Kết quả nghiên cứu này cho thấy, không có mối liên
quan giữa SNP rs1799794 của gen XRCC3 với nguy cơ mắc
ung thư vú. Phân tích theo nhóm tuổi cho thấy, nhóm ≤45
tuổi có mối liên quan giữa các kiểu gen của SNP rs1799794
với nguy cơ mắc thư vú (p=0,043). Phân tích theo các mô
hình di truyền cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa các cặp kiểu gen của nhóm bệnh và nhóm chứng:
theo mô hình dị hợp, tỷ lệ mắc ung thư vú của nhóm kiểu
gen GG thấp hơn 2,793 lần so với nhóm kiểu gen AG với
p=0,013; theo mô hình di truyền lặn, tỷ lệ mắc ung thư vú
ở nhóm kiểu gen GG thấp hơn 2,388 lần so với nhóm kiểu
gen AA+AG với p=0,024; theo mô hình siêu trội, tỷ lệ mắc
ung thư vú ở nhóm kiểu gen AG cao hơn 1,839 lần so với
nhóm kiểu gen AA+GG với p=0,042. Như vậy, kiểu gen
GG có tác dụng làm giảm nguy cơ ung thư vú, kiểu gen AG
làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú trước độ tuổi mãn kinh
(≤45 tuổi). Các nghiên cứu trên thế giới về SNP rs1799794
cho kết quả không thống nhất giữa các loại ung thư khác
nhau, và nghiên cứu trên cùng một loại ung thư cũng cho
kết quả mâu thuẫn giữa các quần thể nghiên cứu khác nhau.
Nghiên cứu về rs1799794 trên bệnh nhân ung thư vú trong
quần thể người Đài Loan của Su và cs (2015) [10] cho kết
quả rs1799794 không liên quan đến nguy cơ mắc ung thư
vú với p=0,5195. Một nghiên cứu phân tích gộp của X.-F.
He (2012) [8] trên quần thể đa chủng tộc cũng cho kết quả
không có mối liên quan giữa rs1799794 với nguy cơ mắc
ung thư vú. Một số nghiên nghiên cứu cho thấy có mối liên
quan giữa rs1799794 với nguy cơ mắc ung thư vú: nghiên
cứu của Ali và cs (2016) [6] cho kết quả SNP rs1799794 làm
giảm nguy cơ ung thư vú, nhưng nghiên cứu của Al Zoubi và
cs (2017) [7] cho kết quả rs1799794 làm tăng nguy cơ mắc
ung thư vú. Đối với các loại ung thư khác, kết quả của các
nghiên cứu về SNP rs1799794 vẫn tồn tại nhiều mâu thuẫn.
Một nghiên cứu phân tích gộp được tiến hành trên quần thể
người da trắng [11] cho kết quả rs1799794 có mối liên quan
với nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Các nghiên cứu về
ung thư phổi, ung thư phổi không tế bào nhỏ trong quần thể
người Trung Quốc [12, 13] cho thấy rs1799794 lại có tác
dụng làm giảm nguy cơ ung thư. Ngược lại, một nghiên cứu
về ung thư tuyến giáp [14] trên quần thể người Pakistan cho
thấy rs1799794 làm tăng nguy cơ ung thư. Một số nghiên
cứu về ảnh hưởng của rs1799794 với các phương pháp điều
trị ung thư cũng cho kết quả khác nhau. Nghiên cứu tiến
hành trên quần thể người Đức [15] cho thấy rs1799794 làm
tăng hiệu quả điều trị hóa trị cho bệnh nhân ung thư thực
quản - dạ dày. Bên cạnh đó, một nghiên cứu khác trên quần
thể người Tây Ban Nha [16] cho thấy rs1799794 làm tăng
nhiễm độc đường tiêu hóa sau xạ trị. Sự khác biệt trong kết
quả nghiên cứu về rs1799794 trên các bệnh nhân ung thư có
thể do trong những quần thể nghiên cứu khác nhau, sự phân
bố của SNP có sự khác biệt, đồng thời cũng có sự khác biệt
về mức độ và tính chất ảnh hưởng của tỷ lệ kiểu alen, kiểu
gen của SNP đến sự phát triển bệnh. Ngoài ra, ung thư vú là
một bệnh lý phức tạp với nhiều yếu tố nguy cơ, do đó SNP
nói chung và SNP rs1799794 nói riêng chỉ đóng góp một
phần tác động đến sự biểu hiện bệnh. Do vậy, nếu không xét
trên tổng thể các yếu tố liên quan mang tính cá thể của từng
bệnh nhân thì có thể dẫn đến những đánh giá kém chính xác
về vai trò của SNP với bệnh lý ung thư.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 15 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đa hình đơn nucleotide RS1799794 của gen XRCC3 trên bệnh nhân ung thư vú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5Khoa học Y - Dược
63(2) 2.2021
Đặt vấn đề
Ung thư vú là bệnh lý ung thư phổ biến hàng đầu ở phụ
nữ, đứng thứ hai trên thế giới sau ung thư phổi. Năm 2018,
thế giới ghi nhận 2,09 triệu trường hợp mắc ung thư vú, chiếm
11,6% tổng số ca mắc ung thư mới. Căn bệnh này đứng thứ
hai trong những nguyên nhân gây tử vong do ung thư ở phụ
nữ [1].
Có nhiều cơ chế gây ung thư nói chung và ung thư vú
nói riêng, trong đó hiện tượng đứt gãy cả 2 mạch của phân
tử DNA do tác nhân gây ung thư là loại tổn thương nguy
hiểm nhất, có vai trò trong hình thành và tiến triển của khối
u, đồng thời gây mất ổn định bộ gen của tế bào [2, 3]. Để
chống lại cơ chế này, cơ thể sản xuất ra họ protein RAD51
có vai trò bảo vệ và sửa chữa lại phân tử DNA, đảm bảo
sự ổn định của phân tử [4]. XRCC3 là một trong những
protein trong họ protein RAD51. Nhiều nghiên cứu đã
chứng minh các đa hình đơn nucleotide (Single nucleotide
polymorphism-SNP) của gen XRCC3 có thể làm thay đổi
thành phần của protein được mã hóa, ảnh hưởng tới chức
năng sửa chữa DNA và do đó ảnh hưởng đến sự xuất hiện
của ung thư nói chung và ung thư vú nói riêng. Mối liên
quan giữa SNP với nguy cơ sinh ung thư ở các cá thể khác
nhau là khác nhau. SNP rs1799794 của gen XRCC3 đã được
một số nghiên cứu trên thế giới phân tích về vai trò với bệnh
lý ung thư vú [5-8]. Tuy nhiên, những kết quả thu được chưa
thống nhất: một số nghiên cứu cho thấy sự liên quan giữa
SNP rs1799794 với bệnh lý ung thư vú có ý nghĩa thống kê
[5-7], một số nghiên cứu khác cho rằng không có mối liên
quan giữa SNP rs1799794 với nguy cơ mắc bệnh [8].
Tại Việt Nam, chưa có những nghiên cứu về đa hình đơn
nucleotide của gen XRCC3 trên bệnh nhân ung thư vú. Do
đó, nghiên cứu này được thực hiện với hai mục tiêu: 1) Xác
định sự phân bố đa hình đơn nucleotide rs1799794 của gen
XRCC3 trên bệnh nhân ung thư vú và nhóm đối chứng tại
Việt Nam; 2) Đánh giá mối liên quan giữa đa hình này với
nguy cơ mắc bệnh ung thư vú.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng
Nhóm bệnh: 208 bệnh nhân ung thư vú được điều trị tại
Bệnh viện K. Các bệnh nhân được chẩn đoán xác định ung
thư vú bằng lâm sàng, cận lâm sàng và mô bệnh học. Loại
trừ những bệnh nhân mắc ung thư khác phối hợp, bệnh nhân
không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Nhóm chứng: 208 phụ nữ là những người khỏe mạnh
thông qua các đợt khám sức khỏe định kỳ tại Bệnh viện Phụ
sản Trung ương, tiền sử không mắc ung thư các loại, độ tuổi
tương ứng với nhóm bệnh. Loại trừ những đối tượng từ chối
tham gia nghiên cứu.
Đa hình đơn nucleotide rs1799794
của gen XRCC3 trên bệnh nhân ung thư vú
Nguyễn Thị Thu Thảo1, Nguyễn Thu Thúy1, Vương Vũ Việt Hà2,
Trần Huy Thịnh1, Nguyễn Viết Tiến1, Trần Vân Khánh1*
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện Bưu điện
Ngày nhận bài 1/12/2020; ngày chuyển phản biện 7/12/2020; ngày nhận phản biện 22/1/2021; ngày chấp nhận đăng 25/1/2021
Tóm tắt:
Một số đa hình đơn nucleotide của gen XRCC3, trong đó có rs1799794, ảnh hưởng đến quá trình sửa chữa DNA
và do đó ảnh hưởng đến nguy cơ mắc ung thư ở người. Nghiên cứu này có mục tiêu xác định sự phân bố của SNP
rs1799794, đồng thời đánh giá mối liên quan giữa SNP này với nguy cơ mắc ung thư vú. Nghiên cứu được tiến hành
trên 208 bệnh nhân ung thư vú và 208 phụ nữ khỏe mạnh có độ tuổi tương ứng. Kỹ thuật enzyme cắt giới hạn (PCR-
RFLP) được áp dụng để xác định đa hình gen. Kết quả cho thấy: tỷ lệ alen A và G ở nhóm bệnh là 0,575 và 0,425,
ở nhóm chứng là 0,548 và 0,452. Tỷ lệ kiểu gen AA, AG, GG ở nhóm bệnh là 34,6, 45,7 và 19,7%; ở nhóm chứng là
33,2, 43,3 và 23,5%. Kiểu gen AG có liên quan tới sự khởi phát sớm của ung thư vú, làm tăng nguy cơ mắc ung thư
vú ở nhóm ≤45 tuổi. Kiểu gen GG có tác dụng bảo vệ, làm giảm nguy cơ mắc ung thư vú ở nhóm ≤45 tuổi.
Từ khóa: gen XRCC3, SNP rs1799794, ung thư vú.
Chỉ số phân loại: 3.1
*Tác giả liên hệ: Email: tranvankhanh@hmu.edu.vn
6Khoa học Y - Dược
63(2) 2.2021
Phương pháp
Quy trình nghiên cứu:
Tách chiết DNA: DNA tổng số được tách chiết từ 2 ml
mẫu máu chứa chất chống đông EDTA. Quy trình tách chiết
được thực hiện theo hướng dẫn của công ty sản xuất kit
Promega Wizard Genomic DNA Purification. Sử dụng máy
NanoDrop 2000c để đo nồng độ DNA và độ tinh sạch thông
qua tỷ lệ A260/280.
Xác định kiểu gen sử dung kỹ thuật PCR-RFLP:
đoạn DNA chứa SNP rs1799794 của gen XRCC3
được khuếch đại với cặp mồi có trình tự: mồi xuôi:
5’-TGAGGCGCCTAATCAGC-3’; mồi ngược:
5’-ACCTGACACAGTTCGTCGC-3’. Sản phẩm PCR thu
được có kích thước 293 bp. Thành phần phản ứng PCR (thể
tích 10 μl) gồm: 1,8 μl H
2
O, 5 μl Taq DNA polymerase,
0,6 μl mồi xuôi, 0,6 μl mồi ngược, 2 μl DNA. Chu trình
nhiệt của phản ứng: 94oC trong 5 phút, sau đó lặp lại 35 chu
kỳ luân nhiệt: [94oC/30 giây, 55oC/30 giây, 72oC/30 giây],
bước tiếp theo 72oC trong 10 phút. Bảo quản sản phẩm ở
4oC. Sản phẩm PCR được điện di trên gel agarose 1,5% với
điện thế 100 V trong 20 phút.
Xác định SNP rs1799794 của gen XRCC3 bằng kỹ thuật
enzyme cắt giới hạn FokI. Sản phẩm sau khi cắt enzyme
được điện di trên gel agarose 3%. Các kiểu gen khác nhau
được xác định dựa vào số lượng và kích thước các băng điện
di trên gel: kiểu gen AA cho 2 băng có kích thước lần lượt
100 bp và 193 bp, kiểu gen AG cho 3 băng có kích thước
lần lượt 100 bp, 193 bp, 293 bp, kiểu gen GG cho 1 băng có
kích thước 293 bp.
Ba mẫu DNA tách chiết bất kỳ đại diện cho ba kiểu gen
được chọn giải trình tự để kiểm tra độ chính xác của phương
pháp enzyme cắt giới hạn.
Xử lý số liệu: sử dụng phần mềm phân tích SPSS 20.0 để
phân tích thống kê. Tỷ lệ kiểu gen và alen trong nhóm bệnh
và nhóm chứng được so sánh bằng cách sử dụng kiểm định
χ2 hoặc test Fisher (kiểm định 2 phía). Tiến hành phân tích
mối liên quan của kiểu gen với bệnh ung thư vú bằng hồi
quy logistic đa biến để tính tỷ suất chênh (OR) với khoảng
tin cậy 95% (CI). Đối tượng nghiên cứu được chia thành các
nhóm dựa trên nhóm tuổi (≤45, 45-54, >54).
Đạo đức nghiên cứu
Đề tài đã được Hội đồng Đạo đức Trường Đại học Y
Hà Nội chấp thuận theo Chứng nhận chấp thuận số 107/
HĐĐĐĐHYHN. Các đối tượng tham gia nghiên cứu là
hoàn toàn tự nguyện và có quyền rút khỏi nghiên cứu tại
bất kỳ thời điểm nào. Các thông tin liên quan đến bệnh nhân
được đảm bảo giữ bí mật.
Single nucleotide polymorphism
rs1799794 in XRCC3 gene
on breast cancer patients
Thi Thu Thao Nguyen1, Thu Thuy Nguyen1,
Vu Viet Ha Vuong2, Huy Thinh Tran1,
Viet Tien Nguyen1, Van Khanh Tran1*
1Hanoi Medical University
2Hospital of Post and Telecommunications
Received 1 December 2020; accepted 25 January 2021
Abstract:
The single nucleotide polymorphisms of the XRCC3
gene including rs1799794 affect the DNA double-
strand break/repair. Therefore, it plays a critical part
in the initiation of carcinogenesis. This study aimed
to investigate the distribution of rs1799794 and the
association between rs1799794 and breast cancer risk.
The study was performed in 208 Vietnamese females
suffering from breast cancer and 208 age-matched
normal healthy controls. DNA was extracted from whole
blood whilst genotyping was conducted using PCR-
RFLP. The results show that the frequency of the A and
G allele in the case group are 0.575 and 0.425, in the
control group are 0.548 and 0.452. The frequency of AA,
AG, GG genotype in the case group are 34.6, 45.7, and
19.7%; in the control group are 33.2, 43.3, and 23.5%.
AG genotype of rs1799794 associated with disease onset
early of breast cancer, increasing the risk of breast
cancer among those who were 45 years old and younger.
The GG genotype has protective effects and reduces the
risk of breast cancer in the age group ≤45 years.
Keywords: breast cancer, SNP rs1799794, XRCC3.
Classification number: 3.1
7Khoa học Y - Dược
63(2) 2.2021
Kết quả
Độ tuổi phát hiện bệnh của nhóm bệnh từ 23 đến 73 tuổi,
trung bình 47,36±9,72 tuổi. Tỷ lệ bệnh nhân phát hiện bệnh
trong độ tuổi ≤45 là nhiều nhất (44,7%), tỷ lệ phát hiện bệnh
thấp hơn ở nhóm tuổi 45-54 (31,7%), và ít nhất ở nhóm >54
tuổi (23,6%).
Điện di sản phẩm cắt của SNPs cho thấy các băng DNA
rõ nét, phân tách rõ ràng, kích thước phù hợp với từng kiểu
gen (hình 1).
Hình 1. Kết quả điện di sản phẩm cắt đoạn gen XRCC3 bằng enzyme
FokI ở bệnh nhân ung thư vú. M: marker 100 bp, GG: mẫu chứng mang
kiểu gen GG, AA: mẫu chứng mang kiểu gen AA, AG: mẫu chứng mang
kiểu gen AG; kiểu gen AA (2,6), kiểu gen AG (5,7,8), kiểu gen GG (1,3,4).
Sản phẩm PCR-RFLP của các kiểu gen AA, AG và GG
được kiểm tra lại bằng phương pháp giải trình tự gen (hình
2) và so sánh với trình tự chuẩn của gen XRCC3 trên ngân
hàng gen (Genebank) (NG_011516-c.316A>G). Kết quả
giải trình tự thu được trùng khớp với kết quả xác định kiểu
gen bằng phương pháp PCR-RFLP.
Hình 2. Kết quả giải trình tự sản phẩm PCR đoạn gen XRCC3 chứa
SNP rs1799794 của các bệnh nhân mang kiểu gen AA, AG, GG.
Kết quả xác định đa hình nucleotide rs1799794 trên bệnh
nhân ung thư vú bằng phương pháp RFLP được thể hiện ở
bảng 1. Tỷ lệ allele A là 0,575 và allele G là 0,425 ở nhóm
bệnh. Tỷ lệ này cũng tương tự ở nhóm chứng, allele A chiếm
0,548 và allele G là 0,452. Sự phân bố tỷ lệ allele giữa 2
nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p=0,442. Tỷ
lệ các kiểu gen AA, AG, GG lần lượt là 34,6, 45,7, 19,7%
ở nhóm bệnh và tương ứng là 33,2, 43,3, 23,6% ở nhóm
chứng. Sự phân bố các kiểu gen giữa 2 nhóm này không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,634.
Bảng 1. Phân bố của SNP rs1799794 và mối liên quan giữa SNP
rs1799794 và nguy cơ mắc ung thư vú.
Kiểu alen, kiểu gen
Nhóm bệnh Nhóm chứng
OR (95%CI) p
n % n %
Kiểu alen
A 239 57,5 228 54,8 1,113
(0,847-1,464)
0,442
G 177 42,5 188 45,2
Kiểu gen
AA 72 34,6 69 33,2
0,634AG 95 45,7 90 43,3
GG 41 19,7 49 23,6
AA và GG
AA 72 63,7 69 58,5 1,247
(0,734-2,119)
0,414
GG 41 36,3 49 41,5
AA và AG
AA 72 43,1 69 43,4 0,989
(0,638-1,532)
0,959
AG 95 56,9 90 56,6
AG và GG
AG 95 69,9 90 64,7 1,262
(0,761-2,091)
0,367
GG 41 30,1 49 35,3
AA và AG+GG
AA 72 34,6 69 33,2 1,066
(0,711-1,601)
0,756
AG+GG 136 65,4 139 66,8
AA+AG và GG
AA+AG 167 80,3 159 76,4 1,255
(0,786-2,005)
0,341
GG 41 19,7 49 23,6
AG và AA+GG
AG 95 45,7 90 43,3 1,102
(0,749-1,623)
0,622
AA+GG 113 54,3 118 56,7
Khi phân tích sâu hơn bằng cách so sánh khả năng mắc
bệnh của các kiểu gen theo mô hình di truyền khác như:
đồng hợp (GG với AA), dị hợp (AG với AA và AG với GG),
mô hình di truyền trội (GG+AG với AA), mô hình di truyền
lặn (GG với AA+AG), mô hình siêu trội (AG với AA+GG)
không thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Tuy nhiên, khi phân tích mối liên quan của SNP
rs1799794 với nguy cơ mắc ung thư vú theo nhóm tuổi
phát hiện bệnh của nhóm bệnh và nhóm tuổi tương ứng của
nhóm chứng cho thấy: trong nhóm ≤45 tuổi, tỷ lệ các kiểu
gen AA, AG, GG của nhóm bệnh và nhóm chứng khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p=0,043. Tỷ lệ AG và GG của nhóm
bệnh và nhóm chứng khác biệt có ý nghĩa thống kê, tỷ lệ GG
ở nhóm bệnh thấp hơn nhóm chứng 2,793 lần với p=0,013,
OR=2,793, khoảng tin cậy 95% của OR nhận giá trị từ
1,230 đến 6,340 không chứa 1. Tỷ lệ AA+AG và GG của
nhóm bệnh và nhóm chứng khác biệt có ý nghĩa thống kê,
tỷ lệ GG ở nhóm bệnh thấp hơn nhóm chứng 2,388 lần với
p=0,024, OR=2,388, khoảng tin cậy 95% của OR nhận giá
trị từ 1,105 đến 5,161 không chứa 1. Tỷ lệ AG và AA+GG
của nhóm bệnh và nhóm chứng khác biệt có ý nghĩa thống
kê, tỷ lệ AG ở nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng 1,839 lần
với p=0,042, OR=1,839, khoảng tin cậy 95% của OR nhận
giá trị từ 1,018 đến 3,320 không chứa 1. Kết quả thể hiện
trên bảng 2.
8Khoa học Y - Dược
63(2) 2.2021
Bảng 2. Mối liên quan giữa SNP rs1799794 và nguy cơ mắc ung thư
vú ở nhóm ≤45 tuổi.
Nhóm
tuổi
Kiểu alen kiểu gen
Nhóm bệnh Nhóm chứng OR
(95%CI)
p
n % n %
≤45
Kiểu alen
A 111 59,7 95 54 1,262
(0,832-1,914)
0,274
G 75 40,3 81 46
Kiểu gen
AA 30 32,3 30 34,1
0,043AG 51 54,8 35 39,8
GG 12 12,9 23 26,1
AA và GG
AA 30 71,4 30 56,6 1,917
(0,809-4,539)
0,137
GG 12 28,6 23 43,4
AA và AG
AA 30 37 30 46,2 0,686
(0,353-1,333)
0,266
AG 51 63 35 53,8
AG và GG
AG 51 81 35 60,3 2,793
(1,230-6,340)
0,013
GG 12 19 23 39,7
AA và AG+GG
AA 30 32,3 30 34,1 0,921
(0,496-1,710)
0,793
AG+GG 63 67,7 58 65,9
AA+AG và GG
AA+AG 81 87,1 65 73,9 2,388
(1,105-5,161)
0,024
GG 12 12,9 23 26,1
AG và AA+GG
AG 51 54,8 35 39,8 1,839
(1,018-3,320)
0,042
AA+GG 42 45,2 53 60,2
Tuổi phát hiện bệnh trung bình của các kiểu gen của SNP
rs1799794 khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p=0,216
(bảng 3). Tuy nhiên có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
cặp kiểu gen AG và GG trong ba nhóm tuổi phát hiện bệnh:
tỷ lệ cặp kiểu gen AG và GG của nhóm ≤45 tuổi và nhóm
45-54 tuổi khác biệt nhau có ý nghĩa thống kê, tỷ lệ AG của
nhóm ≤45 tuổi cao hơn nhóm 45-54 tuổi 2,72 lần. Tỷ lệ cặp
kiểu gen AG và GG của nhóm ≤45 tuổi và nhóm >54 tuổi
khác biệt nhau có ý nghĩa thống kê, tỷ lệ AG của nhóm ≤45
tuổi cao hơn nhóm >54 tuổi 2,908 lần.
Bảng 3. Mối liên quan giữa kiểu gen của SNP rs1799794 với tuổi phát
hiện bệnh trung bình và giữa cặp kiểu gen AG và GG với các nhóm
tuổi phát hiện bệnh.
rs1799794
AA AG GG
p
n Tuổi n Tuổi n Tuổi
Tuổi phát hiện bệnh
trung bình
72 47,76 95 46,21 41 49,29 0,216
Nhóm tuổi
AG và GG
OR p
AG GG
≤45
n 51 12
2,720
(1,119-6,613)
0,025
% 81 19
45-54
n 25 16
% 61 39
45-54
n 25 16
1,069
(0,416-2,748)
0,890
% 61 39
>54
n 19 13
% 59,4 40,6
≤45
n 51 12
2,908
(1,130-7,482)
0,024
% 81 19
>54
n 19 13
% 59,4 40,6
Bàn luận
Tuổi phát hiện bệnh trung bình trong nghiên cứu là
47,36 tuổi, tương đồng với kết quả nghiên cứu trước đó của
Ali và cs (2016) [6] cho kết quả tuổi phát hiện bệnh trung
bình là 48 tuổi. Ung thư vú trong nghiên cứu gặp nhiều nhất
ở nhóm tuổi tiền mãn kinh (≤45 tuổi), có sự khác biệt so với
nghiên cứu của Dumitrescu và Cotarla (2005) [9] gặp nhiều
nhất ở độ tuổi mãn kinh (45-54 tuổi). Sự khác biệt này có
thể do sự khác biệt về gen, lối sống, thổ nhưỡng và các tác
động ngoại cảnh. Tác động tổng hợp của các yếu tố này ảnh
hưởng đến sự khởi phát ung thư vú, tuổi khởi phát bệnh
trong nghiên cứu này xảy ra sớm hơn.
Kết quả nghiên cứu này cho thấy, không có mối liên
quan giữa SNP rs1799794 của gen XRCC3 với nguy cơ mắc
ung thư vú. Phân tích theo nhóm tuổi cho thấy, nhóm ≤45
tuổi có mối liên quan giữa các kiểu gen của SNP rs1799794
với nguy cơ mắc thư vú (p=0,043). Phân tích theo các mô
hình di truyền cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa các cặp kiểu gen của nhóm bệnh và nhóm chứng:
theo mô hình dị hợp, tỷ lệ mắc ung thư vú của nhóm kiểu
gen GG thấp hơn 2,793 lần so với nhóm kiểu gen AG với
p=0,013; theo mô hình di truyền lặn, tỷ lệ mắc ung thư vú
ở nhóm kiểu gen GG thấp hơn 2,388 lần so với nhóm kiểu
gen AA+AG với p=0,024; theo mô hình siêu trội, tỷ lệ mắc
ung thư vú ở nhóm kiểu gen AG cao hơn 1,839 lần so với
nhóm kiểu gen AA+GG với p=0,042. Như vậy, kiểu gen
GG có tác dụng làm giảm nguy cơ ung thư vú, kiểu gen AG
làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú trước độ tuổi mãn kinh
(≤45 tuổi). Các nghiên cứu trên thế giới về SNP rs1799794
cho kết quả không thống nhất giữa các loại ung thư khác
nhau, và nghiên cứu trên cùng một loại ung thư cũng cho
kết quả mâu thuẫn giữa các quần thể nghiên cứu khác nhau.
Nghiên cứu về rs1799794 trên bệnh nhân ung thư vú trong
quần thể người Đài Loan của Su và cs (2015) [10] cho kết
quả rs1799794 không liên quan đến nguy cơ mắc ung thư
vú với p=0,5195. Một nghiên cứu phân tích gộp của X.-F.
He (2012) [8] trên quần thể đa chủng tộc cũng cho kết quả
không có mối liên quan giữa rs1799794 với nguy cơ mắc
ung thư vú. Một số nghiên nghiên cứu cho thấy có mối liên
quan giữa rs1799794 với nguy cơ mắc ung thư vú: nghiên
cứu của Ali và cs (2016) [6] cho kết quả SNP rs1799794 làm
giảm nguy cơ ung thư vú, nhưng nghiên cứu của Al Zoubi và
cs (2017) [7] cho kết quả rs1799794 làm tăng nguy cơ mắc
ung thư vú. Đối với các loại ung thư khác, kết quả của các
nghiên cứu về SNP rs1799794 vẫn tồn tại nhiều mâu thuẫn.
Một nghiên cứu phân tích gộp được tiến hành trên quần thể
người da trắng [11] cho kết quả rs1799794 có mối liên quan
với nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Các nghiên cứu về
ung thư phổi, ung thư phổi không tế bào nhỏ trong quần thể
người Trung Quốc [12, 13] cho thấy rs1799794 lại có tác
dụng làm giảm nguy cơ ung thư. Ngược lại, một nghiên cứu
về ung thư tuyến giáp [14] trên quần thể người Pakistan cho
thấy rs1799794 làm tăng nguy cơ ung thư. Một số nghiên
9Khoa học Y - Dược
63(2) 2.2021
cứu về ảnh hưởng của rs1799794 với các phương pháp điều
trị ung thư cũng cho kết quả khác nhau. Nghiên cứu tiến
hành trên quần thể người Đức [15] cho thấy rs1799794 làm
tăng hiệu quả điều trị hóa trị cho bệnh nhân ung thư thực
quản - dạ dày. Bên cạnh đó, một nghiên cứu khác trên quần
thể người Tây Ban Nha [16] cho thấy rs1799794 làm tăng
nhiễm độc đường tiêu hóa sau xạ trị. Sự khác biệt trong kết
quả nghiên cứu về rs1799794 trên các bệnh nhân ung thư có
thể do trong những quần thể nghiên cứu khác nhau, sự phân
bố của SNP có sự khác biệt, đồng thời cũng có sự khác biệt
về mức độ và tính chất ảnh hưởng của tỷ lệ kiểu alen, kiểu
gen của SNP đến sự phát triển bệnh. Ngoài ra, ung thư vú là
một bệnh lý phức tạp với nhiều yếu tố nguy cơ, do đó SNP
nói chung và SNP rs1799794 nói riêng chỉ đóng góp một
phần tác động đến sự biểu hiện bệnh. Do vậy, nếu không xét
trên tổng thể các yếu tố liên quan mang tính cá thể của từng
bệnh nhân thì có thể dẫn đến những đánh giá kém chính xác
về vai trò của SNP với bệnh lý ung thư.
Nghiên cứu này cho thấy, không có mối liên quan giữa
SNP rs1799794 với tuổi phát hiện bệnh trung bình. Tuy
nhiên, kiểu gen AG của SNP rs1799794 có liên quan với sự
khởi phát sớm của ung thư vú, người có kiểu gen AG có tỷ
lệ mắc ung thư vú trước tuổi mãn kinh (≤45 tuổi) cao hơn
các nhóm tuổi khác (45-54 tuổi, >54 tuổi).
Tóm lại, các quần thể khác nhau có tỷ lệ kiểu alen, kiểu
gen của SNP khác nhau và đồng thời có sự khác biệt trong
mối liên quan của SNP với sự tiến triển và điều trị bệnh. Do
đó, nghiên cứu về SNP cần được tiến hành riêng biệt giữa
các quần thể khác nhau để tìm ra markers đặc hiệu chẩn
đoán bệnh của một quần thể nhất định. Những nghiên cứu
về SNP góp phần phát triến y học cá thể với những chiến
lược điều trị riêng cho từng người bệnh.
Kết luận
Nghiên cứu bước đầu xác định được sự phân bố SNP
của rs1799794 gen XRCC3 trong nhóm bệnh lý ung thư vú
và nhóm chứng tại Việt Nam. Kết quả phân tích cho thấy
có mối liên quan giữa kiểu gen của SNP rs1799794 gen
XRCC3 với nguy cơ mắc ung thư vú ở nhóm ≤45 tuổi. Kiểu
gen AG của SNP rs1799794 có liên quan với sự khởi phát
sớm ung thư vú, làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú ở nhóm
≤45 tuổi. Kiểu gen GG có tác dụng làm giảm nguy cơ mắc
ung thư vú ở nhóm ≤45 tuổi.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được thực hiện với sự hỗ trợ kinh phí của đề
tài cấp Bộ Y tế: “Nghiên cứu xây dựng quy trình xác định
đột biến và đa hình đơn nucleotid trên một số gen liên quan
đến ung thư vú và ung thư buồng trứng”. Nhóm nghiên cứu
trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Bệnh viện K, Bệnh viện
Phụ sản Trung ương, Bộ môn Hóa sinh - Trung tâm Nghiên
cứu Gen - Protein, Trường Đại học Y Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] J. Ferlay, M. Colombet, I. Soerjomataram, et al. (2019), “Estimating
the global cancer incidence and mortality in 2018: GLOBOCAN sources and
methods”, Int. J. Cancer, 144(8), pp.1941-1953, DOI:10.1002/ijc.31937.
[2] L.R. Ferguson, H. Chen, A.R. Collins, et al. (2015), “Genomic instability
in human cancer: molecular insights and opportunities for therapeutic attack
and prevention through diet and nutrition”, Seminars in Cancer Biology, 35,
pp.S5-S24, DOI:10.1016/j.semcancer.2015.03.005.
[3] P.A. Jeggo, L.H. Pearl, A.M. Carr (2016), “DNA repair, genome stability
and cancer: a historical perspective”, Nature Reviews Cancer, 16(1), pp.35-42,
DOI: 10.1038/nrc.2015.4.
[4] F. Chai, Y. Liang, L. Chen, F. Zhang, J. Jiang (2015), “Association between
XRCC3 Thr241Met polymorphism and risk of breast cancer: meta-analysis of 23
case-control studies”, Med. Sci. Monit., 21, pp.3231-3240.
[5] A. Vral, P. Willems, K. Claes, B. Poppe, G. Perletti, H. Thierens (2011),
“Combined effect of polymorphisms in Rad51 and Xrcc3 on breast cancer risk and
chromosomal radiosensitivity”, Mol. Med. Rep., 4(5), pp.901-912, DOI: 10.3892/
mmr.2011.523.
[6] A.M. Ali, H. AbdulKareem, M. Al Anazi, et al. (2016), “Polymorphisms
in DNA repair gene XRCC3 and susceptibility to breast cancer in Saudi females”,
Biomed. Res. Int., DOI:10.1155/2016/8721052.
[7] M.S. Al Zoubi, K. Zavaglia, C. Mazanti, et al. (2017), “Polymorphisms
and mutations in GSTP1, RAD51, XRCC1 and XRCC3 genes in breast cancer
patients”, Int. J. Biol. Markers, 32(3), pp.e337-e343, DOI: 10.5301/ijbm.5000258.
[8] X.-F. He, W. Wei, J. Su, et al. (2012), “Association between the XRCC3
polymorphisms and breast cancer risk: meta-analysis based on case-control
studies”, Mol. Biol. Rep., 39(5), pp.5125-5134, DOI: 10.1007/s11033-011-1308-y.
[9] R.G. Dumitrescu, I. Cotarla (2005), “Understanding breast cancer
risk - where do we stand in 2005?”, J. Cell. Mol. Med., 9(1), pp.208-221,
DOI:10.1111/j.1582-4934.2005.tb00350.x.
[10] C.-H. Su, W.-S. Chang, P.-S. Hu, et al. (2015), “Contribution of DNA
double-strand break repair gene XRCC3 genotypes to triple-negative breast
cancer risk”, Cancer Genomics Proteomics, 12(6), pp.359-367.
[11] C. Yuan, X. Liu, S. Yan, C. Wang, B. Kong (2014), “Analyzing
association of the XRCC3 gene polymorphism with ovarian cancer risk”, Biomed.
Res. Int., DOI:10.1155/2014/648137.
[12] F. He, S.-C. Chang, G.M. Wallar, Z.-F. Zhang, L. Cai (2013), “Association
of XRCC3 and XRCC4 gene polymorphisms, family history of cancer and tobacco
smoking with non-small-cell lung cancer in a Chinese population: a case-control
study”, J. Hum. Genet., 58(10), pp.679-685, DOI: 10.1038/jhg.2013.78.
[13] M. Huang, X. Chen, Y. Qiu, L. Fan, J. Chen, L. Cai (2011), “Relationship
between XRCC3 gene polymorphisms and lung cancer”, Wei Sheng Yan Jiu,
40(2), pp.187-190.
[14] R. Sarwar, I. Mahjabeen, K. Bashir, S. Saeed, M.A. Kayani (2017),
“Haplotype based analysis of XRCC3 gene polymorphisms in thyroid cancer”,
Cell. Physiol. Biochem., 42(1), pp.22-33, DOI: 10.1159/000477109.
[15] K. Ott, P.S. Rachakonda, B. Panzram, et al. (2011), “DNA repair
gene and MTHFR gene polymorphisms as prognostic markers in locally
advanced adenocarcinoma of the esophagus or stomach treated with cisplatin
and 5-fluorouracil-based neoadjuvant chemotherapy”, Ann. Surg. Oncol., 18(9),
pp.2688-2698, DOI: 10.1245/s10434-011-1601-y.
[16] L. Fachal, A. Gómez-Caamaño, P. Peleteiro, et al. (2012), “Association
of a XRCC3 polymorphism and rectum mean dose with the risk of acute radio-
induced gastrointestinal toxicity in prostate cancer patients”, Radiother. Oncol.,
105(3), pp.321-328, DOI:10.1016/j.radonc.2012.09.013.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
da_hinh_don_nucleotide_rs1799794_cua_gen_xrcc3_tren_benh_nha.pdf