xã hội tự do, thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung và tình hữu nghị giữa các dân tộc và các nhóm về chủng tộc, sắc tộc hoặc tôn giáo, cũng như nhằm đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động nhằm duy trì hòa bình của LHQ”. Nguồn: 5 Tuy không quy định cụ thể về vấn đề giáo dục quyền con người nhưng Điều 2 của Công ước thông qua Bình luận chung của Ủy ban về các Quyền dân sự, chính trị đã đặt ra yêu cầu cho các quốc gia thành viên bằng nhiều biện pháp trong đó có công tác tuyên truyền, giáo dục nhân quyền giúp cho người dân hiểu các quyền của họ được quy định trong Công ước. Theo đó, “Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người dân trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền tài phán của mình các quyền đã được công nhận trong Công ước này, không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác. Trong trường hợp quy định trên đây chưa được thể hiện bằng các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác, thì mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ tiến hành các biện pháp cần thiết, phù hợp với trình tự lập pháp nước mình và những quy định của Công ước này, để ban hành luật và những biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước”, nguồn: ProfessionalInterest/Pages/CCPR.aspx. Ủy ban về các Quyền dân sự, chính trị đã đưa ra Bình luận chung số 3 giải thích về điều này như sau: “Theo quan hệ này, điều hết sức quan trọng là các cá nhân nên hiểu các quyền của họ (và Nghị định thư bổ sung, trong trường hợp có) là gì và tất cả các quyền lực hành pháp và tư pháp cũng nhận thức được các nghĩa vụ mà quốc gia thành viên đã thừa nhận trong Công ước. Để làm được điều này, Công ước nên được phổ biến bằng tất cả các ngôn ngữ chính thức của nước đó và các bước đi nên được tiến hành để làm cho những người có trách nhiệm liên quan hiểu rõ những nội dung như trong một phần việc đào tạo của họ. Việc công khai hóa sự hợp tác giữa các nước tham gia Công ước với Ủy ban cũng nên được khuyến khích”. Nguồn: KoIRv2FVaVzRkMjTnjRO%2Bfud3cPVrcM9YR0iW6Txaxgp3f9kUFpWoq%2FhW%2FTpKi2tPhZsbE- Jw%2FGeZRASjdFuuJQRnbJEaUhby31WiQPl2mLFDe6ZSwMMvmQGVHA%3D%3D Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người năm 1948 của Đại hội đồng LHQ khẳng định: “Tuyên ngôn này như một tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất cả các dân tộc và quốc gia, sao cho mỗi cá nhân và đoàn thể xã hội luôn nhớ tới bản tuyên ngôn này, nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này bằng học vấn và giáo dục,”3. Tiếp đó, vấn đề giáo dục quyền con người tiếp tục được ghi nhận trong các công ước quốc tế quan trọng của LHQ về vấn đề quyền con người như: Điều 13 Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 19664; Điều 2 Công ước quốc tế về Quyền dân sự, chính trị năm 19665; Công ước về Quyền trẻ em (Điều 28) Đặc biệt, đoạn 78-82 của Tuyên bố Viên và Chương trình hành động năm 1993 được thông qua tại Hội nghị toàn thế giới về Quyền con người tái khẳng định “Các quốc gia có nghĩa vụ bảo đảm rằng NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 19Số 8(384) T4/2019 giáo dục phải nhằm mục đích tăng cường sự tôn trọng các quyền con người và tự do cơ bản”. “Giáo dục nhằm thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung, hoà bình và quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc, giữa các nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo”6. Năm 1994, Đại hội đồng LHQ cũng ra Nghị quyết số 49/84 tuyên bố thực hiện Thập kỷ giáo dục Quyền con người giai đoạn 1995-2004 trên toàn thế giới. Đại hội đồng coi giáo dục quyền con người là “một quá trình lâu dài mà con người ở tất cả các trình độ phát triển và tất cả các tầng lớp xã hội đều được học cách tôn trọng đối với phẩm giá của người khác và học về các phương tiện, cách thức để đảm bảo sự tôn trọng đó trong tất cả các xã hội”7. Đồng thời, Tuyên bố về Thập kỷ giáo dục Quyền con người của LHQ cũng định nghĩa về giáo dục quyền con người là các hoạt động “đào tạo, phổ biến và thông tin nhằm xây dựng một nền văn hóa phổ biến về quyền con người thông qua việc truyền đạt các kiến thức, các kỹ năng và tạo nên thái độ nhằm vào: tăng cường sự tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản; phát triển toàn diện cá nhân con người và ý thức tôn trọng con người; thúc đẩy sự hiểu biết, tôn trọng, bình đẳng giới và sự đoàn kết giữa các quốc gia, người bản địa và các nhóm chủng tộc, quốc gia, dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ; khả năng hoạt động một cách có hiệu quả của tất cả mọi người trong một xã hội tự do; đẩy mạnh các hoạt động của LHQ để giữ gìn hòa bình”8. Năm 2011, LHQ thông qua Tuyên ngôn về giáo dục và đào tạo Quyền con người, trong đó nhấn mạnh giáo dục quyền con người có vai 6 Xem: hanh-ng-nm-1993&catid=7:cac-vn-kin-nhan-quyn-quc-t-c-bn-&Itemid=19 7 Xem: Nghị quyết số 49/84 tuyên bố thực hiện Thập kỷ giáo dục Quyền con người giai đoạn 1995-2004 ngày 23/12/1994 tại 8 Xem Nghị quyết số 49/84 tuyên bố thực hiện Thập kỷ giáo dục Quyền con người giai đoạn 1995-2004 ngày 23/12/1994 tại 9 Xem: hanh-ng-nm-1993&catid=7:cac-vn-kin-nhan-quyn-quc-t-c-bn-&Itemid=19 trò quan trọng trong việc xây dựng “một nền văn hóa quyền con người” toàn cầu Để thực hiện thành công Thập kỷ giáo dục Quyền con người, các nghị quyết của LHQ đồng thời cũng khuyến khích các quốc gia thành viên xây dựng và thực hiện các kế hoạch quốc gia về giáo dục quyền con người. Kế hoạch này bao gồm nhiều hoạt động, trong đó có việc thành lập hoặc tăng cường các cơ sở, tổ chức và các nguồn lực cho hoạt động giáo dục quyền con người trong phạm vi quốc gia. Như vậy, với tư cách là tổ chức đa phương lớn nhất toàn cầu thực hiện chức năng chính là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, LHQ không ngừng nỗ lực trong việc xây dựng khung pháp lý và đề xuất các giải pháp cho các quốc gia thành viên nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên phạm vi toàn cầu. Trong các văn kiện nói trên, LHQ bày tỏ rõ ràng về tầm quan trọng của giáo dục quyền con người. Theo đó, “giáo dục về quyền con người và phổ biến các thông tin đúng đắn đóng vai trò quan trọng, cả về lý luận và thực tiễn, trong việc thúc đẩy và tôn trọng các quyền con người của tất cả các cá nhân, không có sự phân biệt nào về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, và điều này cần phải được lồng ghép vào các chính sách giáo dục ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế”9. 2. Hoạt động của cơ sở nghiên cứu/đào tạo trong thực hiện các khuyến nghị về giáo dục quyền con người tại Việt Nam Ở Việt Nam, trong quá trình thực thi các khuyến nghị UPR, các cơ sở đào tạo thực hiện các hoạt động thông qua các hình thức sau: NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 20 Số 8(384) T4/2019 2.1 Xây dựng/lồng ghép giảng dạy quyền con người trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng Trên cơ sở lấy ý kiến của các Bộ, ngành và các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, ngày 5/9/2017, Chính phủ phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đây là đề án có ý nghĩa rất quan trọng nhằm mục tiêu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con người nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người học, của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục về tầm quan trọng, ý thức tự bảo vệ các quyền của bản thân, tôn trọng nhân phẩm, các quyền và tự do của người khác; ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước và xã hội, góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững của đất nước. Đề án được xây dựng, một phần cũng nhằm thực hiện khuyến nghị về vấn đề tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về quyền con người mà Việt Nam chấp nhận trong cả hai chu kỳ báo cáo UPR. Cũng trong Đề án này, Chính phủ xác định mục tiêu đến năm 2025, 100% các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân tổ chức giáo dục quyền con người cho người học. Đồng thời, trên cơ sở góp ý của các cơ quan, tổ chức, cơ quan xây dựng Đề án có sự điều chỉnh phù hợp với nội dung lồng ghép giáo dục quyền con người cho phù hợp với từng cấp học, cụ thể: Đối với học sinh tiểu học (cấp I), môn học Đạo đức bao gồm các bài học nhằm hướng dẫn các em tôn trọng người khác như: tôn trọng khách nước ngoài, tôn trọng thư từ, tài sản của người khác (lớp 3); tôn trọng phụ nữ (lớp 5) Trong các bài học này, tuy các khái niệm cụ thể về quyền chưa được sử dụng (chẳng hạn khi nói về tôn trọng phụ nữ thì mới nêu các lý do về đạo đức, xã hội chứ chưa đề cập đền "quyền của phụ nữ") và các kiến thức, thông tin chuyển tải mới ở mức độ đơn giản, nhưng rõ ràng, thông qua các bài học kể trên, học sinh có thể hiểu được một số nguyên tắc cơ bản của quyền con người và nghĩa vụ tôn trọng các quyền con người của các nhóm đối tượng có liên quan. Ở cấp trung học cơ sở phổ thông (cấp II), số lượng bài học về quyền con người trong chương trình học nhiều hơn, các bài học chứa đựng những kiến thức rộng và sâu hơn về quyền con người. Mặc dù vậy, tương tự như ở cấp tiểu học, các bài học về quyền con người ở cấp trung học cơ sở vẫn được thiết kế thông qua những bối cảnh sinh hoạt hàng ngày và phù hợp với nhận thức xã hội của học sinh theo từng độ tuổi, để giúp các em có thể hiểu được các khái niệm và phạm trù đôi khi khá phức tạp trên lĩnh vực này. Trong chương trình giáo dục cấp III, môn học Giáo dục công dân mang tính lý thuyết và tính khái quát khá cao, nhiều nội dung tương đối trừu tượng so với lứa tuổi thiếu niên. Chương trình lớp 10 đề cập một số nghĩa vụ của công dân nhưng chủ yếu từ khía cạnh đạo đức (đối với cộng đồng, với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc), lớp 11 có các bài: Nhà nước XHCN (Bài 9), nền dân chủ XHCN (Bài 10). Các kiến thức về quyền con người tập trung nhiều hơn ở chương trình giáo dục công dân lớp 12. Theo đó, học sinh được tiếp cận với nhiều nội dung liên quan đến quyền công dân như bài Hiến pháp, các quyền trong lĩnh vực dân sự (trong bài Luật dân sự), các quyền trong tố tụng và một số quyền trong các lĩnh vực cụ thể như đất đai, thuế, hành chính Riêng với bậc học đại học, việc giảng dạy về quyền con người chủ yếu tập trung ở các trường có đào tạo chuyên ngành luật. Giáo dục nhân quyền trong các trường đại học ở Việt Nam hướng tới: hoặc mục tiêu nhằm đào tạo các chuyên gia trong lĩnh vực nhân quyền phục vụ công tác bảo vệ, thúc đẩy quyền con người trong các trường đại học đào tạo chuyên ngành luật; hoặc nhằm mục đích giáo dục về nhân quyền cho sinh viên các trường đại học để phục vụ trong các lĩnh vực khác nhau. Tại các trường đại học/ NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 21Số 8(384) T4/2019 cao đẳng hiện nay, quyền con người được tích hợp, lồng ghép vào một số môn học như Luật hiến pháp, Luật hành chính, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Luật công pháp quốc tế..., thậm chí có những cơ sở nghiên cứu và đào tạo xây dựng những môn học độc lập. Báo cáo cuối cùng đánh giá việc giảng dạy nhân quyền tại Học viện Ngoại giao và các trường đại học tại Việt Nam của nhóm tư vấn quốc gia vào tháng 12/2013 đã đưa ra những phân tích, đánh giá khá chi tiết về việc giảng dạy quyền con người trong các trường đại học hiện nay ở Việt Nam, như: - Khoa Luật (Đại học quốc gia Hà Nội). Đây là cơ sở đào tạo có khóa học chính thức riêng về nhân quyền. Ngoài ra, cơ sở này cũng xây dựng chương trình đào tạo thạc sỹ về nhân quyền (với sự hỗ trợ của Trung tâm nhân quyền Na-uy, thuộc Đại học Oslo)10. - Trường Đại học Luật Hà Nội. Trường có một khóa học về nhân quyền thuộc chương trình giảng dạy luật quốc tế của trường (môn học tự chọn, tương đương 03 tín chỉ trong hơn 100 đơn vị học trình của chuyên ngành luật quốc tế). Bên cạnh đó, chương trình đào tạo cử nhân của Đại học Luật Hà Nội có rất nhiều môn học về luật trong nước, mà nội dung lại liên quan chặt chẽ tới khía cạnh giáo dục nhân quyền, cụ thể là môn học về luật dân sự, thủ tục tố tụng dân sự, quy định đặc biệt về xử án dân sự, luật về thi hành phán quyết dân sự, luật hôn nhân, luật sở hữu trí tuệ, luật về bồi thường 10 Xem Báo cáo cuối cùng đánh giá việc giảng dạy nhân quyền tại Học viện Ngoại giao và các trường Đại học tại Việt Nam của nhóm tư vấn quốc gia vào tháng 12/2013. 11 Xem Báo cáo cuối cùng đánh giá việc giảng dạy nhân quyền tại Học viện ngoại giao và các trường Đại học tại Việt Nam của nhóm tư vấn quốc gia vào tháng 12/2013. 12 Xem: Báo cáo cuối cùng đánh giá việc giảng dạy nhân quyền tại Học viện ngoại giao và các trường Đại học tại Việt Nam của nhóm tư vấn quốc gia vào tháng 12/2013. 13 Chương trình này gồm 12 môn học với 50 tín chỉ trong đó có 9 môn kiến thức cơ sở và chuyên ngành. Chương trình đào tạo những chuyên gia có kiến thức cơ bản, toàn diện, chuyên sâu về các vấn đề lý luận, pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền con người, có khả năng phân tích, đánh giá và giải quyết các công việc có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến vấn đề quyền con người ở các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội cũng như thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu về lĩnh vực này tại các cơ sở đào tạo. Nguồn: https://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C2092/N8361/Lan-dau-tien-dao-tao-thac-si-chuyen-nganh-Phap-luat -ve-quy- en-con-nguoi-tai-Viet-Nam.htm của nhà nước, luật nhà ở, luật đăng ký giao dịch an toàn, luật bảo hiểm dân sự, luật về quyền công dân, luật bình đẳng giới, luật ngăn chặn bạo lực gia đình, luật về quyền trẻ em, kỹ năng tư vấn pháp luật trong quy trình dân sự11. - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Ở Trường đại học này, luật nhân quyền quốc tế là một môn học trong chương trình Công pháp quốc tế của Khoa Luật quốc tế (gồm 5 chủ đề: luật tổ chức quốc tế, luật biển, luật hàng không, luật miễn trừ ngoại giao và lãnh sự, luật nhân quyền quốc tế). Khóa học luật nhân quyền quốc tế tại trường là 30 tiết học, gồm 3 chủ đề lớn: (i) Sự phát triển của nhân quyền và dân quyền (lịch sử, bản chất và phạm vi của nhân quyền và dân quyền, hệ thống luật quốc tế về nhân quyền); (ii) Công nhận pháp lý đối với nhân quyền và dân quyền tại Việt Nam (Luật hiến pháp); (iii) Đảm bảo thực thi nhân quyền và dân quyền (đảm bảo chính trị và kinh tế, đảm bảo về xã hội và bảo vệ pháp luật: trách nhiệm của nhà nước, cộng đồng, tổ chức và cá nhân; cơ chế và quy trình bảo vệ; nhận thực xã hội và xây dựng năng lực, bồi thường pháp luật, dịch vụ luật pháp)12. Đối với hệ đào tạo sau đại học. Hiện nay, số lượng các trung tâm nghiên cứu/cơ sở đào tạo có mã ngành đào tạo sau đại học độc lập về quyền con người khá hạn chế, chỉ có một số chương trình như: Chương trình thạc sỹ chuyên ngành pháp luật về quyền con người của Đại học quốc gia Hà Nội13, NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 22 Số 8(384) T4/2019 chương trình thạc sỹ về quyền con người của Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam14 Bên cạnh đó, Việt Nam cũng thành lập hệ thống các cơ quan nghiên cứu chuyên sâu về quyền con người như: Viện nghiên cứu Quyền con người thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Trung tâm nghiên cứu Quyền con người và Quyền công dân thuộc Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội; Trung tâm Nghiên cứu pháp luật về Quyền con người và Quyền công dân thuộc Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, một số viện nghiên cứu chuyên ngành thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam như Viện nghiên cứu Gia đình và Giới; Viện Nhà nước và Pháp luật; Viện nghiên cứu Con người đã thành lập phòng nghiên cứu về quyền con người; trong đó có những trung tâm trực tiếp tham gia vào hoạt động đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu nhưng cũng có trung tâm chủ yếu ra đời phục vụ quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quyền con người. Nội dung giảng dạy và đào tạo cũng được các cơ sở chú trọng kết hợp hài hòa giữa lý luận và thực tiễn nhằm hướng người học đến các nhận thức chung về quyền con người. Ngoài các chương trình đào tạo tập trung, dài hạn, các cơ sở đào tạo và trung tâm nghiên cứu quyền con người còn tiến hành các hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ, công chức, viên chức theo các đề án của Nhà nước; hoặc các chương trình bồi dưỡng kiến thức theo nhu cầu của cơ quan, tổ chức, góp phần nâng cao nhận thức về quyền con người trong xã hội. Nhìn chung, giáo dục quyền con người đã trở thành một chủ đề được quan tâm chung trong nhiều trường đại học ở Việt Nam nhưng mức độ hướng dẫn, nội dung, phương pháp và cách tiếp cận vẫn chưa thực sự đồng đều. Các nội dung về quyền 14 Nguồn %E2%80%9CNghien-cuu-va-giao-duc-quyen-con-nguoi-o-Viet-Nam:-nhung-co-hoi-va-thach-thuc%E2%80%9D con người được lồng ghép vào trong các môn học, tuy nhiên chủ yếu vẫn chỉ được coi là một chủ đề trong phạm vi luật quốc tế, dẫn đến chưa có sự gắn kết thực sự chặt chẽ giữa các môn học với nội dung giáo dục nhân quyền. Ngoài ra, các môn học độc lập về quyền con người cũng chủ yếu dừng lại ở các môn tự chọn. 2.2 Tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học và tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền con người Nghiên cứu khoa học: hoạt động nghiên cứu ở các cơ sở đào tạo nêu trên rất đáng khích lệ, nó không chỉ dừng lại ở các hoạt động đơn lẻ, tự thân mà đã có sự hợp tác, hỗ trợ từ các đối tác quốc tế như Na-uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Australia, EU. Các hoạt động nghiên cứu chủ yếu có thể kể đến như: tổ chức các hội thảo trong nước và quốc tế, tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, các chương trình trao đổi học viên, chuyên gia, thực hiện các đề tài/dự án trong khuôn khổ thực hiện các khuyến nghị UPR do các đối tác truyền thống hỗ trợ, biên soạn các giáo trình, sách tham khảo, tài liệu hướng dẫn, hỏi-đápvề vấn đề quyền con người. Kết quả của hoạt động nghiên cứu nhằm củng cố thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền con người, đồng thời bổ sung thêm những nguồn tri thức, luận cứ khoa học mới cho sự phát triển của các nội dung quyền con người và pháp luật về quyền con người; qua đó làm sâu sắc hơn những nhận thức về vấn đề quyền con người trong giới nghiên cứu, học giả. Những giải pháp, đề xuất mà các công trình nghiên cứu khoa học mang lại có thể trở thành nguồn tham khảo rất hữu ích đối với các cơ quan nhà nước trong quá trình xây dựng các chính sách, pháp luật về vấn đề quyền con người tại Việt Nam; và cung cấp nguồn học liệu phong phú, đa chiều cho đội ngũ học sinh, sinh viên, các nhà nghiên cứu NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 23Số 8(384) T4/2019 Hoạt động tuyên truyền, phổ biến các nội dung của quyền con người. Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức được thực hiện thông qua các hình thức tổ chức hội thảo, tọa đàm, tập huấn, nói chuyện chuyên đề, sinh hoạt các câu lạc bộ, biên soạn và phát hành tài liệu tuyên truyền, phổ biến nội dung pháp luật trong nước về quyền con người tới các đối tượng phù hợp; phổ biến trên phương tiện thông tin đại chúng, chuyên trang, chuyên mục về pháp luật về quyền con người; tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học Nội dung tuyên truyền được lựa chọn để xoay quanh các quyền cơ bản của con người, các công cụ hỗ trợ, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người; trách nhiệm, nghĩa vụ mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nhằm đảm bảo việc tôn trọng các quyền con người cơ bản. Ngoài ra, một trong những nội dung tuyên truyền cũng được quan tâm là các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, các thông tin liên quan đến quy trình báo cáo UPR như: công tác chuẩn bị, quy trình báo cáo, kết quả báo cáo, các khuyến nghị và việc thực hiện các khuyến nghị trên thực tế, những khó khăn và thuận lợi Qua công tác tuyên truyền, cán bộ, nhân dân đặc biệt là người dân từng bước nắm bắt, hiểu được những quy định pháp luật cụ thể liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình, cũng như vai trò và trách nhiệm của mình đối với vấn đề thực thi các nghĩa vụ của quốc gia về quyền con người. 3. Sự tham gia của cơ sở nghiên cứu/đào tạo vào quy trình xây dựng và phản biện các báo cáo quốc gia về quyền con người Hiện nay, sự tham gia của các cơ sở nghiên cứu/đào tạo vào quá trình xây dựng các báo cáo quốc gia còn khiêm tốn, nhưng nếu được “trưng dụng”, với những kinh nghiệm nghiên cứu và thực tiễn giáo dục, đào tạo, những ý kiến đề xuất từ các cơ sở này sẽ góp phần quan trọng cho việc hình thành báo cáo quyền con người của quốc gia. Bên cạnh đó, như đã biết, UPR là cơ chế liên chính phủ của HĐNQ LHQ, có nhiệm vụ rà soát tổng thể các vấn đề nhân quyền tại tất cả các nước thành viên LHQ với mục tiêu là cải thiện tình hình nhân quyền ở tất cả các nước và giải quyết những vi phạm nhân quyền diễn ra ở bất cứ đâu trên thế giới; tăng cường hợp tác giữa các quốc gia và hỗ trợ nước đang kiểm điểm để thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; khuyến khích hợp tác toàn diện và gắn kết giữa các nhà nước và các tổ chức phi chính phủ với HĐNQ. Để thực hiện mục tiêu này, HĐNQ cũng xác lập nguyên tắc cho toàn bộ quy trình UPR là đối thoại, hợp tác, bình đẳng, khách quan, minh bạch. Chính vì vậy, các thông tin được đưa ra đánh giá tại HĐNQ không chỉ là báo cáo của các chính phủ, mà còn bao gồm những thông tin được tổng hợp từ các cơ quan nhân quyền quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, viện nghiên cứu, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực quyền con người Chính vì vậy, báo cáo độc lập từ các trung tâm nghiên cứu cũng có thể trở thành nguồn tham chiếu cho quá trình đánh giá UPR của quốc gia tại HĐNQ. 4. Thay lời kết Nhìn chung, cho đến nay, các cơ sở nghiên cứu đã tham gia khá chủ động và hiệu quả trong việc thực hiện chức năng giáo dục, tuyên truyền và phổ biến các nội dung của quyền con người và pháp luật về quyền con người, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của từng cá nhân đối với vấn đề tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản; giúp cho quá trình thực thi các khuyến nghị UPR, đặc biệt là các khuyến nghị liên quan trực tiếp đến hoạt động giáo dục nâng cao nhận thức về quyền con người trở lên thuận lợi và đạt mục tiêu nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, để thúc đẩy hơn nữa vai trò của các cơ quan này trong thời gian tới, chúng tôi đề xuất một số giải pháp như sau: NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 24 Số 8(384) T4/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfco_so_nghien_cuudao_tao_trong_thuc_hien_khuyen_nghi_upr1_ve.pdf
Tài liệu liên quan