Cơ sở quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh

LỜI MỞ ĐẦU “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” Thời gian đã qua lâu rồi, nhưng những lời tuyên ngôn của Bác đã đọc tại quãng trường Ba Đình lịch sử vẫn luôn văng vẳng bên tai chúng ta. Lật lại những trang sử hào hùng của dân tộc, ta thấy rằng dân ta đã đấu tranh rất anh dũng để có được độc lập ngày nay. Hết đánh Pháp ta lại đánh Mỹ, ban đầu chỉ là những cuộc đấu tranh tự phát sau đó chuyển sang tự giác nhưng hầu hết đều thất bại. Cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ lâm vào bế tắc, nhiệm vụ cấp bách là phải tìm một con đường cách mạng mới. Chính lúc đó Nguyễn Ai Quốc xuất hiện. Người sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo trí thức, yêu nước muốn làm cách mạng nhưng Nguyễn Ai Quốc không tán thành đường lối cứu nước của các bậc tiền bối. Năm 1911 Nguyễn Ai Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước. Ở đây Người đã nhận thấy nỗi khổ của nhân dân lao động, được tiếp xúc với luận cương của Lê Nin người đã tìm thấy con đường đi mới cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trên bước đường tìm đường cứu nước và hình thành tư tưởng người đã gặp không ít khó khăn thử thách nhưng với tấm lòng yêu nước và sự kiên trì cuả mình Người đã vượt qua và tiếp tục sự nghiệp cách mạng. Các văn kiện như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Đường kách mệnh của Bác đã góp phần rất lớn trong việc tìm ra thông tin cho cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng các dân tộc bị áp bức. Quá trình hình thành tư tưởng của Bác trải qua 5 giai đoạn, nó dần dần dược hoàn thiện và bổ sung vào những năm 1945-1969. Đây cũng là thời điểm cách mạng tháng Tám thành công. Cuộc cách mạng này là kết qủa của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và càng chứng minh đường lối cứu nước của Bác hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Bài tiểu luận hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua 5 giai đoạn.

doc26 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 9042 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cơ sở quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” Thời gian đã qua lâu rồi, nhưng những lời tuyên ngôn của Bác đã đọc tại quãng trường Ba Đình lịch sử vẫn luôn văng vẳng bên tai chúng ta. Lật lại những trang sử hào hùng của dân tộc, ta thấy rằng dân ta đã đấu tranh rất anh dũng để có được độc lập ngày nay. Hết đánh Pháp ta lại đánh Mỹ, ban đầu chỉ là những cuộc đấu tranh tự phát sau đó chuyển sang tự giác nhưng hầu hết đều thất bại. Cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ lâm vào bế tắc, nhiệm vụ cấp bách là phải tìm một con đường cách mạng mới. Chính lúc đó Nguyễn Ai Quốc xuất hiện. Người sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo trí thức, yêu nước muốn làm cách mạng nhưng Nguyễn Ai Quốc không tán thành đường lối cứu nước của các bậc tiền bối. Năm 1911 Nguyễn Ai Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước. Ở đây Người đã nhận thấy nỗi khổ của nhân dân lao động, được tiếp xúc với luận cương của Lê Nin người đã tìm thấy con đường đi mới cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trên bước đường tìm đường cứu nước và hình thành tư tưởng người đã gặp không ít khó khăn thử thách nhưng với tấm lòng yêu nước và sự kiên trì cuả mình Người đã vượt qua và tiếp tục sự nghiệp cách mạng. Các văn kiện như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Đường kách mệnh của Bác đã góp phần rất lớn trong việc tìm ra thông tin cho cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng các dân tộc bị áp bức. Quá trình hình thành tư tưởng của Bác trải qua 5 giai đoạn, nó dần dần dược hoàn thiện và bổ sung vào những năm 1945-1969. Đây cũng là thời điểm cách mạng tháng Tám thành công. Cuộc cách mạng này là kết qủa của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và càng chứng minh đường lối cứu nước của Bác hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Bài tiểu luận hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua 5 giai đoạn. CHƯƠNG I: CƠ SỞ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH II- Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm khoa học về cách mạng Việt Nam. Hệ thống đó không thể hình thành tại một thời điểm mà diễn ra với cả một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển hoàn thiện các quan điểm của người. Chúng ta có thể khái quát quá trình ấy qua các giai đoạn sau: Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và ý chí cứu nứơc(1890-1911) Tiểu sử Nguyễn Ai Quốc: Cụ phó bản Nguyễn Sinh Sắc là nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân, có tính cần cu, ý chí kiên cường vượt qua khó khăn, gian khổ để đạt được mục đích và có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành. Cụ Nguyễn Sinh Sắc Bà Hoàng Thị Loan Mẹ là bà Hoàng Thị Loan là người phụ nữ nhân hậu, đảm đang sống chan hòa với mọi người và cũng có ảnh hưởng tới tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Tất Thành. Bà Nguyễn Thị Thanh Ông Nguyễn Sinh Khiêm Chị gái Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Thị Thanh, sinh năm 1884. Chị đã tham gia nhiều phong trào yêu nước, nhiều lần bị thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt giam. Nguyễn Thị Thanh qua đời tại quê hương năm 1954, thọ 70 tuổi. Anh trai Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Khiêm, sinh năm 1888. Từ tuổi thanh niên, Nguyễn Sinh Khiêm đã đi nhiều nơi truyền thụ kiến thức, mở mang văn hoá. Do tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong kiến nên Nguyễn Sinh Khiêm đã từng bị tù đày nhiều năm. Nguyễn Sinh Khiêm qua đời năm 1950, thọ 62 tuổi. Bản thân: lúc nhỏ tên Nguyễn Sinh Cung sau đổi thành Nguyễn Tất Thành, Sinh ngày 19/ 5/ 1890 tại Nam Đàn, Nghệ An. Tư tưởng yêu nước yêu nước và ý chí cứu nước: Ngay từ buổi thiếu niên, nhờ các bậc sinh thành và những người thân dạy dỗ, Nguyễn Sinh Cung đã tiếp thu nền văn hóa Quốc học và Hán học, bước đầu tiếp thu văn hóa phương Tây tại trường quốc học Huế. Đã chứng kiến nỗi thống khổ của người dân mất nước, cuộc sống nô lệ. Sự thống trị của kẻ xâm lược và tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của thế hệ cha anh. Bên cạnh đo, Người đã nhận ra những sai lầm cơ bản của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám… Từ đó, Người đã tự định hướng đi mới: Tìm hiểu bản chất từ tự do, bình đẳng, bác ái của nước cộng hòa Pháp và các nước khác. Hoài bão cứu nứơc, cứu dân trong Người bắt đầu hình thành cùng quyết định chọn hướng đi, cách đi và mục đích đúng đắn. Giai đoạn tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc(1911-1920) Đây là giai đoạn mà Nguyễn Tất Thành đã bôn ba 30 nước(các nước tư bản lớn, nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc) để khảo sát tình hình thực tiễn xã hội và cuộc sống của nhân dân lao động các nước đó. Tìm tòi khảo nghiệm : Ngày 5- 6 -1911: Bác ra đi tìm đường cứu nước từ Bến Cảng Nhà Rồng trên tàu Latouche Treville. Tháng 10 - 1917: Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã hướng Người đến cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga và chịu ảnh hưởng của cuộc Cách mạng vĩ đại đó. Ngày 18 - 6 - 1919: Thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam đến hội nghị Vecxay (của các nước Đế Quốc thắng trận sau chiến tranh thế giới thứ I). Bản yêu sách đòi chính phủ Pháp và các nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam không nhưng bản yêu sách đó được hội nghị chấp nhận.Vì vậy, “muốn dược giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Nội dung của Bản yêu sách gồm 8 điểm: Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị. Cải cách nền pháp lí Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm pháp lí như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn những tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam. Tự do báo chí và tự do ngôn luận. Tự do lập hội và hội họp. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương. Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh cho người bản xứ. Thay chế độ ra các xác lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra, tại nghị viện Pháp để giúp cho nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ. Từ đó Nguyễn Ai Quốc rút ra kết luận các dân tộc bị áp bức muốn được độc lập tự do thật sự trước hết dựa vào lực lượng của bản thân mình phải tự mình giải phóng cho mình. Tháng 7-1920: Nguyễn Ai Quốc nghiên cứu bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp, nó đã đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết mà người đang ấp ủ: độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào. Như vậy, Nguyễn Ai Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Ngày 25-12-1920: Nguyễn Ai Quốc tham gia đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua và Người đã bỏ phiếu tán thành việc Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc Tế III; Người là một trong những người sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp và là chiến sĩ cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đây là sự kiện đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn Ai Quốc. Người từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản đã tìm được con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Người đã nói: “ muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". 3. Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1921-1930) Đây là thời kỳ Nguyễn Ai Quốc có những hoạt động lý luận và thực tiễn sôi nổi phong phú: Người tham gia và hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp; tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa và là thành viên của Ban lãnh đạo hội, xuất bản báo Le Paria nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mac-Lenin vào các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Tháng 6 – 1923, tại Matxcơva Nguyễn Ai Quốc tham dự Hội Nghị Quốc tế nông dân và được bầu làm ủy viên đoàn chủ tịch quốc tế nông dân. Sau đó(1924) người tham dự Đại Hội V Quốc Tế Cộng Sản và đại hội của một số tổ chức Quốc tế như Quốc tế thanh niên, Quốc tế cứu tế đỏ, Quốc tế công hội đỏ… Ngày 11-11-1924 người tới Quảng Châu( Trung Quốc) trực tiếp tuyên truyền, giáo dục lí luận, xây dựng tổ chức cách mạng giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. Tháng 6 - 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, xuất bản báo Thanh niên, ra số đầu tiên ngày 21-6-1925; mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ và đưa họ về hoạt động trong nước. Đây là thời kỳ Nguyễn Ai Quốc tiến hành việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đến tháng 2 -1930, Người tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản trong nước, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 9-7-1925, Tại Quảng Châu Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà yêu nước Triều Tiên, Indonexia…lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông. Tôn chỉ của Hội là liên lạc với các dân tộc bị áp bức để cùng làm cách mạng, đánh đổ đế quốc. Các văn kiện của Người trong thời kỳ này như các bài viết trên báo Le Parie, báo Nhân đạo, tác phẩm Bản án chế độ thực dân pháp (1925), tác phẩm Đường kách mệnh (1927), các bài viết trên báo Thanh niên và các văn kiện tại Hội nghị hợp nhất như Chánh cương vắn tắt, Sách lựơc vắn tắt, Chương trình vắn tắt và Điều lệ vắn tắt đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng của Việt Nam. những tác phẩm có tính chất lí luận nói trên chứa`đựng những nội dung cơ bản sau đây: Bản chất của chủ nghĩa thưc dân là ‘ăn cướp” và “giết người’ . vì vậy, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách vô sản và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới . giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân. Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc. Ở đây, Nguyễn Ai Quốc muốn nhấn mạnh vai trò tích cực, chủ động của các dân tộc thuộc dịa trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân. Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc ‘dân tộc cách mạng”, đánh đuổi bọn ngoại xâm, giành độc lập, tự do. Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, bị đế quốc, phong kiến bóc lột nặng nề. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành dược thắng lợi cần phải thu phục, lôi cuốn được nhân dân đi theo, cần xây dựng khối công nông liên minh làm động lực cho cách mạng. Đồng thời, cần phải thu hút tập hợp rộng rãi các giai cấp xã hội khác vào trận tuyến đấu tranh chung của dân tộc. Cách mạng muốn thành công trước hết cần phải có Đảng lãnh đạo. Đảng phải theo chủ nghĩa Mac-Lênin và phải có một đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy sinh chiến đấu vì lý tưởng của Đảng, vì lợi ích và sự tồn vong của dân tộc, vì lý tưởng giải phóng giai cấp công nhân và nhân loại Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải là việc của một vài người. Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp lên cao. Đây là quan điểm cơ bản đầu tiên của Nguyễn Ai Quốc về nghệ thuật vận động quần chúng và tiến hành đấu tranh cách mạng. Khi nói sự kiện Nguyễn Ai Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là dấu mốc khẳng định sự hình thành cơ bản tư tưởng của Người về con đường cách mạng ở Việt Nam, chúng ta cần nắm vững một số điểm dưới đây: Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ai Quốc soạn thảo là cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các quan điểm về cách mạng Việt Nam là sự kết tinh các quan điểm, nhận định của Người, khởi đầu từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến việc tiếp thu chủ nghĩa Mác-lênin và tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc-con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga- con đường cách mạng vô sản. Các văn kiện của Hội nghi thành lập Đảng do Nguyễn Ai Quốc soạn thảo thể hiện rõ những quan điểm của Người về mục tiêu cách mạng Việt Nam. Đó là: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”; nghĩa là đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc và qua đó đi lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng ấy là sự nghiệp của toàn dân tộc, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Khi xác định các lực lượng cách mạng, các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ai Quốc soạn thảo đaư thể hiên những quan niệm cơ bản về đại đoàn kết dân tộc, gồm tất cả các giai cấp tầng lớp yêu nước, kể cả tư sản dân tộc trung, tiểu địa chủ, lấy liên minh công nông làm nòng cốt. Về vấn đề xây dựng Đảng các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ai Quốc soạn thảo và một số tác phẩm trước đó, đặc biệt là cuốn Đường kách mệnh, Người đã xác định rõ những quan diểm,tư tưởng về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng, về tư cách , đạo đức, nghiệp vụ của người đảng viên. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc và phạm trù cách mạng vô sản, các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ai Quốc soạn thảo đã khẳng định: cách mạng Việt Nam có mối liên hệ chặt chẽ với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc các nước thuộc địa và phụ thuộc, với phong trào cách mạng vô sản thế giới, đặc biệt là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản Pháp. Các văn kiện của hội nghị thành lập đảng do Nguyễn Ai Quốc soạn thảo tu vắn tắt ,nhưng những vấn đề cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ, đừơng lối của cách mạng đã được xác định. Đó là những quan điểm cách mạng, khoa học và sáng tạo, phù hợp với nhu cầu thực tiễn khách quan của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại. Các văn kiện thể hiện rõ mối quan hệ và kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm dân tộc với quan điểm giai cấp, quốc gia và quốc tế, trong đó thể hiện đậm nét yếu tố dân tộc theo lập trường của chủ nghĩa Mac-Lenin,yếu tố thể hiện sự độc đáo của cách mạng Việt Nam,đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là quan điểm cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. 4. Thời kì từ 1930 – 1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giứ vững lập trường cách mạng. Vào cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỉ XX, Quốc tế Cộng sản bị chi phối nặng bởi khuynh hướng “tả”.Khuynh hướng này đã tác động trực tiếp,mạnh mẽ vào phong trào cách mạng Việt Nam. Từ 14 đến 31-10-1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời họp tại Hương Cảng (Trung Quốc) theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản. Hội nghi cho rằng , Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930 vì chưa nhận thức đúng nên đã đặt tên Đảng sai và quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị chỉ trích và phê phán đường lối Nguyễn Ái Quốc đưa ra trong Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã phạm những sai lầm chính trị rất “nguy hiểm”,vì “chỉ lo đến việc phản đế,mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu”. Do đó, Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết “ Thủ tiêu Chánh cương, Sách lược của Đảng” và phải dựa vào các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, chính sách và kế hoạch của Đảng “làm căn bổn mà chỉnh đốn nội bộ, làm cho Đảng Bônsêvích hóa”… Trên cơ sở xác định con đường cần phải đi của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã kiên trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạnh vô sản, chống lại những biểu hiện “tả” khuynh và biệt phái trong Đảng. Tháng 7 – 1935,Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Maxcova. Trong đại hội: Quốc tế Cộng sản đã phê phán khuynh hướng “tả” trong phong trào công nhân quốc tế, chủ trương mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất vì hòa bình, chống chủ nghĩa phátxít. Đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc, Đại hội đã bác bỏ luận điểm”tả khuynh”,thành lập “chính phủ Xôviết” … Sự chuyển hướng đấu tranh của Quốc tế Cộng sản đã chứng tỏ quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về Cách mạng Việt Nam,về Mặt trận dân tộc thống nhất,về việc tập trung mũi nhọn vào chống chủ nghĩa đế quốc là hoàn toàn đúng đắn. Năm 1936, Đảng ta đã đề ra chính sách mới, phê phán những biểu hiện “tả” khuynh, cô độc, biệt phái trước đây trên cơ sở quan điểm đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc. Như vậy là sau quá trình thực hành cách mạng, cọ xát với thực tiễn, vấn đề phân hóa kẻ thù, tranh thủ bạn đồng minh...đã trở lại với Chánh cương vắn tắt,Sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc.Đó cũng là cơ sở để Đảng ta chuyển hướng đáu tranh trong thời kì 1936-1939: Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương (từ.tháng 3 – 1938 đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương) và từ năm 1939 đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Trong thời gian còn hoạt động ở nước ngoài,lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vẫn luôn luôn theo dõi tình hình trong nước, kịp thời có những chỉ đạo để cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên. Người viết tám điểm xác định đường lối, chủ trương cho cách mạng Đông Dương trong thời kì 1936-1939. Khi tình hình trong nước có nhiều biến động mới, Người đã chủ động đè nghị Quốc tế Cộng sản cho về nước hoạt động. Người yêu cầu “đừng để tôi sống lâu quá trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”. Tháng 10-1938, được sự chấp thuận của Quốc tế Công sản, Nguyễn Ái Quốc từ Matxcơva về Trung Quốc.Tại đây, Người đã có những quan điểm chỉ đạo sát hợp gửi cho các đồng chí lãnh đạo trong nước. Ngày 28-1-1941,Nguyễn Ái Quốc trở về nước sau 30 năm bôn ba hoạt động hải ngoại. Từ 10 đến 19-5-1941, Hội nghị Trung ương lần thứ VIII họp tại Pác Bó (Cao Bằng) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Những tư tưởng và đường lối đúng đắn, sáng tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh được đưa ra và thông qua trong Hội nghị này có ý nghĩa quyết định chiều hướng phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta, dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa..Trong đó, Bác Hồ đã nhấn mạnh các quyền cơ bản của các dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bản tuyên ngôn nêu rõ “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,dân tộc nào cũng có quyền sống,quyền sung sướng và quyền tự do”,”Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do,độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,độc lập ấy”. Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, trong đó có độc lập, tự do gắn với phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị cốt lõi, vốn đã được Hồ Chí Minh phác thảo lần đầu trong Cương lĩnh của Đảng năm 1930, nay trở thành hiện thực cách mạng, đồng thời trở thành chân lý của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,xây dựng xã hội mới của dân tộc ta Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng, phát triển ngày càng sát đúng với hoàn cảnh Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh. 5. Thời kì từ 1945 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện. Ngày 23-09-1945,thực dân Pháp đã lăm le quay lại xâm lược nước ta. chúng núp sau quân đội Anh gây hấn ở Nam bộ. Ở phía Bắc,hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào âm mưu tiêu diệt Đảng ta, bóp chết nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Đứng trước tình thế: ngàn cân treo sợi tóc” của dân tộc,Hồ Chí Minh đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở, tới bờ bến thắng lợi. Về đối nội : Người chủ trương củng cố chính quyền non trẻ, đẩy lùi giặc đói, giặc dốt, khắc phục nạn tài chính thiếu hụt. Về đối ngoại: Người vận dụng sách lược khôn khéo, mềm dẻo, thêm bạn, bớt thù,. “ dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tranh thủ thời gian để chuẩn bị thế và lực cho kháng chiến lâu dài. Ngày 19-12-1946, với tư thế sẵn sàng và lòng tin sắt đá vào cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi, Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.chống thực dân Pháp.Từ đây, Người là linh hồn của cuộc kháng chiến. Người đề ra đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện ,trường kì, tự lực cánh sinh. Người đặc biệt chăm lo xây dựng Đảng,xây dựng lực lượng cán bộ,đấu tranh chống tệ nạn quan liêu,mệnh lệnh,xây dựng đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phát động phong trào thi đua ái quốc. Tháng 2 – 1951, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Nội dung Đai hội: Đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên Đảng Lao Động Việt Nam. Chủ trương thành lập Đảng riêng ở Lào và Campuchia, kịp thời lãnh đạo nhiệm vụ cách mạng ở mỗi nước. Thông qua Cương lĩnh và Điều lệ mới của Đảng. Đề ra chủ trương đường lối, đúng đắn. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp,nhằm động viên toàn Đảng, toàn quân, tòan dân ta kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi với chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Chiến thắng Điện Biên Phủ : Là thắng lợi của sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, thắng lợi đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, bảo vệ thành quả của Cách mạng Tháng Tám Là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh: Vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, đúng đắn giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Vận dụng sáng tạo nguyên lý chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Kế tục và phát triển kinh nghiệm chống xâm lược lâu đời của cha ông. Kết hợp chặt chẽ giữa việc vây dựng lực lượng cách mạng với công tác xây dựng Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên mọi mặt của cuộc kháng chiến. Vừa xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, vừa gây dựng mầm mống cho chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam. Năm 1954, sau hiệp định Giơnevơ, miền Bắc hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước vẫn bị chia cắt bởi âm mưu gây chiến và xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng đã sớm xác định kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam, đề ra cho mỗi miền Nam, Bắc một nhiệm vụ chiến lược khác nhau: Miền Bắc : được xếp vào phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, giữ vai trò uyết định đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, là hậu phương vững chắc cho miền Nam đánh giặc. Miền Nam : được xếp vào phạm trù cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giữ vị trí quan trọng, có tác dụng quyết định trực tiếp nhất đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Xuất phát từ thực tiễn,trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhiều vấn đề đâ tiếp tục bổ sung và phát triển,hợp thành một hệ thống về quan điểm cách mạng Việt Nam. Đó là : tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân; tư tưởng và chiến lược về con người; tư tưởng về Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng với tư cách và Đảng cầm quyền… Nguyễn Ái Quốc tại đại hội Tua Bản yêu sách của nhân An Nam do Nguyễn Ái Quốc gửi tới hội nghị Vec- xay LỜI KẾT Hồ Chí Minh là một vị anh hùng dân tộc vĩ đại, một người thầy thiên tài của cách mạng Việt Nam. Người là tấm gương sáng trong việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mac-Lênin một cách tự chủ và sáng tạo. Tên tuổi và sự nghiệp Hồ Chí Minh đã thực sự là ngọn cờ trong khối óc và trái tim của người Việt Nam. tư tưởng Hồ Chí Minh không khép kín, không nhất thành bất biến mà luôn phát triển với dân tộc và thế giơi. Ngày nay, khi đất nước ta đang bước vào con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa, có rất nhiều vấn đề mới đặt ra cần được giai quyết. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về nguồn gốc và sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng vào thực tế cuộc sống trở thành nhiệm vụ quan trong cấp bách của toàn Đảng, toàn dân ta. Tư tưởng của Ngươi đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của nhân loại. Nhận xét của giáo viên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_2779.doc
Tài liệu liên quan