Thực thi nguyên tắc đãi ngộ quốc gia trong thương mại dịch vụ sau mười năm Việt Nam gia nhập WTO

Thứ nhất, kinh doanh lữ hành là dịch vụ mà Việt Nam có cam kết. Tuy nhiên, mức độ cam kết đối xử quốc gia là một phần với Phương thức (3) và toàn bộ với Phương thức (1) và (2). Theo đó, những doanh nghiệp kinh doanh lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài phải sử dụng hướng dẫn viên là công dân Việt Nam mà không được sử dụng hướng dẫn viên là người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch. Thứ hai, tuy nhiên trong Luật Du lịch năm 2017, hướng dẫn viên du lịch quốc tế phải là người có quốc tịch Việt Nam và thường trú tại Việt Nam. Do vậy, doanh nghiệp kinh doanh lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có thể sử dụng hướng dẫn viên là công dân Việt Nam, thường trú tại Việt Nam16. Tức biện pháp này đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh lữ hành của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng cách thu hẹp phạm vi tuyển dụng hướng dẫn viên du lịch của doanh nghiệp kinh doanh du lịch có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, những hướng dẫn viên du lịch là công dân Việt Nam mà không có địa chỉ thường trú ở Việt Nam thì không được tuyển. Trong khi hướng dẫn viên giữ vai trò cốt lõi, quyết định chất lượng dịch vụ lữ hành. Rõ ràng “có địa chỉ thường trú ở Việt Nam” là một yếu tố nhỏ nhưng có ảnh hưởng lớn đến việc kinh doanh dịch vụ lữ hành và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nước ngoài. Thứ ba, quy định này đã làm thay đổi điều kiện cạnh tranh giữa doanh nghiệp kinh doanh lữ hành trong nước và doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nước ngoài ở Phương thức (3). Việt Nam hiện chưa có quy định chi tiết về kinh doanh dịch vụ lữ hành qua biên giới. Việc này sẽ tạo thành một điều kiện cạnh tranh kém thuận lợi hơn, gây khó khăn hơn cho doanh nghiệp du lịch có vốn đầu tư nước ngoài muốn cung cấp dịch vụ du lịch vào Việt Nam theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Như vậy, quy định này cũng không phù hợp với nghĩa vụ của Việt Nam theo Điều XVI của GATS và nội dung cam kết được quy định Mục 9 (B) Danh mục cam kết của Việt Nam.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 120 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực thi nguyên tắc đãi ngộ quốc gia trong thương mại dịch vụ sau mười năm Việt Nam gia nhập WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt: Khi gia nhập WTO, một trong những nghĩa vụ của Việt Nam là phải tuân thủ nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. Do vậy, việc rà soát những quy định, thủ tục trong lĩnh vực dịch vụ để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này là cần thiết. Kết quả rà soát sẽ giúp chúng ta ngăn ngừa được nguy cơ bị tham dự vào các tranh chấp quốc tế. Đào Thị Thu Hằng* Abstract: Upon its integration to the WTO, one of the Vietnam's obligations is to adhere to the national treatment principles. Therefore, the review of regulations and procedures in the service sector to ensure the implementation of this principle is necessary. The results of the review will help us prevent the risk of being involved in international disputes. Thông tin bài viết: Từ khóa: Đãi ngộ quốc gia trong thương mại dịch vụ, GATS, cam kết của Việt Nam Lịch sử bài viết: Nhận bài: 18/05/2017 Biên tập: 28/08/2017 Duyệt bài: 06/09/2017 Article Infomation: Keywords: Nation treatment in trade in services, GATS, Vietnam’s commitment. Article History: Received: 18 May 2017 Edited: 28 Aug. 2017 Appproved: 06 Sep. 2017 * ThS, GV, Trường ĐH Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh THỰC THI NGUYÊN TẮC ĐÃI NGỘ QUỐC GIA TRONG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ SAU MƯỜI NĂM VIỆT NAM GIA NHẬP WTO 1. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia trong thương mại dịch vụ nói chung được quy định tại Điều XVII của GATS1. Tuy nhiên, khi xem xét mức độ đãi ngộ quốc gia đối với một dịch vụ cụ thể của một thành viên thì 1 GATS: General Agreement on Trade in Services (Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ, là một hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hiệp định được ký kết sau khi kết thúc Vòng đàm phán Uruguay và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1995). trước hết, chúng ta sẽ xem trong Mục của Phân ngành dịch vụ có tên tương ứng trong Biểu cam kết và sau đó sẽ xem xét đến Phần cam kết nền trong Biểu cam kết của thành viên đó. Ngoài ra, những biện pháp mang tính phân biệt đối xử giữa dịch vụ, nhà cung NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 21Số 19(347) T10/2017 cấp dịch vụ của một thành viên với dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ của các thành viên khác còn được ghi nhận trong cột hạn chế tiếp cận thị trường của Biểu cam kết. Bởi theo Điều XX của GATS và thực tiễn áp dụng thì “một biện pháp vừa liên quan đến nghĩa vụ tiếp cận thị trường vừa liên quan đến nghĩa vụ đãi ngộ quốc gia thì một thành viên chỉ cần ghi một lần biện pháp đó vào cột tiếp cận thị trường, khi đó nó sẽ đưa ra một giới hạn tiềm ẩn trong đối xử quốc gia2. Bên cạnh đó, nguyên tắc đãi ngộ quốc gia còn được quy định trong Điều VI của GATS. Cụ thể, thành viên không được áp dụng các yêu cầu về cấp phép về chuyên môn và các tiêu chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực có cam kết cụ thể làm vô hiệu hoặc giảm bớt mức cam kết đó theo cách thức: (i) không phù hợp với các tiêu chí như khách quan, minh bạch, năng lực và khả năng cung cấp dịch vụ, không phiền hà hơn mức cần thiết để đảm bảo chất lượng dịch vụ, không trở thành hạn chế về cung cấp dịch vụ; (ii) tại thời điểm các cam kết cụ thể trong các lĩnh vực đó được đưa ra, các thành viên đã không có ý định áp dụng các biện pháp này. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia yêu cầu mỗi thành viên, liên quan tới tất cả các biện pháp có tác động đến việc cung cấp dịch vụ, phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà thành viên đó dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của mình, trừ các điều kiện và tiêu chuẩn được quy định trong Biểu cam kết của mình. Sự đối xử tương tự hoặc khác biệt về hình thức được coi là kém thuận lợi hơn nếu nó làm thay đổi điều kiện cạnh tranh có lợi cho dịch vụ hay nhà cung cấp dịch vụ của thành viên đó so với dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ thành viên nào khác. 2 WTO, WT/DS413/R ngày 16/7/2012, Báo cáo Ban Hội thẩm vụ China - Certain measures affecting electronic payment services, đoạn 7.662. 3 WTO, WT/DS413/R ngày 16/7/2012, Báo cáo Ban Hội thẩm vụ China - Certain measures affecting electronic payment services, đoạn 7.645. 4 Vũ Nhữ Thăng (2007), Tự do hoá thương mại dịch vụ trong WTO: Luật và thông lệ, Nxb. Hà Nội, H., tr. 143. Để khởi kiện một thành viên vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, bên nguyên đơn cần phải thiết lập được ba tiêu chí sau: - Bên bị đơn đã cam kết đãi ngộ quốc gia trong lĩnh vực dịch vụ có liên quan, theo Phương thức đang tranh chấp với điều kiện, tiêu chuẩn hoặc hạn chế trong Biểu cam kết cụ thể. - Các biện pháp mà Bên bị đơn đang áp dụng có ảnh hưởng đến dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ tương tự ở Phương thức đang tranh chấp. - Các biện pháp mà Bên bị đơn dành cho dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ của Bên nguyên đơn kém thuận lợi hơn so với dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ của Bên bị đơn3. Do vậy, để hiểu đúng và đầy đủ về nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, chúng ta phải làm rõ các nội dung quan trọng sau: các biện pháp trong đãi ngộ quốc gia; dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ tương tự; đãi ngộ kém thuận lợi hơn. Các biện pháp trong đãi ngộ quốc gia Có thể nói, các biện pháp trong đãi ngộ quốc gia được xác định rất rộng. Chúng được hiểu là những biện pháp được quy định tại Điều I và Điều XXVIII của GATS bao gồm: bất kỳ một biện pháp nào được một thành viên thi hành, dù dưới hình thức luật pháp, quy định, quy tắc, thủ tục, quyết định, hoạt động quản lý hoặc bất kỳ hình thức nào khác được áp dụng bởi: (i) chính quyền và các cơ quan có thẩm quyền trung ương, khu vực hoặc địa phương; và (ii) các cơ quan phi chính phủ trong việc thực thi quyền hạn được chính quyền trung ương, khu vực hoặc địa phương ủy quyền. Ngoài ra, chúng bao gồm cả các biện pháp điều chỉnh lĩnh vực dịch vụ và cả những biện pháp điều chỉnh các lĩnh vực khác nhưng có tác động đến thương mại dịch vụ4. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 22 Số 19(347) T10/2017 Tuy nhiên, các biện pháp được xem xét trong đãi ngộ quốc gia không loại trừ trong tiếp cận thị trường. Ranh giới giữa biện pháp đãi ngộ quốc gia và tiếp cận thị trường trong GATS cũng không thật sự rõ ràng. Theo cách hiểu thông thường, những biện pháp trong tiếp cận thị trường sẽ áp dụng ở giai đoạn (khoảng thời gian) mà dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài chưa thể tiếp cận được (hay chưa có mặt) ở thị trường trong nước, còn những biện pháp trong đãi ngộ quốc gia sẽ áp dụng cho giai đoạn mà dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đã tồn tại trong lãnh thổ nước thành viên. Thực vậy, với cách quy định ở Điều XX: “Mỗi Danh mục cam kết, trong những lĩnh vực cụ thể phải quy định: (a) điều khoản, giới hạn và điều kiện tiếp cận thị trường; (b) điều kiện và tiêu chuẩn về đối xử quốc gia;” chúng ta hiểu rằng hai nguyên tắc này có phạm vi biện pháp khác nhau. Bên cạnh đó, những biện pháp mang tính phân biệt đối xử giữa dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên với dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ của các thành viên khác được ghi nhận trong cột hạn chế tiếp cận thị trường của Biểu cam kết cụ thể có thể được mở rộng đến nghĩa vụ của Điều XVII. Như vậy, phạm vi của Điều XVI và Điều XVII không loại trừ lẫn nhau. Cả hai điều khoản đều có thể áp dụng cho một biện pháp5. Do đó, việc nhận dạng phạm vi các biện pháp thuộc về đãi ngộ quốc gia khá phức tạp. Dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ tương tự Bước thứ hai của việc xem xét nghĩa vụ theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia là phải 5 WTO, WT/DS413/R ngày 16/7/2012, Báo cáo Ban Hội thẩm vụ China – Certain measures affecting electronic payment services, đoạn 7.658 & 7.659 & 7.662. 6 WTO, WT/DS413/R ngày 16/7/2012, Báo cáo Ban Hội thẩm vụ China – Certain measures affecting electronic payment services, đoạn 7.706 & 7.707 & 7.708. 7 WTO, WT/DS453/AB/R ngày 14/4/2016, Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm vụ Argentina - Measures trade of goods & services, đoạn 6.29. 8 WTO, WT/DS363/R ngày 12/8/2009 Báo cáo của Ban hội thẩm vụ China - Publication and Audiovisual Products, đoạn 7.975. WTO, WT/DS453/AB/R ngày 14/4/2016, Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm vụ Argentina - Measures trade of goods & services, đoạn 6.37. WTO, WT/DS413/R ngày 16/7/2012, Báo cáo Ban Hội thẩm vụ China - Certain measures affecting electronic payment services, đoạn 7.700. được tiến hành phân tích dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ tương tự. GATS không đưa ra định nghĩa về dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự. Xuất phát từ đặc tính của dịch vụ là vô hình. Do vậy, việc xác định dịch vụ tương tự hay nhà cung cấp dịch vụ “tương tự” phải được thực hiện theo từng trường hợp cụ thể. Việc xác định tính “tương tự” của dịch vụ phải dựa trên các lập luận và bằng chứng liên quan đến mối quan hệ cạnh tranh của các dịch vụ được so sánh. Việc xác định các nhà cung cấp dịch vụ “tương tự” có thể dựa trên mô tả cơ bản về phạm vi kinh doanh và các dịch vụ cụ thể mà họ cung cấp6. Đánh giá tính “tương tự” của các dịch vụ không nên tách biệt với việc xem xét các nhà cung cấp “dịch vụ tương tự” và ngược lại đánh giá tính “tương tự” của các nhà cung cấp dịch vụ không nên tách biệt với việc xem xét các dịch vụ “tương tự”. Mặt khác, kết quả đánh giá riêng biệt về tính “tương tự” của dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ là không bắt buộc7. Khi xuất xứ là yếu tố duy nhất để đo lường sự khác biệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ trong nước và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ “tương tự” được đáp ứng miễn là các nhà cung cấp dịch vụ trong nước và nước ngoài có thể giống nhau về mọi khía cạnh vật chất, trừ nguồn gốc. Chúng tôi nhận thấy rằng, trong trường hợp một sự khác biệt về đãi ngộ không chỉ liên quan đến nguồn gốc của nhà cung cấp dịch vụ mà còn có các yếu tố khác có thể cần phân tích chi tiết hơn để xác định liệu các nhà cung cấp dịch vụ của hai bên trong vụ kiện có “tương tự” hay không8. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 23Số 19(347) T10/2017 Như vậy, về nguyên tắc, người khiếu nại có thể thiết lập tính “tương tự” bằng cách chứng minh rằng một biện pháp nào đó tạo sự khác biệt giữa dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ dựa trên xuất xứ. Đãi ngộ kém thuận lợi hơn Bước thứ ba của việc xem xét nghĩa vụ theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia là phải xác định được biện pháp đang áp dụng đãi ngộ không kém thuận lợi hơn. Mặc dù GATS không đưa ra định nghĩa về dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự, ngược lại đối với khái niệm “đãi ngộ kém thuận lợi hơn”, Điều XVII đã ghi nhận rõ ràng: “Sự đãi ngộ tương tự hoặc khác biệt về hình thức được coi là kém thuận lợi hơn nếu nó làm thay đổi điều kiện cạnh tranh có lợi cho dịch vụ hay nhà cung cấp dịch vụ của thành viên đó so với dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ thành viên nào khác”. Như vậy, việc đãi ngộ của một thành viên làm thay đổi điều kiện cạnh tranh gây ra tổn hại sẽ được xem xét là đãi ngộ kém thuận lợi hơn. Tổn hại gây ra cho dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ của thành viên khác có thể là hiện hành hoặc trong tương lai9. GATS không quy định việc chứng minh đãi ngộ kém thuận lợi hơn phải đòi hỏi phải có thiệt hại thực tế. Khi một thành viên cho rằng có những quy định của thành viên khác chưa phù hợp thì điều cần phải kiểm tra là sự tồn tại của biện pháp đãi ngộ kém thuận lợi hơn trong những quy định đó. Việc đãi ngộ khác nhau về mặt hình thức có thể cũng không tạo thành một biện pháp đãi ngộ kém thuận lợi hơn. Ví dụ: Nghị định 73/2012/NĐ-CP của Chính phủ về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục quy định cơ sở giáo dục nước ngoài phải (i) Chịu trách nhiệm bồi hoàn kinh phí cho người học trong trường hợp cung cấp chương trình đào tạo không đảm bảo chất lượng như cam kết; hoặc (ii) Đảm bảo quyền 9 WTO, WT/DS413/R ngày 16/7/2012, Báo cáo Ban Hội thẩm vụ China - Certain measures affecting electronic payment services, đoạn 7.692 & 7.693. 10 Điều 27, 31 Nghị định số 73/2012/NĐ-CP quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục. lợi hợp pháp của người học, cán bộ, giảng viên, giáo viên và những người lao động khác trong trường hợp chấm dứt hoặc buộc phải chấm dứt hoạt động trước thời hạn10. Trong khi nội dung tương tự lại không được quy định cho cơ sở giáo dục trong nước. Tuy nhiên, nó không dẫn đến một biện pháp đãi ngộ kém thuận lợi hơn cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, bởi nó không làm thay đổi điều kiện cạnh tranh giữa cơ sở giáo dục trong và ngoài nước theo hướng bất lợi cho cơ sở giáo dục nước ngoài. Các cơ sở giáo dục trong nước vẫn phải thực hiện những quy định trên. Tuy nhiên thông qua những quy định mang tính gián tiếp khác. Ngoài ra, mức đãi ngộ được ghi nhận trong Biểu cam kết là mức đãi ngộ tối thiểu. Việt Nam hoàn toàn có thể dành cho dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài mức đãi ngộ thuận lợi hơn mức đã cam kết. 2. Thực thi nguyên tắc đãi ngộ quốc gia của Việt Nam 2.1 Vấn đề liên quan đến dịch vụ kiểm toán (CPC 862) Cam kết của Việt Nam trong GATS cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới. Trong cột đối xử quốc gia, Việt Nam đã cam kết không hạn chế ở cả ba Phương thức. Mặc dù pháp luật trong nước của Việt Nam không quy định cấm cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới, nhưng đã đặt thêm một số yêu cầu về tiếp cận thị trường cho doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài không phù hợp với Biểu cam kết. Bên cạnh đó, trong quá trình cung cấp dịch vụ, Việt Nam còn quy định: Doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài có đủ các điều kiện sau đây được đăng ký cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới: (a) Được phép cung cấp dịch vụ kiểm toán độc lập theo quy định của pháp luật của nước nơi doanh nghiệp kiểm toán NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 24 Số 19(347) T10/2017 nước ngoài đặt trụ sở chính; (b) Có văn bản của cơ quan quản lý hành nghề kiểm toán (cơ quan quản lý nhà nước về kiểm toán độc lập hoặc tổ chức nghề nghiệp) nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính cho phép cung cấp dịch vụ qua biên giới tại Việt Nam và xác nhận không vi phạm các quy định về hoạt động kiểm toán độc lập và quy định pháp luật khác của nước ngoài trong vòng 3 năm liền kề năm đề nghị cấp giấy chứng nhận được cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới;(d) Có vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán tương đương 500.000 (năm trăm nghìn) đô la Mỹ vào cuối năm tài chính trước năm cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới tại Việt Nam; (đ) Có mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các kiểm toán viên hành nghề tại Việt Nam; (e) Ký quỹ bắt buộc số tiền tương đương vốn pháp định là 5 tỉ đồng tại một ngân hàng thương mại hoạt động hợp pháp tại Việt Nam và có thư bảo lãnh thanh toán của ngân hàng này cam kết thanh toán trong trường hợp trách nhiệm của các hợp đồng kiểm toán cung cấp dịch vụ qua biên giới tại Việt Nam vượt quá mức ký quỹ bắt buộc; Đồng thời, doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài khi cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới tại Việt Nam phải thực hiện liên danh với doanh nghiệp kiểm toán tại Việt Nam có đủ điều kiện cung cấp dịch vụ kiểm toán theo quy định của pháp luật11. Theo đó, để cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới, doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài phải ký hai hợp đồng là: Hợp đồng kiểm toán với khách hàng và Hợp đồng liên danh với doanh nghiệp kiểm toán tại Việt Nam. Tuy nhiên, những yêu cầu này không được đặt ra hoặc ở mức độ thấp hơn đối với doanh nghiệp kiểm toán trong nước. Thứ nhất, Việt Nam đã cam kết đối xử quốc gia đầy đủ đối với dịch vụ kiểm toán theo Phương thức (1) khi ghi chỉ từ “None” vào cột hạn chế tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia. Như vậy, chỉ trừ những trường 11 Điều 11 & 12 Nghị định số 17/2012 NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Kiểm toán độc lập năm 2011. hợp ngoại lệ được quy định trong GATS, Việt Nam có nghĩa vụ đầy đủ với việc đối xử không kém thuận lợi hơn đối với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán của các thành viên khác ở Phương thức (1). Thứ hai, những quy định này ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ của các nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán của các thành viên khác vì nó quyết định được cung cấp hay không. Nếu không đảm bảo đủ những điều kiện này thì nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán của các thành viên khác không thể cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới cho khách hàng là doanh nghiệp ở Việt Nam. Thứ ba, những quy định này đối với dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán của các thành viên khác đãi ngộ kém thuận lợi hơn dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán Việt Nam. Thực tế, trong trường hợp này, xuất xứ là yếu tố quyết định việc áp dụng những yêu cầu trên. Những yêu cầu này không được đặt ra hoặc ở mức độ thấp hơn đối với doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam. Cụ thể, yêu cầu vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán tương đương 500.000 (năm trăm nghìn) đô la Mỹ vào cuối năm tài chính trước năm cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới tại Việt Nam. Tức mức yêu cầu cao gần gấp đôi so với doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam sẽ làm giảm cơ hội các doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài đáp ứng được. Thay vì với mức 5 tỉ đồng thì số lượng doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài đáp ứng yêu cầu sẽ gia tăng. Yêu cầu ký quỹ bắt buộc số tiền tương đương vốn pháp định là 5 tỉ đồng tại một ngân hàng thương mại hoạt động hợp pháp tại Việt Nam và có thư bảo lãnh thanh toán của ngân hàng này cam kết thanh toán trong trường hợp trách nhiệm của các hợp đồng kiểm toán cung cấp dịch vụ qua biên giới tại Việt Nam vượt quá mức ký quỹ bắt buộc cũng tác động đến điều kiện cạnh tranh của nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán nước ngoài. Họ phải “đóng băng” một NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 25Số 19(347) T10/2017 nguồn lực tài chính tương đương 5 tỉ đồng mà không biết đến khi nào thì được rút lại. Yêu cầu, phải ký hợp đồng Hợp đồng liên danh với doanh nghiệp kiểm toán tại Việt Nam trước khi ký hợp đồng cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới tại Việt Nam đã trực tiếp tạo thêm khó khăn dẫn đến việc đối xử kém thuận lợi hơn đối với các doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài. Cụ thể, họ không chỉ ký hợp đồng kiểm toán với khách hàng ở Việt Nam để cung cấp dịch vụ kiểm toán mà họ còn phải tìm một doanh nghiệp kiểm toán tại Việt Nam để đề nghị họ ký hợp đồng liên danh. Nếu không có doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam nào liên danh thì doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài không thể cung cấp dịch vụ kiểm toán qua biên giới. Đương nhiên, quy định này làm họ vừa tốn thêm thời gian, vừa tốn thêm chi phí và giảm cơ hội cung cấp dịch vụ. Vấn đề này cũng đã được Nhóm công tác về dịch vụ chuyên nghiệp của WTO lường đến và trình bày trong Công văn số 6496 như sau: “Các loại biện pháp sau ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ kế toán đã được nêu ra bởi một số thành viên như là những ví dụ về những thương lượng có thể phải thương lượng và lập kế hoạch theo các Điều XVI và XVII:Những hạn chế liên quan đến số lượng kế toán viên nước ngoài có thể làm việc, số giấy phép mới được cấp, hình thức pháp lý và quyền sở hữu của doanh nghiệp kế toán12. Tóm lại, các quy định này đã làm suy giảm các điều kiện cạnh tranh giữa các dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán của các thành viên khác so với dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán Việt Nam. Do vậy, những quy định này hoàn toàn không phù hợp với nghĩa vụ thành viên theo Điều XVII của GATS cũng như nghĩa vụ theo cam kết trong Mục 1A(b) Danh mục cam kết của Việt Nam. 12 WTO,S/L/92 ngày 28/3/2001, Phụ lục số 4 Job 6496 ngày 25/10/1998. 2.2 Vấn đề liên quan đến dịch vụ giáo dục đại học, giáo dục cho người lớn và giáo dục khác (CPC 923, 924, 929) Theo nội dung cam kết về dịch vụ giáo dục đại học, giáo dục cho người lớn và giáo dục khác trong khuôn khổ GATS, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường giáo dục đại học, giáo dục cho người lớn và giáo dục khác ở Phương thức (3). Theo đó, Việt Nam không áp đặt biện pháp phân biệt đối xử giữa nhà cung cấp dịch vụ giáo dục trong nước và nước ngoài, trừ điều kiện về “giáo viên nước ngoài làm việc tại cơ sở đào tạo có vốn đầu tư nước ngoài phải có tối thiểu 5 năm kinh nghiệm giảng dạy và phải được Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam công nhận về chuyên môn”. Có thể nói, Việt Nam dành chế độ đãi ngộ quốc gia đối với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trong những dịch vụ này ở Phương thức (3) là tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, Nghị định 73/2012/NĐ- CP của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục, trong đó có điều chỉnh các cơ sở giáo dục đại học (các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục đại học nước ngoài cũng chịu sự điều chỉnh của Nghị định này) và Nghị định 48/2015/ NĐ-CP của Chính phủ lại có quy định khác. Cụ thể, cơ sở giáo dục đại học hoặc nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải tuân thủ thêm những quy định sau: - Giáo viên, giảng viên là người nước ngoài giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài ít nhất phải có 05 năm kinh nghiệm trong cùng lĩnh vực giảng dạy. - Thời hạn hoạt động của cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không quá 50 năm, tính từ ngày cho phép thành lập. Trong trường hợp cần thiết, Chính phủ quyết định thời hạn dài NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 26 Số 19(347) T10/2017 hơn, nhưng không quá 70 năm13. - Dự án đầu tư thành lập trung tâm giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có suất đầu tư ít nhất là 60 triệu đồng/người học (không bao gồm các chi phí sử dụng đất). Tổng số vốn đầu tư ít nhất được tính toán căn cứ số lượng người học quy đổi toàn phần thời gian tính tại thời điểm có dự kiến quy mô đào tạo cao nhất; - Diện tích đất để xây dựng đạt bình quân ít nhất là 25 m2/người học đối với trường trung cấp, trường cao đẳng và 04 m2/ người học đối với trung tâm giáo dục nghề nghiệp tính tại thời điểm có quy mô đào tạo cao nhất trong kế hoạch phát triển cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; - Tỷ lệ nhà giáo có trình độ sau đại học không ít hơn 15% tổng số nhà giáo của trường trung cấp, trường cao đẳng14. Có thể thấy, những quy định này đã ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ giáo dục đại học và dạy nghề theo hướng kém thuận lợi hơn cho họ, cụ thể: Thứ nhất, quy định người nước ngoài giảng dạy tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài ít nhất phải có 05 năm kinh nghiệm trong cùng lĩnh vực giảng dạy đã mở rộng phạm vi của hạn chế đãi ngộ quốc gia bằng cách thêm bốn chữ “trong cùng lĩnh vực” vào quy định so với Biểu cam kết. Biện pháp này tác động làm cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài khó tuyển dụng nhân sự hơn, do phạm vi được tuyển dụng thu hẹp lại. Cụ thể, những người nước ngoài có kinh nghiệm giảng dạy nhưng ở lĩnh vực khác chuyên môn sẽ không phù hợp quy định này. Trong khi nhân sự giảng dạy trong dịch vụ giáo dục là điều kiện cốt lõi để cung cấp dịch vụ này. Mặt khác, quy định này không áp dụng cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ 13 Điều 23 Nghị định số 48/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2015 và Điều 25 Nghị định số 73/2012/NĐ-CP quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục. 14 Điều 16 Nghị định số 48/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2015. sở giáo dục đại học trong nước. Nên có thể nói, biện pháp này đã làm thay đổi điều kiện cạnh tranh giữa nhà cung cấp dịch vụ giáo dục trong nước và nước ngoài, làm cho nhà cung cấp dịch vụ giáo dục nước ngoài bị đối xử kém thuận lợi hơn so với nhà cung cấp dịch vụ giáo dục đại học/nghề nghiệp trong nước và mức quy định trong Biểu cam kết của Việt Nam. Thứ hai, nhà cung cấp dịch vụ trong nước cũng không bị áp đặt thời gian tồn tại của pháp nhân hiện diện thương mại là 50 năm. Quy định này cũng không có trong cột đối xử quốc gia Mục 5(C), (D), (E) Danh mục cam kết của Việt Nam. Quy định này làm hạn chế thời gian cung ứng dịch vụ của nhà cung ứng dịch vụ giáo dục nước ngoài. Pháp nhân hiện diện thương mại của nhà cung cấp dịch vụ giáo dục nước ngoài chỉ tồn tại đến 50 năm hoặc trường hợp cần thiết được gia hạn thì đến 70 năm, sau đó phải giải thể và muốn tiếp tục hoạt động thì phải đăng ký thiết lập hiện diện thương mại mới. Quy định này ảnh hưởng đến tính ổn định đầu tư, cũng như thời gian thu hồi vốn của doanh nghiệp giáo dục nước ngoài theo hướng tiêu cực. Trong khi các cơ sở giáo dục đại học/ nghề nghiệp Việt Nam yên tâm, ung dung với những kế hoạch phát triển lâu dài, bền vững thì cơ sở giáo dục đại học/ nghề nghiệp nước ngoài phải lo thu gom kế hoạch đào tạo và thu hồi vốn. Tương tự điều kiện về diện tích đất xây dựng, mức vốn đầu tư tối thiểu trên đầu sinh viên cũng như tỉ lệ giảng viên có trình độ sau đại học cũng là những quy định dẫn đến điều kiện cạnh tranh của khu vực trong nước và nước ngoài trong lĩnh vực này không bình đẳng và gây khó khăn hơn cho nhà đầu tư nước ngoài. Như vậy, những quy định này trong lĩnh vực dịch vụ giáo dục cũng không phù hợp với nghĩa vụ của Việt NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 27Số 19(347) T10/2017 Nam theo Điều XVII và Mục 5(C), (D), (E) Danh mục cam kết của Việt Nam. 2.3 Vấn đề liên quan đến dịch vụ du lịch (CPC 7471) Trong các cam kết quốc tế về dịch vụ du lịch, chúng ta cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được thành lập liên doanh với đối tác Việt Nam không hạn chế phần vốn góp để kinh doanh dịch vụ đưa khách du lịch vào Việt Nam và lữ hành nội địa đối với khách du lịch vào Việt Nam như là một phần của dịch vụ đưa khách vào du lịch Việt Nam. Ở Phương thức (1) và (2) Việt Nam không có bất kỳ hạn chế nào ở cả cột hạn chế tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải sử dụng hướng dẫn viên là công dân Việt Nam khi cung cấp dịch vụ lữ hành ở Phương thức (3)15. Thứ nhất, kinh doanh lữ hành là dịch vụ mà Việt Nam có cam kết. Tuy nhiên, mức độ cam kết đối xử quốc gia là một phần với Phương thức (3) và toàn bộ với Phương thức (1) và (2). Theo đó, những doanh nghiệp kinh doanh lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài phải sử dụng hướng dẫn viên là công dân Việt Nam mà không được sử dụng hướng dẫn viên là người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch. Thứ hai, tuy nhiên trong Luật Du lịch năm 2017, hướng dẫn viên du lịch quốc tế phải là người có quốc tịch Việt Nam và thường trú tại Việt Nam. Do vậy, doanh nghiệp kinh doanh lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có thể sử dụng hướng dẫn viên là công dân Việt Nam, thường trú tại Việt Nam16. Tức biện pháp này đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh lữ hành của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng cách thu hẹp phạm vi tuyển dụng hướng dẫn viên du lịch của doanh nghiệp kinh doanh du lịch có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, những hướng dẫn viên du lịch là công dân 15 WTO, WT/ACC/VNM/48/Add.2 - Biểu cam kết về dịch vụ của Việt Nam, ngày 27/10/2006, Mục 9 (B), tr. 52. 16 Điều 59 Luât Du lịch năm 2017 . Việt Nam mà không có địa chỉ thường trú ở Việt Nam thì không được tuyển. Trong khi hướng dẫn viên giữ vai trò cốt lõi, quyết định chất lượng dịch vụ lữ hành. Rõ ràng “có địa chỉ thường trú ở Việt Nam” là một yếu tố nhỏ nhưng có ảnh hưởng lớn đến việc kinh doanh dịch vụ lữ hành và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nước ngoài. Thứ ba, quy định này đã làm thay đổi điều kiện cạnh tranh giữa doanh nghiệp kinh doanh lữ hành trong nước và doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nước ngoài ở Phương thức (3). Việt Nam hiện chưa có quy định chi tiết về kinh doanh dịch vụ lữ hành qua biên giới. Việc này sẽ tạo thành một điều kiện cạnh tranh kém thuận lợi hơn, gây khó khăn hơn cho doanh nghiệp du lịch có vốn đầu tư nước ngoài muốn cung cấp dịch vụ du lịch vào Việt Nam theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Như vậy, quy định này cũng không phù hợp với nghĩa vụ của Việt Nam theo Điều XVI của GATS và nội dung cam kết được quy định Mục 9 (B) Danh mục cam kết của Việt Nam. 3. Kết luận Khi gia nhập WTO, một trong những nghĩa vụ của Việt Nam là phải tuân thủ nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. Do vậy, việc rà soát những quy định, thủ tục trong lĩnh vực dịch vụ để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này là cần thiết. Việc rà soát cho thấy, Việt Nam đã thiện chí và tận tâm thực thi nghĩa vụ quốc tế của mình. Để có thể thu hút được nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng, Việt Nam cần đảm bảo được điều kiện thuận lợi, minh bạch và uy tín của mình trong mắt nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc nghiêm chỉnh thực thi nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. Mặt khác, kết quả rà soát sẽ giúp chúng ta ngăn ngừa được nguy cơ bị tham dự vào các tranh chấp quốc tế NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 28 Số 19(347) T10/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuc_thi_nguyen_tac_dai_ngo_quoc_gia_trong_thuong_mai_dich_v.pdf
Tài liệu liên quan