Nhân 2 trường hợp viêm ruột thừa cấp ở bệnh nhân sốt xuất huyết

Đau bụng cấp thường là hậu quả từ việc nhiễm khuẩn. Những dấu hiệu lâm sàng chồng chéo của bệnh Dengue với nhiễm khuẩn làm chẩn đoán khó khăn. Giảm tiểu cầu rất hay gặp khi có rối loạn huyết động ở bệnh nhân sốt xuất huyết, cũng có thể gặp nếu bệnh nhân nhiễm trùng nặng. Tuy nhiên, APTT kéo dài và bất thường tiểu cầu khi theo dõi bệnh nhân có thể cung cấp dấu chứng quan trọng đối với bệnh Dengue bởi vì kích hoạt đông máu nội sinh đã được báo cáo ở những bệnh nhân sốt xuất huyết(3,11). Báo cáo này nhấn mạnh tầm quan trọng của những chẩn đoán phân biệt khi điều trị bệnh nhân bị đau bụng cấp ở vùng dịch tể sốt xuất huyết. Trong những tình huống như thế này, sự tích cực tìm hiểu đối với những dấu hiệu lâm sàng thường gặp của bệnh Dengue mà trong hoàn cảnh khác bị lờ đi, có thể không được chú ý. Khi bệnh nhân ở tình trạng lâm sàng ổn định, phương pháp phẫu thuật hoặc dẫn lưu có thể trì hoãn và nếu nghi ngờ tồn tại sốt xuất huyết và nhiễm trùng thì bệnh nhân nên được hỗ trợ điều trị sốt xuất huyết, kháng sinh nên dùng khống chế tình trạng nhiễm trùng cùng lúc. Sốt kéo dài (> 5 ngày) và suy thận cấp được báo cáo là yếu tố độc lập với nhiễm khuẩn xảy ra ở bệnh nhân lớn tuổi có sốt xuất huyết(12,6). Viêm dạ dày có thể cũng xảy ra với đau bụng, buồn nôn, nôn và tiêu chảy. Hiếm khi gây đau bụng dữ dội mà có thể bị chẩn đoán lầm với đau bụng cấp. Mặc dù sinh bệnh học của đau bụng cấp ở những bệnh nhân sốt Dengue vẫn chưa được hiểu rõ ràng nhưng sự tăng sản nang lympho bào, gây ra bệnh hạch bạch huyết ở sốt Dengue, dường như đóng vai trò quan trọng và xét nghiệm mô bệnh học từ mẫu bệnh phẩm sau khi cắt ruột thừa. Những dấu hiệu đã nói trên có thể giải thích cho hiện tượng hấp thu dịch dưới thanh mạc và dày thành túi mật phối hợp với sốt Dengue. Một cơ chế đáng tin cậy khác là sự thoát huyết thanh xuyên qua màng tế bào bị tổn thương gây ra triệu chứng nhầm với viêm ruột thừa(10).

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 79 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân 2 trường hợp viêm ruột thừa cấp ở bệnh nhân sốt xuất huyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 226 NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP VIÊM RUỘT THỪA CẤP Ở BỆNH NHÂN SỐT XUẤT HUYẾT Hồ Hữu Đức*, Lê Văn Quang* TÓM TẮT Hai bệnh nhân viêm ruột thừa được phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa có chẩn đoán sốt xuất huyết. Cả hai bệnh nhân đều có triệu chứng sốt và đau hố chậu phải. Công thức máu cho thấy giảm tiểu cầu và bạch cầu. Sốt xuất huyết được chẩn đoán bằng xét ngiệm miễn dịch IgM. Chúng tôi xem xét 2 trường hợp sốt xuất huyết có viêm ruột thừa cấp trong mổ và sau mổ. Hai bệnh nhân đều hồi phục tốt và có tiểu cầu trở lại bình thường sau mổ 1 tuần. Việc nhận biết sớm viêm ruột thừa cấp kèm với sốt xuất huyết là quan trọng nhằm hạn chế những tai biến và biến chứng. Từ khóa: sốt xuất huyết, ruột thừa. ABSTRACT ACUTE APPENDICTITIS IN DENGUE FEVER: A CASE REPORT Ho Huu Duc, Le Van Quang* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 226 - 231 We underwent appendectomy two case acute appendicitis in dengue fever. They presented with fever and right iliac fossa pain. Complete blood cell count showed thrombocytopenia with leucopenia. Dengue fever was confirmed by IgM capture enzyme-linked immunosorbent assay aganinst dengue virus. We can see from two case the dengue fever present with acute appendicitis intra-operation and post-operation. During the follow-up period of 1 week postoperation, they were recovered and platelet count gradually. Early recongnition of dengue fever with acute appedicitis is important to prevent mortality and morbility. Key word: Dengue fever, appedicitis, appendectomy. MỞ ĐẦU Virus Dengue truyền bệnh qua trung gian muỗi được tìm thấy ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới với hơn 100 quốc gia. 2/5 dân số thế giới ngày nay tương đương 2,5 tỉ người có nguy cơ nhiễm Dengue và mỗi năm xấp xỉ 50 triệu ca mới trên toàn thế giới (WHO 2002). Tần xuất nhiễm Dengue tăng một cách mạnh mẽ trong những thập niên gần đây, đặc biệt là châu Mỹ, Tây Thái Bình Dương và Đông Nam Á(12, 2). Những triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân nhiễm Dengue là mệt mỏi, sốt, đau cơ, đau đầu, buồn nôn, nôn và đau bụng. Tuy nhiên, khoảng 1/3 trường hợp bệnh nhân bị một hoặc nhiều biến chứng của bệnh như xuất huyết, động kinh, suy thận cấp, sốc sốt xuất huyết(10). Ngoài ra có những trường hợp giống với bệnh lý cấp cứu như viêm tuỵ cấp, viêm túi mật cấp không do sỏi và xuất huyết tiêu hoá. Cũng có vài báo cáo trường hợp viêm ruột do Dengue lầm với viêm ruột thừa. Nhằm mục đích tránh nhầm lẫn trong chẩn đoán và nguy cơ chảy máu sau mổ ở những bệnh nhân sốt xuất huyết, chúng tôi báo cáo về 2 bệnh nhân đã có chẩn đoán nhiễm Dengue kèm theo bị viêm ruột thừa cấp được điều trị tại bệnh viện Thống Nhất Tp.HCM. Báo cáo trường hợp bệnh Bệnh nhân Mai Văn H., nam, 38 tuổi. Nhập viện lúc 10 giờ ngày 9/8/2010. Bệnh nhân khởi bệnh 5 ngày với dấu hiệu sốt, chán ăn, buồn nôn. Khoa Cấp cứu chuyển khoa Ngoại với chẩn đoán theo dõi viêm ruột thừa cấp. Khám có dấu hiệu phản ứng ở vùng hố chậu phải, các vị trí khác bình thường. Xét *Bệnh viện Thống Nhất Tp Hồ Chí minh Tác giả liên lạc: ThS. BS. Hồ Hữu Đức ĐT: 0908366367 Email: huuducho@yahoo.com, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 227 nghiệm huyết học lần đầu với bạch cầu 17.300/µL (Neu 71,3%), tiểu cầu 61.000/µL, aPTT kéo dài với 43,20 giây. Kết quả sinh hóa với AST 102U/L, ALT 53U/L, còn các giá trị khác trong giới hạn bình thường. Kết quả siêu âm bụng chưa phát hiện gì bất thường. Bệnh nhân được truyền dịch và theo dõi. Đến 17 giờ cùng ngày, chúng tôi thực hiện lại xét nghiệm huyết học bạch cầu 16.000/µL (Neu 71,3%), tiểu cầu 55.000/µL, aPTT kéo dài với 42,7 giây, độ tập trung tiểu cầu giảm. Lúc này chúng tôi tiến hành xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán Dengue với NS1 (+) và IgM (+). Bệnh nhân được chẩn đoán là nhiễm Dengue. Qua ngày hôm sau, 10/8/2010, bệnh nhân vẫn còn đau bụng tại vị trí hố chậu phải, có phản ứng nhẹ ở vùng này. Chúng tôi thực hiện lại công thức máu bạch cầu 13.600/µL (Neu 67,9%), tiểu cầu 115.000/µL. siêu âm bụng nhìn thấy hình ảnh ruột thừa khá rõ với dấu target sign và finger sign. Chúng tôi tiên hành hội chẩn và quyết định phẫu thuật. Kết quả ruột thừa viêm rõ, có ít giả mạc, ruột thừa nung mủ. Giải phẫu bệnh với kết qua viêm ruột thừa cấp. Hậu phẫu bệnh nhân ổn định và xuất viện sau đó 7 ngày với các xét nghiệm về lại bình thường. Trường hợp thứ 2 là bệnh nhân Vũ Đình D., nam, 18 tuổi. nhập viện lúc 15 giờ ngày 22/8/2010 với lý do đau bụng. Khoa Cấp cứu cũng chuyển bệnh nhân lên khoa Ngoại tổng quát vì nghi ngờ viêm ruột thừa. Bệnh sử bệnh nhân 2 ngày với sốt, nhức mỏi, đau đầu và buồn nôn. Khám ấn đau hố chậu phải, dấu Mc Burney (+). Xét nghiệm huyết học lần đầu với bạch cầu 3010/µL (Neu 66,3%), tiểu cầu 103.000/µL. Kết quả sinh hóa trong giới hạn bình thường. Kết quả siêu âm bụng có hạch mạc treo vùng hố chậu phải. bệnh nhân được tiếp tục theo dõi và thực hiện huyết thanh chẩn đoán Dengue với NS1(+). Bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm Dengue. Qua ngày hôm sau, 23/8/2010, bệnh nhân vẫn còn đau bụng tại vị trí hố chậu phải, có phản ứng nhẹ ở vùng này. Chúng tôi thực hiện lại công thức máu bạch cầu 2240/µL (Neu 63,4%), tiểu cầu 120.000/µL, TP 39,6%, TQ 19,8, INR 2,31 và độ tập trung tiểu cầu giảm. Siêu âm bụng nhìn thấy hình ảnh ruột thừa khá rõ với dấu target sign và finger sign kèm theo hạch mạc treo ruột non. Chúng tôi vẫn tiếp tục theo dõi tình trạng bụng và công thức máu. Kết quả công thức máu chiều ngày 23/8/2010, bạch cầu 2460/µL (Neu 53,6%), tiểu cầu 103.000/µL, bệnh nhân vẫn còn đau bụng âm ỉ vùng hố chậu phải. chúng tôi quyết định phẫu thuật với kết quả như bệnh nhân trên. BÀN LUẬN Sốt xuất huyết tại Đông Nam Á được mô tả như là một bệnh dành riêng cho trẻ em dưới 15 tuổi (> 95% - WHO 2002)(6). Tuy nhiên trong 2 thập niên gần đây có sự thay đổi đáng kể về phân bố tuổi. Tại Thái Lan, tuổi trung bình của trẻ em bị sốt xuất huyết từ 3,8 tuổi thập niên 1960 lên 5,6 tuổi thập niên 1970 và 7,4 tuổi thập niên 80. Giải thích cho hiện tượng này có thể do sự khác biệt hoặc thay đổi huyết thanh của dân số trong vùng dịch tễ. Những kiểu di truyền virus Denge khác nhau có thể là một giải thích khi giả thuyết những giống virus Dengue đóng vai trò quan trọng ở những bệnh nhân nặng và cấu trúc khác nhau của virus cho thấy có liên quan đến bệnh học(10). Nhiễm virus Dengue xảy ra liên tiếp được cho là yếu tố làm tăng nguy cơ bệnh trầm trọng. Ở những khu vực dịch tể, người trưởng thành và những trẻ em lớn có khả năng bị phơi nhiễm Dengue trong quá khứ và cũng làm tăng nguy cơ nhiễm thứ phát hay nhiễm bệnh trầm trọng. Để phân biệt nhiễm nguyên phát và thứ phát, cần phải thực hiện xét nghiệm độ chuẩn ức chế đông máu và tỉ lệ kháng thể IgM với IgG. Những xét nghiệm tiến bộ gần đây như NS1 (non-structural protein), loại huyết thanh đặc biệt IgG Elisa có thể tạo nhiều cơ hội để nhận biết nhiễm thứ phát hay nguyên phát. Những bệnh nhân nhiễm thứ phát thường xảy ra với những bệnh nhân lớn tuổi hơn đáng kể so với nhiễm nguyên phát. Chính vì vậy mà tình trạng bệnh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 228 trầm trọng cũng thường gặp ở những bệnh nhân trưởng thành, 82% so với 59% (có ý nghĩa thống kê). Mặc dù tổng số trường hợp huyết thanh chẩn đoán xác định ở những bệnh nhân trưởng thành ít và những phân tích không có ý nghĩa thống kê nhưng điều bất ngờ là nhiễm trùng thứ phát ở nhóm tuổi này không phải là khuynh hướng gây ra tình trạng bệnh trầm trọng so với nhóm nhiễm trùng nguyên phát với OR 0,6. Khoảng 13% những trường hợp sốt xuất huyết có nguyên nhân bởi nhiễm trùng nguyên phát(10). Có nhiều khó khăn để áp dụng tiêu chuẩn của WHO nhận biết thoát huyết thanh để chẩn đoán sốt xuất huyết Dengue vì sự cô máu (> 20%) thường được chẩn đoán hồi cứu; Giảm đạm niệu hiếm khi xảy ra và dấu hiệu thoát huyết thanh lâm sàng khó nhận biết ở những đứa trẻ bệnh. Siêu âm và xquang ngực có thể nhận biết sự hiện diện dịch phổi và dịch ổ bụng ở những bệnh nhân sốt xuất huyết Dengue. Trong nghiên cứu ở Ấn Độ cho thấy siêu âm có tác dụng nhận biết thoát huyết thanh hơn xquang. Xquang không có tác dụng khi lượng thoát nhỏ, trong khi siêu âm thì hữu dụng hơn nhiều. Sự cô máu hơn 20% có độ nhạy âm tính giả thấp hơn sự cô máu dựa vào tỉ lệ thể tích huyết cầu. Bằng chứng lâm sàng thoát dịch phổi và dịch bụng gặp thường ở sốt xuất huyết Dengue hơn sự cô máu và giảm đạm niệu. Siêu âm là một công cụ chẩn đoán giúp tiên lượng ở những trường hợp sốt xuất huyết Dengue. Dày thành túi mật dễ dàng nhận biết trên siêu âm và có thể giúp dự đoán tình trạng sốt Dengue nhưng siêu âm bụng thực hiện sớm ở những bệnh nhân sốt Dengue trưởng thành thì ít được mô tả(3). Mặc dù không đặc hiệu nhưng siêu âm bụng trong sốt Dengue thu được kết quả nhanh hơn xét nghiệm máu. Siêu âm giúp nhận thấy thành túi mật dày, dịch báng, lách to, dịch màng phổi. Nhiều nghiên cứu cũng tìm thấy phù nề thanh mạc túi mật và dịch báng trong khoang phúc mạc ở những bệnh nhân sốt Dengue. Sinh bệnh học thay đổi trong sốt Dengue là tăng tính thấm thành mạch, gây ra thoát huyết thanh với nồng độ đạm cao. Hầu hết siêu âm ở những bệnh nhân sốt Dengue đều thấy thành túi mật dày. Khi kết hợp với triệu chứng đau hạ sườn phải, chẩn đoán phân biệt cần nghĩ đến là viêm túi mật cấp không do sỏi. Có thể phân biệt trên siêu âm giữa viêm túi mật hoại tử và dày thành túi mật ở những bệnh nhân sốt Dengue, thậm chí là viêm túi mật hoại tử xuất hiện sau đó. Có sự phối hợp đáng kể giữa dày thành túi mật và tình trạng sốt xuất huyết nặng(7). Dày thành túi mật, dịch báng và dịch mành phổi có thể liên quan đến viêm nhiễm ở gan và lách được gây ra bởi virus Dengue. Sự hình thành dịch báng và dịch màng phổi có thể do tăng tính thấm thành mạch, xảy ra sau việc tăng yếu tố hoá ứng động bởi những tế bào viêm và màng tế bào tổn thương do virus Dengue. Khi siêu âm tìm thấy thành túi mật dày, dịch bàng, lách to và dịch màng phổi ở những bệnh nhân có sốt với tiểu cầu giảm, sốt Dengue nên được xem xét với những chẩn đoán phân biệt cho đến khi có bằng chứng rõ ràng(11). Nhiễm virus Dengue có thể không triệu chứng hoặc hiện diện sốt không phân biệt được: sốt Dengue hoặc sốt Dengue có xuất huyết. Những trường hợp sốc sốt xuất huyết có thể dẫn đến sốc giảm thể tích. Đau bụng là một triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân sốt xuất huyết với tần xuất khoảng 40%. Tại một trung tâm New Delhi-Ấn Độ, họ đã thấy khuynh hướng những bệnh nhân không có vấn đề về đường tiêu hoá đến với họ với những than phiền về đường tiêu hoá. Đã có 2 bệnh nhân được phẫu thuật ở một trung tâm khác với lý do nghi ngờ bán tắc ruột nhưng sau đó chuyển sang họ vì có xuất huyết trong ổ bụng sau mổ vào tháng 6/2003. Sau đó họ đã chẩn đoán những bênh nhân này bị sốt xuất huyết(6). Có nhiều báo cáo sự ảnh hưởng của gan thường gặp ở những bệnh nhân có sốt xuất huyết hơn những bệnh nhân có sốt Dengue. Dày thành túi mật trên siêu âm chiếm 60% có Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 229 sốt Dengue. Tuy nhiên thiếu những dấu hiệu lâm sàng để chẩn đoán đây là viêm túi mật cấp. Viêm túi mật cấp không do sỏi rất hiếm được báo cáo trong sốt Dengue. Chẩn đoán viêm túi mật cấp không do sỏi chiếm 16,36% những bệnh nhân sốt Dengue dựa vào dấu hiệu lâm sàng và siêu âm. Bệnh học của viêm túi mật cấp ở những bệnh nhân sốt xuất huyết vẫn chưa được hiểu một các rõ ràng nhưng có thể là hậu quả của bệnh mao mạch tại chỗ của thành túi mật. Hầu hết những trường hợp này được điều trị bảo tồn. Viêm tuỵ cấp cũng tìm thấy ở 14,54% những bệnh nhân có sốt Dengue và đau bụng cấp. Nhưng tất cả những bệnh nhân này đều có tình trạng viêm tuỵ cấp khá nhẹ. Viêm ruột thừa phát hiện tình cờ ở 3 bệnh nhân và chưa có những báo cáo trước đó ở những bệnh nhân sốt Dengue. Nghiên cứu này cũng báo cáo đầu tiên về tình trạng viêm phúc mạc ở những bệnh nhân sốt Dengue(5). Dấu hiệu lâm sàng chính của bệnh sốt xuất huyết là sự thoát huyết thanh. Kết quả này từ việc những lổ hổng của màng tế bào ở những mạch máu vùng đệm thay đổi không do hoại tử hoặc viêm nhiễm dẫn đến giảm thể tích và giảm lượng dịch trong mô. Tuy nhiên, những dấu hiệu về tiêu hoá ở những bệnh nhân nhiễm Dengue khá ít gặp. Đau bụng cấp có thể xảy ra và triệu chứng của nó thường là do xuất huyết trong ổ bụng hoặc máu tụ ở mạc treo nhưng không gây ra tình trạng thiếu máu. Về mặt lý thuyết, thiếu máu đường tiêu hoá có thể xảy ra ở những bệnh nhân sốt xuất huyết. Bằng chứng tổn thương niêm mạc ruột hoặc thiếu máu ở những bệnh nhân sốt xuất huyết không phải đặc hiệu. Nghiên cứu của Paisarn đã chứng minh rõ ràng sự tổn thương niêm mạc ruột ở một mức độ nhất định ở những bệnh nhân sốt xuất huyết được khẳng định bằng xét nghiệm I-FABP trong máu. Những bệnh nhân sốt xuất huyết độ IV và tổn thương gan cấp có nồng độ I-FABP cao phản ánh tổn thương ruột. Acid béo gắn với protein ở ruột (intestinal fatty acid binding protein, I- FABP) là một loại protein duy nhất nằm ở nhung mao niêm mạc ruột. Nó góp phần khoảng 2%-3% protein ở biểu mô ruột và bình thường không nhận biết trong tuần hoàn. Vài nghiên cứu cho thấy I-FABP là một dấu chỉ điểm để chẩn đoán niêm mạc ruột ở cơ thể sống và trên thực nghiệm. Điều này cho thấy tổn thương ruột hoặc thiếu máu gây đáp ứng miễn dịch hệ thống là hậu quả của suy đa cơ quan bao gồm gan, phổi và tim. Điều này cũng chứng minh suy gan gây ra bởi sự thiếu máu – tái tưới máu ruột. Sự tác động giữa tế bào lympho và màng tế bào có thể dẫn đến suy chức năng gan trong giai đoạn tái tưới máu ruột. Khả năng tổn thương gan cấp ở những bệnh nhân sốt xuất huyết độ IV đứng hàng thứ hai sau tổn thương ruột. Việc tăng men gan ở những bệnh nhân sốt xuất huyết độ IV có thể vừa do thiếu máu gan từ tình trạng suy tuần hoàn vừa do tế bào gan nhiễm virus Dengue. Tổn thương gan cũng có thể do tác động tích luỹ từ 3 cơ chế trên. Những báo cáo ở những bệnh nhân nhiễm Dengue tiến triển tình trạng suy gan cấp cũng đã được chứng minh. Ảnh hưởng đến gan thường gặp ở những bệnh nhân nhiễm Dengue, đặc biệt là sốt xuất huyết. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng này chỉ từ nhẹ đến trung bình với nồng độ SGPT không tăng quá 5 lần. Một nghiên cứu ở Thái Lan đề nghị chức năng gan không nên làm thường qui ngoại trừ lâm sàng biểu lộ. Ảnh hưởng đến gan trong nhiễm Dengue thường phối hợp với những biến chứng nặng nề khác. Nồng độ men gan tăng cao là một dấu hiệu sớm cảnh báo tình trạng bệnh nặng và xuất huyết nặng(4). Viêm ruột thừa cấp cũng được phát hiện ở 1 bệnh nhân và đã được cắt ruột thừa. Theo y văn không có trường hợp nào xảy ra biến chứng viêm ruột thừa cấp ở bệnh nhân sốt xuất huyết được báo cáo từ trước. Giảm tiểu cầu được ghi nhận ngày thứ nhất hậu phẫu ở bệnh nhân này và mô bệnh học từ mẫu ruột thừa cho thấy thâm nhiễm đa số tế bào lympho, điều này không phù hợp với viêm ruột thừa cấp vi khuẩn. Tuy nhiên, không thể đưa vào một trường hợp đơn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 230 lẻ viêm ruột thừa cấp ở bệnh nhân sốt xuất huyết để xem như là một diễn tiến đưa đến biến chứng ở những bệnh nhân sốt xuất huyết. Chúng ta cần làm sáng tỏ mối liên quan giữa những triệu chứng lâm sàng chẩn đoán viêm ruột thừa cấp và sốt xuất huyết ở khía cạnh bệnh học. Cần nhiều nghiên cứu hơn để chứng tỏ thêm thông tin về mối liên hệ này. Thông tin liên quan đến viêm ruột thừa ở những bệnh nhân sốt xuất huyết, mặc dù hiếm, có thể giúp hạn chế can thiệp phẫu thuật viêm ruột thừa cấp ở những bệnh nhân sốt xuất huyết bởi vì chẩn đoán viêm ruột thừa cấp được dựa vào dấu hiện lâm sàng(1). Đau bụng cấp thường là hậu quả từ việc nhiễm khuẩn. Những dấu hiệu lâm sàng chồng chéo của bệnh Dengue với nhiễm khuẩn làm chẩn đoán khó khăn. Giảm tiểu cầu rất hay gặp khi có rối loạn huyết động ở bệnh nhân sốt xuất huyết, cũng có thể gặp nếu bệnh nhân nhiễm trùng nặng. Tuy nhiên, APTT kéo dài và bất thường tiểu cầu khi theo dõi bệnh nhân có thể cung cấp dấu chứng quan trọng đối với bệnh Dengue bởi vì kích hoạt đông máu nội sinh đã được báo cáo ở những bệnh nhân sốt xuất huyết(3,11). Báo cáo này nhấn mạnh tầm quan trọng của những chẩn đoán phân biệt khi điều trị bệnh nhân bị đau bụng cấp ở vùng dịch tể sốt xuất huyết. Trong những tình huống như thế này, sự tích cực tìm hiểu đối với những dấu hiệu lâm sàng thường gặp của bệnh Dengue mà trong hoàn cảnh khác bị lờ đi, có thể không được chú ý. Khi bệnh nhân ở tình trạng lâm sàng ổn định, phương pháp phẫu thuật hoặc dẫn lưu có thể trì hoãn và nếu nghi ngờ tồn tại sốt xuất huyết và nhiễm trùng thì bệnh nhân nên được hỗ trợ điều trị sốt xuất huyết, kháng sinh nên dùng khống chế tình trạng nhiễm trùng cùng lúc. Sốt kéo dài (> 5 ngày) và suy thận cấp được báo cáo là yếu tố độc lập với nhiễm khuẩn xảy ra ở bệnh nhân lớn tuổi có sốt xuất huyết(12,6). Viêm dạ dày có thể cũng xảy ra với đau bụng, buồn nôn, nôn và tiêu chảy. Hiếm khi gây đau bụng dữ dội mà có thể bị chẩn đoán lầm với đau bụng cấp. Mặc dù sinh bệnh học của đau bụng cấp ở những bệnh nhân sốt Dengue vẫn chưa được hiểu rõ ràng nhưng sự tăng sản nang lympho bào, gây ra bệnh hạch bạch huyết ở sốt Dengue, dường như đóng vai trò quan trọng và xét nghiệm mô bệnh học từ mẫu bệnh phẩm sau khi cắt ruột thừa. Những dấu hiệu đã nói trên có thể giải thích cho hiện tượng hấp thu dịch dưới thanh mạc và dày thành túi mật phối hợp với sốt Dengue. Một cơ chế đáng tin cậy khác là sự thoát huyết thanh xuyên qua màng tế bào bị tổn thương gây ra triệu chứng nhầm với viêm ruột thừa(10). KẾT LUẬN Chẩn đoán viêm ruột thừa ở bệnh nhân sốt xuất huyết chỉ dựa vào lâm sàng và siêu âm bụng. Không có tai biến hoặc biến chứng nào ghi nhận trong và sau phẫu thuật cắt ruột thừa. Tuy nhiên cần theo dõi sát hậu phẫu. Chẩn đoán cẩn thận ở những bệnh nhân đau bụng cấp sống trong vùng dịch tể sốt xuất huyết. Nếu xem xét một cách kỹ lưỡng thì nguyên nhân đau bụng cấp ở những bệnh nhân sốt Dengue có thể được tìm thấy và điều trị thích hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Balassubramania S., Janakiraman L, Kumar SS, Muralinath S and Shivbalan S. (2006): A reappraisal of the criteria to diagnose plasma leakage in dengue hemorrhagic fever. Indian pediatrics, Vol 43-April 17, 2006: 334-9. 2. Gibbons RV and Vaughn DW. (2002): Dengue: an escalating problem. BMJ, Vol 324, June 2002: 1563-6. 3. Kang YJ, Choi SY, Kang IJ, Lee JE, Seo MH, Lee TH and Ghim BK (2009):. Dengue fever mimicking acute appendicitis: a case report. Infection and chemotherapy. Vol 41, No.4, 2009: 236-9. 4. Khanna S., Vij JC., Kumar A, Singal D and Tandon R. (2005): Etiology of abdominal pain in dengue fever. Dengue Bulletin, Vol 29: 85-9. 5. Khor BS, Liu JW, Lee IK and Yang (2006):. Dengue hemorrhagic fever patients with acute abdomen: clinical experience of cases. Am. J. Trop. Med. Hyg., 74(5): 901-4. 6. Leng TY, Vasanwala FF and Ng. M (2008): Dengue related acute acalculous cholecystitis: a case report. SFP 2008; 34(4): 77-9. 7. Parkash O, Almas A, Jafri SMW, Hamid S, Akhtar J and Alishah H (2010):. Severity of acute hapatitis and its outcome in patients with dengue fever in a tertiary care hospital Karachi, Pakistan (South Asia). BioMed Central Gastroenterology 2010, 10:43-50. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 231 8. Souza LJ, Coelho JMCO, Silva EJ, Abukater M, Almeida FCR, Fonte AS and Souza LA (2008): The Brazillian Journal of Infectious Disease; 12(5):456-9. 9. Vejchapipat P, Theamboonlers A, Chongsrisawat V and Poovorawan Y (2006): An evidence of intestinal mucosal injury in dengue infection. Vol 37, No.1, January: 79-82. 10. Wichmann O, Hongsiriwon S, Bowonwatanuwong C, Chotivanich K, Sukthana Y and Pukrittayakamee S (2004): Risk factors and clinical features associated with severe dengue infection in adults and children during the 2001 epidemic in Chonburi, Thailand. Tropical Medicine and International Health. Vol 9, No.9, September 2004: 1022-9. 11. Wu KL, Changchien CS, Kuo CH, Chiu KW, Lu SN, Kuo CM, Chiu YC, Chou YP and Chuah SK (2004):. Early abdominal sonographic findings in patients with dengue fever. Journal of clinical ultrasound. Vol 32, No.8, October 2004: 386-8. 12. Wu KL, Chien CSC, Kuo CM, Chuah SK, Lu SN, Eng HL and Kuo CH (2003): The American Society of Tropical Medicine and Hygiene, 68(6):657-60.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhan_2_truong_hop_viem_ruot_thua_cap_o_benh_nhan_sot_xuat_hu.pdf
Tài liệu liên quan