Yếu tố gia đình là một vấn đề lớn đối với bệnh
nhân này. Mẹ của bệnh nhân mang đột biến gen,
khả năng di truyền gen bệnh cho con là 50%.
Điều này có thể giải thích trẻ sinh lần thứ nhất và
thứ 2 của mẹ bệnh nhân có thể mắc bệnh giống
bệnh nhân là hạ glucose máu nặng ngay sau sinh
và không được phát hiện và điều trị kịp thời nên
các trẻ đó đã tử vong mặc dù 2 trẻ đầu của bà mẹ
này là sinh thiếu tháng và thấp cân.
Thương tổn não nặng là một di chứng của
tình trạng hạ glucose máu nặng và kéo dài, ở giai
đoạn sơ sinh có thể biểu hiện hôn mê và/hoặc
trạng thái co giật [3]. Nhóm bệnh nhân điều trị
nội khoa có tỷ lệ động kinh 11% so với 21% trong
nhóm phẫu thuật, nhưng khác nhau không có ý
nghĩa thống kê. Trong nhóm những bệnh nhân
chậm phát triển tinh thần vận động vừa và nặng
có tỷ lệ động kinh 12% so với 6% ở nhóm phát
triển tình thần bình thường. Tỷ lệ não bé chiếm
9% trong nhóm những bệnh nhân chậm phát
triển tinh thần vận động vừa và nặng so với 8%
nhóm phát triển tình thần bình thường [11]. Ở
bệnh nhân này phát triển thể chất bình thường
theo lứa tuổi (hình 2), nhưng có biểu hiện di chứng
về thần kinh là chậm phát triển tinh thần vì DQ 55
- 60% (cá nhân, xã hội như trẻ 32 - 34 tháng, vận
động tinh thô bình thường, ngôn ngữ nói bằng
trẻ 20 - 22 tháng, hiểu bằng trẻ 24- 26 tháng. Điều
này có thể do bệnh nhân có hạ glucose máu nặng
và thời gian hạ kéo dài vì từ khi xuất hiện triệu
chứng (1 ngày tuổi) đến khi bệnh nhân nhập viện
được điều trị là 1 ngày (nhập viên khi trẻ 2 ngày
tuổi) do vậy tổn thương não do thiếu glucose là
có xảy ra, tuy nhiên mức độ di chứng tinh thần,
xuất hiện động kinh cần được theo dõi thêm cho
tới khi trẻ lớn.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cường Insulin bẩm sinh do đột biến gen hnf4a Báo cáo ca bệnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
65
PHẦN NGHIÊN CỨU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cường insulin bẩm sinh là một bệnh với biểu
hiện hạ glucose máu nặng kéo dài ở trẻ sơ sinh
và trẻ nhỏ do rối loạn điều hòa bài tiết insulin.
Chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời, không trì
hoãn là vô cùng quan trọng nhằm hạn chế tổn
thương não và di chứng vĩnh viễn thần kinh cho
trẻ. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra đột biến
của một trong 9 gen là nguyên nhân gây ra cường
insulin bẩm sinh, bao gồm các gen mã hóa cho
kênh KATP (ABCC8 và KCNJ11); các gen mã hóa
cho các enzym và protein vận chuyển (GLUD1,
GCK, HADH, SLC16A1, UCP2) và yếu tố điều hòa
HNF4A, HNF1A [1]. Khoảng 50% các bệnh nhân
cường insulin bẩm sinh có đột biến một trong
các gen trên. Tuy nhiên, khoảng 50 % các trường
hợp cường insulin bẩm sinh chưa tìm thấy đột
biến gen hoặc hiện nay chưa biết [2]. Đột biến
gen hay gặp nhất gây ra cường insulin bẩm
sinh là đột biến bất hoạt lặn của gen ABCC8 và
gen KCNJ11, tỷ lệ mắc bệnh do đột biến các gen
này khác nhau ở các nước đã công bố: Anh 25%,
CƯỜNG INSULIN BẨM SINH DO ĐỘT BIẾN GEN HNF4A
BÁO CÁO CA BỆNH
Đặng Ánh Dương, Vũ Chí Dũng,
Cấn Thị Bích Ngọc, Nguyễn Phú Đạt
Bệnh viện Nhi Trung ương
TÓM TẮT
Cường insulin bẩm sinh là nguyên nhân hay gặp nhất gây hạ glucose máu dai dẳng ở trẻ sơ
sinh và trẻ nhỏ. Đột biến gen HNF4A là nguyên nhân hiếm gặp gây cường insulin bẩm sinh. Mục
tiêu: Để mô tả một trường hợp cường insulin bẩm sinh do đột biến gen HNF4A. Kết quả: Trẻ
trai có cân nặng khi sinh lớn so với tuổi thai (cân nặng khi sinh 4.7 kg, tuổi thai 40 tuần). Sau khi
sinh 24 giờ, trẻ xuất hiện li bì, bú kém, tím tái. Nồng độ glucose máu rất thấp 0.5 mmol/l và ở thời
điểm hạ glucose máu đo được nồng độ insulin máu 57.9 pmol/l và C-peptide 0.38 nmol/l. Phân
tích phân tử tìm thấy đột biến mới, sai nghĩa dị hợp tử gen HNF4A ở vị trí exon 6 được di truyền từ
mẹ. Điều trị với truyền glucose tốc độ cao 9.57 mg/kg/ phút để duy trì glucose máu bình thường.
Diazoxide với liều 10 mg/kg/ngày chia 3 lần và bệnh nhân đáp ứng rất tốt với thuốc và ngừng
hẳn diazoxide sau 2 tuần điều trị. Theo dõi sau 3 năm, trẻ có nồng độ glucose máu bình thường,
phát triển thể chất bình thường, chậm phát triển nhẹ về tinh thần. Kết luận: Trẻ mắc bệnh cường
insulin bẩm sinh do đột biến gen HNF4A thường có cân nặng lớn khi sinh (> 4kg) và có thể có
hạ glucose máu nặng ngay sau sinh, cần được điều trị ngay lập tức. Cường insulin bẩm sinh do
đột biến gen HNF4A thường đáp ứng rất tốt với điều trị nội khoa bằng diazoxide và không phải
phẫu thuật cắt tụy.
Từ khóa: Cường insulin bẩm sinh, HNF4A.
TẠP CHÍ NHI KHOA 2016, 9, 1
66
Nauy 33%, Đức 37%, Trung Quốc 58%, Nhật
84,2% [3]. Đột biến gen gây cường insulin bẩm
sinh hay gặp đứng hàng thứ hai là đột biến hoạt
hóa của gen glutamate dehydrogenase (GLUD1)
được tìm thấy trên những bệnh nhân có hội
chứng cường insulin kèm tăng ammoniac máu
[4]. Khoảng 1.2% đến 2% các trường hợp cường
insulin bẩm sinh gây ra do đột biến hoạt hóa
của gen GCK chúng mã hóa cho glucokinase [5].
Ngược lại, đột biến bất hoạt của gen HNF4A hiếm
gặp gây ra cường insulin bẩm sinh [4]. Ở Việt Nam,
chúng tôi nghiên cứu tiến cứu 68 trường hợp mắc
bệnh cường insulin bẩm sinh, trong đó phân tích
phân tử tìm đột biến gen được 56 trường hợp
trong giai đoạn 01/2007- 05/2015, chúng tôi phát
hiện thấy 36/56 (64.29%) có đột biến gen, trong
đó đột biến gen ABCC8 32/56 (57.14%), đột biến
gen KCNJ11 3/56 (5.36%) và đột biến gen HNF4A
1/56 (1.78%).
Cường insulin bẩm sinh do đột biến gen
HNF4A là dạng đột biến hiếm gặp cho nên chúng
tôi báo cáo ca bệnh này để mô tả đặc điểm lâm
sàng, xét nghiệm và kết quả điều trị bệnh và theo
dõi lâu dài của bệnh nhân này.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân cường insulin bẩm sinh đột biến
gen HNF4A được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh
viện Nhi Trung ương.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thông báo một trường hợp bệnh
3. THÔNG TIN BỆNH NHÂN
Bệnh nhân nam 2 ngày tuổi, vào viện vì hạ
glucose máu nặng sau sinh.
3.1. Tiền sử
Trẻ là con thứ 3, tuổi thai 40 tuần, mổ đẻ vì
thai to. Cân nặng khi sinh 4700 gram. Ngay sau
đẻ trẻ hoàn toàn bình thường, không bị ngạt, bú
tốt. Sau sinh 24 giờ trẻ xuất hiện li bì, bú kém,
tím môi, không co giật và chuyển Bệnh viện Nhi
Trung ương.
Tiền sử sản khoa của mẹ và gia đình:
Trong thời kỳ mang thai mẹ sức khỏe của mẹ
tốt, mẹ không bị bệnh đái đường, không dùng
thuốc gì.
Mẹ mang thai 3 lần. Mang thai lần thứ nhất,
sinh thiếu tháng, thai 35 tuần tuổi, trẻ trai, cân
nặng 2.8 kg sau đẻ 2 ngày trẻ tử vong không rõ
nguyên nhân, với biểu hiện tím tái. Mang thai
lần thứ 2, sinh non khoảng 28 tuần thai, trẻ trai,
cân nặng 800 gram, sau sinh vài giờ trẻ tử vong
không rõ nguyên nhân, có biểu hiện tím tái. Bố
mẹ không có kết hôn cùng huyết thống. Gia
đình bên nội, ngoại không ai mắc bệnh giống
bệnh nhân.
3.2. Lâm sàng
Tình trạng khi vào viện trẻ có biểu hiện li bì,
bú kém, tím tái, có nhiều lông tai (hình 1), không
co giật, không giảm trương lực cơ, không hạ thân
nhiệt, không khó thở, ngừng thở. Bệnh nhân có
bộ mặt cường insulin (Trán cao, mũi to và phồng
với sống mũi ngắn, nhân trung phẳng và môi trên
mỏng, mặt hình vuông). (Hình 1)
67
PHẦN NGHIÊN CỨU
Hình 1. Bộ mặt cường insulin của bệnh nhân và nhiều lông tai
3.3. Cận lâm sàng
Xét nghiệm nồng độ glucose máu khi nhập
viện rất thấp 0.,5 mmol/l. Xét nghiệm nồng độ
insulin huyết thanh cùng thời điểm hạ glucose
máu là 57,9 pmmol/l và C- peptid là 0,38 nmol/l,
ceton máu và ceton niệu âm tính, acid béo trong
máu thấp.
Kết quả phân tích gen từ DNA bạch cầu
máu ngoại biên của bệnh nhân và cả bố và mẹ
cho thấy, bệnh nhân có đột biến mới, sai nghĩa
(missense) dị hợp tử gen HNF4A ở vị trí exon 6,
c.659T>C, protein p.Leu220pro (p.L220P) được di
truyền từ mẹ mang gen, bố bệnh nhân hoàn toàn
bình thường.
3.4. Chẩn đoán
Trẻ được chẩn đoán cường insulin bẩm sinh
theo tiêu chuẩn của Hussain, K 2008 [6].
3.5. Điều trị và theo dõi sau khi ra viện
Bệnh nhân được điều trị ngay bằng bổ sung
glucose tĩnh mạch chậm dung dịch glucose 10%
với liều 2 ml/kg, sau đó duy trì truyền glucose
liên tục với tốc độ truyền glucose liên tục là 9.57
mg/kg/phút để duy trì nồng độ glucose máu
>3mmol/l. Tăng cường chế độ ăn.
Điều trị bằng thuốc diazoxide liều 10 mg/kg/
ngày chia 3 lần/ngày. Bệnh nhân đáp ứng rất tốt
với thuốc và ngừng hẳn sau 2 tuần điều trị với
nồng độ glucose máu bình thường, không phải
truyền glucose tĩnh mạch. Bênh nhân được ra
viện không phải dùng thuốc tiếp tục và được theo
dõi glucose máu thường xuyên. Theo dõi liên tục
sau ra viện 3 năm, trẻ có nồng độ glucose máu
bình thường, phát triển thể chất bình thường
(trẻ 3 tuổi, cân nặng 15 kg, chiều cao 97 cm, vòng
đầu 47 cm), chậm phát triển nhẹ về tinh thần
với DQ 55 - 60% (cá nhân, xã hội như trẻ 32 - 34
tháng, vận động tinh thô bình thường, ngôn ngữ
nói bằng trẻ 20 - 22 tháng, hiểu bằng trẻ 24- 26
tháng. Chụp cộng hưởng từ sọ não không thấy
bất thường. Trẻ không có biểu hiện động kinh
trên lâm sàng và điện não đồ.
4. BÀN LUẬN
Cường insulin bẩm sinh là bệnh hiếm gặp,
tỷ lệ mới mắc của cường insulin bẩm sinh trong
quần thể nói chung là 1/40 000 - 50 000 trẻ
TẠP CHÍ NHI KHOA 2016, 9, 1
68
sinh ra sống. Tỷ lệ này có thể cao hơn nhiều
lên tới 1/2500 ở những quần thể có kết hôn
cùng huyết thống [3]. Ở Việt Nam chưa có con
số thống kê về tỷ lệ mắc bệnh của bệnh này.
Cho tới nay các nhà khoa học đã khẳng định
đột biến của một trong 9 gen là nguyên nhân
của cường insulin bẩm sinh bao gồm (ABCC8,
KCNJ11, GLUD1, GCK, HADH, SLC16A1, UCP2,
HNF4A, HNF1A), trong đó đột biến gen HNF4A
là hiếm gặp [1],[4].
Gen HNF4A nằm trên cánh dài nhiễm sắc thể
20, vùng 13.1 - 13.2 (20q13.1-13.2). Gen chứa ít
nhất 12 exon và dài 30 kb. Gen HNF4A mã hóa
cho yếu tố sao chép HNF4α. Trong tế bào β tụy,
HNF4α đóng vai trò là yếu tố sao chép hoạt
động rộng rãi nhất và điều hòa nhiều gen quan
trọng liên quan đến glucose kích thích bài tiết
insulin [7].
Nghiên cứu gần đây cho thấy, đột biến di
hợp tử gen HNF4A gây ra cường insulin bẩm
sinh. Biểu hiện lâm sàng của những bệnh nhân
này được đặc trung bởi cân nặng to khi sinh và
hạ glucose máu trong tuần đầu sau sinh. Mức
độ nặng của những bệnh nhân này khác nhau
có thể từ nhẹ, hạ glucose máu được kiểm soát
bằng chế độ ăn đến hạ glucose máu do cường
insulin dai dẳng cần phải điều trị diazoxide
[8]. Bệnh nhân chúng tôi bệnh nhân có cân
nặng khi sinh rất lớn so với tuổi thai (4,7 kg),
hạ glucose máu ngay sau khi sinh 1 ngày, với
mức độ hạ glucose máu rất nặng 0,5 mmol/l và
cần phải điều trị tích cực bằng truyền glucose
ưu trương tốc độ cao 9,57 mg/kg/phút và kết
hợp điều trị uống diazoxide. Trong nghiên cứu
của Flanagan, 11 bệnh nhân có đột biến gen
HNF4A, hạ glucose máu do cường insulin xuất
hiện từ 3 tháng đến 8 tuổi, trong đó 7 bệnh nhân
có hạ glucose máu dai dẳng và cần phải điều
trị diazoxide cho tới 1 tuổi, một bệnh nhân đái
tháo đường lúc 12 tuổi [9]. Bệnh nhân chúng
tôi có hạ glucose máu nặng nhưng thoáng qua,
bệnh nhân đáp ứng rất tốt với diazoxide, thuốc
chỉ phải dùng trong thời gian ngắn, ngừng hẳn
sau 2 tuần và theo dõi tiếp tục không có lần
nào hạ glucose máu.
Đột biến dị hợp tử của gen HNF4A cũng
được biết là nguyên nhân gây ra đái tháo
đường khởi phát tuổi vị thành niên (maturity
onset diabetes of the young - MODY) [10]. Với
bệnh nhân của chúng tôi biểu hiện tăng đường
máu chưa xảy ra do trẻ chưa đến tuổi vị thành
niên. Do đó bệnh nhân cần được theo dõi
glucose máu thường xuyên vừa để phát hiện
hạ glucose máu tái phát và phát hiện điều trị
sớm đái đường nếu có.
Yếu tố gia đình là một vấn đề lớn đối với bệnh
nhân này. Mẹ của bệnh nhân mang đột biến gen,
khả năng di truyền gen bệnh cho con là 50%.
Điều này có thể giải thích trẻ sinh lần thứ nhất và
thứ 2 của mẹ bệnh nhân có thể mắc bệnh giống
bệnh nhân là hạ glucose máu nặng ngay sau sinh
và không được phát hiện và điều trị kịp thời nên
các trẻ đó đã tử vong mặc dù 2 trẻ đầu của bà mẹ
này là sinh thiếu tháng và thấp cân.
Thương tổn não nặng là một di chứng của
tình trạng hạ glucose máu nặng và kéo dài, ở giai
đoạn sơ sinh có thể biểu hiện hôn mê và/hoặc
trạng thái co giật [3]. Nhóm bệnh nhân điều trị
nội khoa có tỷ lệ động kinh 11% so với 21% trong
nhóm phẫu thuật, nhưng khác nhau không có ý
nghĩa thống kê. Trong nhóm những bệnh nhân
chậm phát triển tinh thần vận động vừa và nặng
có tỷ lệ động kinh 12% so với 6% ở nhóm phát
triển tình thần bình thường. Tỷ lệ não bé chiếm
69
PHẦN NGHIÊN CỨU
9% trong nhóm những bệnh nhân chậm phát
triển tinh thần vận động vừa và nặng so với 8%
nhóm phát triển tình thần bình thường [11]. Ở
bệnh nhân này phát triển thể chất bình thường
theo lứa tuổi (hình 2), nhưng có biểu hiện di chứng
về thần kinh là chậm phát triển tinh thần vì DQ 55
- 60% (cá nhân, xã hội như trẻ 32 - 34 tháng, vận
động tinh thô bình thường, ngôn ngữ nói bằng
trẻ 20 - 22 tháng, hiểu bằng trẻ 24- 26 tháng. Điều
này có thể do bệnh nhân có hạ glucose máu nặng
và thời gian hạ kéo dài vì từ khi xuất hiện triệu
chứng (1 ngày tuổi) đến khi bệnh nhân nhập viện
được điều trị là 1 ngày (nhập viên khi trẻ 2 ngày
tuổi) do vậy tổn thương não do thiếu glucose là
có xảy ra, tuy nhiên mức độ di chứng tinh thần,
xuất hiện động kinh cần được theo dõi thêm cho
tới khi trẻ lớn.
Hình 2. hình ảnh khi trẻ khám lại lúc 3 tuổi
5. KẾT LUẬN
Cường insulin bẩm sinh do đột biến gen
HNF4A là bệnh hiếm gặp. Bệnh nhân bị bệnh do
đột biến gen này thường có biểu hiện lâm sàng
là cân nặng lớn khi sinh, mức độ hạ glucose máu
thay đổi có thể từ rất nặng, thoáng qua cho tới
hạ glucose máu dai dẳng kéo dài. Bệnh thường
đáp ứng tốt với điều trị nội khoa và không cần
can thiệp phẫu thuật cắt tụy. Bệnh nhân cần được
theo dõi glucose máu chặt chẽ vì có thể xuất hiện
đái đường ở tuổi vị thành niên.
Lời cảm ơn:
Để hoàn thành bài báo này, tôi xin chân thành
cảm ơn thầy hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Phú Đạt,
bác sĩ Vũ Chí Dũng cùng toàn thể các anh chị
khoa Nội tiết Chuyển hóa - Di truyền Bệnh viện
Nhi Trung ương đã sự giúp đỡ, góp ý và tạo điều
kiện cho tôi tiến hành nghiên cứu. Tôi xin cam
đoan các số liệu trong bài báo là trung thực và
chưa được đăng trên bất kỳ tạp chí nào.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Yorifuji T. (2014). Congenital
hyperinsulinism: current status and future
perspectives. Ann Pediatr Endocrinol Metab,
19(2), 57-68.
2. Sang Y., Xu Z., Liu M., et al. (2014).
Mutational analysis of ABCC8, KCNJ11, GLUD1,
HNF4A and GCK genes in 30 Chinese patients
with congenital hyperinsulinism. Endocr J, 61(9),
901-10.
3. Arnoux J.B., Verkarre V., Saint-Martin C.,
et al. (2011). Congenital hyperinsulinism: current
trends in diagnosis and therapy. Orphanet J Rare
Dis, 6(63.
TẠP CHÍ NHI KHOA 2016, 9, 1
70
4. Marquard J., Palladino A.A., Stanley
C.A., et al. (2011). Rare forms of congenital
hyperinsulinism. Semin Pediatr Surg, 20(1), 38-
44.
5. Christesen H.B., Tribble N.D., Molven
A., et al. (2008). Activating glucokinase (GCK)
mutations as a cause of medically responsive
congenital hyperinsulinism: prevalence in
children and characterisation of a novel GCK
mutation. Eur J Endocrinol, 159(1), 27-34.
6. Hussain K. (2008). Diagnosis and
management of hyperinsulinaemic
hypoglycaemia of infancy. Horm Res, 69(1), 2-13.
7. Gupta R.K., Vatamaniuk M.Z., Lee C.S., et al.
(2005). The MODY1 gene HNF-4alpha regulates
selected genes involved in insulin secretion. J
Clin Invest, 115(4), 1006-15.
8. Pearson E.R., Boj S.F., Steele A.M., et al.
(2007). Macrosomia and hyperinsulinaemic
hypoglycaemia in patients with heterozygous
mutations in the HNF4A gene. PLoS Med, 4(4),
e118.
9. Flanagan S.E., Kapoor R.R., Mali G., et al.
(2010). Diazoxide-responsive hyperinsulinemic
hypoglycemia caused by HNF4A gene mutations.
Eur J Endocrinol, 162(5), 987-92.
10. Yamagata K., Furuta H., Oda N., et al.
(1996). Mutations in the hepatocyte nuclear
factor-4alpha gene in maturity-onset diabetes of
the young (MODY1). Nature, 384(6608), 458-60.
11. Menni F., de Lonlay P., Sevin C., et al.
(2001). Neurologic outcomes of 90 neonates
and infants with persistent hyperinsulinemic
hypoglycemia. Pediatrics, 107(3), 476-9.
ABSTRACT
CONGENITAL HYPERINSULINISM DUE TO MUTATION OF HNF4A: A CASE REPORT
Congenital hyperinsulinism is the commonest cause of persistent hypoglycemia in the neonatal
and infancy periods. HNF4A mutation is a rare cause of congenital hyperinsulinism. Objectives: To
describe a child with congenital hyperinsulinism due to mutations of HNF4A gene. Results: A boy
born large for gestational age (birth weight 4700 g with 40 gestation weeks) presented 24 h after birth
with lethargy, poor feeding, and cyanosis. Serum glucose 0.5 mmol/l, at the time of hypoglycemia
showed inadequate suppression insulinaemia (57.9 pmol/l) and C-peptide (0.38 nmol/l). Molecular
analysis showed he is heterozygous for a novel HNF4A missense mutation on location Exon 6 from
his mother. Continuous IV glucose infusion (9.57 mg/kg/min) to maintain normal serum glucose.
Diazoxide (10 mg/kg/day t.i.d) and had good response and stopped diazoxide after 2 weeks. Follow up
after 3 years; he has normal glucose level, normal growth and mild development delay. Conclusions:
Babies who has congenital hyperinssulinism due to mutation of HNF4A gene often have a high birth
weight (over 4 kg) and may have low blood glucose early in life, needing treatment immediately after
birth. Congenital hyperinssulinism due to mutation of HNF4A gene is cured by diazoxide therapy. The
patient doesn’t need pancreatectomy.
Key word: Hyperinsulinism, HNF4A.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cuong_insulin_bam_sinh_do_dot_bien_gen_hnf4a_bao_cao_ca_benh.pdf