Cộng hưởng từ tuyến vú ở bệnh nhân ung thư vú thể ẩn có di căn hạch nách
Ngày nay việc lựa chọn điều trị bảo tồn hay phẫu
thuật được xem xét dựa trên hình ảnh cộng hưởng từ dẫn
đến một sự thay đổi trong xử trí lâm sàng chứ không đơn
thuần phẫu thuật tiệt căn vú và nạo hạch nách cùng bên.
Những BN ung thư vú thể ẩn có thể là ung thư vú cùng
bên hạch nách chiếm 55-100% nhưng nguy cơ đối với
ung thư vú đối bên cũng rất cao. Trong nghiên cứu của
Ellerbroek N (1990) tỉ lệ tái phát ở BN ung thư vú thể ẩn
sau điều trị phẫu thuật tiệt căn còn cao hơn ở BN điều trị
bảo tồn, tương ứng là 23% và 17% [5]. Trong nghiên cứu
của chúng tôi có 3/12 (25%) phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến
vú và nạo vét hạch cùng bên khi kích thước của u nhỏ,
nhiều ổ và các dải nhỏ không rõ nốt, khối. Có 5 trường
hợp phẫu thuật thùy vú khi kích thước u là 10-12mm phối
hợp với điều trị hóa chất và xạ trị, còn lại chỉ điều trị hóa
chất đơn thuần 4 trường hợp trong đấy có 2 trường hợp
hạch nách hai bên và 2 trường hợp không tìm thấy được
u trên phim. Rõ ràng khi các nhà lâm sàng đưa ra quyết
định lựa chọn phương pháp điều trị ở BN ung thư vú thể
ẩn phụ thuộc vào hình ảnh trên cộng hưởng từ để xem xét
có thể phẫu thuật được hay điều trị bảo tồn.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 27 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cộng hưởng từ tuyến vú ở bệnh nhân ung thư vú thể ẩn có di căn hạch nách, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012 365
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIeNTIfIC reSeArCH
SUMMARy
CỘNG HƯỞNG TỪ TUYẾN VÚ
Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ THỂ ẨN
CÓ DI CĂN HẠCH NÁCH
Mr imaging of the breast in patients with occult
primary breast cancer presenting as an axillary
metastasis
Nguyễn Thị Hương*, Nguyễn Duy Huề**, Nguyễn Đức Hinh***,
Bùi Văn Lệnh**, Lê Tuấn Linh**
* Khoa chẩn đoán hình ảnh
Bệnh viện Trường Đại học Y
Hà Nội.
** Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh
Trường Đại học Y Hà Nội.
*** Bộ môn Sản Trường Đại
học Y Hà Nội.
Purpose: To access the value of MRI in the diagnosis of occult
primary cancer with axillary metastasis.
Methods and Materials: 12 patients occult breast cancer with
malignant axillary adenopathy and negative on mammographic,
echography and physical examination findings, were underwent
contrast material-enhanced MR imaging in Hanoi medical university
hospital.
Results: The sensitivity of MRI in the diagnosis of occult
primary cancer with axillary metastases was 83%. MR imaging
depicted small cancers from 3 to 12mm diameter. Of the 12 patients,
three patients were underwent mastectomy, five were underwent
lobectomy, and four were underwent breast-conservation therapy.
Conclusion: MR imaging is very sensitive for the detection
of occult breast cancer with malignant axillary adenopathy. MR
imaging offers potential not only for cancer detection but also
for staging the cancer within the breast, which may be useful for
treatment planning.
Keywords: dynamic breast MRI, occult breast cancer.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012366
nghiên CỨU KHoa HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư tuyến vú (UTTV) không những là một bệnh
ung thư hay gặp nhất mà còn là nguyên nhân chính gây
tử vong đối với phụ nữ tại nhiều nước trên thế giới đặc
biệt là các nước Tây Âu và Mỹ [1], [4]. Năm 2005, tỉ lệ
tử vong do ung thư tuyến vú chiếm 7% số người tử
vong do ung thư và 1% tổng số tử vong của thế giới
[1]. Ở Mỹ (2000), tỉ lệ mắc UTTV chuẩn theo tuổi là
118/100.000 dân và tỉ lệ chết là 30/100.000 dân [1]. Ở
Việt Nam, năm 2000 tỉ lệ mắc UTTV chuẩn theo tuổi là
17,4/100.000 dân [1]. Nguy cơ mắc ung thư tuyến vú
theo suốt cuộc đời người phụ nữ, độ tuổi trung bình từ
45-49 tuổi, hiếm khi gặp ở lứa tuổi dưới 30 [1], [4].
Ngày nay, người ta nhận thấy điều đặc biệt quan
trọng và rõ ràng là chẩn đoán, phát hiện sớm UTTV đã
làm thay đổi rất nhiều bệnh sử tự nhiên, hiệu quả điều
trị và làm giảm đáng kể tỉ lệ tử vong [1], [4]. Ngoài việc
khám vú trên lâm sàng thì hai phương pháp Xquang
vú và siêu âm tuyến vú có giá trị chẩn đoán cao, nhiều
nước đã áp dụng thường quy và dùng để sàng lọc
UTTV trong cộng đồng. Tuy nhiên có 0.3 – 0.8% UTTV
biểu hiện đơn độc di căn hạch nách ác tính mà không
có bằng chứng Xquang, siêu âm cũng như lâm sàng
của một khối u nguyên phát ở vú gọi là ung thư vú thể
ẩn [2], [6], [10]. Trước đây việc điều trị những BN này
miễn cưỡng phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến vú cùng
bên và nạo vét hạch nhưng trong số đấy có 30% trường
hợp không tìm thấy được khối u trong bệnh phẩm [5],
[8]. Các nghiên cứu gần đây cho thấy kết quả điều trị
bảo tồn ở những BN này không có sự khác biệt với
điều trị phẫu thuật kết hợp với điều trị hỗ trợ nên cộng
hưởng từ tuyến vú có giá trị chẩn đoán để các nhà lâm
sàng quyết định điều trị BN di căn hạch nách ác tính
như một ung thư tuyến vú di căn [2].
Cộng hưởng từ động học có độ phân giải tổ chức
cao, đồng thời đánh giá động học cấp máu vùng tổn
thương vì vậy nó cho phép phát hiện các tổn thương
nhỏ kín đáo. Ở Việt Nam việc áp dụng cộng hưởng từ
trong chẩn đoán ung thư tuyến vú còn chưa được áp
dụng rộng rãi. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
này với mục tiêu: Bước đầu nhận định giá trị của cộng
hưởng từ tuyến vú đối với BN ung thư vú thể ẩn có di
căn hạch nách.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến cứu 12 BN ung thư tuyến vú thể
ẩn di căn hạch nách ác tính có kết quả giải phẫu bệnh
nhưng kết quả Xquang vú, siêu âm và lâm sàng âm
tính, được chụp cộng hưởng từ động học tuyến vú tại
Bệnh viện Trường Đại học Y Hà Nội từ tháng 04/2010
đến tháng 02/2012.
Kĩ thuật chụp cộng hưởng từ tuyến vú [4]:
Các chỉ số chụp: FOV = 380mm, ma trận 400x512,
độ dày lát cắt 1-3mm.
Các hướng cắt: cắt ngang (axial), cắt đứng dọc (sagital).
Các chuỗi xung: T1W, T2W SITR, 3D SPGR NO
FS và 3D SPGR FS (three-dimensional spoiled gradient
echo acquisition with fat suppression) trước, sau tiêm
thuốc đối quang từ ở các phút 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7.
Thuốc đối quang từ: Gadolinum 0,15 mmol/kg, tốc
độ 2ml/s.
Sử dụng các chương trình tái tạo mỏng (MIP), xóa nền
(subtration), dựng đồ thị ngấm thuốc, bản đồ rửa thuốc.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
10/12 BN có di căn hạch nách nhưng không phát
hiện tổn thương tại vú bằng lâm sàng, siêu âm, chụp
Xquang vú, được phát hiện trên cộng hưởng từ tuyến
vú (chiếm 83%). Trong 12 BN của nghiên cứu này có 3
BN phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến vú, 5 BN phẫu thuật
cắt bỏ thùy vú và 4 BN điều trị bảo tồn bằng hóa chất và
xạ trị. Các trường hợp này không phát hiện u nguyên
phát tại vú trên lâm sàng cũng như các phương pháp
chẩn đoán hình ảnh như Xquang và siêu âm tuyến vú.
Có 2 trường hợp không tìm thấy được hình ảnh u trên
phim chụp cộng hưởng từ tuyến vú, còn lại các u này nhỏ
3-12mm. Trên cộng hưởng từ các u này ngấm thuốc đối
quang từ mạnh và nhanh với SI trung bình 120%, có 6
trường hợp ngấm hình nốt, 4 trường hợp ngấm hình dải
và đường ống, 3 trường hợp (30%) có đồ thị hình rửa
thuốc type III, 7 trường hợp đồ thị hình cao nguyên type
II. Hình ảnh của hạch nách ác tính được tìm thấy dễ dàng
trên cộng hưởng từ với các đặc điểm ngấm thuốc như u
vú ác tính và tăng tín hiệu mạnh trên Diffusion (B=600),
mất cấu trúc xoang hạch trên các chuỗi xung không xóa
mỡ. Có 2 trường hợp hạch nách cả hai bên.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012 367
nghiên CỨU KHoa HỌC
A B
Hình 1. BN nữ 38 tuổi, di căn hạch nách trái với kết quả giải phẫu bệnh ung thư tuyến vú di căn. 1A: chuỗi xung
3D SPGR NO FS có hình ảnh hạch nách trái mất cấu trúc xoang hạch. 1B: chuỗi xung 3D SPGR FS cho thấy
hạch này ngấm thuốc mạnh.
C D
Hình 1C. Sau tiêm ở phút thứ 2 phát hiện nốt ngấm thuốc đối quang từ mạnh ở vú trái, đường kính 5mm. 1D: hình
ảnh nốt này được thấy rõ ràng sau khi xóa nền.
Cộng hưởng từ tuyến vú là một phương pháp chẩn
đoán hình ảnh với kĩ thuật mới nhưng là một công nghệ
đắt tiền nên những thông tin giúp cho các nhà lâm sàng
phải có giá trị hơn mà các phương pháp khác không thể
có được. Các trường hợp ung thu vú thể ẩn đều rất khó
khăn khi được phát hiện, cho dù di căn hạch nách rất to
nhưng kích thước u có thể lại nhỏ bé 3mm hay chỉ là một
dải ngấm thuốc bất thường hình đường ống của nhu mô
tuyến vú. Các nhà lâm sàng đã sử dụng cộng hưởng từ
tuyến vú như một minh chứng để có quyết định lựa chọn
phương pháp điều trị ở những BN di căn hạch nách đã
sinh thiết hạch. Ung thư vú thể ẩn không phải là hiếm gặp
(0,3 - 0,8%), trong khi Xquang vú được sử dụng chính
để phát hiện sàng lọc sớm ung thư vú nhưng với ung
thư vú thể ẩn thì Xquang cũng như siêu âm và lâm sàng
coi như không có giá trị. Hiện nay, đã có nhiều báo cáo
trên thế giới chứng minh tiềm năng của cộng hưởng từ
tuyến vú trong chẩn đoán ung thư vú nói chung và nhất
là việc phát hiện ung thư vú thể ẩn, trong nghiên cứu của
Morris (1997) độ nhạy của cộng hưởng từ là 75% [9],
của Susan G. Orel (1999) là 86% phát hiện được 19/22
BN ung thư vú thể ẩn [10], của chúng tôi là 83% (10/12
BN). Các kết quả nghiên cứu mặc dù với số lượng BN ít
nhưng cũng cho thấy cộng hưởng từ được sử dụng như
một phương pháp quan trọng để chẩn đoán ung thư vú
thể ẩn. Tuy nhiên, việc phát hiện ung thư vú chính là giá
trị lâm sàng, ở những BN này mức độ hay giai đoạn ung
thư không được đánh giá cụ thể.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012368
nghiên CỨU KHoa HỌC
A B
C D
e f
Hình 2. BN nữ 29 tuổi, hạch nách ác tính với giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô tuyến vú di căn. Hình A, B.
Khối hạch nách phải tăng tín hiệu trên T2W STIR và Diffusion. Hình C. Khối hạch này đồng tín hiệu trên T1W.
Hình D, e, f. Khối hạch này ngấm thuốc đối quang từ mạnh, nhanh (SI 140%) nhưng không đều, với đồ thị type III
rửa thuốc có tính chất ác tính.
Ngày nay việc lựa chọn điều trị bảo tồn hay phẫu
thuật được xem xét dựa trên hình ảnh cộng hưởng từ dẫn
đến một sự thay đổi trong xử trí lâm sàng chứ không đơn
thuần phẫu thuật tiệt căn vú và nạo hạch nách cùng bên.
Những BN ung thư vú thể ẩn có thể là ung thư vú cùng
bên hạch nách chiếm 55-100% nhưng nguy cơ đối với
ung thư vú đối bên cũng rất cao. Trong nghiên cứu của
Ellerbroek N (1990) tỉ lệ tái phát ở BN ung thư vú thể ẩn
sau điều trị phẫu thuật tiệt căn còn cao hơn ở BN điều trị
bảo tồn, tương ứng là 23% và 17% [5]. Trong nghiên cứu
của chúng tôi có 3/12 (25%) phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến
vú và nạo vét hạch cùng bên khi kích thước của u nhỏ,
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 10 - 12 / 2012 369
nghiên CỨU KHoa HỌC
nhiều ổ và các dải nhỏ không rõ nốt, khối. Có 5 trường
hợp phẫu thuật thùy vú khi kích thước u là 10-12mm phối
hợp với điều trị hóa chất và xạ trị, còn lại chỉ điều trị hóa
chất đơn thuần 4 trường hợp trong đấy có 2 trường hợp
hạch nách hai bên và 2 trường hợp không tìm thấy được
u trên phim. Rõ ràng khi các nhà lâm sàng đưa ra quyết
định lựa chọn phương pháp điều trị ở BN ung thư vú thể
ẩn phụ thuộc vào hình ảnh trên cộng hưởng từ để xem xét
có thể phẫu thuật được hay điều trị bảo tồn.
IV. KẾT LUẬN
Cộng hưởng từ tuyến vú có giá trị chẩn đoán cao
đối với ung thư vú thể ẩn, với độ nhạy 83% trong khi
các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác và lâm
sàng im lặng. Ngoài ra cộng hưởng từ tuyến vú còn có
thể được sử dụng như một tiêu chuẩn quan trọng để
lựa chọn phương pháp điều trị và theo dõi kết quả điều
trị cho những bệnh nhân này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Bá Đức (2004). Bệnh ung thư vú, Nhà 1.
xuất bản Y học, Hà Nội. 13-69, 229-255.
Baron PL, Moore MP, Kinne DW, Candela 2.
FC, Osborne MP, Petrek JA (1990). “Occult breast
cancer presenting with axillary metastases”. Arch Surg.
125:210-214.
Davis PL, Julian TB, Staiger M, et al 3.
(1994). “Magnetic resonance imaging detection and
wire localization of an “occult” breast cancer”. Breast
Cancer Res Treat. 32: 327-330.
Elizabeth A. Morris, Laura Liberman (2004). 4.
Breast MRI: diagnosis and intervention, Springer. 7-14,
79-139, 173-183.
Ellerbroek N, Holmes F, Singletary E, Evans 5.
H, Oswald SM, McNeese M (1990). “Treatment of
patients with isolated axillary nodal metastases from an
occult primary carcinoma consistent with breast origin”.
Cancer. 66:1461-1467.
Fourquet A, De La Rochefordiere A, 6.
Campana F(1996). “Occult primary cancer with axillary
metastases”, Diseases of the breast. Philadelphia, Pa:
Lippincott-Raven: 892-896.
Jackson B, Scott-Conner C, Moulder J (7. 1995).
“Axillary metastasis from occult breast carcinoma:
diagnosis and management”. Am Surg. 61:431-434.
Knapper WH (8. 1991). “Management of occult
breast cancer presenting as an axillary metastasis”.
Semin Surg Oncol. 7:311-313.
Morris EA, Schwartz LH, Dershaw DD, Van 9.
Zee KJ, Abramson AF, Liberman L (1997). “MR imaging
of the breast in patients with occult primary breast
carcinoma”. Radiology. 205: 437-440.
Orel SG10. et al (1999). “Breast MR Imaging in
Patients with Axillary Node Metastases and Unknown
Primary Malignancy”. Radiology. 212: 543-549.
TÓM TẮT
Mục tiêu: nhận định giá trị của cộng hưởng từ tuyến vú đối với bệnh nhân (BN) ung thư vú thể ẩn có di căn
hạch nách.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu 12 BN ung thư tuyến vú thể ẩn di căn hạch
nách ác tính nhưng kết quả Xquang vú, siêu âm và lâm sàng âm tính, được chụp cộng hưởng từ động học tuyến vú
tại Bệnh viện Trường Đại học Y Hà Nội từ tháng 04/2010 đến tháng 05/2012.
Kết quả: cộng hưởng từ tuyến vú phát hiện được 10/12 BN ung thư vú thể ẩn (83%), kích thước u nhỏ 3-12mm.
Trong số 12 BN của nghiên cứu này có 3 BN phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến vú, 5 BN phẫu thuật cắt bỏ thùy vú và
4 BN điều trị bảo tồn.
Kết luận: cộng hưởng từ tuyến vú có độ nhạy cao để phát hiện ung thư tuyến vú ở những BN di căn hạch nách
ác tính và hữu ích cho chiến lược điều trị cũng như theo dõi kết quả điều trị.
Từ khóa: cộng hưởng từ tuyến vú, ung thư tuyến vú thể ẩn.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS. Vũ Long
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cong_huong_tu_tuyen_vu_o_benh_nhan_ung_thu_vu_the_an_co_di_c.pdf