Thứ năm, nâng cao năng lực thực thi
pháp luật trong lĩnh vực cung cấp thông tin
và tăng cường giám sát đối với hoạt động xây
dựng chính sách. Như đã phân tích ở trên, tuy
cần tiếp tục hoàn thiện, song CKTT đã được
quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, việc thực hiện
CKTT theo quy định của pháp luật vẫn chưa
được thực hiện tốt, hiện tượng “thích thì công
khai, không thích thì không công khai” còn
tồn tại ở nhiều nơi. Điều đó cho thấy, việc
đảm bảo nguyên tắc pháp quyền trong hoạt
động của một số cơ quan, tổ chức vẫn chưa
được thực hiện triệt để. Tương tự như vậy,
trong hoạt động xây dựng chính sách, các quy
định điều chỉnh về trình tự, thủ tục xây dựng
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã
được quy định trong Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân và một số quy định khác,
song hiện tượng không tuân theo đầy đủ, chặt
chẽ và thực chất các quy định của pháp luật
trong hoạt động xây dựng và ban hành các
văn bản, chính sách, dự án vẫn còn tồn tại ở
một số nơi. Trong đó, việc thực hiện CKTT,
việc lấy ý kiến của Mặt trận Tổ quốc và đối
tượng chịu sự tác động của chính sách hoặc
là còn hình thức, hoặc là chưa được thực hiện
đầy đủ. Điều này có nguyên nhân là ý thức
chấp hành pháp luật trong thực thi công vụ
của một số tổ chức, cá nhân còn chưa tốt, mặt
khác còn có nguyên nhân là công tác kiểm
tra, giám sát của một số cơ quan có trách
nhiệm còn chưa thực hiện tốt, việc xử lý trách
nhiệm đối với trường hợp ban hành văn bản
quy phạm pháp luật chưa theo đúng trình tự,
hoặc sai về nội dung, gây hậu quả xấu chưa
được thực hiện tốt. Do đó, để các quy định
của pháp luật điều chỉnh về CKTT và quy
trình xây dựng chính sách được thực hiện tốt
hơn, qua đó đảm bảo tính hợp hiến, tính hợp
pháp, hợp lý của hành vi hành chính, bên
cạnh việc nâng cao ý thức pháp luật, trách
nhiệm pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công
chức các cấp, cần chú trọng công tác kiểm tra,
giám sát trước, trong và sau quá trình ban
hành văn bản quy phạm pháp luật; đồng thời
xử lý trách nhiệm đối với trường hợp không
CKTT cũng như không tuân thủ thực chất
quy trình, thủ tục ban hành chính sách. Cụ
thể, cần tăng cường và nâng cao hiệu quả
kiểm tra, giám sát trong hệ thống hành chính
(kiểm tra, giám sát của cấp trên, cơ quan giám
sát chuyên ngành.) đối với cơ quan xây
dựng chính sách, cũng như tăng cường sự
kiểm tra, giám sát của cơ quan đảng, cơ quan
lập pháp, cơ quan tư pháp, Mặt trận, các đoàn
thể nhân dân, các tổ chức xã hội, báo chí và
công dân đối với quá trình xây dựng và ban
hành các chính sách, quyết định của các cơ
quan hành chính nhà nước.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Công khai thông tin với việc thực hiện phản biện xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Một số vấn đề cơ bản về công khai
thông tin và phản biện xã hội
Dưới góc độ quyền công dân, CKTT và
PBXH là những quyền cơ bản của công dân
đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013:
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội,
biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do
pháp luật quy định” (Điều 25); “Công dân có
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan
nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa
phương và cả nước”, “Nhà nước tạo điều
kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước
và xã hội; công khai, minh bạch trong việc
tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của
công dân” (khoản 1 và 2 Điều 28). Như vậy,
ở góc độ nào đó, có thể nói thực hiện CKTT
là để bảo đảm “quyền tiếp cận thông tin” của
công dân; còn thực hiện PBXH là một trong
những phương thức để đảm bảo “quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo
luận và kiến nghị với các cơ quan nhà nước
về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả
nước” của công dân.
Dưới góc độ giám sát quyền lực nhà
nước, CKTT và PBXH có thể xem là những
phương thức để bảo đảm và tăng cường sự
giám sát của công dân và xã hội đối với
quyền lực công, là điều kiện để thực hiện
“lấy xã hội chế ước quyền lực công”, “dùng
quyền công dân để chế ước quyền lực”, qua
đó góp phần bảo đảm thực hiện quyền lực
công và thể hiện tốt lợi ích công. Chính vì lẽ
đó, thực hiện CKTT và PBXH (cũng như các
hình thức tham gia khác của công dân) là
những phương thức không thể thiếu nhằm
bảo đảm sự giám sát của công dân và xã hội
đối với quyền lực công.
Ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân, cơ quan nhà nước là
người đại diện để thực thi ý chí của công
3
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
CÖNG KHAI THÖNG TIN
VÚÁI VIÏåC THÛÅC HIÏåN PHAÃN BIÏåN XAÄ HÖÅI
NguyễN TrọNg BìNh*
Phản biện xã hội (PBXH) là một hình thức phát huy sự tham gia của công
dân vào quá trình hoạch định chính sách công. Thực tiễn cho thấy, hiệu
lực và hiệu quả của PBXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc thực
hiện công khai thông tin (CKTT) về ý tưởng và dự thảo chính sách cũng
như công khai cả quá trình phản biện có ý nghĩa như là điều kiện để đảm
bảo tính chủ động của PBXH và chất lượng PBXH. Trên cơ sở khái lược một
số vấn đề lý luận có liên quan, bài viết bước đầu phân tích thực trạng CKTT
trong mối quan hệ với PBXH và đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện
tốt hơn CKTT, góp phần đảm bảo tính chủ động và hiệu quả của PBXH.
* ThS. Học viện Chính trị khu vực IV.
dân. Người đại diện có thật sự thực thi một
cách trung thành ý chí của công dân hay
không đòi hỏi phải dựa vào cơ chế giám sát
và cơ chế trách nhiệm. Mà điều này lại được
quyết định bởi: với tư cách chủ thể quyền
lực, công dân có thật sự nắm bắt được một
cách đầy đủ tất cả hành vi của người đại diện
(chính phủ) hay không1. Có thể nói, CKTT có
ý nghĩa và vai trò rất quan trọng. Một là,
CKTT là để thực hiện “quyền được biết” của
công dân đã được quy định trong Hiến pháp.
Hiện nay, đã có hơn 70 quốc gia trên thế giới
thông qua Luật công khai thông tin hoặc Luật
tự do thông tin để đề ra các quy định cụ thể
nhằm đảm bảo quyền được biết của công dân.
Hai là, CKTT là phương thức để công dân và
xã hội giám sát quyền lực công, góp phần
ngăn ngừa hành vi vi hiến của quyền lực
công. Kneneth Culp Davis cho rằng: “Công
khai là kẻ thù tự nhiên của độc đoán chuyên
quyền, cũng là đồng minh tự nhiên để chống
lại sự bất công”2. Còn Norman Marsh cũng
cho rằng: “Bản thân bí mật cũng giống như
điều ác, là công cụ của âm mưu, là nguyên
nhân của bất bình đẳng; công khai chính là
bản chất của chính trị dân chủ, công khai
càng nhiều tư liệu thì càng giúp ích nhiều cho
lợi ích công”3. Ba là, CKTT nhằm đáp ứng
nhu cầu thông tin của công chúng và xã hội,
đồng thời là cơ sở để công dân có thể tham
gia có hiệu quả và đầy đủ vào quá trình quản
trị công. Ngày nay, do xuất phát từ nhu cầu
tham gia chính trị, hoạt động sản xuất, kinh
doanh, học tập và sinh hoạt mà nhu cầu thông
tin của công dân và xã hội ngày càng tăng lên.
Do đó, để đảm bảo nhu cầu thông tin của
công dân, nhất là để công dân có thể tham gia
vào quá trình chính sách công, cần đảm bảo
“quyền được biết” của công dân, hay quyền
tiếp cận thông tin của công dân. Bốn là,
“công khai thông tin là cơ sở cho tính chính
đáng của quản trị chính phủ, là yêu cầu cơ
bản của thực thi chính sách công và tiền đề
quan trọng để tăng cường năng lực cạnh tranh
quốc tế. Cũng chính từ ý nghĩa này, chủ động
công khai thông tin đã trở thành một hoạt
động bình thường và tất yếu của chính phủ.
“Công khai thông tin chính phủ không chỉ có
nghĩa là công khai bản thân thông tin, mà
quan trọng hơn còn bao gồm công khai về
quy trình (tức sự minh bạch của quá trình chế
định và thực thi chính sách của chính phủ) và
công khai về hiệu suất và kết quả (tức công
khai một cách đầy đủ hiệu suất và hiệu quả
hoạt động của chính phủ), mục đích của nó
là ở chỗ tạo ra áp lực để nâng cao hiệu suất
hoạt động của chính phủ4.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
X (năm 2006), Đảng ta đã đề ra chủ trương
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và
nhân dân thực hiện chức năng giám sát và
PBXH. Có thể nói, đây là một chủ trương
quan trọng nhằm tăng cường sự tham gia của
công dân vào quá trình quản trị công trong
bối cảnh dân chủ hóa, toàn cầu hóa và thông
tin hóa. Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy
định chức năng PBXH của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Cũng trong năm 2013, Bộ Chính
trị đã ban hành “Quy chế giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội”. Ngày
14/2/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành “Quyết định số 14/2014/QĐ-TTg về
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã
hội của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ
thuật Việt Nam” thay thế cho Quyết định số
22/2002-TTg ngày 30/01/2002.
Từ Hiến pháp, các văn bản pháp luật có
liên quan và từ thực tiễn thực hiện PBXH ở
nước ta thời gian qua, có thể thấy, chủ thể
PBXH là nhân dân, nhưng nhân dân lại
thông qua nhiều phương thức khác nhau để
thực hiện vai trò PBXH của mình, chứ không
chỉ là thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân. Cho đến hiện nay,
việc xác định các hình thức PBXH vẫn còn
nhiều quan điểm khác nhau:
4
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1 Zhang Cheng-fu (2014), On Open Government, Journal of Renmin University of China, No.4.
2 Kneneth Culp Davis (1970): Discreption Just. Baton Rouge: Louisiana State University, p.97.
3 Norman Marsh (1987): Public Access to Goverment Held Information. London: Steven L.Son Ltd, pp.2-4.
4 Zhang Cheng-fu (2014), On Open Government, Journal of Renmin University of China, No.4.
Thứ nhất, PBXH theo phạm vi hẹp. Đối
với những chính sách hoặc dự án công có
tính kỹ thuật cao, đòi hỏi thông tin chuyên
ngành cao hoặc cơ quan xây dựng chính sách
nhận thấy không cần thiết phải công khai
một cách rộng rãi thì có thể thực hiện PBXH
theo phạm vi hẹp. Ở đây, chủ thể thực hiện
PBXH có thể là các tổ chức nghiên cứu, tư
vấn, các tổ chức xã hội nghề nghiệp có thế
mạnh và am hiểu sâu về lĩnh vực chính sách
hoặc dự án đó. Chẳng hạn như Liên hiệp các
Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Hội
Luật gia Việt Nam... PBXH theo phạm vi hẹp
lại có thể chia thành hai hình thức chủ yếu:
1) Hình thức PBXH trực tiếp, tức cơ quan
chế định chính sách thông qua hội nghị lắng
nghe ý kiến, tọa đàm, hội nghị tham vấn... để
trực tiếp lắng nghe ý kiến, kiến nghị của chủ
thể PBXH; 2) Hình thức PBXH gián tiếp, có
nghĩa là chủ thể PBXH (cơ quan, tổ chức
được giao trách nhiệm PBXH) không phải
thông qua đối thoại và làm việc trực tiếp với
cơ quan soạn thảo chính sách để nêu lên ý
kiến, kiến nghị của mình, mà trên cơ sở đánh
giá, thẩm định dự thảo chính sách, chủ thể
PBXH gửi báo cáo phản biện cho cơ quan có
chính sách được phản biện5.
Thứ hai, PBXH theo phạm vi rộng. Đối
với những chính sách, dự án lớn, có ảnh
hưởng rộng tới quyền và lợi ích của đông đảo
nhân dân, đồng thời cơ quan xây dựng chính
sách nhận thấy việc tiếp nhận thông tin nhiều
chiều từ công dân và xã hội là rất quan trọng,
thì có thể được thực hiện PBXH theo phạm
vi rộng. PBXH theo phạm vi rộng cũng có
thể bao hàm trong đó PBXH theo phạm vi
hẹp, do đó, so với PBXH theo phạm vi hẹp,
các hình thức thực hiện PBXH theo phạm vi
rộng phong phú hơn. Có thể phân loại thành
các hình thức cụ thể như sau: 1) Hình thức
thông qua tổ chức, tức các cơ quan đại diện
của công dân như Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức
nghiên cứu chính sách... trên cơ sở đánh giá,
thẩm định dự thảo chính sách để nêu lên ý
kiến, kiến nghị đối với cơ quan xây dựng
chính sách. Hình thức này lại có thể được
chia thành hình thức PBXH trực tiếp và hình
thức PBXH gián tiếp như đã nêu trên; 2)
Hình thức không thông qua tổ chức, tức công
dân có thể thông qua báo chí, mạng xã hội,
gửi thư phản ánh hoặc báo cáo kiến nghị (qua
bưu điện, hộp thư điện tử)... để thể hiện quan
điểm, ý kiến của mình đối với dự thảo chính
sách cho cơ quan xây dựng chính sách6. 3)
Hình thức xác định rõ chủ thể PBXH cụ thể,
có nghĩa là chính phủ hoặc cơ quan xây dựng
chính sách yêu cầu tổ chức hoặc đơn vị cụ
thể nào đó tiến hành PBXH đối với dự án
công hoặc dự thảo chính sách nào đó. Chẳng
hạn như Bộ Tư pháp yêu cầu Hội Luật gia
Việt Nam phản biện một dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật nào đó do một cơ quan nào
đó soạn thảo; 4) Hình thức PBXH không
chính thức, tức là Chính phủ hoặc cơ quan
xây dựng chính sách không yêu cầu tổ chức
cụ thể nào đó phản biện, mà chỉ cần công
khai ý tưởng chính sách hoặc dự thảo chính
sách nào đó cho công chúng và xã hội, và khi
đó, ngay cả khi không cần trưng cầu ý kiến
phản biện thì công dân và xã hội - bằng
những phương thức khác nhau - vẫn có thể
nêu lên ý kiến và kiến nghị của mình. Chẳng
hạn, đối với việc tổ chức hay không tổ chức
ASIAD 18, Chính phủ không trưng cầu phản
biện, nhưng do Chính phủ công khai vấn đề
này nên người dân, báo chí... vẫn có thể thể
hiện ý kiến là nên hay không nên tổ chức...
Tuy nhiên, sự phân loại phản biện theo
phạm vi hẹp và phản biện theo phạm vi rộng
chỉ có ý nghĩa tương đối. Nếu một chính sách
có tính kỹ thuật cao, đòi hỏi cao về thông tin
chuyên ngành thì sẽ thực hiện PBXH theo
phạm vi hẹp, nhưng mỗi khi thông tin về
chính sách được công khai một cách rộng rãi,
thu hút sự quan tâm, thảo luận của công dân
5
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5 Trần Đăng Tuấn: Phương thức thực hiện phản biện xã hội, Tạp chí Cộng sản, (12/2006).
6 Nguyễn Trọng Bình (2014): Đặc điểm và giá trị thực tiễn của PBXH - từ thực tiễn thực hiện PBXH đối với quyết sách hành
chính thời gian qua, Tạp chí Mặt trận, số 128, (6).
và xã hội, thì khi đó nó sẽ trở thành PBXH
theo phạm vi rộng. Tương tự, trong PBXH
theo phạm vi rộng cũng có thể có PBXH theo
phạm vi hẹp. Chẳng hạn như, Dự thảo Hiến
pháp sửa đổi (2013), Luật Đất đai (sửa đổi),
Dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam... vừa bao
gồm PBXH theo phạm vi hẹp, vừa bao gồm
PBXH theo phạm vi rộng. Thực tiễn trong
những năm qua cho thấy, đối với những
chính sách, dự án lớn, quan trọng thường có
sự kết hợp cả PBXH theo phạm vi hẹp và
PBXH theo phạm vi rộng. Cốt lõi của vấn đề
chính là, trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc
gia, còn lại các ý tưởng chính sách, dự thảo
chính sách cần được công khai rộng rãi, đầy
đủ và kịp thời cho xã hội và công dân nhằm
đảm bảo tính chủ động và hiệu quả của hoạt
động PBXH.
2. Mối quan hệ giữa công khai thông tin
và phản biện xã hội
Thứ nhất, CKTT là điều kiện để thực
hiện PBXH. Như tên gọi của nó, PBXH là
phản biện của xã hội đối với ý tưởng chính
sách hay dự thảo chính sách công do các cơ
quan nhà nước xây dựng mà không phải là
phản biện của nhà nước và trong nhà nước.
Để công dân và xã hội có thể phản biện
được, điều kiện đầu tiên là công dân phải
được đảm bảo “quyền được biết” đối với
những thông tin liên quan đến ý tưởng chính
sách, dự thảo chính sách, để từ đó có thể tiến
hành phán đoán, tham gia thảo luận và đưa
ra kiến nghị đối với các cơ quan xây dựng
chính sách. Không thực hiện CKTT để đảm
bảo “quyền được biết” một cách đầy đủ, kịp
thời của công dân thì không thể nói đến
PBXH, nhất là PBXH theo phạm vi rộng.
Thứ hai, CKTT là yêu cầu để đảm bảo
tính chủ động của PBXH. Tính chủ động của
PBXH được hiểu là công dân và xã hội thực
hiện quyền phản biện của mình ngay khi
hình thành ý tưởng chính sách hoặc khi chính
sách đang được soạn thảo. Nói cách khác,
PBXH là cách để cơ quan nhà nước, chuyên
gia cùng với xã hội và công dân tham gia
thiết kế chính sách. Còn tính bị động của
PBXH được hiểu là, công dân và xã hội do
không đảm bảo “quyền được biết” ngay từ
khi hình thành ý tưởng chính sách và xây
dựng các phương án chính sách nên chỉ tham
gia một cách bị động vào khâu cuối cùng của
hoạch định chính sách, thậm chí khi chính
sách đó đã được thông qua và bắt đầu triển
khai. CKTT ngay khi hình thành ý tưởng
chính sách, xây dựng phương án chính sách
là điều kiện để bảo đảm tính chủ động của
PBXH, cũng là điều kiện để đảm bảo thời
gian đủ mức cho hoạt động PBXH. Còn
không CKTT khi hình thành ý tưởng chính
sách và xây dựng phương án chính sách, mà
chỉ CKTT khi chính sách đã “định hình” và
đã thông qua thì không thể có được sự chủ
động trong PBXH.
Thứ ba, mức độ CKTT quyết định “độ
rộng”, “độ sâu” và chất lượng của PBXH.
Có nghĩa là, thông tin về ý tưởng chính sách,
dự thảo chính sách càng được công khai, có
thể càng tạo ra sự quan tâm của nhiều công
dân và các tổ chức xã hội đối với vấn đề
chính sách đó, từ đó có thể thu hút được sự
tham gia thảo luận của nhiều người. CKTT
về chính sách không chỉ đơn thuần là “đưa
dự thảo chính sách lên mạng”, mà còn cần
có những thông tin giải thích kèm theo. Điều
này tạo cơ sở để công chúng có được thông
tin đầy đủ hơn, từ đó đưa ra phán đoán chính
xác và lý tính hơn. Một cách tự nhiên, việc
CKTT về chính sách càng rộng rãi, càng đầy
đủ, càng tạo ra khả năng để nhiều đối tượng
tham gia thảo luận và đưa ra ý kiến đánh giá,
từ đó giúp người làm chính sách có thể có
được nhiều thông tin hữu ích hơn nhằm góp
phần hoàn thiện dự thảo chính sách.
Thứ tư, CKTT góp phần đảm bảo tính
hiệu lực của PBXH. Tính hiệu lực của PBXH
được hiểu là những ý kiến hợp lý, có căn cứ
khoa học và thực tiễn được đề xuất thông qua
quá trình PBXH được các cơ quan có trách
nhiệm quan tâm, nghiên cứu, tiếp thu, giải
trình và đưa đến sự thay đổi nào đó đối với
đường hướng chính sách. Ưu thế của CKTT
và công khai ý kiến PBXH là ở chỗ điều này
giúp thông tin về chính sách và ý kiến PBXH
vượt qua sự “chế ước” về không gian và thời
gian. Có nghĩa là, mỗi khi được công khai thì
6
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
thông tin có liên quan sẽ được các cơ quan
có trách nhiệm tiếp cận và coi đó như là căn
cứ để đưa ra sự tác động kịp thời. Chẳng hạn,
nếu báo chí không đưa tin về Dự án cải tạo
cảnh quan và phát triển đô thị ven sông Đồng
Nai cũng như ý kiến phản biện của các
chuyên gia về dự án này (khi đã thực hiện)
thì các cơ quan ở Trung ương có thể không
thể biết được các thông tin có liên quan, để
từ đó chỉ đạo kịp thời đối với chính quyền
địa phương về vấn đề này.
Tuy nhiên, PBXH lại có tác động trở lại
đối với công khai và minh bạch thông tin, thể
hiện ở chỗ PBXH thúc đẩy tính minh bạch
của thông tin. PBXH mà gắn liền với nó là
sự đối thoại, tranh luận có tác dụng tăng
cường năng lực giải trình của các cơ quan
xây dựng chính sách, từ đó làm cho thông tin
về chính sách trở nên minh bạch hơn. PBXH
còn thúc đẩy sự chia sẻ về mặt thông tin, làm
cho công chúng và xã hội tiếp cận được các
quan điểm, ý kiến khác nhau về dự thảo
chính sách, qua đó đưa ra sự phán đoán tốt
hơn đối với chính sách.
3. Thực trạng thực hiện công khai thông
tin với phản biện xã hội
Thực hiện Luật Phòng, chống tham
nhũng, Luật Báo chí và các quy định của
pháp luật khác có liên quan, thời gian qua,
việc thực hiện CKTT ở nước ta đã có bước
tiến quan trọng, qua đó vừa từng bước đáp
ứng nhu cầu thông tin của người dân, doanh
nghiệp, vừa thúc đẩy sự tham gia của công
dân vào quá trình quản trị công, nhất là thực
hiện vai trò giám sát xã hội và PBXH. Trong
bối cảnh thông tin hóa hiện nay, việc thực
hiện CKTT của Chính phủ có nhiều điều
kiện thuận lợi để thực hiện, trong đó có việc
công khai ý tưởng chính sách và dự thảo
chính sách được thực hiện thông qua nhiều
phương thức khác nhau, chủ yếu bao gồm:
Một là, CKTT qua cổng thông tin điện tử của
các cơ quan nhà nước: Các cơ quan xây dựng
dự thảo chính sách ở trung ương và một số
địa phương đều chú ý công bố các dự thảo
trên cổng thông tin điện tử với thời gian nhất
định nhằm tranh thủ ý kiến đóng góp, phản
biện của công dân và các tổ chức có liên
quan. Hai là, cung cấp thông tin qua họp
báo: CKTT và ý tưởng chính sách, dự thảo
chính sách qua họp báo định kỳ do các cơ
quan nhà nước tổ chức. Hiện nay, Văn phòng
Chính phủ luôn tổ chức họp báo định kỳ
nhằm cung cấp những thông tin có liên quan
về hoạt động của Chính phủ cho báo chí.
Ngoài việc trả lời trực tiếp các câu hỏi của
phóng viên tại cuộc họp báo, một số vấn đề
mà báo chí quan tâm, khi có yêu cầu còn có
thể được Văn phòng Chính phủ trả lời bằng
văn bản. Các Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh
cũng chú trọng việc tổ chức họp báo định kỳ
và đột xuất nhằm cung cấp thông tin cho báo
chí và trả lời những vấn đề mà báo chí quan
tâm. Ba là, CKTT qua việc truyền hình, phát
thanh trực tiếp và đưa tin các kỳ họp của cơ
quan Đảng và các cơ quan nhà nước: Thông
qua truyền hình, phát thanh, báo chí, những
vấn đề liên quan trong chương trình nghị sự
của các cơ quan nhà nước đã được đưa tin
đầy đủ, kịp thời cho công dân và xã hội. Bốn
là, CKTT qua việc các thành viên Chính phủ
trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội và
Chính phủ, các Bộ và các cơ quan có liên
quan trả lời các kiến nghị của cử tri và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam: Thời gian qua, bên
cạnh việc trả lời chất vấn tại các kỳ họp của
Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan của
Chính phủ còn gửi báo cáo trả lời chất vấn
cho các đại biểu Quốc hội và một số báo cáo
trả lời chất vấn đã được công khai trên Cổng
thông tin điện tử Chính phủ. Đây là phương
thức quan trọng giúp công chúng nắm được
thông tin về hoạt động của Chính phủ và một
số vấn đề có liên quan. Năm là, CKTT qua
tiếp xúc cử tri và hoạt động đối thoại: Thời
gian qua, tiếp xúc cử tri và hoạt động đối
thoại trực tiếp và gián tiếp cũng là những
“kênh” để cung cấp thông tin cho cử tri và
công dân. Sáu là, bảo đảm quyền tiếp cận
thông tin của công chúng qua hệ thống báo
chí và các kênh thông tin khác: Có thể nói,
trong thời kỳ đổi mới đất nước, hệ thống báo
chí nước ta đã có sự phát triển mạnh mẽ, thực
hiện nhiều chức năng quan trọng, trong đó
chức năng đưa tin chính xác, kịp thời và đầy
đủ cho công chúng. Các chuyên mục của một
số cơ quan báo chí như “Dân hỏi, Bộ trưởng
trả lời”, “Đối thoại chính sách”... do Đài
truyền hình Việt Nam thực hiện và các
chuyên mục tương tự do các cơ quan báo chí
khác thực hiện có tác dụng quan trọng trong
cung cấp thông tin cho công chúng. Bảy là,
công khai thông tin qua việc cơ quan xây
dựng chính sách trưng cầu PBXH đối với
một cơ quan cụ thể: Việc Chính phủ và các
cơ quan xây dựng chính sách chuyển dự thảo
chính sách và một số thông tin có liên quan
để trưng cầu ý kiến phản biện của một tổ
chức nào đó (chẳng hạn như Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Liên hiệp các Hội khoa học
và kỹ thuật Việt Nam...), cũng là một hình
thức CKTT. Ngoài ra, ở cơ sở, việc thực hiện
CKTT còn được thực hiện qua đài phát
thanh, niêm yết thông tin tại trụ sở làm việc...
Bên cạnh những thành tựu và kết quả
quan trọng nêu trên, việc thực hiện CKTT
vẫn còn tồn tại một số hạn chế và yếu kém,
không có lợi cho việc bảo đảm và thúc đẩy
sự tham gia của công dân vào quá trình quản
trị công, nhất là hoạt động giám sát và
PBXH. Khi đánh giá về mức độ công khai,
minh bạch, kết quả điều tra của Chỉ số Đo
lường Hiệu quả quản trị và hành chính công
cấp tỉnh (PAPI) năm 2014 cho thấy, về công
khai, minh bạch danh sách hộ nghèo ở cơ sở,
có 59% người dân được hỏi biết đến danh
sách hộ nghèo; về công khai, minh bạch thu
chi ngân sách cấp xã, phường, có 36% người
được hỏi cho biết thu, chi ngân sách của xã,
phường được công bố công khai; về công
khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và
khung giá đất, chỉ có 16% số người được hỏi
trên toàn quốc cho biết họ được biết về quy
hoạch/kế hoạch sử dụng đất ở địa phương,
chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ (5%) có cơ hội đóng
góp ý kiến của mình trước khi quy hoạch/kế
hoạch được ban hành”7.Báo cáo tổng hợp kết
quả tham vấn cộng đồng góp ý cho Dự thảo
Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) cho thấy,
“việc thực hiện công khai, minh bạch trong
các hoạt động ngân sách ở các cấp trong
nhiều trường hợp còn mang tính hình thức,
chưa thuận lợi để người dân hiểu và bày tỏ ý
kiến của mình. Người dân không biết, không
hiểu về các thông tin liên quan đến ngân sách
nhà nước nói chung và việc phân bổ ngân
sách nói riêng” và “công khai thông tin chưa
gắn với cơ chế giải trình, cung cấp thông tin
bổ sung về các vấn đề có liên quan hoặc cơ
chế giải đáp thắc mắc của người dân về thông
tin đã công khai”8, điều đó cho thấy, mức độ
đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công
dân ở cơ sở còn một số vấn đề đang đặt ra.
Một số dự án lớn và quan trọng, liên
quan mật thiết đến lợi ích của công dân ở địa
phương chưa được cơ quan xây dựng chính
sách chủ động cung cấp thông tin đầy đủ và
kịp thời cho công dân và xã hội để họ biết,
tham gia thảo luận, tranh luận và cho ý kiến.
Trên một mức độ nào đó, một số dự án, chính
sách ở địa phương và cơ sở được thông qua
và khi bắt đầu thực hiện đã chịu sự phản đối
của công chúng và dư luận xã hội (chẳng hạn
như dự án thay thế cây xanh ở Hà Nội, Dự
án cải tạo cảnh quan và phát triển đô thị ven
sông Đồng Nai...), có một nguyên nhân quan
trọng là, trong quá trình xây dựng, hình thành
đề án, cơ quan có trách nhiệm đã chưa thực
hiện CKTT một cách đầy đủ cho công chúng
và chưa đảm bảo quyền tham gia thật sự của
họ vào quá trình xây dựng chính sách và đề
án. Đây cũng là nguyên nhân tạo nên tính
chất bị động của PBXH đối với một số chính
sách, dự án, tức là nhiều dự thảo chính sách
đã được “giữ kín” đến giai đoạn cuối cùng,
chỉ khi trình cơ quan có trách nhiệm phê
duyệt hoặc đã được phê duyệt và đưa vào
thực hiện thì công dân và xã hội mới có thể
được biết và đưa ra ý kiến phản biện có tính
bị động đối với chính sách, dự án đó.
Một vấn đề khác liên quan đến tính công
khai và minh bạch chính là tính công khai và
8
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7 truy cập ngày 22/4/2015.
8 truy
cập ngày 22/4/2015.
minh bạch của quá trình PBXH. Thực hiện
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
và các luật có liên quan, các cơ quan xây
dựng chính sách cũng có gửi dự thảo chính
sách để các tổ chức như Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tham gia thẩm định và cho ý kiến
phản biện. Tuy nhiên, một số cơ quan xây
dựng chính sách lại có xu hướng mở rộng
diện “bảo mật” các dự thảo trưng cầu ý kiến
phản biện và cả ý kiến của chủ thể phản biện.
Có nghĩa là, cơ quan xây dựng chính sách
yêu cầu chủ thể phản biện không được công
khai nội dung dự thảo và ý kiến phản biện
của mình cho công chúng và xã hội. Chính
điều này đã làm cho PBXH (PBXH theo
phạm vi hẹp) chưa phát huy hết tác dụng cần
có của nó và có thể không đảm bảo chất
lượng của PBXH. Điều này cũng làm cho
công chúng và xã hội không thể giám sát
được hành vi của chủ thể và khách thể phản
biện trong quá trình xây dựng chính sách.
Đây cũng là một nguyên nhân lý giải tại sao
trong thời gian qua, tuy một số chính sách,
cơ quan xây dựng chính sách cho rằng “việc
xây dựng và thông qua đề án đã theo trình tự
luật định, đã tranh thủ ý kiến góp ý của cơ
quan có liên quan”, nhưng khi công bố chính
thức hoặc chính sách, dự án đó được đưa vào
thực hiện thì một số thiếu sót của chính sách
đó, dự án đó lại thể hiện ra và vấp phải sự
phản đối của công chúng và xã hội.
Có thể nói, đối với một số dự án do tính
chất bí mật quốc gia hay do nguyên nhân rất
đặc thù nên việc thực hiện PBXH theo phạm
vi hẹp và cần đảm bảo tính bí mật là cần
thiết, song không nên lạm dụng điều này để
mở rộng diện “bảo mật” của dự thảo chính
sách hoặc dự án với tư cách đối tượng
PBXH. Nếu lạm dụng điều này thì PBXH
theo phạm vi hẹp vẫn có thể chỉ là hình thức,
làm cho PBXH vốn dĩ là phản biện của xã
hội lại trở thành phản biện của số ít người,
hoặc phản biện của một số chuyên gia, mà
không phải là phản biện của công chúng và
xã hội - đối tượng chịu sự ảnh hưởng thật sự
của chính sách và dự án. Và thực tế đã cho
thấy, không chú trọng thực hiện CKTT đầy
đủ, ngay từ đầu và trưng cầu ý kiến phản
biện một cách thật sự và rộng rãi của công
dân và xã hội, tiếp thu ý kiến phản biện đúng
để điều chỉnh và hoàn thiện dự thảo chính
sách, thì rất dễ dẫn đến một số thiếu sót trong
chính sách và dự án cũng như tạo nên sự bị
động trong PBXH. Mà điều này lại có thể
gây nên sự lãng phí và ảnh hưởng không tốt
đến uy tín của cơ quan xây dựng chính sách
và cơ quan nhà nước.
4. Một số giải pháp tăng cường công khai
thông tin nhằm góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động phản biện xã hội
Thứ nhất, đổi mới nhận thức, tư duy và
quan niệm quản trị của đội ngũ cán bộ, công
chức. Một đặc điểm và xu thế nổi bật của
quản trị công hiện đại đó là quản trị công lấy
công dân làm trung tâm hay quản trị một
cách dân chủ. Điều này có nghĩa là, khác với
trước đây, người ta coi quản trị công là việc
của chính trị gia, quan chức chính phủ,
chuyên gia và công chức, còn công dân và
xã hội chỉ là “người tiêu dùng hàng hóa và
dịch vụ công”, là bên bị động tiếp nhận chính
sách và hành vi của chính phủ, thì nay do
“tính không thể quản trị”, tính phức tạp của
môi trường quản trị công và vấn đề chính
sách công ngày càng tăng lên, ý thức và năng
lực làm chủ của công dân ngày càng được
nâng cao; nên mô thức quản trị “lấy chính
phủ làm trung tâm” đã không còn phù hợp
nữa, mô hình chính sách “từ trên xuống
dưới”, nặng về “đưa chính sách vào cuộc
sống” mà coi nhẹ “từ dưới lên trên” và “đưa
cuộc sống vào chính sách” đã không còn phù
hợp nữa. Quản trị công lấy công dân làm
trung tâm có nghĩa là, bảo đảm việc thực
hiện quyền lợi chính trị, kinh tế và xã hội của
công dân, thỏa mãn nhu cầu cơ bản của công
dân, nhất là nhu cầu cơ bản của nhóm yếu
thế; cung ứng dịch vụ công cơ bản, từ đó làm
cho công dân có cuộc sống ngày càng tốt đẹp
hơn, là chức trách và sứ mệnh của chính phủ.
Đó còn là chính phủ nhận thức được rằng,
quản trị công không chỉ là việc của chính trị
gia, chuyên gia, quan chức chính phủ và
công chức, mà còn là việc của công dân,
doanh nghiệp và xã hội, do đó, chính phủ cần
tôn trọng và phát huy quyền tham gia quản
trị của công dân; lắng nghe tiếng nói của công
dân và xã hội trong quá trình quản trị công;
9
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
tích cực hợp tác với xã hội và công dân trong
quá trình chế định chính sách. Vì vậy, thực
hiện công khai thông tin chẳng những là để
thực hiện quyền công dân, mà còn là điều
kiện để công dân và xã hội tham gia có hiệu
quả vào quá trình chế định chính sách. CKTT
bao gồm công khai về dự thảo chính sách sẽ
tạo điều kiện để công chúng và xã hội giúp
cơ quan xây dựng chính sách thấy được chỗ
thiếu sót, từ đó có thể kịp thời sửa chữa sai
lầm và thiếu sót. CKTT vừa là để thực hiện
“quyền được biết” của công dân, nhưng quan
trọng hơn là giúp chúng ta thực hiện tốt hơn
trách nhiệm của mình đối với công dân.
Thứ hai, hiện nay, trách nhiệm cung cấp
thông tin của các cơ quan nhà nước đã được
quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau, như Luật Phòng chống tham nhũng,
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn... Tuy nhiên, do đây không phải là các
văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh về hoạt
động cung cấp thông tin của các cơ quan nhà
nước nên chưa xác định rõ hình thức công
khai thông tin, nội dung công khai thông tin,
trình tự công khai thông tin, loại hình thông
tin cần công khai, trách nhiệm của cơ quan
cung cấp thông tin và chế tài xử lý trách
nhiệm trong trường hợp không thực hiện tốt
nghĩa vụ cung cấp thông tin... Điều này dễ tạo
nên sự tùy tiện hoặc chối bỏ trách nhiệm cung
cấp thông tin. Do đó, để thực hiện tốt hơn
CKTT, thực hiện tốt hơn quyền được biết của
công dân, đảm bảo để công dân có thể tham
gia có hiệu quả vào quá trình quản trị công,
cần sớm ban hành Luật Tiếp cận thông tin.
Đồng thời với điều này, việc sửa đổi, hoàn
thiện các văn bản pháp luật có liên quan theo
hướng đảm bảo tốt hơn quyền tiếp cận thông
tin của công dân và xã hội cũng có ý nghĩa
rất quan trọng. Chẳng hạn cần nhấn mạnh
việc thực hiện CKTT và quyền tiếp cận thông
tin trong Luật Báo chí... Đặc biệt, các quy
định pháp luật điều chỉnh hoạt động PBXH
cần xác định rõ những tiêu chí cụ thể để dự
án nào, chính sách nào thuộc diện “không
được cung cấp thông tin ra bên ngoài” để
tránh tình trạng các cơ quan trưng cầu phản
biện lạm dụng việc “bảo mật” để hạn chế
quyền tiếp cận thông tin sớm của công dân
ngay cả đối với những chính sách, dự án
không thuộc diện bí mật quốc gia.
Thứ ba, thực hiện công khai quá trình
thực hiện PBXH. Như đã trình bày ở trên,
PBXH là phản biện của xã hội, là tiếng nói
của công dân và xã hội đối với các dự thảo
chính sách công và dự án công. Thực tiễn cho
thấy, hiệu quả của PBXH phần nhiều được
thể hiện thông qua PBXH theo phạm vi rộng.
Do đó, các quy định có liên quan về hoạt
động PBXH cần được xây dựng và hoàn
thiện theo hướng bảo đảm tính công khai của
quá trình PBXH: gồm công khai về dự thảo
chính sách được phản biện, công khai về ý
kiến của chủ thể phản biện, công khai về ý
kiến giải trình, tiếp thu và phản hồi của cơ
quan có dự thảo chính sách được phản biện.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước
tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý
nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch
trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến
nghị của công dân”. Chính vì vậy, hoàn thiện
các quy định theo hướng đảm bảo tính công
khai của quá trình PBXH là phù hợp với quy
định của Hiến pháp hiện hành.
Thứ tư, đa dạng hóa các hình thức CKTT.
Như đã phân tích ở trên, trong thực tế, CKTT
có thể được thực hiện bằng nhiều con đường
và phương thức khác nhau, chẳng hạn như:
công khai thông tin qua cổng thông tin điện
tử của các cơ quan nhà nước, công khai thông
tin qua tổ chức họp báo, công khai thông tin
qua việc truyền hình, phát thanh trực tiếp và
đưa tin đối với các kỳ họp của cơ quan Đảng
và các cơ quan nhà nước, công khai thông tin
qua hoạt động trả lời chất vấn, công khai qua
tiếp xúc cử tri và đối thoại, công khai thông
tin qua hệ thống báo chí và truyền thông đại
chúng, công khai thông tin qua niêm yết
thông tin tại trụ sở làm việc của cơ quan công
quyền... Do đó, cần thông qua những hình
thức nêu trên để CKTT đầy đủ, kịp thời cho
công chúng và xã hội. Về nội dung thông tin
cần cung cấp, ngoài các thông tin có liên
quan, cần chú ý cung cấp về những ý tưởng
chính sách mà các cơ quan dự định sẽ xây
dựng, những dự thảo chính sách đang được
xây dựng. Trong các kênh cung cấp thông tin,
10
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
báo chí và truyền thông đại chúng có vai trò
rất quan trọng. Để làm tốt chức năng thông
tin, các cơ quan báo chí cần đưa tin đầy đủ,
kịp thời về các chủ trương, chính sách đang
được xây dựng, mở các chuyên mục cần thiết
như: “bình luận chính sách”, “phản biện
chính sách”, “giới thiệu dự thảo chính sách”,
“đối thoại chính sách” để vừa cung cấp thông
tin, vừa là diễn đàn lôi cuốn công chúng tham
gia hiến kế và góp ý chính sách. Cần lưu ý là,
có nhiều dự thảo chính sách, pháp luật có nội
dung dài, liên quan đến nhiều khía cạnh khác
nhau, có tính chuyên môn cao, cho nên để
đảm bảo tính hiệu quả, các cơ quan báo chí
cần giới thiệu khái quát về tinh thần của dự
thảo chính sách và chọn lọc trong đó một số
nội dung thật sự cần thiết để thu hút sự tham
gia thảo luận của công chúng.
Thứ năm, nâng cao năng lực thực thi
pháp luật trong lĩnh vực cung cấp thông tin
và tăng cường giám sát đối với hoạt động xây
dựng chính sách. Như đã phân tích ở trên, tuy
cần tiếp tục hoàn thiện, song CKTT đã được
quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, việc thực hiện
CKTT theo quy định của pháp luật vẫn chưa
được thực hiện tốt, hiện tượng “thích thì công
khai, không thích thì không công khai” còn
tồn tại ở nhiều nơi. Điều đó cho thấy, việc
đảm bảo nguyên tắc pháp quyền trong hoạt
động của một số cơ quan, tổ chức vẫn chưa
được thực hiện triệt để. Tương tự như vậy,
trong hoạt động xây dựng chính sách, các quy
định điều chỉnh về trình tự, thủ tục xây dựng
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã
được quy định trong Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân và một số quy định khác,
song hiện tượng không tuân theo đầy đủ, chặt
chẽ và thực chất các quy định của pháp luật
trong hoạt động xây dựng và ban hành các
văn bản, chính sách, dự án vẫn còn tồn tại ở
một số nơi. Trong đó, việc thực hiện CKTT,
việc lấy ý kiến của Mặt trận Tổ quốc và đối
tượng chịu sự tác động của chính sách hoặc
là còn hình thức, hoặc là chưa được thực hiện
đầy đủ. Điều này có nguyên nhân là ý thức
chấp hành pháp luật trong thực thi công vụ
của một số tổ chức, cá nhân còn chưa tốt, mặt
khác còn có nguyên nhân là công tác kiểm
tra, giám sát của một số cơ quan có trách
nhiệm còn chưa thực hiện tốt, việc xử lý trách
nhiệm đối với trường hợp ban hành văn bản
quy phạm pháp luật chưa theo đúng trình tự,
hoặc sai về nội dung, gây hậu quả xấu chưa
được thực hiện tốt. Do đó, để các quy định
của pháp luật điều chỉnh về CKTT và quy
trình xây dựng chính sách được thực hiện tốt
hơn, qua đó đảm bảo tính hợp hiến, tính hợp
pháp, hợp lý của hành vi hành chính, bên
cạnh việc nâng cao ý thức pháp luật, trách
nhiệm pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công
chức các cấp, cần chú trọng công tác kiểm tra,
giám sát trước, trong và sau quá trình ban
hành văn bản quy phạm pháp luật; đồng thời
xử lý trách nhiệm đối với trường hợp không
CKTT cũng như không tuân thủ thực chất
quy trình, thủ tục ban hành chính sách. Cụ
thể, cần tăng cường và nâng cao hiệu quả
kiểm tra, giám sát trong hệ thống hành chính
(kiểm tra, giám sát của cấp trên, cơ quan giám
sát chuyên ngành...) đối với cơ quan xây
dựng chính sách, cũng như tăng cường sự
kiểm tra, giám sát của cơ quan đảng, cơ quan
lập pháp, cơ quan tư pháp, Mặt trận, các đoàn
thể nhân dân, các tổ chức xã hội, báo chí và
công dân đối với quá trình xây dựng và ban
hành các chính sách, quyết định của các cơ
quan hành chính nhà nước.
***
Tóm lại, cùng với việc hoàn thiện cơ chế
giám sát quyền lực trong bộ máy nhà nước
thì việc tăng cường giám sát của công dân và
xã hội đối với quyền lực nhà nước đang là
một nhu cầu khách quan, tất yếu hiện nay.
Trong đó, việc thực hiện tốt CKTT và PBXH
vừa là để đảm bảo tốt hơn quyền công dân,
vừa là để tăng cường sự giám sát của xã hội
và công dân đối với quyền lực công. Vì vậy,
cần hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực
thực hiện thể chế để thực hiện tốt hơn CKTT,
qua đó góp phần đảm bảo tính hiệu lực và
hiệu quả của PBXH cũng như bảo đảm sự
tham gia của công dân và xã hội vào quá trình
hoạch định chính sách công n
11
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cong_khai_thong_tin_voi_viec_thuc_hien_phan_bien_xa_hoi.pdf